1
2
3

Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết

Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh

Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch

Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

***

QUYỂN 1

Chương I. Quốc Độ Phật

Tôi nghe như vậy.

Một thời, Phật ở trong vườn Am-la[1] trong thành Tỳ-da-li[2] cùng với đại chúng gồm tám ngàn Tỳ-kheo, ba mươi hai ngàn Bồ-tát, là những vị được mọi người biết đến, đã thành tựu Đại trí và bản hạnh,[3] đã được xác lập bởi oai thần của chư Phật, là thành trì hộ Pháp, thọ trì Chánh Pháp, có khả năng cất tiếng rống của sư tử vang dội khắp mười phương, là những người bạn không đợi mời gọi của mọi người, đem an lạc đến cho mọi người, kế thừa và làm rạng rỡ Tam bảo không để đoạn tuyệt, hàng phục các ma oán, chế ngự các tà đạo; đã hoàn toàn thanh tịnh; vĩnh viền lìa các cái và triền;[4] tâm thường an trụ nơi giải thoát vô ngại; có niệm, định, tổng trì, biện tài không gián đoạn;[5] bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, định và tuệ,[6] cùng năng lực của phương tiện,[7] tất cả đều được thành tựu; đạt đến pháp nhẫn bất khởi vốn vô sở đắc.[8] Các ngài có thể tùy thuận mà quay bánh xe không thối chuyển;[9] có năng lực giải thích mọi hiện tượng;[10] biết rõ căn tính của mọi chúng sinh, bao trùm cả đại chúng[11] mà đắc pháp vô úy.[12] Các ngài tu dưỡng tâm bằng công đức và trí tuệ, lấy đó điểm trang cho thân tướng thù thắng, vứt bỏ mọi thứ trang sức trần gian. Thanh danh lồng lộng của các ngài cao hơn núi Tu-di.[13] Tín tâm của các ngài thâm sâu[14] kiên cố như kim cương. Bảo vật chánh Pháp của các ngài lấp lánh soi rọi, và tuôn xuống những trận mưa cam lộ.[15] Âm thanh của các ngài vi diệu bậc nhất trong mọi thứ âm thanh. Các ngài thâm nhập duyên khởi, đoạn trừ các tà kiến, hoàn toàn thoát ly mọi đối đãi nhị nguyên, không còn tập khí tàn dư.[16] Các ngài tuyên dương chánh Pháp một cách không sợ hãi như sư tử gầm rống; những điều được thuyết giảng vang dội như sấm. Không thể đánh giá các ngài vì các ngài vượt ngoài mọi giá trị nhân gian. Các ngài tích lũy kho tàng Chánh Pháp như những thuyền trưởng tài ba thu hoạch ở biển cả. Các ngài tinh thông yếu nghĩa của các Pháp; hiểu rõ căn cảnh của chúng sinh, chỗ đi và chỗ đến[17] của chúng cũng như các sở hành của tâm tư của chúng. Các ngài đã đạt gần trí tuệ tự tại của chư Phật,[18] sở đắc mười lực,[19] vô úy,[20] và mười tám bất cộng.[21] Tuy đã đóng chặt cánh cửa dẫn xuống các cõi bất hạnh, các ngài vẫn hiện thân trong năm đường làm vị đại lương y để điều trị các thứ bịnh, theo bịnh mà cho thuốc khiến cho bình phục; thành tựu vô biên công đức, trang hoàng vô lượng cảnh giới chư Phật. Mỗi chúng sinh đều được lợi ích lớn khi nhìn thấy và được nghe các ngài, vì hành vi của các ngài đều không vô ích. Các ngài đã thành tựu đầy đủ công đức như vậy.

Danh xưng của các ngài là: Đẳng Quán Bồ tát, Bất Đẳng Quán Bồ tát, Đẳng Bất Đẳng Quán Bồ tát, Định Tự Tại Vương Bồ tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ tát, Pháp Tướng Bồ tát, Quang Tướng Bồ tát, Quang Nghiêm Bồ tát, Đại Nghiêm Bồ tát, Bảo Tích Bồ tát, Biện Tích Bồ tát, Bảo Thủ Bồ tát, Bảo Ấn Thủ Bồ tát, Thường Cử Thủ Bồ tát, Thường Hạ Thủ Bồ tát, Thường Thảm Bồ tát, Hỷ Căn Bồ tát, Hỷ Vương Bồ tát, Biện Âm Bồ tát, Hư Không Tạng Bồ tát, Chấp Bảo Cự Bồ tát, Bảo Dõng Bồ tát, Bảo Kiến Bồ tát, Đế Võng Bồ tát, Minh Võng Bồ tát, Vô Duyên Quán Bồ tát, Huệ Tích Bồ tát, Bảo Thắng Bồ tát, Thiên Vương Bồ tát, Hoại Ma Bồ tát, Điện Đức Bồ tát, Tự Tại Vương Bồ tát, Công Đức Tướng Nghiêm Bồ tát, Sư Tử Hống Bồ tát, Lôi Âm Bồ tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát, Bạch Hương Tượng Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát, Bất Hưu Tức Bồ tát, Diệu Sanh Bồ tát, Hoa Nghiêm Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Phạm Võng Bồ tát, Bảo Trượng Bồ tát, Vô Thắng Bồ tát, Nghiêm Độ Bồ tát, Kim Kế Bồ tát, Châu Kế Bồ tát, Di-lặc Bồ tát, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương Tử Bồ tát. Cả thảy là ba mươi hai ngàn vị như vậy.

Ngoài ra còn có mười ngàn Phạm thiên, như Đại Phạm thiên Thi-khí, từ bốn thiên hạ về chỗ Phật để nghe Pháp.

Có mười hai ngàn Thiên đế khắp bốn phương về dự hội.

Và chư quỷ thần đại-oai-lực, long thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la và Ma-hầu-la-già cũng về dự.

Về dự hội còn có nhiều tì kheo, tì kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.

Bấy giờ Phật nói pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đang cung kính vây quanh Ngài. Như ngọn núi Tu-di nổi lên giữa đại dương, Phật ngồi ung dung trên bảo tòa sư tử, chói lọi che trùm tất cả các đại chúng đang đến.

Luc bấy giờ con trai của một vị trưởng giả, tên Bảo Tích,[22] cùng với năm trăm người con của các trưởng giả khác, cầm năm trăm tàn lọng được trang hoàng bằng bảy loại ngọc quí, đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ sát chân Phật, rồi dâng tất cả tàn lọng ấy cúng dường Phật. Phật đã dùng thần lực siêu việt gom hết số tàn lọng đó làm thành một cái duy nhất che rợp cả ba nghìn đại thiên thế giới. Chiều kích dài rộng của các thế giới này thảy đều ánh hiện trong đó. Và trong ba nghìn đại thiên thế giới này, hết thảy núi Tu-di, núi Tuyết, núi Mục-chân-lân-dà, núi Ma-ha-mục-chân-lân-đà, Hương sơn, Bảo sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, cùng với biển, sông, suối, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, cung điện chư thiên, cung điện các rồng, tất cả đều ánh hiện trong lọng báu. Và khắp trong mười phương chư Phật, và chư Phật đang thuyết pháp, cũng thảy đều ánh hiện trong đó.

Khi đại chúng được chứng kiến thần lực của Phật, đều tán dương sự kiện hy hữu chưa từng thấy, cùng chắp tay lễ Phật và chiêm ngưỡng tôn nhan không rời mắt.

Rồi thì, Bảo Tích, con trai của trưởng giả, đến trước Phật, đọc bài kệ ca ngợi:

Con kính đảnh lễ Ngài,[23]

Vị dẫn đạo chúng sinh bằng con đường tịch tĩnh.[24]

Mắt trong vắt, dài rộng như sen xanh;

Tâm tịnh, đã vượt các thiền định;[25]

Lâu dài tích chứa nghiệp tịnh,

Danh xưng không thể lường;[26]

Đã thấy Đại Thánh, bằng thần biến,[27]

Hiện khắp mười phương vô lượng cõi;

Trong đó, chư Phật diễn nói Pháp;

Hết thảy hội chúng đều thấy nghe.

Pháp lực của đấng Pháp vương vượt thắng hết.

Thường đem tài sản Pháp[28] ban cho tất cả;

Khéo hay phân biệt các pháp tướng,

Mà đệ nhất nghĩa chẳng dao động.[29]

Đã được tự tại trong các pháp

Nên con đảnh lễ Pháp vương này.

Không nói pháp hữu, cũng không phi hiện hữu;

Bởi do nhân duyên các pháp sanh.

Vô ngã, không tạo tác, không người thọ báo.

Nhưng nghiệp thiện ác không hề mất.

Dưới cội bồ-đề bắt[30] đầu đánh bại Ma,

Được cam lộ diệt,[31] thành giác đạo.[32]

Đã không tâm ý, không thọ hành,[33]

Mà lại chiết phục các ngoại đạo.[34]

Ba lần chuyển luân trong Đại thiên;

Pháp luân bản lai thường thanh tịnh,

Trời, người đắc đạo, do đây chứng;

Tam bảo do đó hiện thế gian.

Bằng Pháp mầu này cứu chúng sinh;

Đã thọ, không thối, thường tịch nhiên.

Là bậc đại y vương diệt trừ lão, bịnh, tử.

Con đảnh lễ công đức vô biên của biển Pháp.

Chê, khen chẳng động,[35] như Tu-di;

Lòng từ trải rộng cho người hiền lẫn kẻ ác.

Tâm hành bình đẳng như hư không,

Ai nghe mà không kính phục con người cao quý[36] này?

Nay dâng Thế Tôn lọng hèn mọn,

Trong đó, ánh hiện cho con Tam thiên giới;

Với cung điện Trời, rồng, quỷ thần,

Càn-thát-bà lẫn của Dạ-xoa;

Và hết thảy mọi vật trên thế gian.

Đấng Mười lực từ tâm hiện biến hoá;

Đại chúng thấy việc hy hữu, tán thán Phật.

Nay con đảnh lễ đấng Chí tôn trong ba cõi.

Đại chúng quy ngưỡng Đại Pháp vương,

Tâm tịnh, quán Phật, ai cũng vui.

Mỗi người tự thấy Phật trước mặt;

Ấy do thần lực pháp bất cộng.

Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;

Chúng sinh tùy loại đều hiểu được;

Đều nói Thế Tôn cùng tiếng của mình;

Ấy do thần lực pháp bất cộng.

Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;

Chúng sinh mỗi mỗi theo chỗ hiểu,

Đều được thọ hành, đại lợi ích;[37]

Ấy do thần lực pháp bất cộng.

Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;

Có kẻ nghe sợ, có kẻ vui,

Có kẻ chán bỏ, kẻ hết nghi;

Ấy do thần lực pháp bất cộng.

Cúi lạy đấng Mười lực, Đại tinh tấn;

Cúi lạy đấng đã đạt vô sở uý;

Đảnh lễ bậc trụ pháp Bất cộng;

Đảnh lễ Đại đạo sư của tất cả;

Đảnh lễ đấng dứt mọi trói buộc;

Đảnh lễ đấng đến bờ bên kia;

Đảnh lễ đấng cứu độ thế gian;

Đảnh lễ đấng thoát vòng sinh tử.

Biết lẽ đến, đi của chúng sinh,

Thâm nhập vạn pháp, được giải thoát,

Không vướng thế gian, như hoa sen,

Thường khéo thâm nhập hạnh không tịch,

Thấu đạt pháp tướng không trở ngại;

Cúi lạy đáng vô sở y như hư không.

Đọc kệ xong, Bảo Tích thưa với Phật:

“Bạch Thế Tôn, năm trăm người con của các trưởng giả[38] này đã phát tâm tầm cầu giác ngộ tối thượng chánh đẳng chánh giác[39], nguyện được nghe sự thanh tịnh của quốc độ Phật. Xin Thế Tôn chỉ dạy chúng con những việc làm của Bồ tát dẫn đến quốc độ thanh tịnh.”[40]

Phật bảo:

“Lành thay, Bảo Tích! Con đã vì chư Bồ-tát hỏi những việc làm vì quốc độ thanh tịnh của Như lai. Hãy lắng nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói cho con nghe.”

Bảo Tích và năm trăm thanh niên trưởng giả chăm chú nghe. Phật dạy:

“Bảo Tích, loại của chúng sinh là quốc độ Phật của Bồ tát.[41] Vì sao như vậy? Vì Bồ tát tùy theo loại chúng sinh được giáo hoá[42] mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại chúng sinh được điều phục[43] mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh thâm nhập trí của Phật mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh làm trỗi dậy căn tính của Bồ tát[44] mà tiếp nhận quốc độ Phật. Là vì sao? Vì Bồ tát tiếp nhận quốc độ thanh tịnh chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Ví như một người có thể xây dựng đền đài nhà cửa trên khoảng đất trống, tuỳ ý không trở ngại; nhưng không thể xây dựng như vậy ở giữa hư không. Cũng vậy, Bồ tát vì muốn thành tựu chúng sinh mà ước nguyện tiếp nhận quốc độ Phật. Ước nguyện tiếp nhận quốc độ Phật không thể tìm thấy giữa hư không.

“Bảo Tích, con nên biết, trực tâm[45] là tịnh độ của Bồ tát.[46] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh không dua vạy sẽ tái sanh vào đó.

“Thâm tâm là tịnh độ của Bồ tát.[47] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào có đủ đầy công đức sẽ tái sanh vào đó.

“Bồ-đề tâm là tịnh độ của Bồ tát.[48] Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng sinh tầm cầu Đại thừa sẽ tái sinh vào cõi đó.

“Bố thí là tịnh độ của Bồ tát.[49] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào có thể ban phát sẽ tái sinh vào đó.

“Trì giới là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh tu hành mãn nguyện mười thiện nghiệp đạo sẽ tái sanh vào đó.

“Nhẫn nhục là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt sẽ tái sanh vào đó.

“Tinh tấn là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào cần mẫn thực hiện mọi công đức sẽ tái sinh vào đó.

“Thiền định là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào nhiếp tâm không tán loạn sẽ tái sinh vào đó.

“Trí tuệ là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh chánh định[50] sẽ tái sinh vào đó.

“Bốn vô lượng tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào thành tựu từ, bi, hỷ, xả sẽ tái sinh vào đó.

“Bốn nhiếp pháp[51] là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào được nhiếp phục bởi giải thoát sẽ tái sinh vào đó.

“Phương tiện là tịnh độ của Bồ tát.[52] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào biết diệu dụng phương tiện một cách vô ngại đối với hết thảy các pháp sẽ tái sinh vào đó.

“Ba mươi bảy đạo phẩm[53] là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh có đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, giác chi, và chánh đạo, sẽ tái sinh vào đó.

“Tâm hồi hướng là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ sẽ trang nghiêm đầy đủ công đức cao quí.

“Diễn thuyết để diệt trừ tám nạn[54] là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ sẽ không ba ác, tám nạn.

“Tự mình giữ giới, không phê bình người phá giới là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ không nghe danh từ phạm cấm.

“Mười thiện là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, sẽ không yểu mạng, sẽ giàu có, cuộc sống phạm hạnh, nói lời chân xác, ngôn ngữ dịu dàng, quyến thuộc không ly tán vì khéo hòa giải tranh chấp; lời nói tất lợi lạc cho người, không đố kỵ, sân hận, giữ gìn chánh kiến, sẽ tái sanh vào đó.

“Như vậy, Bảo Tích, tùy theo trực tâm ấy mà Bồ tát mới có thể phát khởi hành. Tùy theo sự phát khởi hành mà được thâm tâm. Tùy theo thâm tâm mà ý được điều phục. Tùy theo sự điều phục ý mà hành được như thuyết. Tùy theo hành như thuyết mà có thể hồi hướng. Tùy theo hồi hướng như vậy mà có thể diệu dụng các phương tiện. Tùy theo phương tiện thích hợp thành tựu chúng sinh. Tùy theo sự thành tựu chúng sinh mà quốc độ Phật thanh tịnh. Tùy theo sự thanh tịnh của quốc độ mà thuyết Pháp thanh tịnh. Tuỳ theo sự thuyết pháp thanh tịnh mà trí tuệ thanh tịnh. Tùy theo trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh. Tùy theo tâm thanh tịnh mà hết thảy công đức đều thanh tịnh.

“Cho nên, Bảo Tích, nếu Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh.”

Bấy giờ, nương theo oai thần của Phật, Xá-lợi-phất chợt nghĩ: “Khi tâm của Bồ tát thanh tịnh thì quốc độ Phật thanh tịnh. Vậy há tâm của đức Thế Tôn không thanh tịnh hay sao mà quốc độ Phật này chẳng hề thanh tịnh?”

Phật biết ý nghĩ ấy, nói với Xá-lợi-phất:

“Ý ngươi nghĩ sao, mặt trời, mặt trăng há không tịnh chăng khi người mù chẳng thấy chúng sáng?”

Xá-lợi-phất đáp:

“Bạch Thế Tôn, đó là tại lỗi của người mù chứ không phải tại mặt trời mặt trăng không sáng.”

Phật nói:

“Này Xá-lợi-phất, do bởi tội của chúng sinh nên không thấy vẻ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ Phật; đó không phải do lỗi của Như lai. Xá-lợi-phất, cõi đất này của Ta thanh tịnh nhưng ngươi không nhận thấy đó thôi.”

Khi ấy, Phạm thiên Loa Kế[55] nói với Xá-lợi-phất:

“Chớ nghĩ rằng quốc độ này không thanh tịnh. Vì sao? Vì tôi thấy quốc độ Phật Thích-ca thanh tịnh, chẳng khác gì cung điện của trời Tự tại.[56]”

Xá-lợi-phất bảo:

“Tôi thấy cõi này nào là gò nỗng, hầm hố, chông gai, toàn đất và đá; cái gì cũng nhơ bẩn.”

Phạm thiên bảo:

“Là vì tâm của nhân giả có thấp có cao, chưa y theo tuệ của Phật, nên thấy cõi đất này bất tịnh. Xá-lợi-phất, vì Bồ tát bình đẳng với hết thảy chúng sinh, thâm tâm thanh tịnh, nương theo trí tuệ của Phật, nên có thể nhìn thấy cõi Phật này thanh tịnh.”

Bấy giờ, Phật ấn ngón chân của Ngài xuống đất. Ba nghìn đại thiên thế giới bỗng hóa rực rỡ với muôn vàn châu báu quí hiếm, trang nghiêm như cõi tịnh độ của Phật Bảo Trang Nghiêm,[57] được trang hoàng bằng vô lượng công đức mà hội chúng ca ngợi là chưa từng thấy. Hơn nữa, mọi người đều thấy mình được ngồi trên một tòa sen lộng lẫy.

Phật nói với Xá-lợi-phất:

“Hãy quán sát vẻ thuần tịnh trang nghiêm của quốc độ này.”

Xá-lợi-phất thưa:

“Bạch Thế Tôn, con chưa từng thấy và nghe về đất Phật thanh tịnh trang nghiêm như vầy.”

Phật nói:

“Cõi Phật này của Ta thường thanh tịnh như vậy. Nhưng hiển hiện các thứ xấu xa uế tạp là để dẫn dắt những người căn trí thấp kém. Cũng giống như thức ăn của chư thiên có muôn màu hiển hiện tùy theo công đức của người ăn. Cho nên, Xá-lợi-phất, người có tâm thanh tịnh sẽ thấy đất này thanh tịnh.”

Khi Phật hiển hiện toàn vẻ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ này, năm trăm người con của các trưởng giả cùng đi với Bảo Tích chứng vô sanh pháp nhẫn,[58] và tám mươi bốn ngàn người phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Phật thâu lại thần túc, tức thì thế giới trở về hiện trạng cũ. Ba mươi hai ngàn chư thiên và người từng mong cầu quả vị Thanh-văn, thấy rõ tính vô thường của các pháp hữu vi, dứt lìa những cáu bẩn trần lao, được sự minh tịnh của con mắt pháp. Tám ngàn tì kheo không còn chấp thủ[59] các pháp, dứt sạch các lậu, được giải thoát.[60]

*

CHÚ THÍCH

[1] Am-la thọ viên 菴羅樹園 . VCX. Am-la-vệ lâm 菴羅衛林. Skt. Āmrapāli-vana.

[2] Tì-da-li 毘耶離. VCX. Quảng nghiêm thành廣嚴城. Skt. Vaiśālī.

[3] VCX.: đại thần thông nghiệp tu dĩ thành biện 大神通業修已成辦,đã hoàn thành sự nghiệp đại thần thông CDM.: Bản Phạn nói, ‹thần thông trí tuệ bản sự dĩ tác 神通智慧本事已作 › đã hoàn thành bản sự của thần thông trí tuệ. Cf. Sukhavyūha: abhijñānābhijñātaiḥ.

[4] CDM. Triệu: cái 蓋, chỉ năm cái (5 thứ che lấp tuệ: tham dục, sân, hối-miên, điệu cử, nghi; Skt. pañca āvaraṇāni: rāga, pratigha, tyāna-middha, uddhatya-kaukṛtya) và triền 纏, chỉ mười triền phược (10 thứ quấn chặt, tức 10 tùy phiền não). VCX.: chưóng và cái triền; VCS.: chướng có hai: phiền não và sở tri; cái có 5 (như trên); triền có 8 (vô tàm, vô quý, hôn trầm, thuỵ miên, điệu cử, ố tác, tật, xan).

[5] CDM.: chánh niệm, chánh định, tổng trì (= đà-la-ni, Skt. dhāraṇnī), và 7 biện tài (1. tiệp tật, ứng đối nhanh, 2. lợi, nhạy bén, 3. bất tận, không cùng tận, 4. bất khả đoạn, không bị cắt đứt, 5, tùy ứng, thích ứng hoàn cảnh, 6. nghĩa, dẫn đến mục đích, 7. thế gian tối thượng).

[6] Sáu ba-la-mật 波羅密; Skt. saṭ pāramitāḥ: dāna, śīla, kṣānti, vīrya, dhyāna, prajñā.

[7] VCX., nêu 10 ba-la-mật. 6 ba-la-mật, như trên, thêm 4: phương tiện (Skt. upāya), nguyện (praṇidhi/praṇidhāna), lực (bala), và trí (jñāna).

[8] Bất khởi pháp nhẫn 不起法忍, cũng nói là vô sanh pháp nhẫn (Skt. anutpattikeṣu dharmeṣu kṣāntī pratilabdhā, chứng đắc vô sanh pháp nhẫn). CDM.: “Triệu nói, … có khả năng lãnh thọ thật tướng, nên nói là nhẫn.” VCS., dẫn Thanh Biện: “Theo thế tục, nói là hữu; theo thắng nghĩa, nói là không. Không, cho nên không có gì để nắm bắt (=vô sở đắc). Quán sát, pháp vốn là không, thì đâu có sự sinh khởi. Quán sát sự không sinh khởi này mà phát khởi quán trí để chấp nhận (= quán trí nhẫn); do đó, nói là vô sở đắc bất khởi pháp nhẫn.”

[9] Bất thối luân 不退輪; DMCh. a-duy-việt trí pháp luân 阿惟越智法輪 ; Skt. avivarti-cakra=avaivartya-dharmacakrānupravartaka 隨轉不退 法輪 .

[10] Thiện giải pháp tướng 善解法相; VCX.: đắc vô tướng diệu ấn 得無相妙印 ; VCS.: có hai loại diệu ấn, 1. có sai biệt, chỉ ba pháp ấn, chung cả Đại & Tiểu thừa: các hành vô thường, Niết-bàn tịch tĩnh, các pháp vô ngã; 2. diệu ấn không sai biêt: dấu ấn của các pháp là lý vô tướng.

[11] Cái chư đại chúng 蓋諸大眾; CDM., Thập nói: theo bản Phạn, đọc là chúng bất năng cái 眾不能蓋, đại chúng không thể che lấp. VCX.: nhất thiết đại chúng sở bất năng phục 一切 大眾所不能伏, không thể bị khuất phục bởi bất cứ chúng hội nào

[12] vô sở uý 無所畏, Skt. vaiśāradya, sự không bối rối và sợ hãi trước đám đông, sự trầm tĩnh, tự tin trước đám đông. Có 4 vô sở uý của Bồ-tát (bodhisattvānāṃ catvāri vaiśāradyāni), và 4 vô sở uý của Phật (catvāri tathāgatasya vaiśrādyāni) khác nhau.

[13] VCX.: vượt trên cả Đế Thích (Skt. Śakradevānām Indra, Chúa tể các thiên thần).

[14] Thâm tín 深信. VCX.: ý lạc 意樂. Skt. āśaya, ý hướng cao thượng, xu hướng tinh thần/tâm linh cao thượng.

[15] Cam lộ vũ 甘露雨. Skt. amṛta-varṣa, cơn mưa những hạt sương bất tử.

[16] VCX.: “cắt đứt dòng tương tục của tập khí kiến chấp nhị biên.”

[17] Vãng lai sở thú 往來所趣. VCX.: Hữu thú vô thú ý lạc sở quy 有趣無趣意樂所歸, chỗ quay về của ý lạc hữu thú và vô thú. VCS.: “Thanh Biện giải, theo thế tục đế thì hữu; theo thắng nghĩa đế thì là vô. Chỗ quay về rốt ráo của hai nẽo thú (hướng) này chính là lý chân không.”

[18] VCX.: hoạch vô đẳng đẳng Phật trí quán đỉnh 獲無等等佛智灌頂 , được đăng quang lên địa vị Phật trí tối thượng siêu việt.

[19] Mười lực , 10 năng lực siêu việt của Phật, Skt. tathāgata-daśabalāni 如來十力.

[20] Vô sở uý, đây chỉ bốn vô sở uý của Phật, Skt. catvāri tathāgatasya vaiśāradyāni 如來四無所畏.

[21] Chỉ 18 pháp đặc hữu, bất cộng, của Phật; Skt. aṣṭādaśa āveṇikā buddha-dharmāḥ 十八不箍共佛法.

[22] Trưởng giả tử danh viết Bảo Tích 長者子名曰寶積 (Skt. Ratnaraśi-gṛhapati);VCX.: Li-thiếp-tì chủng danh viết Bảo Tính 離呫毘種名曰寶性(Licchaviputra-Ratnaprakṛta?); DMC.: trưởng giả tử danh La-lân-na-kiệt 羅鄰那竭, Hán dịch Bảo Sự 寶事, Skt. Ratnakṛta ? CDM.: “Triệu nói, Bảo Tính cũng là Pháp thân Đại sỹ, thường cùng Tịnh Danh (Duy-ma-cật) đến chỗ Như lai, cùng hoằng truyền đạo giáo.”

[23] VCX.: “cúi lạy đấng Đại Sa-môn.”

[24] Đạo chúng dĩ tịch 導眾以寂 ; CDM., “Thập nói: theo Phạn bản, gọi là tịch đạo 寂道 (Skt. śānta-mārga), tức bát chánh đạo. Triệu nói: Tịch, chỉ cho đạo vô vi tịch diệt.” VCX.: hi di tịch lộ, “đạo lộ tịch tĩnh (tức an bình), bằng phẳng.”

[25] VCX.: “đã chứng đệ nhất tịnh ý lạc, và thắng sa-ma-đà đã đến bờ bên kia.” DMC. nói “tâm tịnh” tức nói “đệ nhất tịnh ý lac.” Ý lạc (Skt. āśaya), hay tâm tư hướng đến chúng sinh, thuần tịnh bậc nhất; tức là, tâm tư Phật chỉ hướng đến một đối tượng thuần nhất, là sự lợi lạc của chúnh sinh. Sa-ma-đà 沙摩陀, Hán cũng thường âm là xa-ma-tha (Skt. śamatha), dịch là chỉ 止, sự lắng đọng, đình chỉ tạp niệm; thường tu tập với tì-bát-sa-na (Skt. vipaśyanā), Hán gọi là tu tập chỉ quán.

[26] Xứng vô lượng 稱無量. VCX.: hoạch đắc quảng đại thắng danh văn 獲得廣大勝名聞, “Có được danh tiếng rộng lớn.”

[27] Thần biến 神變, tức thần thông biến hoá. (Skt. ṛddhi-prātihārya)

[28] Pháp tài 法財, tài sản là Chánh pháp.

[29] VCX.: “Quán sát đệ nhất nghĩa mà đánh bại các oán địch.”

[30] Nguyên Hán: Phật thọ 佛樹.

31 Cam lộ diệt 甘露滅; CDM., “Thập nói: theo Phạn bản, nói là tịch diệt cam lộ (Skt. śāntyāmṛta), tức thật tướng pháp.” VCS.: “Diệt, chỉ Niết-bàn. Giống như thuốc cam-lộ, uống vào thì được bất tử.”

[32] Giác đạo thành 覺道成 , thành tựu đạo giác ngộ, thành Phật. VCX.: (đắc) thắng bồ-đề 得菩提. VCS.: “Chứng đắc chân trí vượt quá hàng Nhị thừa nên nói là thắng Bồ đề.”

[33] Vô thọ hành 無受行; CHD., “Thập nói: không có thọ, tưởng, hành…Triệu nói: thọ, đây chỉ ba thọ.” VCS., “Thọ, tức sự lãnh nạp (=cảm nghiệm). Hành, tức sự duyên lự (=tư duy về đối tượng).” CDM.: “Bằng không tâm ý mà hiện hành.”

[34] VCX.¨”Ngoại đạo, tà sư không thể thăm dò.” VCS., dẫn Thanh Biện: “Cam lộ tịch diệt mà Phật chứng vốn là không, vô sở hữu, không phải cảnh vực của tâm ý, nên các ngoại đạo không thể thăm dò ước lượng nỗi.”

[35] VCX.: “tám pháp không làm lay động.” Đây chỉ 8 thế gian pháp 八世法(aṣṭau lokadharmāḥ) đắc, thất, danh dự, thất sủng, vinh quang, sỉ nhục, khổ, lạc.

[36] Nguyên Hán: nhân bảo 人 寶, bảo vật cho loài người. VCX.: “vị Năng nhân này.”

[37] CDM., Triệu nói: “tùy theo sở thích mà thọ lãnh; tuỳ theo chỗ thọ lãnh mà thực hành; tuỳ theo sự thực hành mà được lợi ích.”

[38] VCX.: đồng tử Bồ-tát 童子菩薩, tức Bồ tát niên thiếu, Skt. kumāra-bodhisattva.

[39] VCX.: “Họ thường hỏi con về cách làm cho cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.”

[40] Bồ tát tịnh độ chi hành 菩薩淨土之行 ; CDM, “Biệt bản nói, ‹Phật quốc thanh tịnh chi hành.› Thập nói, ‹Bản Phạn nói là thanh tịnh chi tướng (viśuddha-lakṣaṇa).›” VCX.: tịnh Phật độ tướng 淨佛土相, hình thái (hay yếu tính, đặc tính) của cõi Phật thanh tịnh.

[41] VCX.: “Quốc độ của hữu tình, là quốc độ Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ tát.”

[42] CDM., Thập nói,…, bản Phạn nói là ‹tùy theo chúng sinh được giáo hóa nhiều ít.› Nghĩa là quốc độ rộng hay hẹp tùy theo số lượng chúng sinh đã được giáo hoá.

[43] Điều phục 調伏; CDM., Thập nói: “bản Phạn nói là tì-ni (vinaya), nghĩa là khéo léo sửa trị; tức khéo sửa trị khiến chúng sinh dứt ác, hành thiện.”

[44] VCX.: khởi Thánh căn hành 起聖根行 . VCS.: “Thánh căn, chỉ bồ-đề tâm. Hoặc chỉ 5 căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ). Thánh hành, chỉ muôn vạn hành vi của Thánh.”

[45] VCX.: thuần ý lạc độ 純意樂土, Skt. viśuddhāśaya-kṣetra.

[46] Từ đây trở xuống, bản La-thập nói ba tâm; bản Huyền Trang nói bốn quốc độ. Thiện gia hành độ 善加行土 trong bản Huyền Trang không có tương đương trong bản La-thập.

[47] VCX.: thượng ý lạc độ , Skt. adhyāśaya-kṣetra.

[48] Thứ nhất trong bản Huyền Trang: quốc độ của sự phát khởi Bồ đề tâm , Skt. bodhicittotpāda-kṣetra.

[49] Từ đây trở xuống là 6 ba-la-mật. VCS., tổng hợp gọi tên là chỉ tức 止息, đình chỉ và dập tắt các chướng ngại (bằng vào tu tập sáu ba-la-mật).

[50] Chánh định, CDM., tức chánh định tụ 正定聚, một trong ba tụ (tà định tụ, chánh định tụ, bất định tụ). Đạt được chánh trí tuệ nhận thức pháp tướng một cách quyết định. VCX.: nhập chánh định; VCS.: chứng nhập chánh định tụ, tức chứng nhập kiến đạo (thấy pháp Chân như).

[51] VCX.: quốc độ bởi bốn nhiếp sự 四攝事土, Skt. saṁgraha-kṣetra.

[52] VCX. xảo phương tiện độ 巧方便土, Skt. upāya-kauśalya-kṣetra.

[53] Đạo phẩm 道品; VCX.: Bồ đề phần 菩提分, Skt. bodhi-pākṣikā.

[54] Trừ bát nạn 除八難(đọc đúng là nan). VCX.: tức bát vô hạ 息八無暇; 8 trường hợp khó gặp Phật, khó nghe Pháp, không thể tu tập Phạm hạnh, Skt. aṣṭāv akṣaṇāḥ.

[55] Loa Kế Phạm vương 螺髻梵王; VCX.: Trì Kế Phạm vương 持髻梵王

[56] Tự tại thiên 自在天; VCX.: Tha hoá tự tại thiên 他化自在天, Skt. Paranirmitavaśavartin

[57] VCX.: Công Đức Bảo Trang Nghiêm Phật 功德寶莊嚴佛.

[58] Vô sinh pháp nhẫn 無生法忍, Skt. anutpattika-dharma-kṣānti Đoạn trên nói là bất khởi pháp nhẫn.

[59] Bất thọ chư pháp 不受諸法. CDM.: đạo không dính mắc, đối với pháp, không thọ, không nhiễm. VCS.: không cháp thủ ngã và ngã sở, vì không còn tiếp thọ quả của sinh tử.

[60] VCX.: tâm hoàn toàn được giải thoát 心善解脫 , Skt. suvimukta-citta.

***

Chương II. Phương Tiện Quyền Xảo

Bấy giờ, trong thành Tỳ-da-li có vị trưởng giả[2] tên Duy-ma-cật, hằng cúng dường vô lượng Phật, trồng sâu gốc rễ thiện, chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, có tài biện thuyết vô ngại,[3] hiện du hí thần thông, nắm vững các tổng trì, đạt được vô sở uý;[4] khuất phục mọi thù nghịch quấy nhiễu của Ma,[5] thấu hiểu mọi Pháp môn sâu thẳm, dẫn đến giác ngộ, thiện xảo trong trí độ và biết diệu dụng các phương tiện thích hợp để giáo hóa,[6] hoàn thành được mọi đại nguyện của Bồ tát. Ông biết rõ xu hướng của tâm của chúng sinh, có thể phân biệt căn tính bén nhạy hay chậm lụt. Đã từ lâu tâm của ông đã thành thục trong Phật đạo, đã quyết định nơi Đại thừa. Mọi hành động của ông đều dựa trên tư duy chân chánh. An trú trong oai lực nhiệm mầu của Phật, tâm ông luôn trải rộng như đại dương. Được chư Phật ca ngợi; hàng Đế-thích và Phạm-thiên kính phục.

Ông đã vận dụng phương tiện chọn Tỳ-da-li làm nơi thường trú để hoá độ chúng sinh. Bằng gia sản vô lượng của mình, ông cứu giúp người cùng khổ. Bằng sự thanh tịnh của giới, ông nhiếp phục người phá giới. Bằng sự nhu hoà thuận nhẫn[7], ông nhiếp phục người sân hận. Bằng đại tinh tấn, ông nhiếp phục người biếng nhác. Bằng tâm thiền tịch[8] để nhiếp phục những kẻ có tâm ý vọng động. Bằng tuệ quyết định[9] để nhiếp phục những hạng vô trí.[10] Tuy là hàng bạch y[11] ông vẫn tuân hành mọi luật tắc thanh tịnh của Sa-môn. Tuy là cư sĩ ông vẫn tự tại không vướng mắc ba cõi. Tuy thị hiện có vợ con ông luôn sống đời tịnh hạnh.[12] Tuy hiện thân giữa các thuộc hạ, vẫn thường vui thú viễn ly.[13] Tuy mang ngọc vàng châu báu nhưng trang điểm thân mình bằng phẩm hạnh oai nghiêm[14]. Dù ăn uống như tục gia nhưng chỉ thưởng thức vị thiền. Chơi với phường cờ bạc để đưa người vượt thoát. Tiếp nhận dị đạo mà không hủy chánh tín. Thông hiểu kinh điển thế gian, nhưng thường hâm mộ Pháp Phật. Ai gặp ông cũng đều kính nể, tôn kính vào hàng bậc nhất.[15] Ông giữ chấp trì luật pháp, duy trì trật tự dưới trên. Hợp tác hài hoà trong tất cả sự nghiệp buôn bán.[16] Tuy cũng gặt hái những lợi ích trong những hoạt động thế tục của mình, ông không lấy đó lầm mừng.[17] Rong chơi trên các ngõ đường, vẫn không quên giúp ích mọi người. Vào chốn công đường[18] để bảo vệ kẻ thế cô. Tham gia các nghị hội để đưa người vào Đại thừa. Đến các trường học để khai sáng tâm mọi người. Vào nơi kỹ viện để cho thấy tai họa của dục vọng. Vào trong tửu lâu mà vẫn vững vàng ý chí. Trong hàng trưởng lão, ông là bậc tôn trưởng để diễn thuyết pháp những pháp tối thắng. Trong hàng cư sỹ, ông là cư sỹ bậc nhất, dạy họ đoạn trừ đam mê ái dục. Trong hàng sát-lị, ông là tôn trưởng sát-lị, dạy họ biết khoan hòa. Trong giới Bà-la-môn, ông là tôn trưởng Bà-la-môn, dạy họ cách chế ngự ngã mạn. Trong các Đại thần, ông được tôn kính bậc nhất, dạy họ pháp luật công chính. Trong các vương tử, ông được tôn kính bậc nhất, dạy họ đạo trung hiếu của vương tử. Trong chốn cấm cung, ông là nội quan tôn quý, giáo hóa hết thảy cung nữ đức hạnh. Trong giới bình dân, ông được tôn kính bậc nhất, khích lệ họ vun trồng phước đức. Trong hàng Phạm thiên, ông được tôn kính bậc nhất, khuyên bảo họ bằng tuệ tối thắng. Trong hàng Đế-thích, ông được tôn kính bậc nhất, vì ông chỉ cho họ thấy rõ tính vô thường. Trong hàng Hộ thế ông được tôn kính bậc nhất vì ông bảo vệ hết thảy chúng sinh.

Như vậy, Duy-ma-cật đã diệu dụng vô vàn phương tiện để giảng dạy chánh Pháp vì lợi ích của chúng sinh. Nay cũng mượn phương tiện thiện xảo, ông hiện thân có bịnh. Vì ông bịnh mà vương hầu, khanh tướng, trưởng lão, cư sĩ, Bà-la-môn v.v… cho đến hoàng thân quốc thích, hàng ngàn người, đã đến thăm viếng ông.

Nhân đó, bằng những bệnh tật nơi thân, Duy-ma-cật giảng giải Pháp Phật rộng rãi cho những người đến thăm.

Ông nói:

“Các nhân giả, thân này[19] là vô thường, yếu đuối, cũng chẳng bền lâu; là pháp chóng mục nát, không đáng tin cậy. Nó là sự khổ, là sự ưu não, là nơi tập hợp của các loại tật bịnh.

“Này các nhân giả, thân này không phải là chỗ đáng nương tựa cho người minh trí. Thân này như bọt biển, không thể vốc nắm. Thân này như bong bóng nước, không tồn tại lâu. Thân này như ngọn lửa bùng cháy từ khát vọng yêu đương. Thân này như cây chuối, ruột không lõi chắc. Thân này như huyễn, hình thành bởi ý nghĩ đảo điên. Thân này như giấc mộng, do hư vọng mà thấy có. Thân này như bóng, theo duyên là nghiệp mà có. Thân này như tiếng vang, tùy thuộc nhân duyên. Thân này như đám mây trôi, chợt biến chợt diệt. Thân này như ánh chớp lóe, thoáng chốc tiêu tan. Thân này không chủ tể, như đất. Thân này không tự ngã, như lửa.[20] Thân này không thọ mạng, như gió. Thân này không con người, như nước.[21] Thân này không thật, lấy bốn đại làm nhà. Thân này rỗng không, không ngã cũng không ngã sở. Thân này vô tri, như cỏ, cây hay gạch ngói. Thân này không hành động, chỉ chuyển động vì sức gió. Thân này bất tịnh vì chứa đầy uế tạp. Thân này hư nguỵ, tuy nhờ bởi tắm rửa, y phục, ẩm thực, rồi sẽ trở về tàn hoại diệt vong. Thân này là tai họa, bị bức bách bởi mọi thứ tật bịnh. Thân này như cái giếng trên gò,[22] vì sự già vây khốn. Thân này vô định, nhất định sẽ chết. Thân này như rắn độc, như kẻ thù, như xóm hoang.[23] Nó được tập thành bởi các uẩn, các xứ, các giới.

“Chư tôn giả, thân này đáng chán như vậy, ta nên tầm cầu Phật thân. Vì sao? Vì Phật thân tức Pháp thân, sinh từ vô lượng công đức và trí tuệ; sinh từ giới, định, huệ, giải thoát và tri kiến về giải thoát; từ từ, bi, hỷ, xả; từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, cần hành tinh tấn, thiền định giải thoát, tam muội; sinh từ đa văn, trí tuệ, các ba-la-mật; sinh từ phương tiện; sinh từ sáu thông; sinh từ ba minh; sinh từ ba mươi bảy đạo phẩm; sinh từ chỉ quán; sinh từ mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng; sinh từ sự đoạn trừ hết thảy pháp bất thiện, tập hết thảy pháp thiện; sinh từ sự chân thật; sinh từ sự không buông lung. Từ vô lượng pháp thanh tịnh như vậy sinh ra thân Như Lai.

“Các nhân giả, nếu muốn được thân Phật hầu chấm dứt hết thảy tật bịnh của chúng sinh, các ngài nên phát tâm cầu giác ngộ tối thượng.”

Trưởng giả Duy-ma-cật giảng Pháp cho những người đến thăm bịnh như vậy, khiến cho vô lượng nghìn khách viếng phát tâm vô thượng bồ-đề.

*

CHÚ THÍCH

[1] DMC., T14n475,tr. 539a7: “Duy-ma-cật sở thuyết kinh Phương tiện phẩm đệ nhị” 維 摩 詰 所 說 經 方 便 品 第 二; Cf. CDM., T38n1775, tr.338c13. VCX. T14n476,tr. 560b5: “Thuyết Vô Cấu Xưng hiển bất tư nghị phương tiện thiện xảo phẩm đệ nhị”, 說無垢稱經 顯不思議 方便 善巧 品第二 Cf. VCS. T38n1782, tr.1033b7.

[2] T14n0476,tr.560b6: Có Bồ-tát thuộc dòng họ Li-thiếp-tì (Skt. Licchavī) tên là Vô Cấu Xưng.

[3] VCX: đắc diệu biện tài 得妙辯才 , sở đắc tài biện thuyết vi diệu. Có 7 biện tài, Cf. Đại phẩm Bát-nhã, quyển 8, “Phẩm huyễn thính” (T.8, tr, 276c). Đại Bát-nhã kinh, quyển 499 (T.7, tr. 542a).

[4] Đây chỉ 4 vô sở uý của Bồ-tát, bodhisattvānāṃ catvāri vaiśāradyāni.

[5] DMC. hàng ma lao oán 降魔勞怨; VCX.: tồi ma oán lực 摧魔怨力.

5 Trí độ, tức trí tuệ/bát-nhã ba-la-mật. CDM., “Triệu nói: đến bờ bên kia của Thật trí.” VCS.: Ba-la-mật thứ mười, trí ba-la-mật (jñāna-pāramitā), là trí thành tựu hữu tình. Phương tiện ở đây là phương tiện ba-la-mật, do thấu suốt các phương tiện để làm lợi ích.

[7] DMC.: nhẫn điều hạnh 忍調行 ; VCX.: điều thuận nhẫn 調順忍. Skt., sauratya-kṣānti.

[8] DMC.: thiền tịch. VCX.: an trú tĩnh lự, chánh niệm, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

[9] DMC.: quyết định tuệ 決定慧 skt. viniścaya-jñāna. VCX.: chánh quyết trạch 正決擇 (skt. samyak-viniścaya). VCS.: chánh quyết trạch, chỉ tuệ vô lậu.

[10] VCX.: để nhiếp ích vọng kiến và ác tuệ.

[11] Bạch y 白衣, “người bận áo trắng,” chỉ người thế tục.

[12] Phạm hạnh 梵行, Skt. brahma-carya, đời sống tuyệt dục. CDM.: Phạm hạnh, là hạnh thanh tịnh vô dục.

[13] Thường lạc viễn ly 常樂遠離, thường vui thú ẩn dật. Skt. viveka-rata.

[14] Hán: tướng hảo nghiêm thân 相好嚴身.

[15] VCS.: bậc Thượng thủ trong hàng thuyết giáo.

[16] VCX.: sở tác sự nghiệp thị vô dữ quai 所作事業示無與乖 , không cạnh tranh mâu thuẫn trong các hoạt động nghiệp vụ.

[17] VCX.: “Tuy không mong cầu tài bảo thế gian, vẫn tỏ ra sành sõi các lợi lộc thế tục.”

[18] Nguyên Hán: trị chánh pháp. CDM, Triệu nói: “Chỉ quan chức thi hành pháp luật công chính.” VCX.: lý chư vương vụ 理諸王務 , “giải quyết các công việc của triều đình.”

[19] VCX.: “Thân được cấu thành bởi bốn đại chủng này.”

[20] VCX.: “…vô ngã, như nước.”

[21] VCX.: “…không có hữu tình, như lửa.”VCX còn thêm một dụ nữa không có trong DMC: “Thân này không bổ-đặc-già-la (Skt.pudgala), đồng đẳng với hư không.”

[22] Hán: khâu tỉnh 丘井 ; CDM, Thập nói, “giếng trên gò, tức là giếng khô nơi gò nổng 丘墟 枯 井 .” VCX: “… dễ sập như đường hầm có nước 如水隧.”

[23] Không tụ 空聚, xóm vắng, chỗ bọn cướp thường tụ tập.

***

Chương III. Chúng đệ tử

Lúc bấy giờ, Duy-ma-cật trong lòng suy nghĩ, “Nay ta nằm bệnh; không lẽ đức Thế Tôn đại từ chẳng đoái tưởng đến?”

Phật biết ý tưởng đó, nói với Xá-lợi-phất:

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

Xá-lợi-phất đáp:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Con nhớ lại, có lần, con đang ngồi tĩnh niệm[2] dưới tàn cây trong rừng,[3] Duy-ma-cật đến đó, và bảo con rằng,[4] ‹Kính thưa[5] ngài Xá-lợi-phất, bất tất[6] ngồi như vậy mới là ngồi tĩnh niệm. Hiện thân và ý[7] mà không ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi[8] mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định,[9] ấy mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu[10] mà không xả Đạo pháp,[11] ấy mới là tĩnh tọa. Tâm không trụ trong, không trụ ngoài, ấy mới là tĩnh tọa. Tu hành ba mươi bảy phẩm[12] mà không làm dao động các kiến chấp,[13] ấy mới là tĩnh tọa. Nhập Niết bàn mà không đoạn trừ phiền não,[14] ấy mới là tĩnh tọa. Ngồi được như vậy, thì mới được Phật ấn khả.›

“Bấy giờ, bạch đức Thế Tôn, khi nghe ông nói những lời này, con ngồi im lặng, không trả lời được. Cho nên con chưa đủ năng lực để thăm viếng.”

Phật nói với Đại Mục-kiền-liên:

“Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.”

Mục-kiền-liên bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Con nhớ lại, có lần, khi con đang giảng Pháp cho hàng tục gia đệ tử trên đường phố thành Tỳ-da-li, Duy-ma-cật đến bảo con rằng,[15] “Kính thưa ngài Đại Mục-liên, giảng Pháp cho cư sĩ bạch y không phải như Nhân giả đang thuyết. Thưa ngài, khi thuyết pháp, hãy như pháp mà thuyết. Pháp không chúng sinh, vì xa lìa cáu bẩn của chúng sinh.[16] Pháp không thọ mạng,[17] vì xa lìa sinh tử. Pháp không có con người,[18] vì tiền tế và hậu tế[19] đều cắt đứt. Pháp thường tịch nhiên, vì diệt các tướng. Pháp lìa ngoài tướng, vì không sở duyên.[20] Pháp không ngôn thuyết,[21] vì lìa giác quán.[22] Pháp không hình tướng, vì như hư không.[23] Pháp không hý luận vì rốt ráo không. Pháp không ngã sở, vì lìa ngã sở. Pháp không phân biệt, vì lìa các thức. Pháp không so sánh, vì không tương đãi.[24] Pháp không thuộc nhân vì không ở trong duyên. Pháp đồng Pháp tánh, vì nhập vào các pháp.[25] Pháp tuỳ theo Như vì không có gì để theo. Pháp trụ thực tế, vì không động các biên.[26] Pháp không động dao, vì không y sáu trần. Pháp không đến đi vì thường không trụ. Pháp thuận với Không, tùy theo vô tướng và ứng với vô tác.[27] Pháp lìa đẹp xấu. Pháp không tăng giảm. Pháp không sinh diệt. Pháp không chỗ về. Pháp vượt qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.[28] Pháp không cao thấp; thường trụ, bất động. Pháp lìa hết thảy quán hạnh.[29]

“Kính thưa ngài Mục-liên, tướng của Pháp như vậy, làm sao diễn giảng? Thưa ngài, người thuyết pháp thì không diễn thuyết, không khai thị. Người nghe thì không nghe, không sở đắc. Như con người huyễn[30] giảng pháp cho người huyễn nghe. Ngài nên xác lập tâm ý này mà giảng Pháp. Cần phải hiểu rõ căn tánh nhạy bén hay u mê của chúng sinh. Bằng tâm đại bi mà tán dương Đại thừa; vì nhớ nghĩ báo đáp ân đức của Phật, không để Tam bảo đoạn tuyệt. Vì như vậy mà thuyết pháp.›

“Nghe Duy-ma-cật nói pháp này xong, tám trăm cư sĩ đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Bạch Thế Tôn, con không có biện tài như vậy, nên không đủ khả năng thăm bệnh.”

Phật nói với Ma-ha Ca-diếp:

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Nhớ lại, có lần con đang khất thực nơi xóm nghèo, Duy-ma-cật đến nói: ‹Kính thưa ngài Ma-ha Ca-diếp, có tâm từ bi mà không rộng khắp, nên ngài bỏ nhà hào phú mà xin nhà bần hàn.

“Thưa ngài Ca-diếp,[31] an trụ nơi pháp bình đẳng thì nên hành khất thực theo thứ lớp. Vì sự không ăn,[32] cho nên cần phải hành khất thực. Vì để làm rã sự kết hợp[33] mà cầm lấy đồ ăn vo nắm.[34] Vì không thọ nhận[35] mà nhận lấy thực phẩm của người kia. Bằng ấn tượng về xóm hoang[36] mà đi vào xóm. Nhìn sắc mà cũng đồng như mù. Nghe âm thanh cũng đồng như tiếng vọng. Ngửi mùi thơm cũng đồng như gió thoảng. Nếm thức ăn, mà không phân biệt. Tiếp thọ các xúc như trí chứng.[37] Biết vạn hữu đều như huyễn tướng, không có tự tánh, chẳng có tha tánh; từ xưa vốn không bốc cháy thì nay không dập tắt.[38]

“Thưa ngài Ca-diếp, nếu có thể thành tựu tám pháp giải thoát mà không cần lìa tám tà;[39] bằng tà tướng mà nhập Chánh pháp; bằng một miếng ăn[40] mà bố thí tất cả; cùng chư Phật và Hiền Thánh Tăng. Cho đến được vậy mới nên ăn. Ăn như vậy không phải có phiền não[41] cũng không lìa phiền não, không nhập định ý[42] cũng không xuất định ý; không phải trụ thế gian cũng không phải trụ Niết-bàn. Ai thí cho, công đức không nhiều cũng không ít. Vật thí không tốt cũng không hại. Đó là cách chân chánh đi vào Phật đạo, không nương dựa vào tiểu đạo của Thanh-văn. Thưa Ca-diếp, ăn như vậy mới là không ăn suông của người bố thí.›

“Bạch Thế Tôn, khi nghe những lời này, được điều chưa từng có này, trong con khởi niềm tôn kính sâu sắc hết thảy chư Bồ tát, và con nghĩ: ‹Con người có gia đình mà có thể có trí tuệ biện tài như vậy, ai nghe mà không khởi tâm cầu giác ngộ?› Từ đó con thôi không khuyên người bằng Thanh-văn hay Bích-chi-phật. Vì vậy cho nên con biết mình không đủ năng lực đi thăm bệnh.”

Phật lại bảo Tu-bồ-đề:[43]

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

Tu-bồ-đề bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì sao vậy? Nhớ lại, có lần con đến nhà ông khất thực. Duy-ma-cật lấy bát[44] của con cho đầy cơm rồi bảo: ‹Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu đối với sự ăn mà bình đẳng, thì đối với các pháp cũng bình đẳng. Các pháp bình đẳng thì đối với sự ăn cũng bình đẳng. Hành khất thực như vậy mới đáng nhận thức ăn.[45]

“Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu có thể không cần dứt đoạn dâm dục, sân nộ, ngu si , mà cũng không câu hữu với chúng; không hoại nơi thân mà tùy nhất tướng;[46] không diệt si và ái[47] mà đạt được minh và giải thoát;[48] bằng tướng của năm tội đại nghịch[49] mà được giải thoát nhưng cũng không được cởi, không bị trói; không thấy bốn Thánh đế, cũng không phải không thấy Thánh đế;[50] không phải đắc quả, không phải phàm phu, không phải lìa pháp phàm phu; không phải Thánh nhân, không phải không là Thánh nhân; tuy thành tựu hết thảy pháp mà vẫn xa lìa pháp tướng.[51] Có như thế mới đáng nhận thức ăn.

“Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu không thấy Phật cũng không nghe Pháp;[52] sáu đại sư ngoại đạo kia, là Phú-lan-na Ca-diệp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, và Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử,[53] là Thầy của ngài; nhân họ mà ngài xuất gia. Nếu các vị Thầy ấy đọa lạc thì ngài cũng đọa lạc theo. Như vậy ngài mới nên nhận thức ăn.

“Nếu Tu-bồ-đề đi vào các tà kiến, không sang bờ bên kia;[54] trụ trong tám nạn chứ không thoát khỏi tám nạn;[55] đồng với phiền não,[56] xa rời pháp thanh tịnh; nếu ngài chứng đắc Vô tránh tam-muội[57] thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc định ấy; những ai bố thí ngài, không nói là gieo vào ruộng phước; những ai cúng dường ngài sẽ rơi vào cõi dữ; ngài cùng bọn Ma năm tay nhau làm bạn lữ trong trần lao;[58] ngài cùng với bọn Ma và các trần lao giống nhau không khác;[59] đối với hết thảy chúng sinh mà có tâm oán hận; báng bổ chư Phật, hủy hoại chanh pháp, không nhập tăng số, không được diệt độ.[60] Nếu được như vậy, ngài mới đáng nhận thức ăn.

“Bạch Thưa Thế Tôn, nghe những lời này mà con hoang mang; không biết đó là ngôn ngữ gì; không biết phải trả lời thế nào. Con bèn bỏ lại bình bát, định ra khỏi nhà. Duy-ma-cật kêu lại: ‹Thưa ngài Tu-bồ-đề, hãy nhận lấy bình bát, chớ có sợ hãi. Ngài nghĩ sao, nếu Như Lai khiến một người hoá[61] đến nạn vấn, khi ấy ngài có sợ chăng?› Con đáp, ‹Không sợ.› Duy-ma-cật tiếp, ‹Hết thảy pháp đều là tướng như huyễn hoá.[62] Cho nên ở đây ngài không nên sợ hãi. Vì sao? Vì văn tự và ngôn thuyết đều không xa lìa tướng ấy. Cho đến, bậc trí không dính mắc văn tự và ngôn thuyết, vì vậy chẳng có gì để sợ. Tại sao? Tại vì văn tự và ngôn thuyết không có tự tánh, đó là giải thoát. Tướng của giải thoát, đó là các pháp.›

“Khi Duy-ma-cật nói xong Pháp này, hai trăm người con của chư thiên chứng được sự minh tịnh của Pháp nhãn. Vì thế con biết mình chưa đủ năng lực đến thăm ông.”

Phật lại bảo Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử:[63]

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

Phú-lâu-na thưa với Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Là vì, một hôm, trong rừng Đại lâm,[64] con đang thuyết Pháp cho một nhóm tì kheo mới thọ giới, Duy-ma-cật chợt đến và nói: ‹Thưa ngài Phú-lâu-na, trước tiên ngài nên nhập định để thấu rõ tâm tánh người nghe rồi mới nên giảng Pháp. Chớ để đồ ôi thiu trong chén quí. Ngài nên hiểu rõ tâm niệm[65] của các tỳ kheo này chứ đừng nhầm lẫn pha lê với thủy tinh. Nếu ngài chưa rõ căn nguyên của chúng sinh thì đừng nên phát khởi chúng bằng pháp Tiểu thừa. Kia chưa bị lở lói, chớ làm họ trầy xước. Với người muốn đi trên đường, đừng chỉ họ lối hẹp. Đừng rót biển cả trong dấu lõm chân trâu. Đừng ví ánh mặt trời với sắc màu đom đóm.[66]

“‹Phú-lâu-na, các tì kheo này đã phát tâm Đại thừa từ lâu nhưng nửa chừng quên mất. Sao ngài lại hướng dẫn họ bằng pháp Tiểu thừa? Trí của Tiểu thừa nông cạn, như người mù, không thể tỏ tường nguồn cội của chúng sinh.›

“Liền đó, Duy-ma-cật nhập đại định khiến các tì kheo nhớ lại kiếp trước của họ đã từng gặp năm trăm vị Phật, đã gieo trồng bao phước đức để hồi hướng cho phát nguyện cầu giác ngộ tối thượng của họ; khiến họ thức tỉnh và lập tức phục hồi tâm nguyện trong quá khứ. Họ liền cúi đầu đảnh lễ Duy-ma-cật, nghe ông thuyết giáo, và tiếp tục tầm cầu giác ngộ tối thượng, không còn thối chuyển.

“Con nghĩ hàng Thanh-văn chưa quán sát rõ căn tánh của người nghe Pháp[67] thì không nên thuyết Pháp. Nên con thấy mình chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông.”

Phật bảo Ma-ha Ca-chiên-diên:[68]

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

Ma-ha Ca-chiên-diên thưa:

“Bạch đức Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì có lần, sau khi Phật giảng các yếu nghĩa của Pháp cho các tỳ kheo, con đã theo đó giải thích cho các tì kheo nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô ngã, và nghĩa tịch diệt.

“Bấy giờ Duy-ma-cật đi đến và bảo con rằng: ‹Thưa ngài Ma-ha Ca-chiên-diên, đừng lấy tâm hành sinh diệt mà giải nghĩa pháp thật tướng. Ma-ha Ca-chiên-diên, các pháp rốt ráo không sinh không diệt;[69] đó là nghĩa vô thường. Ngũ thủ uẩn rỗng suốt, trống không, không có gì sinh khởi; là nghĩa của khổ. Các pháp rốt ráo không, không có gì; là nghĩa của vô. Ngã và vô ngã không hai; là nghĩa vô ngã. Các pháp nguyên lai không bùng cháy, nay chẳng có gì là dập tắt; đó là nghĩa tịch diệt.”

“Duy-ma-cật nói xong, các tì kheo hiện diện tâm được giải thoát. Cho nên con thấy mình chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông.”

Phật bèn nói với A-na-luật :[70]

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

A-na-luật thưa:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì có lần con đang đi kinh hành,[71] một Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh, cùng mười ngàn chư thiên hào quang chiếu rọi, đến gặp con, cúi chào và hỏi: ‹Thiên nhãn của ngài nhìn xa đến đâu?› Con đáp: ‹Thưa Nhân giả, tôi nhìn thấy ba nghìn đại thiên quốc độ của Phật Thích-ca-mâu-ni như trái am-ma-lặc[72] trong lòng bàn tay.› Khi ấy Duy-ma-cật xuất hiện, nói rằng: ‹Thưa ngài A-na-luật, cái thấy bằng thiên nhãn của ngài là có tướng trạng hay không có tướng trạng?[73] Giả sử có tướng trạng, thì chẳng hơn hàng ngoại đạo đã tập thành năm phép thần thông. Nếu không có tướng trạng, thì đó là vô vi, không có sự thấy.›

“Bạch Thế Tôn, lúc ấy con lặng thinh không trả lời được. Các Phạm thiên khi nghe những điều chưa từng nghe, liền làm lễ rồi cung kính hỏi: ‹Vậy trên thế gian này ai có chân thiên nhãn?› Ông đáp: ‹Phật Thế Tôn có chân thiên nhãn, vì thường trụ trong tam-muội,[74] nhìn thấy hết thảy cõi Phật không do bởi hai tướng.›[75]

“Ngay lúc ấy, Phạm vương Nghiêm Tịnh và năm trăm chư thiên quyến thuộc đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Họ cung kính đảnh lễ dưới chân Duy-ma-cật rồi biến mất. Đó là lý do con nói mình chưa đủ năng lực để thăm bịnh ông ta.”

Phật bảo Ưu-ba-li:[76]

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

Ưu-ba-li thưa:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Con nhớ lại, xưa kia có hai tì kheo phạm giới, xấu hỗ không dám đến hỏi Phật, đến nói với con: ‹Thưa ngài Ưu-ba-li, chúng tôi đã phạm luật và rất hỗ thẹn vì tội này, không dám đến hỏi Phật, xin hỏi ông cách sám hối để giũ sạch tội lỗi.› Con bèn theo như pháp mà giảng giải cho họ.

“Lúc ấy Duy-ma-cật đến nói với con: ‹Thưa ngài Ưu-ba-li, đừng làm nặng thêm tội của hai tỳ kheo này mà hãy ngay thẳng trừ diệt. Chớ làm rối loạn tâm của họ. Vì sao? Vì bản chất tội không ở trong không ở ngoài,[77] cũng không ở giữa. Như Phật đã dạy, chúng sinh cáu bẩn vì tâm cáu bẩn; nếu tâm trong sạch, hết thảy đều trong sạch. Tâm cũng không ở trong không ở ngoài, không ở giữa. Tâm như nhiên, tội cũng như nhiên. Các pháp cũng như nhiên, không vượt ngoài Như. Như ngài Ưu-ba-li, nếu tâm tướng[78] đã giải thoát, còn có gì cáu bẩn chăng?› Con đáp: ‹Không còn.› Ông ấy nói: ‹Cũng vậy, tâm tướng của chúng sinh thảy đều vô cấu, cùng như vậy. Thưa ngài Ưu-ba-li, vọng tưởng là cáu bẩn; không vọng tưởng là thanh tịnh.[79] Điên đảo là cáu bẩn; không còn điên đảo là thanh tịnh. Chấp ngã là cáu bẩn; không chấp ngã là thanh tịnh. Ưu-ba-li, hết thảy pháp khởi và diệt không đình trú, như ảo ảnh như tia chớp. Các pháp không đối đãi nhau,[80] không đình trú trong mỗi tâm niệm. Chúng đến từ những quan niệm sai lầm, như chiêm bao, như quáng nắng, như trăng trong đáy nước, như bóng trong gương, vì chúng sinh ra từ vọng tưởng. Hiểu được như vậy là người phụng trì giới luật. Hiểu như vậy là hiểu biết thiện xảo.[81]›

“Ngay lúc ấy, hai vị tì kheo thán phục: ‹Siêu việt thay trí tuệ, mà ngài Ưu-ba-li không thể sánh bằng. Tuy là bậc trì luật đệ nhất cũng không thể nói được như vậy› Con mới nói: ‹[82]Duy trừ Phật ra, chưa từng có một Thanh-văn hay Bồ tát nào vượt hơn biện tài vô ngại[83] của người này vì trí tuệ minh đạt của ông thù thắng như vây.›

“Hai vị tì kheo nhờ đó đã dứt đoạn nghi tình và hối hận, phát tâm cầu giác ngộ tối thượng và lập nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được biện tài như vậy. Cho nên con đủ khả năng đến thăm bịnh ông ấy.”

Phật bèn nói với La-hầu-la:[84]

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

La-hầu-la thưa:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm ông ấy. Vì nhớ lại, có lần con trai nhà trưởng giả thành Tỳ-da-li[85] đến gặp con, cúi chào và hỏi: ‹La-hầu-la, ông là con của Phật, đã bỏ ngôi vị Chuyển luân vương mà xuất gia học đạo. Xuất gia như vậy được lợi ích gì?› Con bèn như pháp mà nói các lợi ích của công đức xuất gia, Duy-ma-cật bỗng đến, nói: ‹Thưa ngài La-hầu-la, ông chớ nên nói về các lợi ích lợi ích của công đức xuất gia. Vì sao? Vì không lợi ích, không công đức; đó là xuất gia. Chỉ pháp hữu vi mới nói đến lợi ích và công đức. Xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi, không có lợi ích, không có công đức. La-hầu-la, xuất gia là vượt khỏi cái sự chỗ này, chỗ kia, hay ở giữa; là vượt khỏi sáu mươi hai kiến chấp,[86] an trú Niết-bàn,[87] được người trí lãnh thọ, là lối đi của bậc Thánh thực, hàng phục các ma, thoát ngoài năm đạo, thanh tịnh năm con mắt, thành tựu năm lực, tạo lập năm căn, không gây não hại cho đời, xa lìa mọi điều xấu, đẩy lui Ngoại đạo, siêu việt giả danh tự, ra khỏi vũng sình,[88] không bị ràng buộc, không ngã sở; không có gì để chấp thủ, không bị nhiễu loạn, nội tâm hoan hỷ, hộ trì tâm ý kẻ khác,[89] tùy thuận thiền định,[90] và thoát khỏi mọi sai lầm. Làm được như vậy mới là đích thực xuất gia.›

“Đoạn, Duy-ma-cật nói với những người con của các trưởng giả: ‹Các chú nên xuất gia trong Chánh Pháp. Vì sao? Vì không dễ gì được sống cùng thời với Phật.› Các người này nói: ‹Thưa Cư sĩ tôn kính, chúng tôi có nghe Phật dạy, nếu cha mẹ chưa cho phép thì con không được xuất gia.› Duy-ma-cật bảo: ‹Đúng vậy. Nhưng khi phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác, là các chú đã xuất gia.›

“Bấy giờ, ba mươi hai người con của các trưởng giả đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì vậy con chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy.”

Phật bèn bảo A-nan:

“Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.”

A-nan nói:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì nhớ lại, có lần khi thân Thế Tôn có chút bịnh, cần sữa bò, con lấy bát đến đứng trước cửa nhà người Bà-la-môn. Khi ấy Duy-ma-cật đi đến, bảo con rằng: ‹Thưa ngài A-nan, có chuyện gì mà cầm bát đứng đây sớm thế?› Con đáp: ‹Cư sỹ, đức Thế Tôn thân có chút bịnh, cần sữa bò, vì vậy tôi mới đứng đây.› Duy-ma-cật chặn lại: ‹Thôi im đi, ngài A-nan. Chớ nói những lời như vậy. Thân Như Lai là thể kim cương. Mọi điều xấu đã bị đoạn trừ; mọi điều thiên hội đủ. Làm gì có bệnh? Làm gì có não? Ngài hãy im lặng mà đi. Chớ phỉ báng Như Lai. Đừng để người khác nghe được lời thô tháo đó. Chớ để chư thiên có uy đức và Bồ tát đến từ các quốc độ thanh tịnh nghe thấy. Thưa ngài A-nan, Chuyển luân thánh vương mới chỉ tích góp vài công đức nhỏ đã không còn bịnh não. Huống chi Như Lai đã hội đủ vô lượng phước đức thù thắng đức lại còn bịnh sao? Hãy đi đi, thưa ngài A-nan, đừng làm xấu hết cả chúng tôi. Nếu người Bà-la-môn ngoại đạo nghe lời này, họ sẽ nghĩ: ‹Sao đáng gọi là Tôn Sư? Người này cứu được ai khi ông chưa cứu nổi thân mình?› Hãy âm thầm mà đi nhanh đi, đừng để ai nghe lời ngài nói. A-nan, nên biết, thân Như Lai là Pháp thân, không đến từ tâm tưởng và dục vọng. Phật là đức Thế Tôn, thân Ngài vượt ngoài ba cõi. Thân Phật là vô lậu, vì các lậu đã dứt sạch. Thân Phật là vô vi, không thể gọi tên.[91] Thân như vậy làm sao có bịnh?›

“Bạch Thế Tôn, nghe ông nói, con ngập tràn hỗ thẹn, tự hỏi phải chăng con tuy gần Phật nhưng đã nghe nhầm chăng? Nhưng lúc ấy, con nghe một tiếng nói từ không trung vọng xuống: ‹A-nan, Cư sĩ nói đúng, nhưng vì Phật hiện thân trong đời năm trược ác, hiện hành pháp này để cứu độ chúng sinh. A-nan, cứ đi xin sữa, chớ hỗ thẹn.›

“Bạch Thế Tôn, trí tuệ và tài biện thuyết của Duy-ma-cật như vậy, con quả thật không đủ khả năng đến thăm bịnh ông.”

Như vậy năm trăm đại đệ tử của Phật đều kể lại những cuộc gặp bất ngờ của họ với Duy-ma-cật, đều nói không đủ khả năng đến thăm bịnh ông.

*

CHÚ THÍCH

[1] CDM.,T38n1775,tr. 0343c14; VCX., T14n0476,tr. 0561b06, Phẩm Thanh văn 聲聞品, Skt. Śrāvaka-parivartaḥ.

[2] Yến tọa 宴坐, Skt. pratisaṃlayana (Pali. paṭisallāna), độc cư tĩnh tọa, ẩn dật tư duy, thiền tứ. VCS nói ‹yến tọa› ở đây chỉ ‹diệt tận định.› Không đúng, mặc dù trong đối đáp tiếp theo có nói đến diệt tận định.

[3] VCX, “trong Đại lâm 大林.” Khu rừng Mahāvana ở gần Tì-da-li (Vaiśalya /Vesāli) , chạy dài đến Himālaya.

[4] VCX.: “Sau khi cúi đầu lễ dưới chân con, rồi nói rằng…” Chỗ này, Khuy Cơ (T38n1782, tr. 1041b9) chỉ trích La-thập vì nể nang Dao chúa, nên tránh chi tiết Duy-ma-cật cúi lạy dưới chân ngài Xá-lợi-phất, lược bỏ chi tiết này trong nguyên bản tiéng Phạn. Khuy Cơ nói, “Vô Cấu (Duy-ma-cật), đức vọng tuy cao nhưng hình nghi là thế tục, tất phải ở dưới hàng Thanh văn.”

[5] Hán: duy 唯, kính thưa; VCS (T38n1782, tr. 1041b14) nhấn mạnh đặc biệt từ này để nói đến thái độ tôn kính của Duy-ma-cật đối với ngài Xá-lợi-phất.

[6] VCS: bất tất, chỉ ý vừa tán thành, vừa bác bỏ.

[7] DMC: thân và ý. VCX: thân và tâm.

[8] Oai nghi, chỉ bốn cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi (Skt. īryā-patha). CDM và VCS đều giải là “phương tiện diệu dụng.”

[9] Diệt định 滅定 hay diệt tận định 滅盡定, Skt.: nirodha-samāpatti. Hay nói đủ: diệt thọ tưởng định 滅受想定, tưởng thọ (tri) diệt tận định 想受(知)滅盡定, Skt. saṃjñā-vedita-nỉrodha-samāpatti. Giải thoát thứ tám, Cf. Saṅgīti-suttanta (D.iii. 262), aṭṭha vimokkhā… sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññā-vedayita-nirodhaṃ upasampajja viharati, sau khi hoàn toàn vượt qua phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy thành tựu rồi an trú với trạng thái diệt của tưởng và thọ (cái được giác tri). Hoặc, thứ chín trong 9 thứ đệ trú (Pali. nava anupubba-vihārā, op.cit., D.iii. 265), hay thứ đệ diệt (Pali. nava anupubba-nơrodhā, op.cit., D.iii.266). Phẩm loại túc luận 1 (T.26, tr. 694a19): “Thế nào là Diệt định? Đã xả ly sự đắm nhiễm nơi Vô sở hữu xứ (Skt. ākiñcanyāyatana); trước hết, khởi lên tác ý đình chỉ các tưởng (saṃjñā), tâm và tâm sở đều diệt.” Vị A-la-hán chứng diệt tận định được nói là có “câu (phần) giải thoát” (Skt. ubhayatobhāga-vimukta). Vị A-na-hàm chứng diệt tận định được gọi “Thân chứng (Skt. kāya-sākṣin)”. Phàm phu và các Thánh giả thấp hơn không thể chứng được định này.

[10] DMC: phàm phu sự 凡夫事. VCX: dị sanh chư pháp 異生諸法 (Skt. pṛthagjana-dharmā).

[11] VCX.: “Hiện hành các pháp của hết thảy dị sanh (phàm phu) mà không xả những gì đã chứng.”

[12] Phẩm 品, chỉ Đạo phẩm. VCX,: bồ-đề phần pháp 菩提分法, chỉ các pháp hỗ trợ tuệ trí, Skt. bodhipākṣika-dharma .

[13] Chư kiến 諸見 ; CDM, Triệu nói: đó là chỉ 62 vọng kiến. VCX.: nhất thiết kiến thú 一切見趣 (Skt. sarva-dṛṣṭi-gata), đây chỉ 5 kiến chấp: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến.

[14] VCX: “Không xả sinh tử mà không còn phiền não. Tuy chứng Niết-bàn mà vô sở trụ.”

[15] Xem chth. 4 trên.

[16] DMC: chúng sinh cấu 眾生垢, Thập nói: “Tức là hai mươi thân kiến (Skt. satkāyadṛṣṭi: tát-ca-da tà kiến = hữu thân kiến). VCX: ngã cấu 我垢. VCS: cáu bẩn do ngã chấp hay của ngã chấp

[17] DMC: thọ mạng 壽命; VCX: mạng giả 命者, Skt. jīva, một khái niệm khác về ātman (ngã chấp, tự ngã hay linh hồn) trong một số học thuyết; tự ngã như là chủ thể của thọ mạng hay sinh tồn.

[18] DMC: nhân 人. VCX: bổ-đặc-già-la 補特伽羅, Skt. pudgala (nhân cách, nhân vị, cá thể ngã), một khái niệm về ātman của một số học thuyết; Hán dịch là số thủ thú 數取趣, chỉ chủ thể của luân hồi, tự ngã như là chủ thể trong luân chuyển tái sinh. Từ trên, bản của Huyền Trang đề cập bốn hình thái của ngã chấp (ātma-graha) hay khái niệm về tự ngã (ātma-dṛṣṭi): ngã (ātman), hữu tình (= chúng sinh, Skt. sattva), sinh mạng (jīva) và nhân vị hay nhân cách (pudgala). Bản La-thập chỉ kể có ba: chúng sinh, thọ mạng và con người.

[19] Tiền tế 前際, hay bản tế 本際 (Skt. pūrvakoṭi), biên tế tối sơ; hậu tế 後際 (Skt. paścima-koṭi), biên tế tối hâu. Chỉ giới hạn khởi điểm và tận cùng của thời gian.

[20] VCX: “Pháp lìa tham trước (chấp), vì không sở duyên.” Sở duyên 所緣, Skt. ālambana, cái mà chủ thể (thức) bám vào để sinh khởi và hoạt động.

[21] VCX: “Pháp không văn tự, vì ngôn ngữ bị cắt đứt.”

[22] Giác quán 覺觀, Triệu nói: “Nhị Thiền trở lên không còn giác và quán, nên nói là sự im lặng của Hiền Thánh.” Theo đó, giác quán là hai thiền chi đầu của sơ thiền; cũng là hai trong bốn tâm sở bất định của Duy thức; Skt. vitarka-vicāra, tầm và tứ 尋伺.

[23] VCX: “Pháp không thí thuyết (thí dụ và ngôn thuyết) vì xa lìa hết thảy tư duy sóng cuộn (ba lãng tư 波浪思, Skt. taraṅga-cintā?). Pháp phổ biến tất cả vì như hư không. Pháp không hiển hiện, không tướng, không hình, vì xa lìa hết thảy hành động sự.” Bản La-thập lược một số chi tiết.

[24] Tương đãi 相待: quan hệ hỗ tương.

[25] VCX: “Pháp đồng pháp giới, vì thể nhập hết thảy chân pháp giới.”

[26] VCX: tất cánh bất động, Skt.. atyantācala (rốt ráo hay tuyệt đối không dao động), bản La-thập đọc là antācala.

[27] Ba giải thoát môn: Không, Vô tướng, Vô tác (=Vô nguyện). Skt., trayo vimokṣāḥ, śūnyatā animittaḥ apraṇihitaḥ. VCX: “Pháp thuận Không, tùy Vô tướng, ứng Vô nguyện, vì xa lìa hết thảy tư duy tăng giảm.”

[28] VCX: “Pháp không chấp tàng (Skt. nir-ālaya, phi a-lại-da), vì lìa hết thảy con đường của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.”

[29] VCX: “Pháp lìa hết thảy sở hành của phân biệt, vì hết thảy hý luận đều bị rốt ráo đoạn trừ.”

[30] Huyễn sĩ 幻士, Skt. māya-puruṣa.

[31] VCX: Tôn giả Ca-diếp-ba.

[32] Bất thực 不食; Triệu nói: đây chỉ Niết-bàn. Cf. Trường A-hàm 8, kinh Chúng tập (T.1, tr. 49c19), “Hết thảy chúng sinh đều do thức ăn mà tồn tại.” Cf. Saṅgīti, D.iii. 211: sabbe sattā āhāra-tiṭṭhitikā.

[33] DMC: hoại hoà hiệp tướng 壞和合相.

[34] DMC: đoàn thực 揣食, thức ăn được vò thành viên, tức thực phẩm vật chất; Skt. kavalīkāra āhāra. CDM, Triệu nói: “Vo tròn (đoàn) là vật được hoà hiêp. Hoại hoà hiệp, tức phá hoại sự hoà hiệp của năm uẩn. Sự phá hoại năm uẩn tức là Niết-bàn.” VCX: “Vì để hoại thực chấp 食執 của người kia nên hành khất thực.” VCS: “Bản dịch cũ nói hoà hiệp tướng, tức chỉ thực chấp.”

[35] Bất thọ 不受;Triệu nói: “Bất thọ, tức là pháp Niết-bàn.”

[36] DMC: không tụ tưởng 空聚想. VCX: không tụ tướng 空聚相。

[37] Trí chứng 智證, La-thập: “Bằng trí mà xúc thật tướng.” Đạo Sinh nói: “Trong tiếng Phạn, xúc và trí chứng đối nghĩa nhau.”

[38] DMC: bản bất nhiên 本不然. CDM, Triệu nói: “Như lửa, không cháy thì không tắt.” VCX: vô xí nhiên , vô tịch diệt 無熾燃無寂滅.

[39] Tám tà, tức tám tà đạo, đối nghịch với tám chánh đạo.

[40] DMC: nhất thực 一食. VCX: nhất đoàn thực 一揣食 (một nắm thức ăn)

[41] VCX: tạp nhiễm 雜染, Skt. saṃkleśa. Khuy Cơ nói, cựu dịch “phiền não” không chính xác.

[42] DMC: định ý 定意; VCX: tĩnh định 靜定.

[43] DMC: Tu-bồ-đề 須菩提. VCX: Đại Thiện Hiện 大善現. VCS: Ma-ha Tô-bổ-để , đây nói là Đại Thiện Hiện 摩訶蘇補底此云大善現. Skt. (Mahā)Subhūti.

[44] VCX: “Sau khi lễ, rồi đón lấy bình bát.”

[45] VCX: “Nếu, có thể bằng tính bình đẳng từ nơi sự ăn, mà thể nhập tính bình đẳng của hết thảy pháp; bằng tính bình đẳng của hết thảy pháp mà thể nhập tính bình đẳng của hết thảy chư Phật. Được như vậy mới đáng nhận thức ăn.”

[46] VCX: “Không hoại tát-ca-da kiến mà nhập nhất thú đạo.” Khuy Cơ giải: Tát-ca-da kiến 薩迦耶見 (Skt. satkāya-dṛṣṭi) là ngụy thân kiến (chấp thân hư nguỵ này là thực hữu). Lý vô ngã được nói là nhất thú 一趣 (Skt. ekagati: định hướng duy nhất; hoặc ekayāna, lối đi độc nhất). Vì đó là đích quay về của hành giả trong cả ba thừa.

[47] DMC: si và ái 癡愛. VCX: vô minh và hữu ái 無明有愛, Skt.. avidyā và bhava-tṛṣṇā.

[48] DMC: minh thoát 明脫. VCX: tuệ minh và giải thoát. Minh, chỉ ba minh (tisro vidyāḥ). Giải thoát, chỉ tám giải thoát (aṣṭau vimokṣāḥ).

[49] DMC: ngũ nghịch 五逆, năm tội đại nghịch, hay vô gián nghiệp. Skt. pañca ānantarya-karmāṇi. VCX: vô gián bình đẳng pháp tính 無間平等 法性 (Skt. anantarya-samadharmatā). Khuy Cơ giải: vô gián ở đây chỉ địa ngục vô gián, nêu chỗ cực khổ để đối nghịch đại lạc là Niết-bàn.

[50] Kiến đế 見諦 (Skt. satya-darśana), đây chỉ sự chứng đắc Thánh quả, đặc biệt Sơ quả.

[51] DMC: pháp tướng . Skt. dharma-lakṣaṇa. VCX. pháp tưởng . Skt. dharma-saṃjñā.

[52] VCX: thêm: “không phụng sự Tăng.”

[53] DMC: lục sư ngoại đạo 外道六師: Phú-lan-na Ca-diệp 富蘭那迦葉, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử 末伽梨拘賒梨子, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử 刪闍夜毘 羅胝子, A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la 阿 耆 多 翅 舍 欽 婆 羅 , Ca-la-cu-đà Ca-chiên-diên 迦羅鳩馱迦旃延 và Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử 尼犍陀若提子. VCX, Ngoại đạo lục sư 外道六師: Mãn Ca-diếp-ba 滿迦葉波, Mạt-tát-yết-li Cù-xá-li Tử 末薩羯離瞿舍離子, Tưởng Phệ-đa Tử 想吠多子, Vô Thắng Phát Hạt 無勝髮褐, Phong Ca-diễn-na 犎迦衍那, Ly hệ thânTử 離繫親子. Skt.. Pūraṇa-Kāśyapa, Maskarī-Gosālīputra, Sañjayī-Vairaṭīputra, Ajita-Keśakambala, Kakuda-Kātyāyana, Nirgrantha-Jñātiputra. Pali, Cf. Sāmañña-phala-sutta, D.i. 47tt.

[54] VCX: “Rơi vào các kiến thú (Skt. dṛṣṭigati: xu hướng kiến chấp tà vạy) mà không đi đến trung biên (Skt. madhyānta: trung đạo và hai biên chấp hay cực đoan).

[55] VCX: bát vô hạ 八無暇 , tám hoàn cảnh không thuận lợi cho sự tu tập chánh pháp. Skt. aṣṭāv akǎaṇāḥ; Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii. 287, aṭṭh’ akkhaṇā asamayā brahmacariya-vāsāya.

[56] DMC: phiền não 煩惱; VCX: tạp nhiễm 雜染, Skt. saṃkleśa .

[57] Vô tránh tam-muội/định , Skt. araṇā-samādhi; cf. Câu-xá 27 (T.29, tr.141c24): “Nói vô tránh tam muôi, nghĩa là, A-la-hán quán sát sự khổ của chúng sinh do bởi phiên não. Tự biết thân của mình là ruộng phước bậc nhất, nhưng ngại rằng phiền não của người khác lấy thân của A-la-hán làm đối tượng để sinh khởi, cho nên ngài dẫn phát tướng trí như vậy. Do phương tiện này khiến cho các chúng sinh khác không lấy thân của A-la-hán làm đối tượng để sinh khởi tham, sân, các thứ….” Cf. Vajracchedikā §9: aham asmi bhagavaṃs tathāgatenārhatā samyaksaṃbuddhena araṇāvihāriṇām agrayo nirdiṣṭaḥ, Thế Tôn, con được Như Lai xác nhận là đệ nhất trong các vị sống với hạnh vô tránh. Cf. Pali, A.i. 24: etad aggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ araṇavihārīnaṃ yadidaṃ subhūti… dakkhineyyānaṃ yadidaṃ subhūti, “Trong các Tỳ-kheo đệ tử của ta, đệ nhất trong những vị sông vô tránh là Subhūti; đệ nhất trong những vị đáng cúng dường là Subhūti.”

[58] DMC: lao lữ 勞侶. VCX: bạn lữ 伴侶. VCS: “Cựu dịch là lao lữ; ý nói, làm bầu bạn để đưa nhau vào chốn khổ nhọc của sinh tử.”

[59] VCX thêm: “Tự tính của hết thảy phiền não cũng chính là tự tính của Tôn giả.”

[60] VCX; “Rốt ráo không có Bát-niết-bàn.”

[61] Hoá nhân 化人, Skt. nirmitaka, người hay vật được biên hoá ra do pháp thuật hay ảo thuật.

[62] VCX: “Tánh tướng của các pháp đều như huyễn hoá (Skt. māyā-nirmita-sadśṭa).

[63] DMC: Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử 富樓那彌多羅尼子; VCX: Mãn Từ Tử 滿慈子. Skt., Pūrṇa-Maitrāyaṇi-putra.

[64] Xem chth. 3 ở trên.

[65] DMC: tâm chi sở niệm. VCX: ý lạc, xu hướng và sở thích; Skt. āśaya.

[66] VCX thêm: “Đừng nhét Diệu cao (núi Tu-di) vào trong hạt cải. Đừng nhầm tiếng gầm của sư tử với tiếng tru của chó sói.”

[67] VCX thêm¨”Vì họ không thưòng xuyên tại định như Phật.”

[68] Ma-ha Ca-chiên-diên 摩訶迦旃延. VCX: Ma-ha Ca-đa-diễn-na 摩訶迦多衍那. VCS: Hán dịch là Đại Tiễn Thế Nam 大剪剃男 (Con trai người thợ cạo). Skt. Mahā-Kātyāyana.

[69] VCX: “không phải đã sinh, đang sinh, sẽ sinh; không phải đã diệt, đang diệt, sẽ diệt.”

[70] DMC: A-na-luật 阿那律; VCX: Đại Vô Diệt 大無滅. Skt. Aniruddha.

[71] VCX: “trong Đại lâm.”

[72] Am-ma-lặc quả 菴摩勒果; VCX: a-ma-lạc quả 阿摩洛果 . Triệu (Đại 38, tr.354c20) nói: “… hình dáng như quả cau. Ăn vào, trừ phong lãnh.” Skt. āmalaka, dịch là dư cam tử 餘甘子 (Mahāvyutpatti).

[73] DMC: tác tướng 作相; VCX: hành tướng 行相 Skt. ākāra (hình trạng, biểu hiện).

[74] VCX: không xả tịch định 不捨寂定

[75] VCX: nhị tướng 二相, chủng chủng tướng 種種相; hình thái nhị nguyên đối đãi, và hình thái đa thù sai biệt. Skt. dvayākāra, nānākāra.

[76] CDM, Triệu nói, “Ưu-ba-li 優波離, tiên Tần nói là Thượng Thủ 上首. Trì luật đệ nhất trong các đệ tử Phật.” VCS: “Ưu-ba-li, đây nói là Cận Chấp 近執 . Khi Phật còn là Thái tử, …Ông là quan giữ kho.”

[77] VCX: “không an trụ bên trong, cũng không xuất hiện ra ngoài.”

[78] DMC: tâm tướng 心相, VCX: tâm bản tịnh 心本淨.

[79] VCX: “Có phân biệt, có dị phân biệt, là phiền não.”

[80] DMC: tương đãi 相待 ; VCX: tương cố đãi 相顧待, quan hệ, chiếu cố lẫn nhau. Skt. āpekṣika.

[81] DMC: thiện giải 善解; (Skt. suvimukta). VCX: thiện điều phục 善調伏 (khéo tự chế ngự); Skt. suvinita.

[82] VCX có thêm: “Các Thầy chớ nghĩ tưởng vị này là Cư sỹ.”

[83] Nhạo thuyết biện tài 樂說之辯, khả năng biện luận lưu loát. Skt. pratibhāna-pratisaṃvid.

[84] DM: La-hầu-la 羅睺羅; VCX: La-hỗ-la 羅怙羅. Skt. (=Pali) Rāhula.

[85] DMC: Tì-da-li chư trưởng giả tử 毘耶離諸長者子 ; VCX: Các công tử dòng họ Licchavī 諸童子離呫毘種.

[86] DMC: lục thập nhị kiến 六十二見, Xem Trường A-hàm 14, kinh Phạm động (Đại 1, tr. 88), Cf. D.1 Brahmajāla. VCS (Đại 38, tr.1055a17): “Các kiến chấp, ở đây bao gồm cả năm kiến, trong khi Cựu dịch nêu 62 kiến chỉ thuộc biên kiến, nghĩa rất hạn hẹp.”

[87] VCX: “(xuất gia) là con đường Niết-bàn.”

[88] VCX: “vũng sình dục vọng.”

[89] CDM, Thập nói: “tùy thuận chúng sinh, không trái nghịch tâm tư của chúng.”

[90] VCX: “tùy thuận tịch chỉ, cần tu thắng quán.” Tức tu chỉ và quán (Skt. śamatha-vipaśyana).

[91] DMC: bất đoạ chư số 不墮諸數. Skt. na saṃkhyāṃ gacchati VCX: “Thân Phật là vô vi, lìa các hữu vi; vượt qua các số, vì các số vĩnh viễn tĩnh lặng.” CDM (Đại 38, tr.360a15): Triệu nói, “…số, tức hữu số 有數 (số loại hữu vi).” VCS (Đại 38, tr.1056c17): “… số, tức sinh số 生數 (= số loại thọ sinh).”

***

Chương IV. Bồ Tát

Rồi thì, Phật nói với Bồ tát Di-lặc:[2]

“Ông hãy thay Ta đến thăm bệnh Duy-ma-cật.”

Di-lặc đáp:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì sao? Nhớ lại xưa kia, có lần con đang giảng cho Thiên vương Đâu-suất[3] và quyến thuộc về sự thực hành ở địa vị bất thối chuyển,[4] Duy-ma-cật bỗng đến và nói với con: ‘Thưa Di-lặc, khi đức Thế Tôn thọ ký[5] Nhân giả còn một đời nữa sẽ chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Sự thọ ký ấy nhắm vào đời nào? Quá khứ chăng? Vị lai chăng? Hiện tại chăng? Nếu là quá khứ, thì quá khứ đã diệt. Nếu là vị lai thì vị lai chưa đến. Nếu ở hiện tại, thì hiện tại không đình trú. Như Phật đã nói: ‘Này tì kheo, ngươi nay tức thời vừa sinh, vừa già, vừa diệt.’ Nếu bằng vô sinh mà được thọ ký, thì vô sinh là chính vị.[6] Mà trong chính vị thì không có thọ ký, cũng không có sự chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Vậy làm sao Di-lặc được thọ ký còn một lần tái sinh[7]? Ấy là bằng Như[8] sinh mà được thọ ký, hay bằng Như diệt mà được thọ ký? Nếu bằng Như sinh mà được thọ ký, thì Như vốn không sinh. Nếu bằng Như diệt mà được thọ ký, thì Như vốn không diệt. Vì hết thảy chúng sinh đều là Như tính vậy. Hết thảy pháp cũng là Như tính vậy. Các Hiền Thánh cũng là Như tính vậy. Di-lặc cũng là Như tính vậy. Như vậy, nếu Di-lặc được thọ ký, thì hết thảy chúng sinh cũng đều được thọ ký. Vì sao? Vì Như vốn không hai, không khác. Nếu Di-lặc chứng đắc giác ngộ tối thượng, thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc giác ngộ tối thượng. Vì sao? Vì hết thảy chúng sinh tức là hiện tướng của Bồ-đề.[9] Nếu Di-lặc mà diệt độ, thì hết thảy chúng sinh cũng diệt độ.[10] Vì sao? Chư Phật biết rõ hết thảy chúng sinh rốt ráo tịch diệt, tức là tướng bồ-đề, không còn gì để diệt nữa.[11] Thưa Di-lặc, vì thế không nên dụ[12] chư Thiên bằng pháp này; vì thật sự không có người phát tâm bồ-đề tối thượng cũng chẳng có người thối lui. Di-lặc hãy nên khiến cho họ tránh xa những quan niệm phân biệt về bồ-đề. Vì sao? Vì bồ-đề không thể được chứng đắc bằng thân, không thể được chứng đắc bằng tâm. Tịch diệt là Bồ-đề, vì diệt các tướng.[13] Chẳng quán là Bồ-đề vì nó lìa ngoài nhân duyên.[14] Chẳng hành là Bồ-đề vì nó dứt tuyệt nghĩ tưởng.[15] Đoạn là Bồ-đề, vì xả ly các kiến. Xả ly là Bồ-đề, vì xả ly vọng tưởng.[16] Chướng là Bồ-đề, vì chướng các nguyện.[17] Chẳng nhập[18] là Bồ-đề vì không tham trước.[19] Tùy thuận[20] là Bồ-đề vì thuận với Như[21]. Trụ là Bồ-đề vì trụ Pháp-tánh.[22] Đến là Bồ-đề, vì đi đến thực tế.[23] Bất nhị là Bồ-đề, vì nó xa lìa ý và pháp.[24] Bình đẳng là Bồ-đề, vì đồng đẳng với hư không.[25] Vô vi là Bồ-đề vì không sinh, trụ, diệt.[26] Tri[27] là Bồ-đề, vì liễu tri tâm hành của hết thảy chúng sinh. Chẳng hội [28] là Bồ-đề vì các nhập[29] không hội.[30] Chẳng hiệp[31] là Bồ-đề, vì lìa tập quán phiền não.[32] Vô xứ là Bồ-đề, vì không hình sắc.[33] Giả danh[34] là Bồ-đề, vì tên gọi vốn rỗng không.[35] Như hoá[36] là Bồ-đề, vì không thủ xả. Không loạn là Bồ-đề, vì thường tịch tĩnh. Thiện tịch[37] là Bồ-đề vì tự tánh thuần tịnh. Vô thủ là Bồ-đề không thể vin nắm.[38] Vô dị[39] là Bồ, vì bình đẳng các pháp vốn bình đẳng.[40] Vô tỷ là Bồ-đề, vì không thể thí dụ.[41] Vi diệu là Bồ-đề, vì các pháp khó biết.'[42]

“Bạch Thế Tôn, Duy-ma-cật giảng xong Pháp như vậy, hai trăm thiên tử chứng vô sanh pháp nhẫn. Vì vậy con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông.”

Phật nói với Quang Nghiêm Đồng tử:

“Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.”

Quang-nghiêm đáp:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm ông. Vì, nhớ lại, có lần con đang trong thành Tỳ-da-li đi ra, gặp Duy-ma-cật ở ngoài đi vào. Con cúi chào[43] ông và hỏi: ‘Quý Cư sỹ đi đâu về?’ Ông đáp: ‘Từ đạo tràng[44] về.’ Con mới hỏi ông: ‘Đạo tràng này ở đâu?’ Ông đáp: ‘Tâm chính trực là đạo tràng, vì không hư giả. Phát hành[45] là đạo tràng, vì có khả năng biện sự. Thâm tâm[46] là đạo tràng, vì tăng ích công đức.[47] Tâm bồ-đề là đạo tràng, vì không thể sai lầm. Bố thí[48] là đạo tràng, vì không cầu đáp trả. Trì giới là đạo tràng, vì giúp hoàn thành tâm nguyện. Nhẫn nhục là đạo tràng, vì tâm vô ngại[49] đối với hết thảy chúng sinh. Tinh tấn là đạo tràng, vì lìa xa biếng nhác. Thiền định là đạo tràng, vì là tâm hài hòa dịu dàng. Trí tuệ là đạo tràng, vì thấy các pháp. Từ là đạo tràng, vì đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh. Bi là đạo tràng, vì nhẫn nại các khổ nhọc. Hỷ là đạo tràng, vì là pháp an vui khoái lạc. Xả là đạo tràng, vì dứt bỏ yêu hay ghét. Thần thông là đạo tràng, vì thành tựu sáu thần thông. Giải thoát là đạo tràng, vì hay dứt bỏ.[50] Phương tiện là đạo tràng, vì giáo hóa chúng sinh. Bốn nhiếp pháp[51] là đạo tràng, vì nhiếp chúng sinh. Đa văn là đạo tràng, vì y như điều đã nghe mà thực hành. Tâm được chế ngự là đạo tràng, vì chính quán các pháp. Ba mươi bảy phẩm là đạo tràng, vì xả bỏ các pháp hữu vi. Chân đế[52] là đạo tràng, vì không dối gạt thế gian. Duyên khởi[53] là đạo tràng, vì từ vô minh cho đến già-chết, thảy đều không cùng tận. Phiền não là đạo tràng, vì biết như thật.[54] Chúng sinh là đạo tràng, vì biết vô ngã.[55] Tất cả pháp là đạo tràng, vì biết các pháp vốn không. Hàng phục chúng ma là đạo tràng, vì không khuynh động. Ba cõi[56] là đạo tràng, vì không định hướng phải đến.[57] Tiếng sư tử hống là đạo tràng, vì là vô úy. Lực, bốn vô sở úy, bất cộng[58] là đạo tràng, vì không khuyết điểm. Ba minh là đạo tràng, vì vô ngại. Một niệm[59] biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành nhất thiết trí. Như vậy, này Thiện nam tử, Bồ tát thích ứng theo các Ba-la-mật mà giáo hóa chúng sinh, thì mọi hành vi, cho đến từng bước chân đi, nên biết, đều từ đạo tràng mà đến; an trú trong Pháp Phật vậy.’

“Duy-ma-cật giảng Pháp như vậy, năm trăm trời và người đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Vì thế con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông.”

Phật bèn nói với Trì Thế Bồ tát:[60]

“Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.”

Trì Thế đáp:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để viếng thăm ông. Con còn nhớ có lần đang ở trong tĩnh thất, khi ấy Ma Ba-tuần,[61] hình trạng như Đế Thích, xuất hiện cùng với mười hai ngàn Thiên nữ theo sau đàn hát, đi đến chỗ con. Sau khi cúi đầu đảnh lễ dưới chân con, họ chắp tay đứng sang một bên. Con tưởng đó là Đế-Thích nên nói: ‘Xin chào Kiều-thi-ca.[62] Dù ông đã thành tựu nhiều phước báo, nhưng không nên phong túng. Ông nên quán ngũ dục là vô thường để tim cầu gốc rễ thiện. Hãy tìm cầu pháp chắc thật cho thân thể, sinh mạng và tài sản này.’ Ma liền nói: ‘Thưa Đại Chánh sỹ, xin ngài nhận lấy mười hai ngàn Thiên nữ này để hầu hạ ngài, lo việc quét dọn.’ Con bảo: ‘Này Kiều-thi-ca, chớ đem cho Sa-môn họ Thích món quà phi pháp như vậy. Nó không thích hợp với tôi.’ Con chưa dứt lời thì Duy-ma-cật chợt đến và nói: ‘Nó đâu phải là Đế Thích. Nó là Ma đến quấy nhiễu ngài đấy.’ Rồi ông quay sang bảo ma: ‘Hãy cho ta các cô gái này. Như ta thì có thể nhận.’ Ma kinh sợ, nghĩ rằng, ‘Duy-ma-cật có thể gây hại ta chăng?’ Nó bèn muốn ẩn hình nhưng không được. Nó vận dụng hết thần lực cũng không thể bỏ đi được. Chợt trên không có tiếng vọng xuống: ‘Này Ba-tuần, hãy cho ông ấy các Thiên nữ thì mới có thể đi được.’ Sợ quá, Ma đành dâng hết các Thiên nữ cho Duy-ma-cật. Ông mới nói với họ: ‘Ma đã đem các ngươi cho ta. Bây giờ các ngươi hãy phát tâm cầu giác ngộ tối thượng.’

“Đoạn ông tùy chỗ thích hợp giảng Pháp cho họ nghe, giúp họ phát đạo ý. Ông bảo: ‘Các ngươi đã phát đạo ý,[63] có thể tìm thấy niềm vui nơi Pháp[64] thay vì nơi ngũ dục thế gian.’

“Họ hỏi ông: ‘Vui nơi Pháp là thế nào?’

“Ông đáp: ‘Là vui vì niềm tin Phật; vui vì được nghe Pháp; vui khi cúng dường Tăng; và vui khi bỏ được năm dục lạc trần thế;[65] vui khi thấy ra ngũ uẩn là kẻ thù, bốn đại[66] như rắn độc, các nội xứ như xóm hoang; vui khi theo đuổi và hộ trì đạo ý[67]; vui khi thấy mình có lợi cho chúng sinh; vui khi kính dưỡng minh sư; vui khi rộng rãi thực hành bố thí; vui khi kiên trì tịnh giới; vui khi nhẫn nhục khoan hòa; vui khi siêng tu thiện căn; vui khi thiền định không loạn tưởng; vui khi có tuệ sáng suốt sạch không cáu bẩn; vui khi trải rộng tâm bồ-đề; vui khi vượt thắng tà ma; vui khi nhổ gốc phiền não; vui trong đất Phật thanh tịnh; vui khi tu tập các công đức để thành tựu thân tướng tốt đẹp; vui khi làm đẹp bồ-đề đạo tràng; vui khi nghe Pháp thậm thâm mà không sợ hãi; vui trong ba cửa giải thoát;[68] không vui với phi thời tiết;[69] vui khi ngăn ngừa bằng hữu tri thức xấu; vui khi ở gần thiện tri thức;[70] vui vì tâm hoan hỷ thanh tịnh;[71] vui khi thực hành vô lượng pháp đạo phẩm. Đó là những niềm vui nơi Pháp của Bồ tát.’

“Nghe vậy, Ma bảo các Thiên nữ: ‘Ta muốn cùng các ngươi trở về chỗ của ta.’

“Các Thiên nữ nói: ‘Hãy đem chúng tôi cho Cư sỹ. Chúng tôi thấy vui nơi Chánh Pháp, chẳng còn ham muốn năm thú vui trần thế.’

“Ma nói với Duy-ma-cật: ‘Cư sỹ hãy buông thả những Thiên nữ này. Vì Bồ tát là người sẵn lòng ban cho tất cả.’

“Duy-ma-cật nói: ‘Ta nay trả hết cho ngươi và ngươi có thể mang họ đi để hết thảy chúng sinh có thể thành tựu ước nguyện đắc pháp.’

“Các Thiên nữ quay hỏi Duy-ma-cật: ‘Ở Ma cung, chúng tôi phải sống như thế nào?’

“Duy-ma-cật đáp: Này các chị, có Pháp môn được gọi là Ngọn đèn vô tận;[72] các Chị nên học. Ví như, một ngọn đèn có thể được dùng để mồi sáng hàng trăm ngàn ngọn đèn khác, do đó bóng tối sẽ được soi sáng và ánh sáng này sẽ vô tận. Cũng vậy, các Chị, một Bồ tát hướng dẫn và chuyển hóa hàng trăm ngàn người khác khiến cho họ phát tâm cầu giác ngộ tối thượng; mà Đạo ý của Bồ tát không hề tắt ngúm. Cứ mỗi lần thuyết pháp là mỗi lần tăng thêm tất cả pháp thiện cho mình. Cho nên gọi là Vô tận đăng. Dù các Chị có ở nơi cung điện của Ma, các Chị hãy nên dùng Pháp Vô tận đăng này để dẫn dắt vô lượng con trai, con gái của Trời khiến phát tâm cầu giác ngộ, vừa để báo Phật ân vừa làm lợi chúng sinh.’

“Khi ấy các Thiên nữ cúi đầu lễ dưới chân Duy-ma-cật rồi theo Ma về cung điện. Trong phút chốc, họ biến mất cả. Bạch Thế Tôn, Duy-ma-cật thần thông siêu việt, biện tài và trí tuệ như vậy, con không đủ năng lực viếng thăm người.”

Phật bảo một người con trai của trưởng giả tên Thiện Đức:[73]

“Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.”

Thiện Đức đáp:

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì nhớ lại có lần con tổ chức một đại hội bố thí[74] tại nhà thân phụ để cúng dường hết thảy Sa-môn, Bà-la-môn, các ngoại đạo, các người bần cùng, hạ tiện, cho đến cả ăn mày. Đại hội kéo dài đến bảy ngày. Khi kết thúc, Duy-ma-cật đã đến nói với con: ‘Ồ, con trai nhà trưởng giả, đại hội bố thí không phải như ông đã tổ chức. Nó phải là đại hội bố thí pháp. Đại hội bố thí vật chất như vậy có ích gì.’

“Con hỏi: ‘Thưa Cư sĩ, thế nào là Hội Pháp thí?'[75]

“Ông đáp: ‘Pháp thí không có trước cũng không có sau.[76] Trong một lúc mà cùng dường hết thảy chúng sinh. Đó là Đại hội Pháp thí.’

“Nghĩa là sao? – Con hỏi.

“Ông mới đáp: ‘Nghĩa là, vì bồ-đề mà phát khởi từ tâm; vì cứu độ chúng sinh mà khởi bi tâm; vì để duy trì Chánh pháp mà khởi hỷ tâm;[77] vì để nhiếp trí tuệ[78] mà hành xả tâm; để vượt thắng lòng tham lam bủn xỉn[79] mà khởi bố thí ba-la-mật; để giáo hoá người phạm giới mà tu giới ba-la-mật; vì vô ngã mà khởi nhẫn nhục ba-la-mật; vì lìa tướng thân tâm mà khởi tinh tấn ba-la-mật; vì Bồ-đề tướng[80] mà khởi thiền ba-la-mật; nhất thiết trí mà khởi bát-nhã ba-la-mật; vì giáo hóa chúng sinh mà khởi Không;[81] không xả hữu vi[82] mà phát khởi Vô tướng. Thị hiện thọ sinh[83] mà khởi Vô tác;[84] vì hộ trì chánh Pháp mà khởi phương tiện lực; vì cứu độ chúng sinh mà khởi bốn nhiếp pháp;[85] vì kính thờ tất cả mà quyết tâm quét sạch kiêu mạn; ở nơi thân, mạng, tài sản mà khởi ba pháp chắc thật;[86] ở trong sáu niệm[87] mà khởi pháp tư niệm; ở nơi sáu điểm hòa kính mà khởi tâm chất trực;[88] vì chân chánh tu hành pháp thiện mà khởi tịnh mạng; vì tịnh tâm hoan hỷ mà khởi lên sự gần gũi Hiền Thánh trí; vì để không ghét bỏ người xấu mà khởi lên sự chế ngự tâm; vì pháp xuất gia mà khởi thâm tâm; vì như thuyết mà hành[89] mà khởi đa văn; vì pháp vô tránh[90] mà phát khỏi đời sống nhàn tĩnh;[91] vì thú hướng Phật đạo mà phát khởi đời sống độc cư; vì cởi trói chúng sinh mà phát khởi các giai đoạn tu hành;[92] vì để được các hình tướng tốt đẹp đất Phật thanh tịnh mà phát khởi nghiệp phước đức; vì biết tâm niệm hết thảy chúng sinh để tùy nghi nói Pháp mà phát khởi nghiệp của trí;[93] vì hiểu rõ các pháp vốn không thủ cũng không xả, để thâm nhập cánh cửa nhất tướng,[94] mà phát khởi nghiệp của tuệ;[95] vì tận diệt mọi phiền não, mọi chướng ngại và bất thiện pháp, mà phát khởi tất thảy thiện nghiệp; vì chứng nghiệm tất cả trí tuệ và tất cả thiện pháp mà phát khởi các pháp trợ Phật đạo.[96] Hết thảy những điều trên, này Thiện nam tử, là Đại hội Pháp thí. Nếu Bồ tát an trú nơi Đại hội Pháp thí, đó là Đại thí chủ, và cũng là ruộng phước cho hết thảy thế gian.’

“Bạch Thế Tôn, khi Duy-ma-cật giảng Pháp này xong, trong chúng Bà-la-môn có hai trăm người lắng nghe đã phát tâm tầm cầu giác ngộ tối thượng. Bản thân con lúc đó cảm thấy tâm lắng đọng, thanh tịnh, tán thán là chưa từng có. Con bèn làm lễ bái tạ dưới chân ông và cởi ra vòng trân châu vô giá dâng tặng ông. Nhưng ông không nhận. Con nói: ‘Thưa Cư sĩ, xin ngài nhận lấy tặng phẩm này rồi muốn sử dụng sao tùy ý.’ Ông lấy vòng trân châu, chia ra hai phần, cho người ăn xin tồi tàn nhất một phần; phần kia cho đức Nan Thắng Như Lai.[97] Hết thảy chúng hội hiện diện đều có thể nhìn thấy Nan Thắng Như Lai trong quốc độ Quang minh.[98] Lúc ấy họ cũng thấy phía trên đức Phật kia nửa vòng trân châu ấy biến thành đài báu trang nghiêm trên bốn cột trụ, bốn mặt đều được trang nghiêm, rõ ràng không che khuất nhau.

“Sau thị hiên biến hóa thần kỳ này, Duy-ma-cật nói: ‘Ai bố thí cho người hành khất nghèo hèn nhất với tâm bình đẳng, là hành động không khác với phước báo của Như Lai, vì nó xuất phát từ lòng đại bi không mong đáp trả. Đó chính là viên mãn Pháp thí vậy.’

“Sau khi chứng kiến thần lực và nghe giảng Pháp của Duy-ma-cật, người hành khất thấp hèn nhất trong thành cũng đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Cho nên, con không đủ năng lực đến thăm Duy-ma-cật để vấn an sức khỏe ông.”

Các Bồ tát, từng mỗi vị, trình bày những lần gặp Duy-ma-cật như vậy, đều nói không có khả năng đi thăm bệnh ông.

*

CHÚ THÍCH

[1] CDM. Đại 38, tr.360b28; VCS. Đại 38, tr.1057b2.

[2] DMC: Di-lặc 彌勒. VCX: Tiếng Phạn là Mỗi-đát-lị-da 梅呾利耶, dịch là Từ Thị 慈氏. Xưa phiên là Xưng (Di?)-đế-lị 稱帝麗 hay Di-lặc 彌勒, thảy đều nhầm. Skt. Maitreya .

[3] Đâu suất Thiên vương 兜率天王. VCX: Đổ-sử-đa Thiên vương 睹史多天王. Skt. Tuṣita-devarājā. VCS: “Tầng thư tư trong sáu tầng trời Dục giới. Đây dịch là Tri túc 知足. Nghĩa là, hưởng thụ các dục lạc nhưng biết đủ một cách sâu xa.” Pali: cõi trời Tusita. Thiên vương ở đây là Santusita (D.i. 218; A. iv. 243). Bồ tát Mettaya, Phật tương lai, hiện ở trên cung trời Tusita, với danh hiệu là Nathadeva (Skt. Maitreyanātha)

[4] CDM (Đại 38, tr.360c20), Thập nói: “Tức là vô sinh pháp nhẫn.” VCS: “… Hoặc đây chỉ Pháp yếu thuộc giai đoạn của phát luân bất thối ở địa thứ tám (Bất động địa).” Skt. avivartika-bhūmi/ avinivartanīya-dharmā.

[5] Thọ ký 授記. Skt. vyākaraṇa, cũng dịch là ký thuyết 記說, ký biệt 記別; nguyên nghĩa,chỉ sự xác nhận của Phật về chỗ tái sinh của một Thánh đệ tử. Ở đây, nói đủ là thọ a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề ký 授 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 記, dự ngôn của Phật về sự thành Phật trong tương lai của Thánh đệ tử hay Bồ tát.

[6] CDM, Thập nói: “Thật tướng thường định, nên nói là chính vị.” VCX: sở nhập chính tính 所入正性. VCS. “Nhập tức là chứng. Chính tính, là chân tính của pháp.” Skt. samyaktvaniyāmāvakrānta Câu-xá 23 (Đại 29, tr. 121b4); “Kinh nói, chính tính là Niết-bàn.” Chỉ trạng thái từ địa vị phàm phu bước vào địa vị Thánh giả.

[7] DMC: nhất sinh 一生. VCX nhất sinh sở hệ . Skt. ekajātibaddha.

[8] Như 如, tức chân như. Skt. tathatā. Cf. Đại Bát-nhã 447 (Đại 7, tr. 252a7): “Hoặc Chân như của sắc, hoặc Chân như của Trí nhất thiết trí, hoặc Chân như của tất cả pháp; thảy đều là một Chân như, không hai, không khác, cũng không cùng tận …” Cf. Tiểu phẩm Bát-nhã 5 (Đại 8, tr. 558b13): “Tu-bồ-đề,… Như (tính) của năm uẩn tức thị Như (tính) của hết thảy pháp. Như của hết thảy pháp tức thị Như của Tu-đà-hoàn. Như của Tu-đà-hoàn là Như của Tư-đà-hàm… Như của Bích-chi-phật đạo là Như của Như Lai. Các Như ấy đều là một Như, không hai, không khác, vô tận, vô lượng.”

[9] Bồ-đề tướng 菩提相. VCX: “Bồ đề (bodhi), là điều được giác tri (anubuddha) một cách đồng đẳng bởi tất cả hữu tình.”

[10] VCX: bát-niết-bàn.

[11] VCX: “Tính tịch tĩnh tự bản chất của hết thảy hữu tình tức là yếu tính của Niết-bàn, vì vậy Phật nói Chân như là Bát-niết-bàn.”

[12] CDM, “Thập nói: Dụ 誘, bản Phạn nói là cuống 誑 (dối gạt).” Jhuy Cơ giải: “Dạy người sơ học, gọi là dụ.”

[13] VCX: “Vì tướng của hết thảy hữu tình, hết thảy pháp thảy đều tịch diệt.”

[14] VCX: “Không tăng (gia) là bồ-đề, vì hết thảy sở duyên (đối tượng) vốn không tăng ích.” Khuy Cơ (T38n1782_p1059c05) giải thích: “Ngã và pháp, khi là đối tương cho nhận thức, thì có sự tăng gia. Chân lý thì không như vậy… Cựu dịch bất quán 不觀, vì không thể quán sát bằng tâm biến kế.”

[15] Bất hành… vô ức niệm 不行… 無憶念. VCX: “Vì hết thảy hý luận, hết thảy tác ý đều không (hiện) hành.”

[16] VCX: xả ly các thủ trước.

[17] CDM, “Triệu nói: Đạo chân chính là vô dục, vì ngăn cản các nguyện cầu.” Bản La-thập hình như có nhảy sót. Đối chiếu VCX: “ly hệ 離繫 là Bồ đề vì vĩnh viễn dứt lìa hết thảy các pháp động loạn. Tịch tĩnh là Bồ đề vì hết thảy phân biệt hoàn toàn vắng bặt. Quảng đại là Bồ đề, vì hết thảy hoằng nguyện đều không thể trắc lượng.” Có lẽ nguyên Skt. trong bản La-thập là nīvaraṇa (chướng ngại), trong bản Huyền Trang là nirāvaraṇa (ly chướng).

[18] DMC: bất nhập 不入. VCX: bất tránh 不諍. VCS: bất chứng 不證.

[19] VCX: “Hết thảy thủ trước, hết thảy tranh luận đều xa lìa.”

[20] VCX: tùy chí 隨至 , đến theo sau; Skt. anvāgata. Khuy Cơ (T38n1782_p1059c27) giải: “Trí an trụ pháp giới. Đi theo Chân như mà đến chỗ cùng cực.”

[21] VCX: chân như. Skt. tathatā.

[22] VCX: trụ pháp giới.

[23] VCX: “kiến lập là Bồ đề vì kiến lập thật tế.”

[24] VCX: “vì xa lìa pháp tính sai biệt.”

[25] VCX: “vì con mắt và sắc, cho đến ý và pháp, thảy đều bình đẳng như hư không.” So với đoạn này, hình như trong bản dịch La-thập có bị nhảy sót.

[26] VCX: sinh, trụ, dị, diệt.

[27] VCX: biến tri. Skt. parijñā, nhận thức toàn diện hay tường tận. Cf. Câu-xá 22 (Đại 29, tr. 112a17): biến tri có hai: trí biến tri (jñānaparijñā) và đoạn biến tri (prahānaparijñā). Trí biến tri (nhận thức toàn diện bằng trí tuệ) tức là trí vô lậu (anāsrava jñāna).”

[28] Bất hội 不會. VCX: “Vô gián 無間 là Bồ đề, vì không bị xen tạp bởi sáu nội xứ.” Khuy Cơ: “Cựu dịch là bất hội. Có thể nhầm lẫn.”

[29] Các nhập; VCX: sáu nội xứ (Skt. saḍ adhyāmikāny āyatanāni).

[30] VCX: không tạp.

[31] Bất hiệp 不合. VCX: vô tạp 無雜. Khuy Cơ: “Trí thể vô lậu không bị xen tạp bởi phiền não.”

[32] Phiền não tập 煩惱習. VCX: tập khí của tương tục phiền não.

[33] VCX: “vì trong Chân như, hết thảy phương vị, xứ sở đều xa lìa.” VCX còn thêm: “ Vô trụ là Bồ đề, vì không thể thấy trong tất cả xứ.”

[34] Giả danh 假名. VCX: duy danh 唯名. Skt. nāma-mātra.

[35] VCX: “vì danh tự không có tác dụng đối với Bồ đề.”

[36] Như hoá. CDM: “Triệu nói, như cái vô tâm của con người huyễn hoá (Skt. nirmitaka).” VCX: không gợn sóng 無浪. (Skt. nistaraṅga).

[37] Thiện tịch 善寂. Skt. suśānta, hoàn toàn (phi thường) tĩnh lặng.

[38] Phan duyên 攀緣. Skt. ālamba.

[39] Vô dị, không dị biệt, tức đồng nhất tính. Skt. ananya.

[40] VCX: “Vì tính bình đẳng của các pháp được chứng giác.”

[41] VCX nói ngược lại: “Không có thí dụ là Bồ đề, vì không thể so sánh.”

[42] VCX còn thêm một đoạn nữa: “Biến hành (phổ biến, phổ quát) là Bồ dề, vì tự tính phổ biến như hư không. Lên đến đỉnh cao là Bồ đề, vì là tối thượng thủ của tất cả pháp. Vô nhiễm là Bồ đề, vì hết thảy thế pháp không thể làm cho nhiễm ô. Như vậy, Bồ đề không được chứng bởi thân, không được chứng bởi tâm.”

[43] Tác lễ. Khuy Cơ (VCS, Đại 38, tr.1060c8): “Đoạn trên, Duy-ma-cật cúi chào Di-lặc; vì Di-lặc hiện thân tướng xuất gia. Ở đây, Thiếu niên Quang Nghiêm cúi chào Duy-ma-cật; vì Quang Nghiêm hiện thân tướng thế tục. Người nhỏ tuổi cúi chào người lớn tuổi hơn.”

[44] Đạo tràng 道場(Skt. bodhimaṇḍa.); VCX: diệu Bồ đề 妙菩提. Khuy Cơ: “Bồ đề.. là tuệ, thông cả nhân và quả. Cựu dịch là đạo tràng, hiển bày nhân Bồ đề. “

[45] VCX: phát khởi gia hành 發起加行. Skt. prayoga-prasthāna.

[46] VCX: tăng thượng ý lạc 增上意樂. Skt. adhy-āśaya, ý hướng, ước vọng, nguyện vọng.

[47] VCX: “Vì rốt ráo chứng hội pháp thù thắng.”

[48] VCX: thanh tịnh bố thí.

[49] VCX: tâm không sân nhuế. Skt. pratighāta, có nghĩa sân hại; cũng có nghĩa hay gây trở ngại.

[50] Bội xả 背捨. CDM: giải thoát ở đây chỉ tám giải thoát, cũng gọi là tám bộ xả (Skt. aṣṭau vimokṣāḥ), xem Trường A-hàm 10 (Kinh Chúng tập, Đại 1, tr. 52b12); Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii. tr.261: aṭṭha vimokkhā. VCX: vì lìa phân biệt động 分別動. Skt. vikalpa-vikṣepa.

[51] Bốn nhiếp pháp, hay bốn nhiếp sự . Skt. catvāri saṅgraha-vastāni, bốn nền tảng cho sự đoàn kết.

[52] CDM: đế 諦, trong Tiểu thừa là bốn Thánh đế. Trong Đại thừa, là một đế, tức Thật tướng. Skt. satya: sự thật.

[53] VCX: mười hai duyên khởi.

[54] Tri như thật 知如實. VCX: như thực hiện chứng chân pháp tính 如實現證真法性.

[55] VCX: vì dụng tự tính làm vô ngã.

[56] VCX: “Không lìa ngoài ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc giới).”

[57] Vô sở thú 無所趣. VCX: phát thú sự 發趣事, mục đích hướng đến.

[58] Đây chỉ mười lực, bốn vô sở úy và mười tám pháp bất cộng của Phật.

[59] VCX: một sát-na tâm . Skt. ekakṣaṇa/ cittakṣaṇa.

[60] Bồ tát Trì Thế 持世. Skt. Lokadhāra (hoặc Lokadhātṛ).

[61] Ma Ba-tuần 魔波旬. CDM, Triệu nói: “Ba-tuần, tiên Tần gọi là Sát giả hay Cực ác, vì là nguyên nhân đoạn thiện căn, và tội lớn nhất là chống Phật, nhiễu loạn Tăng.” VCX: ác ma oán 惡魔怨. Skt. Māra-Papiyas.

[62] Kiều-thi-ca 憍尸迦. Skt. Kauṣika. CDM, “Thập nói: Kiều-thi là họ, tên chữ là Ma-ca-đà (Skt. Maghavā).”

[63] Đạo ý 道意. VCX: vô thượng chính đẳng giác tâm 無上正等覺心.

[64] Pháp lạc 法樂. VCX: đại pháp uyển lạc 大法苑樂 (lạc thú trong khu vườn pháp vĩ đại). VCS (Đại 38, tr.1062c29): “Đó là Chân như thanh tịnh. Nhân bởi pháp này mà sinh lạc, nên nói là đại pháp uyển lạc.”

[65] VCX có thêm hai lạc: “vui vì vĩnh viễn xuất ly ba cõi; vui vì không còn y trú nơi các sở duyên (tức không còn lệ thuộc các đối tượng ngoại giới).”

[66] Đối với các giới 界; Khuy Cơ (VCS), đây chỉ 18 giới (dhātu), phù hợp ngữ cảnh (uẩn, xứ, giới).

[67] Đạo ý 道意. VCX: Bồ đề tâm 菩提心.

[68] Bản dịch La-thập nhảy một đoạn so với VCX: “Vui vì chính thực hướng đến đối tượng là Niết-bàn. Vui vì không quán sát khi không đúng thời.”

[69] Bản La-thập nhảy một đoạn, VCX: “Vui vì thấy công đức nơi đồng loại sinh nên thường gần gũi. Vui vì bỏ qua lỗi lầm nơi dị loại sinh mà không ghét, không hận.” VCS giải thích: “Đồng loại sinh 同類生 (Skt. sabhāga-jāti?), đồng loại với những người tu phạm hạnh xuất thế.”

[70] Bản La-thập nhảy một đoạn, VCX: “Vui vì khéo vận dụng phương tiện thiện xảo.”

[71] VCX: “Vui vì ở nơi các pháp mà có tín hoan hỷ.”

[72] Vô tận đăng 無盡燈. VCST38n1782_p1065c23 : “Vì để sự lưu truyền Chánh pháp không bị gián đoạn mà nói Vô tận đăng.”

[73] Trưởng giả tử Thiện Đức 長者子善德. VCX: Tô-đạt-đa 蘇達多. Skt. Sudatta gṛhaptiputra; Cùng tên với Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍada). VCS: “Tô-đạt-đa, đây nói là Thiện Thí 善施 , vì hay giúp đỡ những người cùng khổ.”

[74] Đại thí hội 大施會 . VCX: Đại tự hội 大祠會. CDM, “Thập nói, Đại thí hội có hai loại: 1. Chỉ bố thí chứ không dùng lễ pháp (tức nghi thức tế tự); 2. tổ chứ tế tự theo nghi thức ghi trong các sách ngoại đạo, kiêm cả việc bố thí.” Skt. mahāyajña, đại tế đàn, co 5 loại: bhūta-yajña (hiến tế sinh vật), manuṣya-yajña (hiến tế con người), pitṛ-yajña (tế tự tổ tiên), deva-yajña (tế tự chư thiên), brahma-yajña (tế tự phạm thiên). Đề cập ở đây là loại thứ ba, tế tự để dâng cúng các Tổ phụ.

[75] Pháp thí hội 法施會. VCX.: pháp thí tự hội 法施祠會, Đại tế đàn (hiến tế) bằng sự bố thí. Skt. dharmadāna-yajña, hay dharma-yajña, nguyên chỉ tế đàn hay lễ hiến sinh không máu; theo nghĩa đen, ở đây chuyển thành lễ hiến sinh bằng sự bố thí pháp.

[76] CDM, “Thập nói: Sự phân phát tài vật phải theo thứ tự kẻ trước người sau. Không thể phát một lần cho tất cả.”

[77] VCX: Vì hành tướng (trạng thái) tùy hỷ của các hữu tình mà dẫn phát đại hỷ.”

[78] VCX: “Vì hành tướng tích hợp trí tuệ để hộ trì Chánh pháp…”

[79] VCX: “Vì hành tướng tịch tĩnh điều phục…”

[80] VCX: “Bằng hành tướng của giác chi tối thắng…”

[81] VCX: tu Không 修空, và tiếp theo sau: tu Vô tướng 修無相 , tu Vô nguyện 無願; tức tu ba giải thoát môn.

[82] VCX: “Bằng hành tướng đối trị tất cả hữu vi…”

[83] VCX: “Bằng hành tương của sự tái sinh do cố tác ý…”

[84] VCX: vô nguyện.

[85] VCX: “Bằng hành tướng của sự tu tập bốn nhiếp sự mà dẫn phát mạng căn.”

[86] Thân, mạng và tài sản, nếu thuộc xuất thế vô lậu, là ba pháp chắc thật.

[87] VCX: sáu tùy niệm (Skt. saḍ anusmṛtayaḥ). Tức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới và niệm chư thiên.

[88] VCX: “Bằng hành tướng của sự tu tập các pháp tịnh diệu mà dẫn phát ý lạc.”

[89] VCX: “Bằng hành tướng của sự thường tu tập trung đạo…”

[90] Skt. araṇā-vihārin, chị vị đắc vô tránh tâm muội, đồng thời cũng chỉ vị chỉ sống ẩn cư trong rừng.

[91] Không nhàn xứ 空閑處. VCX: a-luyện-nhã xứ 阿練若處 . VCS (T38n1782_p1067a19), “A-luyện-nhã xứ 阿練若處 (Skt. araṇyātana), đây gọi nhàn tịch sở 閑寂所. Cựu dịch là a-lan-nhã 阿蘭若. Tức chỗ trống vắng cách thôn xóm trên 2 dặm. Sống ở đây, không cùng vật đua chen, có thể tu vô tránh.”

[92] Tu hành địa 修行地. VCX: du-già sư địa 瑜伽師地, chỉ trình độ tu tập. Skt. yogācārabhūmi.

[93] Trí nghiệp 智業. Triệu nói, “Đại thừa vạn hạnh phân làm 2 nghiệp. Lấy trí để nêu hành, lập riêng trí nghiệp. Các tùy tùng của hành lập chung làm đức nghiệp.” VCX: quảng đại diệu trí tư lương 廣大妙智資糧 (chất liệu cho trí quảng đại).

[94] Nhập nhất tướng môn . VCX: nhất chính lý môn ngộ nhập 一正理門悟入.

[95] Tuệ nghiệp 慧業. VCX: quảng đại diệu trí tư lượng 廣大妙慧資糧 (chất liệu cho tuệ quảng đại). VCS (T38n1782_p1067b03), “ Trí (jñāna) là ba-la-mật thứ mười. Trí này có hai: 1. thọ pháp lạc; 2. thành hữu tình…Tuệ (prajñā), là ba-la-mật thứ sáu, tuệ vô sai biệt.”

[96] VCX: Bồ-đề phần pháp.

[97] Nan Thắng Như Lai 難勝如來. Skt. Durjaya-tathāgata.

[98] Quang minh quốc độ 光明國土. VCX: Dương diệm thế giới 陽焰世界. VCS: “Thế giới hư huyễn, cho nên nói là Dương diệm.”

***

    Xem thêm:

  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – HT Thích Duy Lực dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Thích Huệ Hưng dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm – HT Thích Thanh Từ dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng