Kinh Hải Long Vương

Phật Thuyết Hải Long Vương Kinh

Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 1: HẠNH

Nghe như vầy:

Một thuở, Đức Phật ở trên núi Linh thứu tại thành Vương xá cùng với chúng đại Tỳ-kheo gồm tám ngàn vị, một vạn hai ngàn vị Bồ-tát và tất cả đại Thánh từ mười phương đến hội đủ. Các vị ấy đầy đủ cả đức, được các tổng trì, hiểu biết rộng rãi, biện tài chí chân, giải quyết được tất cả nghi ngờ, vào đại thần thông, phân biệt nghĩa tuệ các Độ vô cực, qua đến bờ kia, bậc Khai sĩ thông suốt, định ý chánh thọ, các Đức Phật ngợi khen, đi khắp mọi khu vực khác, đi bằng thần túc, hàng phục hóa độ chúng ma, phân biệt các pháp biết đúng như nguồn gốc chân thật, nhìn thấy căn nguyên của tất cả chúng sinh, tích lũy đạo phẩm, ở trong tám pháp của thế gian mà không chấp trước, dùng đại Từ bi trang nghiêm thân miệng ý, mặc áo giáp vô cực, vượt qua đại tinh tấn ở vô số kiếp mà chẳng chán mệt, làm tiếng gầm sư tử khai hóa ngoại đạo, dùng không thoái chuyển in dấu ấn chân như, hiểu rõ pháp tạng thâm yếu của chư Phật.

Những vị ấy tên là Bồ-tát Sơn Quang, Bồ-tát Tuệ Sơn, Bồ-tát Đại Minh, Bồ-tát Tổng Trì Sơn Cương, Bồ-tát Sơn Khải Vương, Bồ- tát Sơn Đỉnh, Bồ-tát Sơn Tràng, Bồ-tát Sơn Vương, Bồ-tát Thạeh Ma Vương, Bồ-tát Lôi Âm, Bồ-tát Vũ Vương, Bồ-tát Bảo Vũ, Bồ-tát Bảo Anh, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Bảo Minh, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Bảo Đỉnh, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Xướng, Bồ-tát Bảo Nghiêm, Bồ-tát Bảo Thủy, Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Bảo Khải, Bồ-tát Bảo Hiện, Bồ-tát Bảo Tạo, Bồ-tát Lạc Nghiêm Pháp, Bồ-tát Tịnh Vương, Bồ-tát Nghiêm Đỉnh Tướng, Bồ-tát Kim Quang Sức, Bồ-tát Bảo Kế, Bồ-tát Thiên Quân, Bồ-tát Thiên Quang, Bồ-tát Nguyên Diệm, Bồ-tát Chiếu Muội, Bồ-tát Nguyệt Biện, Bồ-tát Phát Ý Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Kim Quang Tịnh, Bồ-tát Thường Thí Vô Úy… một vạn hai ngàn vị Bồ-tát, công đức đều như vậy.

Ở trong kiếp Hiền, Đại sĩ Di-lặc với sáu mươi đại thánh như Nhuyễn Thủ… và mười sáu vị Chánh sĩ giải thoát phiền não chẳng thể nghĩ bàn… Đế Thích, Tứ Thiên vương cùng dân chúng cõi trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Bất kiêu lạc, trời Hóa tự tại, Đạo sư Ma tử, vua trời Phạm, vua trời Phạm tịnh, vua trời Thiện phạm, vua trời Phạm cụ túc, trời Đại thần diệu, trời Tịnh cư, trời Ly cấu quang cho đến trời Nhất thiện, trời Yến cư, trời Vô thiện thần… Họ đều cùng với sáu vạn quyến thuộc, vua thần Sơn thọ với bốn vạn hai ngàn quyến thuộc, vua thần lực sĩ, còn tên là Trì Hoa với ba vạn hai ngàn quyến thuộc cùng với thần Hương âm, vua rồng Vô phần cùng với bảy vạn hai ngàn các rồng, vua chim cánh vàng bốn phương và tất cả các đại tôn thần khác…Trời, rồng, quỷ thần, thần Vô thiện, vua thần Phượng hoàng, vua thần Sơn thọ, thần Điềm nhu… đều cùng với quyến thuộc đi đến chỗ Đức Phật cúi đầu lễ bái xong đứng sang một bên. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, làm lễ Đức Phật, rồi đều ngồi sang một bên.

Khi đó, Đức Phật cùng với ngần ấy trăm ngàn chúng theo hầu vây quanh. Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử cao rộng mà chư Thiên đã nghiêm tịnh, vì bốn bộ chúng giảng nói pháp. Đức Phật ở giữa chúng như núi chúa sừng sững, rực sáng hiện lên ở biển cả, đức Ngài vượt chư Thiên, thế gian, không ai sánh nổi, ánh sáng lồng lộng không đâu chẳng soi đến. Khi uy lực của Đức Như Lai ứng biến thì ở không trung hóa ra lọng báu với mọi thứ báu trang sức xen nhau chè khắp bốn phương, vô số trăm ngàn chuỗi ngọc buông xuống, ánh sáng ngọc báu xanh vàng đỏ trắng sáng sạch soi khắp hư không, ánh sáng của ngọc, từ ngọc phát ra, màu sắc của nó nhiều không lường, chẳng thể xưng kể, mưa xuống những hoa thơm, hoa ngập đến đầu gối, ở trong hư không phát ra tiếng sấm lớn, mưa xuống đủ loại hương quý. Đến đây, Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, nương Thánh chỉ Đức Phật, hỏi Đức Phật:

-Sự cảm động hôm nay con chưa từng nghe thấy! Đây là điềm lành gì?

Đức Phật dạy:

-Này Mục-liên! Hôm nay, Long Vương muốn đến yết kiến Phật nên trước hiện điềm lành này.

Lời Đức Phật chưa xong, tức thời Long Vương cùng bảy mươi hai ức thể nữ, tám mươi tư ức quyến thuộc đều mang theo hoa thơm, cờ phướn, lọng, trăm ngàn nhạc cụ đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu xong, nhiễu quanh bảy vòng, đem đồ mang theo của từng người tung lên trên Đức Phật và tấu âm nhạc cúng dường, rồi cùng với quyến thuộc trong cung đều đứng trước Đức Phật, dùng kệ khen:

Thí từ xót thương đời

Cùng mắt đời thị hiện

Tuy sinh ở thế gian

Như hoa sen không đắm.

Thí yên ổn thế gian

Ở đời soi ba đời

Hiểu pháp như mặt trời

Cúi lạy Đấng Tối Thượng

Mười lực vượt thí, giới

Quyến thuộc tự điều phục

Thiêu trừ tối trần lao

Điều chúng như ngựa thuần.

Ban cho bảy của lớn

Chúng sinh thêm ân từ

Làm cha mẹ tất cả

Cúi lạy Đấng Phước Điền

Tướng chặng mày sáng chói

Như mặt trời sáng trong

Người ở trên trời Phạm

Không thể nhìn đỉnh Ngài.

Mặt Phật phát hào quang

Nhờ ánh sáng được yên

Soi khắp trăm ngàn nước

Tận cùng ngục Vô gián

Lời êm dịu vô cực

Nghi kết giải quyết thông

Tiếng thanh tịnh vô cấu

Cùng khắp trời, thế gian

Trừ tham,sân, si tối

Soi bằng ánh trí tuệ

Cho an khiến hoan hỷ

Và thị hiện giải thoát.

Hiểu thông suốt ba đời

Sánh cầu không ai bằng

Người biết hạnh chúng sinh

Rõ con đường ác lành.

Quan sát căn nguyên người

Cùng lúc đều nhìn thông

Mở lòng khiến giải thoát

Cúi lạy Đấng Tuệ Thượng

Các ma trăm ngàn ức

Đến đây, cầu Thế Tôn

Uy thần, nguyện công đức

Hàng phục, hóa tâm tà.

Chẳng sân, chẳng nhàm chán

Lực Từ bi dẫn đường

Cúng dường Đấng Tôn Quý

Ai dám lười, kiêu căng?

Quán pháp không thật có

Ví chúng như hư không

Như chớp, mù, bèo bọt

Huyễn hóa, cùng sóng nắng

Vốn không, duyên nhau có

Xé không ngã, ngã sở

Tuệ bày pháp sinh tử

Nên chớ chẳng cúng dường.

Sở dĩ vô số kiếp

Ức ức kiếp tu hành

Cúng dường hàng ức vạn

Chẳng thể kể Thế Tôn.

Bố thí, Trì giới, Nhẫn

Tinh tấn, Thiền định, Tuệ

Nguyện Ngài đã đầy đủ

Cúi lạy Đấng Đại Hùng.

Đến đây, vua rồng biển nói kệ khen Đức Phật này xong, ở trước Đức Phật bạch rằng:

-Con có điều muốn thưa hỏi! Nếu Ngài cho phép thì con mới dám trình bày!

Đức Phật nói:

-Điều ông hỏi, nếu có nghi ngờ thì Như Lai sẽ vì ông giảng nói đầy đủ!

Long Vương thấy Đức Phật cho phép thì mừng rỡ hỏi:

-Sao gọi là Bồ-tát trừ các đường ác?

-Sao gọi là Bồ-tát vượt ra các nạn?

-Sao gọi là Bồ-tát sinh chư Thiên, nhân gian?

-Sao gọi là Bồ-tát chẳng lìa các Đức Phật?

-Sao gọi là Bồ-tát được gặp bạn lành?

-Sao gọi là Bồ-tát thường trụ yên ổn?

-Sao gọi là Bồ-tát luôn dốc lòng tin?

-Sao gọi là Bồ-tát nhiều hoan hỷ hộ trì?

-Sao gọi là Bồ-tát tế độ mọi nhân duyên?

-Sao gọi là Bồ-tát lớn thêm thiện pháp?

-Sao gọi là Bồ-tát vui mừng tạo cội gốc đức?

-Sao gọi là Bồ-tát luôn vui với nghĩa?

-Sao gọi là Bồ-tát chẳng nhiễm trước năm ấm?

-Sao gọi là Bồ-tát luôn ưa thích pháp?

-Sao gọi là Bồ-tát vui với pháp lạc?

-Sao gọi là Bồ-tát nghe không chán?

-Sao gọi là Bồ-tát thưa thỉnh việc lợi ích quán sát nghĩa?

-Sao gọi là Bồ-tát nghe có thể phụng hành?

-Sao gọi là Bồ-tát đủ đức xuất gia?

-Sao gọi là Bồ-tát lìa chỗ ở thuận với giới?

-Sao gọi là Bồ-tát bỏ gánh nặng?

-Sao gọi là Bồ-tát thường ở dưới gốc cây?

-Sao gọi là Bồ-tát ưa chỗ nhàn tịnh?

-Sao gọi là Bồ-tát ở chỗ yên một mình?

-Sao gọi là Bồ-tát lìa các dua nịnh?

-Sao gọi là Bồ-tát đủ tuệ xuất gia?

-Sao gọi là Bồ-tát vào pháp thâm yếu?

-Sao gọi là Bồ-tát quán pháp như huyễn?

-Sao gọi là Bồ-tát chẳng rơi vào đoạn kiến?

-Sao gọi là Bồ-tát chẳng rơi vào thường kiến?

-Sao gọi là Bồ-tát vượt pháp nhân duyên?

-Sao gọi là Bồ-tát vượt các tà kiến?

-Sao gọi là Bồ-tát thần thông tự an lạc?

-Sao gọi là Bồ-tát được sáu thông?

-Sao gọi là Bồ-tát được tuệ thông

-Sao gọi là Bồ-tát lậu tận thần đạo?

-Sao gọi là Bồ-tát hiện Từ bi không ngăn ngại?

-Sao gọi là nhận thức của Bồ-tát không ngại?

-Sao gọi là Bồ-tát hiểu rõ sự vận hạnh của tâm chúng sinh?

-Sao gọi là Bồ-tát tạo tác không chán đủ?

-Sao gọi là Bồ-tát phân biệt lời dạy bảo cho người giáo hóa?

-Sao gọi là Bồ-tát hàng phục ma oán?

-Sao gọi là Bồ-tát lìa khỏi các sợ sệt?

-Sao gọi là Bồ-tát ngăn người thoái chuyển?

-Sao gọi là Bồ-tát được không thoái chuyển?

-Sao gọi là Bồ-tát chứng được Nhẫn bất khởi?

-Sao gọi là Bồ-tát qua khỏi các tịnh?

-Sao gọi là các hạnh Bồ-tát thanh tịnh?

-Sao gọi là Bồ-tát được Đức Thế Tôn thọ ký?

Đức Phật khen:

-Hay thay, hay thay! Này Hải Long vương! Chỉ có ông mới hỏi Như Lai những nghĩa như thế này! Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ những vấn đề đó!

Long vương thưa:

-Thưa vâng, Đức Thế Tôn! Con nguyện ưa muốn nghe!

Đức Phật dạy rằng:

-Bồ-tát có bốn việc bỏ các đường ác! Những gì là bốn?

1. Bồ-tát, tâm không làm hại.

2. Đối với chúng sinh luôn hộ trì mười đức.

3. Chẳng nói sai sót của người cũng chẳng khinh mạn.

4.Tự xét lỗi mình chẳng nói cái xấu của kẻ khác.

Đó là bốn.

Lại có bốn việc vượt qua các nạn. Những gì là bốn?

1. Thường khen Tam bảo, Phật, Pháp, Thánh chúng.

2. Có người ưa pháp mà chẳng nhiễu loạn.

3. Chẳng tạo sự nghi ngờ cho người.

4.Có kẻ do dự thì mở đường dẫn lối cho họ.

Đó là bốn.

Lại có bốn việc sinh lên chư Thiên, nhân gian. Những gì là bốn?

1. Chẳng bỏ tâm đạo

2. Lại dạy người khác cũng chẳng hủy giới.

3. Tâm nguyện thanh tịnh.

4. Vì người nói kinh mà phát tâm Từ bi lớn.

Đó là bốn.

Lại có tám việc chẳng lìa khỏi chư Phật. Những gì là tám?

1. Thường nhớ nghĩ chư Phật.

2. Cúng dường Như Lai.

3. Khen ngợi Thế Tôn.

4. Tạo hình tượng Đức Phật.

5. Khuyến hóa chúng sinh khiến cho họ thấy Như Lai.

6. Hướng về phương hướng nghe có danh hiệu Phật. Nguyện sinh về nước Phật đó.

7. Chí chẳng khiếp nhược.

8. Thường ưa chánh tuệ vi diệu của Phật.

Đó là tám việc.

Lại có bốn việc được gặp bạn lành. Những gì là bốn?

1. Chẳng kiêu mạn, không dua nịnh.

2. Thường thêm cung kính.

3. Lời nói thuận nhu hòa mà chẳng tự đại.

4. Thường nhận lấy lời dạy bảo.

Đó là bốn việc.

Lại có ba việc luôn ở chỗ yên ổn. Những gì là ba?

1. Chẳng cứng nhắc chẳng tạo tác mà chẳng dua nịnh.

2. Trừ các tham, ganh ghét.

3. Thấy người được cung cấp thay họ vui mừng.

Đó là ba việc.

Lại có năm việc thường dốc lòng tin. Những gì là năm?

1. Thông đạt ưa lực giải thoát.

2. Tích chứa lực công đức.

3. Nhập vào lực báo ứng.

4. Noi theo lực đạo tâm.

5. Đem theo lực ngự pháp.

Đó là năm việc

Lại có hai việc nhiều chỗ hoan hỷ hộ trì. Những gì là hai?

1. Chẳng xả hoan hỷ.

2. Chẳng ở tại sân hận.

Đó là hai việc

Lại có hai mươi việc hộ trì mọi nhân duyên. Những gì là hai mươi?

1. Luôn tin lời Phật dạy.

2. Chẳng chấp trước duyên khác.

3. Việc mình làm tự bảo hộ.

4. Người khác làm người khác chịu.

5. Pháp pháp tương ưng.

6. Pháp pháp soi nhau.

7. Thiện ác báo ứng.

8. Không loạn chẳng thuận.

9. Lòng không tưởng niệm.

10. Không ngã không nhân.

11. Đều không thật có.

12. Cũng không qua lại.

13. Không chỗ đi về.

14. Trừ nhân duyên quả báo.

15. Do tội phước an nguy.

16. Hộ trì các duyên.

17.18.Các Đức Phật Thế Tôn đều do thanh tịnh mà thành đạo.

19.20.Trừ mọi việc ác nên chúng ta tu hành gốc thiện.

Đó là hai mươi việc.

Lại có hai việc lớn thêm pháp lành. Những gì là hai?

1.Biết đến ba phẩm.

2. Tu hành không buông lung.

Đó là hai việc.

Lại có hai việc nữa. Những gì là hai?

1. Vui mừng tạo cội gốc đức.

2. Cũng chẳng tưởng đến báo đền.

Đó là hai việc.

Lại có năm việc thường vui với nghĩa. Những gì là năm?

-Chẳng đắm trước sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đó là năm.

Lại có năm việc luôn ham thích pháp. Những gì là năm?

-Chẳng tham sắc, thọ cho đến được trí tuệ, ủng hộ tất cả. Đó là năm.

Lại có sáu việc luôn vui với pháp. Những gì là sáu?

1. Vui với năm căn, chẳng ưa năm dục.

2. Thường vui pháp hội, chẳng ưa bàn luận về thế gian.

3. Ưa giảng nói kinh, chẳng ưa ăn mặc

4. Thường ưa quán pháp, chẳng ưa bất tịnh.

5. Ưa tu theo pháp, chẳng ưa văn tự.

6. Pháp của Phật, chẳng ưa pháp của Thanh văn, Duyên giác.

Đó là sáu việc.

Lại có tám việc ưa thích pháp lạc. Những gì là tám?

1.Ưa giảng Phật đạo, chẳng ưa thấp hèn.

2.Ưa độ vô cực, chẳng ưa đạo Thanh văn, Duyên giác.

3. Ưa khen bốn ân, chẳng ưa phi pháp

4. Ưa đại từ bi, chẳng ưa việc đời

5. Ưa nói đại đạo, chẳng ưa pháp đầu tiên hay cuối cùng

6. Ưa giảng gốc duyên khởi pháp sâu xa, chẳng ưa thường, vô thường, ngã, nhân, thọ mạng.

7. Pháp chân đế Không, Vô thường, Vô nguyên, chẳng ưa hý luận lìa tưởng phóng dật.

8.Ưa cõi nước Phật trang nghiêm, chẳng ưa quán đoạn diệt. Đó là tám việc.

Lại có năm việc để nghe không nhàm chán. Những gì là năm?

1. Học rộng lợi cho trí tuệ, đối với điều mình đạt nghe không nhàm chán.

2. Nghe khắp chẳng lười, giải quyết các hồ nghi nghe không nhàm chán.

3. Nhờ nghe lại hiểu rõ phiền não sân hận nên không nhàm chán.

4. Nhờ nghe đoạn trừ dục mà trừ tất cả những chấp trước cấu uế của chúng sinh nên không nhàm chán.

5. Nhờ nghe dũng mãnh, giải quyết tất cả nghi ngờ nên không nhàm chán.

Đó là năm việc.

Lại có hai việc quan sát nghĩa cầu nghe chẳng mệt? Những gì là hai?

1. Dấy khởi hạnh chánh kiến của Hiền thánh.

2. Được cốt yếu của Tổng trì vô ngại biện.

Đó là hai việc.

Lại có mười việc để nghe có thể phụng hành. Những gì là mười?

1. Lợi biết nhàm chán ở nơi nhàn nhã.

2. Thân miệng tâm tịch tĩnh, tiến dừng an tường.

3. Điều nghe được đều quán thanh tịnh.

4. Ở một mình ít việc, chẳng ưa sự huyên náo.

5. Đầu đêm cuối đêm thường quán tinh tấn.

6. Kính trọng bạn lành.

7. Để tâm đến điều xấu hổ.

8.Thường đem lòng thương bảo hộ cho tất cả.

9. Thiền định Hiền thánh bình đẳng, phước đức đầy đủ.

10. Dùng bố thí cứu hộ trên trời và thế gian.

Đó là mười việc.

Lại có năm việc để đủ đức xuất gia. Những gì là năm?

1. Việc làm đã thành chẳng quên mất nữa.

2. Diệt trừ kết sử phiền não.

3. Tâm ấy phải bỏ tất cả các chấp trước.

4. Đối với các Đức Phật Thế Tôn chẳng nói lỗi lầm.

5. Đã được giải thoát, thấy những người bị trói buộc vì họ nói pháp giải thoát.

Đó là năm việc.

Lại có năm việc để xuất gia thuận theo giới cấm. Những gì là năm?

1. Thuận theo giới pháp, cứu tế người hủy giới.

2. Thuận theo các điều đã nghe, cứu tế người ít nghe.

3. Thuận các định ý cứu tế người loạn tâm.

4. Thuận các trí tuệ cứu tế người ác trí.

5. Thuận kẻ được độ, an lập mọi người yên ổn vô vi.

Đó là năm việc.

Lại có năm việc nữa. Những gì là năm?

1. Bỏ gánh nặng mà trừ năm ấm.

2. Đoạn dứt kết sử ân ái và các sự tích tập.

3. Luôn dùng tịch định xả bỏ tịch diệt.

4. Vào với đạo đức phụng hành tám đạo.

5. Vào với Thánh đế, kiến lập tất cả mọi người ở pháp Chánh đế. Đó là năm.

Lại có bốn pháp thường ở dưới gốc cây. Những gì là bốn?

1. Chẳng tiếc thân mạng.

2. Phụng hành tất cả các pháp đức lành.

3. Phát tuệ thần thông.

4. Tu hành việc tịch nhiên người trời mừng vui.

Đó là bốn pháp.

Lại có bốn việc ưa ở nhàn nhã. Những gì là bốn?

1. Phát khởi đại Bi do ở nhàn nhã, được sự khen ngợi của chư Phật muốn cứu chúng sinh.

2.Không thiên về tà hạnh, khi ngồi thành Phật trang nghiêm tự tại, chẳng bị phiền não.

3. Học hạnh rốt ráo của Bồ-tát khác, tích lũy đức nhàn tịnh.

4. Vào đến nước thành, huyện ấp, xóm làng vì mọi người nói pháp.

Đó là bốn việc.

Lại có ba việc để ngồi yên tu tập công đức tối tôn vô thượng vi diệu, làm hạnh Hiền thánh. Những gì là ba?

1. Chẳng tích tập yêu ghét cũng không ham thích.

2. Tự tại ly dục lòng không bị trói buộc, bước đi tự do, lòng bình đẳng với tất cả.

3. Mau chóng được định ý.

Đó là ba việc.

Lại có ba việc:

1. Lìa khỏi các dua nịnh.

2. Lòng ngay thẳng không sân hận.

3. Đã trụ với hạnh mọi kết sử liền đoạn trừ.

Đó là ba việc.

Lại có tám việc để đủ đức xuất gia. Những gì là tám?

1. Hiền thánh biết đủ, ở chỗ riêng

2. Biết được giới hạn.

3. Đạt được những điều biết rộng học nhiều.

4. Bỏ sân hận, luôn nhẫn nhục.

5. Chẳng xả đạo tâm, hành bốn Ý chỉ.

6. Chuyên tinh định ý.

7. Ứng hợp trí tuệ.

8. Tất cả việc dấy khởi lấy hạnh làm quan trọng.

Đó là tám.

Lại có mười việc vào pháp yếu sâu xa. Những gì là mười?

1. Thấy thân tự nhiên thì các pháp tự nhiên.

2. Thân tịnh thì tất cả pháp tịnh.

3. Thấy mình không ngã thì các pháp không ngã.

4. Tự quán thân không thì chẳng nghi pháp không.

5. Thân mình không tiếng thì các pháp như tiếng vang.

6. Xét thân tịch mịch thì các pháp tịch mặc.

7. Xét chân thật ngã thì quán thấy thật pháp.

8. Chí mình thâm diệu thì thấy pháp sâu xa

9. Thân mình không nghe thì các pháp như điếc.

10. Ta không thọ nhận thì thấy tất cả pháp không thể nắm giữ.

Đó là mười việc.

Lại có mười việc:

1. Các pháp như huyễn dấy khởi tướng dối trá

2. Các pháp như mộng, điều thấy không thật.

3. Các pháp như sóng nắng, khởi tưởng điên đảo, thấy chẳng chắc chắn.

4. Các pháp như bóng, nhân duyên tạo tác không cho là vui.

5. Các pháp như trăng đáy nước, bắt lấy chẳng thể được, tướng ấy lìa khỏi hành động.

6. Các pháp như tiếng vang, gốc ngọn đều rỗng không.

7. Các pháp như ánh chớp, sáng hiện rồi diệt theo.

8. Các pháp như bức tranh lìa khỏi tham, sân si.

9. Các pháp vốn tịnh chẳng bị sự nhiễm ô của khách trần ô nhiễm.

10. Các pháp như hư không vừa khởi lên liền diệt, không có xứ sở.

Đó là mười việc.

Lại có hai việc chẳng rơi vào đoạn kiến. Những gì là hai?

1. Tuệ tùy lúc nhập vào tội phước.

2. Phân biệt rõ sự sáng suốt của Thánh trí chư Phật.

Đó là hai việc.

Lại có hai việc chẳng rơi vào thường kiến. Những gì là hai?

1. Tất cả nói tuệ vô thường.

2. Ý vừa khởi liền diệt, không tồn tại mãi.

Đó là hai việc.

Lại có bốn việc vượt pháp nhân duyên. Những gì là bốn?

1. Tích tập không sáng suốt.

2. Tích tập vào sinh tử.

3. Không sáng suốt đã diệt thì sinh tử liền trừ.

4. Chẳng rơi vào đoạn kiến, chẳng trụ ở thường kiến.

Đó là bốn việc.

Lại có bốn việc lìa các tà kiến. Những gì là bốn?

1.Hiểu tuệ rỗng không chẳng thấy bỉ ngã.

2. Hiểu được vô tướng chẳng thấy thọ mạng.

3. Rõ không, vô nguyện chẳng thấy ba xứ

4.Phân biệt duyên khởi lìa khỏi thường và vô thường.

Đó là bốn việc.

Lại có sáu việc dùng các thần thông mà tự an vui. Những gì là sáu?

1. Chẳng dùng mắt ác nhìn chúng sinh thì được Thiên nhãn thanh tịnh.

2.Nghe âm thanh ác mà có thể nhẫn nhục thì đạt được Thiên nhĩ tịnh thanh tịnh.

3. Tâm ấy chẳng loạn thì nhìn thấy tâm người khác thanh tịnh.

4.Gieo trồng mọi cội gốc đức thì biết việc đã qua.

5. Hành động của thân cũng như lời nói thì được Thần túc thanh tịnh.

6. Tu hành các sự cung kính, chẳng dối Pháp sư thì hết các lậu, được thanh tịnh.

Đó là sáu việc.

Lại có sáu việc được sáu thông. Những gì là sáu?

1. Do thắp đèn nên được Thiên nhãn thanh tịnh.

2. Bố thí các âm nhạc nên được Thiên nhĩ thanh tịnh.

3.Bố thí không mong cầu nên rõ biết tâm chúng sinh.

4. Gieo trồng cội gốc mọi đức nên biết việc quá khứ.

5.Khước trừ các ấm cái, giải quyết mọi hồ nghi chứng được thần túc thanh tịnh.

6. Dùng pháp bố thí nên diệt trừ các lậu được thanh tịnh.

Đó là sáu việc.

Lại có sáu việc đạt được thông tuệ. Những gì là sáu?

1. Vừa thấy Như Lai thì được Thiên nhãn thanh tịnh.

2. Vào chúng hội nói pháp thì được Thiên nhĩ thanh tịnh.

3. Chế phục được tâm mình thì thấy ý của chúng sinh.

4. Thường tu tập sáu niệm thì được biết đời trước.

5. Bỏ các tham đắm thì chứng được thần túc, bay lên nhẹ nhàng.

6. Tu tập các pháp thì được diệt trừ các lậu

Đó là sáu việc.

Đức Phật lại bảo Long vương:

-Những Thanh văn, Duyên giác và Thần tiên, ngoại đạo, trời, rồng, quỷ thần, thần Vô Thiện, thần chúa Phượng Hoàng, vua thần Núi, thần Điềm Nhu, người cùng chẳng phải người mà có Thiên nhãn thì có thể dùng thần thông mà tự an vui. Xét về mắt, mắt Bồ-tát thì tối thượng vô cực thanh tịnh sáng suốt, ngoại trừ mắt của Như Lai, mắt của Bồ-tát không đâu chẳng thấy, màu sắc ánh sáng của trời, người, nguồn gốc của các pháp không gì ngăn ngại.

Lại Thanh văn, Duyên giác và trời, rồng, thần, người cùng chẳng phải người… Xét về tai của Bồ-tát thì tối thượng vô cực thanh tịnh sáng suốt, ngoại trừ tai của Như Lai, tai của Bồ-tát không gì chẳng nghe. Sự giảng nói các pháp và âm thanh trời người không gì ngăn ngại, nghe các âm thanh biết rõ ba đạt, rõ biết tâm của tất cả chúng sinh, việc làm tạo niệm nhân duyên báo ứng, ý tưởng qua lại, tịnh chẳng tịnh, trước chẳng trước… ngần ấy thứ tâm, hoặc tâm nghịch, hoặc tâm thuận, tâm trói, tâm mở, tâm nương, tâm chẳng nương, tâm mê hoặc, tâm định, tâm hữu xứ, tâm vô xứ, hoặc tâm hưng suy… đã hiểu rõ chúng, thấy hết căn cơ của người để theo đúng như sự ứng hợp mà nói pháp, đã rõ túc mạng, biết gốc bỉ ngã, sự khởi lên đầu cuối (trọn vẹn) không gì chẳng thông đạt, chí thành chẳng hư dối, thần túc không nương cậy, không đâu chẳng thị hiện. Đó là năm thần thông của Bồ-tát.

Lại, tâm tự tại đầy đủ tạo tác, đó là an vui, thị hiện thân Phật mà vào Niết-bàn, chẳng hoàn toàn diệt độ.

-Sao gọi là Bồ-tát lậu tận thần thông?

1. Bồ-tát vượt qua Thanh văn, Duyên giác.

2. Chứng đắc giải thoát.

3. Nương vào Phật tuệ.

4. Hiểu rõ chúng sinh tất cả vốn tịnh

5. Chẳng diệt tận các lậu mà chẳng thủ chấp chứng đắc.

6. Vì tất cả người, khen ngợi các lậu tận.

Đó là sáu thần thông.

Lại có bốn việc thấy tuệ không bị ngăn che. Những gì là bốn?

1. Tu theo tuệ đức đạt đến năm Thông này.

2. Hành đại Từ, đại Bi biết bốn hạnh giải thoát.

3. Giữ gìn phương tiện trí tuệ, đạt được bốn Vô ngại.

4. Định ý chánh thọ Không, Vô tướng, Vô nguyện đạt đến ba mươi bảy pháp đạo phẩm.

Đó là bốn việc.

Đức Phật lại bảo vua rồng:

Sao gọi là sự thấy không bị ngăn che?

-Trừ tất cả dơ bẩn các phiền não hiện hữu và nếu có, ngăn ngại thị hiện ở gốc sinh tử, dẫn đường khiến ở Niết-bàn, hiện thừa Thanh văn, Duyên giác giáo hóa đến đạo tràng, tùy theo tập tục khuyên người thực hành tịch tĩnh. Đó gọi là không ngăn che.

Lại có không ngăn che nữa. Hiện tất cả số đến không cùng tận, hiện diệt các số chứng không chấp trước, tuy các hạnh ở tại số lượng nhưng đối với pháp vô số không bị ngăn ngại, do không ấm cái được đến vô vi mà đối với pháp hữu vi cũng không ngăn ngại. Đó gọi là Bồ-tát hiện bày tuệ vô ngại.

Lại có bốn việc:

1. Hiểu rõ tâm hành chúng sinh.

2. Tùy theo tập tục được tuệ chánh thọ.

3. Biết việc làm của ý là phương tiện thiện xảo.

4.Tự tại đối với các pháp.

Đó là bốn việc.

Lại có năm việc hành hóa không nhàm chán. Những gì là năm?

1.Đã được an ổn thì làm cho chúng sinh được yên

2.Đại Bi kiên cường.

3.Nhìn tất cả người biết cốt tủy của mình.

4.Theo hạnh nguyện của người mà thị hiện hạnh.

5.Đứng ở trên cùng đức đặc biệt kỳ lạ.

Đó là năm việc.

Lại có sáu việc phân biệt lời giáo hóa đã thọ nhận. Những gì là sáu?

1. Chứng được Tổng trì.

2. Tâm an lập tịch nhiên.

3. Nhập vào chân lý thanh tịnh.

4. Tâm vào các tuệ.

5. Biện tài không chấp trước không dừng.

6. Tuệ phương tiện theo thứ lớp giải nói.

Đó là sáu việc.

Lại có tám việc hàng phục ma oán. Những gì là tám?

1. Hiểu rõ năm ấm ví như huyễn, lìa tham kiến phiền não, làm việc không chấp trước.

2. Biết tất cả pháp đều không sinh ra, theo chỗ sinh ấy mà mở đường dẫn lối.

3. Chẳng bỏ tâm đạo, tinh tấn kiên cường.

4. Chẳng bỏ Phật đạo, chẳng sợ ba cõi.

5. Lìa bỏ sở hữu, quan sát người vật.

6. Tìm xét chân lý, quan sát tướng vô thường.

7. Tích chứa đức chẳng nhàm chán, tập hợp trí tuệ.

8. Chẳng ưa trí Thanh văn, Duyên giác.

Đó là tám việc.

Lại có mười việc lìa các sợ sệt, làm việc Bồ-tát. Những gì là mười?

1. Tu hành bố thí để tự trang nghiêm.

2. Trụ ở cấm giới đoạn dứt các đường ác.

3. Ở với nhẫn nhục các căn chẳng loạn.

4. Kiên cường tinh tấn, gieo trồng căn lành chẳng mỏi mệt.

5. Tu hành thiền định tâm chẳng hoảng sợ.

6. Thành được trí tuệ lìa khỏi phiền não.

7.Phương tiện thiện xảo hiểu rõ nguyện của Thánh trí vô biên, phân biệt được mọi việc.

8. Hiểu rõ nghĩa các pháp tùy thuận biện tài.

9. Chứng được tổng trì giải quyết, trừ khử các hồ nghi của chúng sinh.

10. Được trụ chỗ trụ của Phật hộ trì tất cả pháp.

Đó là mười việc.

Lại có tám việc chế ngự sự thoái chuyển. Những gì là tám?

1. Nói với làm tương ứng.

2. Tự xét lỗi mình, chẳng nói khuyết điểm người khác.

3. Thà mất thân mạng chẳng tạo sự khinh trọng.

4. Được lợi chẳng mừng, không lợi chẳng buồn.

5. Tâm chẳng mang ác hại, dẫn dụ tất cả dấy khởi ý tưởng hộ trì chúng sinh.

6. Giữ gìn tất cả cấm giới chẳng bỏ phép của thầy.

7. An vui cho mọi người, chẳng tự cầu yên vui cho mình.

8. Bố thí tất cả sự yêu thích mà chẳng hối tiếc.

Đó là tám việc.

Lại có năm việc được chẳng thoái chuyển đối với đạo Vô thượng chánh chân. Những gì là năm?

1. Phương tiện quyền xảo thành tựu vô ngại các Ba-la-mật.

2. Vào sâu diệu pháp, rõ nghĩa của chân lý.

3. Thần thông vô ngại thấy căn cơ của chúng sinh, phân biệt các tuệ.

4. Thực hành hạnh không chấp trước chẳng thể cùng tận.

5. Theo pháp duyên khởi chẳng cùng tận, chứng tết cả các lậu.

Đó là năm việc.

Lại có ba việc chứng Nhẫn bất khởi. Những gì là ba?

1. Quan sát nhân thanh tịnh không ngã, ngã sỏ.

2. Pháp tịch tĩnh.

3. Tuệ tịnh không chấp trước.

Đó là ba việc.

Lại có ba việc vượt qua các thanh tịnh:

1. Quá khứ thanh tịnh, các pháp thường chấm dứt.

2. Vị lai thanh tịnh, pháp không sinh khởi.

3. Hiện tại thanh tịnh, pháp khổng chỗ trụ.

Đó là ba.

Lại có ba việc:

1. Thân làm thanh tịnh công đức dồi dào.

2. Miệng nói thanh tịnh trí tuệ vòi vọi.

3. Ý niệm thanh tịnh định chẳng lay chuyển.

Đó là ba.

Lại có bốn việc được gặp Đức Phật Thế Tôn và được thọ ký. Những gì là bốn?

1. Tánh tình hòa thuận, tuân theo pháp.

2. Đầy đủ các hạnh, quán hạnh thanh bạch.

3. Chứng được tuệ lực, thông đạt tất cả tâm.

4. Rõ các pháp vốn tịnh, chẳng khởi, chẳng diệt, cũng chẳng loạn động.

Đức Phật bảo vua rồng:

-Đó là bốn pháp hành trì của Bồ-tát, được gặp Đức Phật Thế Tôn và được thọ ký.

Phẩm 2: PHÂN BIỆT

Đức Phật nói những điều đó rồi, mười hai ức trăm ngàn các trời, rồng, thần, thần Hương Âm, người cùng chẳng phải người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân, bảy vạn hai ngàn Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi, một trăm bốn mươi vạn chúng được Pháp nhãn tịnh, xa lìa trần cấu, tám ngàn Tỳ-kheo lậu tận ý giải, năm ngàn Thiên tử được lìa ái dục, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Ánh sáng lớn ấy soi khắp thế giới. Ở trong hư không tự nhiên mưa xuống hoa trời, chư Thiên ở bên trên tấu lên trăm ngàn âm nhạc, cùng nhau khen ngợi:

-Việc nói kinh pháp hôm nay của Đức Thế Tôn là một lần nữa ngài chuyển bánh xe pháp. Hôm nay, Ngài nói kinh này lại gia tăng bội phần việc chuyển bánh xe pháp tại thành Ba-la-nại. Vì sao? Đối với kinh này, vì vô lượng số chẳng kể xiết người nghe mà mở đường dẫn lối đi đến lợi ích. Nếu người nghe kinh này thì cội gốc đức chẳng quên, huống là thọ trì, có thể phụng hành thì khéo được thân người, thích thấy Như Lai, lắng nghe pháp này. Nghe pháp này rồi liền phát ý đạo Vô thượng chánh chân, đóng chặt đường ác, mở dấu trời người. Phải xem đây sánh như được diệt độ.

Đến đây, Đức Thế Tôn khen các Thiên tử:

-Hay thay, hay thay, lời nói này hay lắm! Người nghe kinh pháp này mà hoan hỷ tin theo là đã kiến lập sự khai hóa Đại thừa của Phật. Những người đó đã đạt được tuệ của Như Lai, dùng ấn không thoái chuyển mà ấn cho họ, Nhất định họ không đi con đường nào khác mà thuận đi đến Phật đạo, vượt khỏi các khổ nạn.

Bấy giờ, vua rồng nghe nói kinh này thì vui mừng hớn hở, lòng lành phát sinh, nên lấy ngọc Ma-ni tên là Lập hải thanh tịnh bảo nghiêm phổ minh giá trị bằng tam thiên đại thiên thế giới, đem dâng lên Đức Thế Tôn. Ánh sáng của viên ngọc ấy che mờ ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Tất cả chúng hội thấy được việc chưa từng có, lễ Phật rồi đứng lên đồng lời khen:

-Đức Phật ra đời khó gặp! Nay ngài đã xuất hiện ở thế gian nên mới thị hiện pháp chưa từng có như vậy.

Long vương hiến ngọc báu xong, bạch Đức Phật:

-Con dùng cội gốc đức đó để đạt được ánh sáng thân Phật vô ngại và khiến cho ánh sáng ấy soi khắp các đất nước Phật trong mười phương. Nếu người được nhờ ánh sáng đó thì tiêu trừ các phiền não như ánh sáng ở chặng mày của Đức Như Lai hôm nay đã khiến cho con tiêu trừ mọi tối tăm, chứng được bình đẳng giác như vậy. Kẻ vào lối tà thì khiến cho trụ ở chánh đạo.

Phẩm 3: LỤC ĐỘ

Hải Long vương bạch Đức Phật:

-Sao gọi là Bồ-tát trừ bỏ mọi tối tăm?

Đức Phật nói với Long vương:

-Trí tuệ của Bồ-tát khác lạ: Tay cầm đèn tuệ để soi sáng trí tuệ thì trí tuệ tối thắng, tay nắm giữ kiếm trí tuệ mà có sự tạo lập thì đều dùng trí tuệ kiến lập trí tuệ. Bồ-tát dùng Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền tư, Trí tuệ để kiến lập trí tuệ. Tu hành đối với giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, quan sát khắp các pháp kiến lập trí tuệ, khai hóa chúng sinh.

Sao gọi là Bồ-tát kiến lập trí tuệ mà hành bố thí bình đẳng với bố thí?

-Bố thí đã bình đẳng thì bình đẳng với ngã, ngã sở. Ngã, ngã sở đã bình đẳng thì bình đẳng với nhân. Đã bình đẳng với nhân thì các pháp được bình đẳng. Các pháp đã bình đẳng thì được sự bình đẳng của chư Phật. Tuy có bố thí nhưng chẳng bỏ bình đẳng đó. Đã bố thí thì chẳng theo phiền não vì khi bố thí là xả bỏ tất cả phiền não. Cũng lại như vậy, bỏ tất cả đời sống là bố thí tất cả. Lìa khỏi các kiên chấp, bỏ các sở hữu. Đó là Bồ-tát kiến lập trí tuệ mà dùng để bố thí vậy.

Sao gọi là Bồ-tát kiến lập trí tuệ mà phụng trì cấm giới?

-Thấy thân ý tịch tĩnh ấy là hộ trì cấm giới. Chẳng nương tựa thân miệng ý, chẳng dựa đời nay đời sau, cũng không trong ngoài, chẳng dựa ấm cái, bốn đại, các nhập, chẳng dựa giác ý, chẳng dựa diệt độ, đối với tất cả pháp, cũng không chỗ dựa thì đó là hộ trì giới. Chẳng dùng giới hý luận, cũng chẳng buông lung. Đó là Bồ-tát kiến lập tuệ giới.

Bồ-tát thực hành nhẫn nhục cũng chẳng được ngã, cũng chẳng được nhân, cũng chẳng được ngã nhân, chẳng trụ ở ngã sở, chẳng trụ ở ngã và ngã sở. Nhân thanh tịnh thì ngã tịnh, nhân thanh tịnh thì thấy thanh tịnh, tất cả pháp thanh tịnh. Đó là thực hành nhẫn.

Bồ-tát tuy thực hành nhẫn nhưng đối với pháp không tạo tác, đối với pháp chẳng khởi, chẳng diệt. Bồ-tát tuy tu hành nhẫn nhưng đối với các pháp, không tịch nào chẳng tịch. Bồ-tát tuy tu hành nhẫn nhưng thấy nhẫn rỗng không vắng lặng mà không ngã, ngã sở, cũng chẳng sợ hãi. Bồ-tát tuy tu hành nhẫn nhưng cũng chẳng được thân, miệng, ý. Bồ-tát tuy hủy hoại thân thể từng đoạn, từng đốt rời ra nhưng tự quán thân ấy như cỏ cây, tường vách. Đó là nhẫn nhục.

Bồ-tát nghe lời nói ác, lời nói mắng nhiếc, lời nói tự tại, lời nói chẳng thể chấp thủ, lời nói thanh tịnh không xứ sở, hiểu rõ lời nói thì đó là nhẫn nhục. Bồ-tát tuy loạn tâm nhưng tâm không oán kết, tâm vốn không, mỗi mỗi đều không thật, giây lát diệt hết. Quan sát như thế này thì gọi là nhẫn nhục. Đó là Bồ-tát kiến lập tuệ nhẫn.

Bồ-tát tu tinh tấn trưởng dưỡng các pháp thiện, quán pháp giới ấy chẳng tăng chẳng giảm bình đẳng ngự trị pháp giới, quan sát tất cả pháp chẳng thấy các pháp. Đó là người an lập thành tựu.

Người quan sát dựa vào đời thì do từ sự điên đảo chẳng thật khởi lên. Bồ-tát kia dùng ánh sáng của tri tuệ thanh tịnh quan sát tất cả pháp chẳng theo các pháp, chẳng bỏ các pháp, chẳng nhìn thấy sự tích tụ của các pháp, chẳng thấy sự đến đi, từ chỗ nào đến? Từ chỗ nào đi? Hiểu rõ các pháp. Tu theo pháp như vậy mà phân biệt sự điên đảo của khổ đế là người nói pháp tu hành tinh tấn. Những chúng sinh kia không thật, không chắc chắn. Nếu nhân không thể nắm bắt thì tất cả các pháp cũng chẳng nắm bắt. Vì sao?

Vì nhân chẳng lìa pháp, pháp chẳng lìa nhân. Như nhân mà tự nhiên thì ngã, ngã sở tự nhiên. Ngã, ngã sở tự nhiên thì các pháp tự nhiên. Các pháp tự nhiên thì Phật pháp tự nhiên. Bồ-tát ấy do vậy mà cầu các Phật pháp. Như tự nhiên là giải thoát tự nhiên rồi, liền chứng được Phật pháp. Bồ-tát ấy có mong cầu, hoặc đã cầu, hay sẽ cầu, cầu thế này rồi lại cầu vô sở đắc. Đó là Bồ-tát kiến lập hạnh tinh tấn trí tuệ.

Bồ-tát đối với thiền định mà dùng chánh thọ chẳng hủy hoại bình đẳng, cũng chẳng thành tựu. Bồ-tát đối với thiền định mà dùng chánh thọ, đối với các pháp không nghĩ ngợi, cũng không có gì xả bỏ, cũng chẳng hợp lại, đối với các cảnh giới tu hành không nương vào thiền để lập các pháp thiền, đối với các pháp… cũng không lẫn lộn, chẳng phải thân, chẳng phải tâm. Suy nghĩ về chí tánh của thiền định thì không có gì ứng với hạnh, chẳng dùng thiền hạnh, dùng bình đẳng với “bản vô” mà chánh thọ. Đối với pháp bản tịnh mà đạt đến bình đẳng. Bình đẳng với tất cả mọi người là đạt đến bình đẳng. Các pháp vốn tịnh, bình đẳng không có sắc, chẳng dùng Tam-muội, hành động luôn ứng hợp. Tâm chẳng trụ bên trong, cũng chẳng bên ngoài, “Thức” không chỗ trụ, qua khỏi tất cả những sự rơi vào điên đảo, vượt ngoài thiền định chánh thọ của bậc ngũ thông Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát đó dùng thiền định phát ra trí tuệ tối thượng để tiêu trừ phiền não kiến chấp. Bồ-tát đó dùng thiền định phát ra chí nguyện với đạo và khai hóa chúng sinh, tức là Như Lai luôn có một thiền định đến với Diệt độ. Đó là Bồ-tát kiến lập thiền định trí tuệ.

Bồ-tát quan sát các pháp bằng Tuệ nhãn, cũng chẳng phải Nhục nhãn, cũng chẳng phải Thiên nhãn. Quán các pháp rồi, thấy các pháp tịch, quán sát các pháp mặc. Các pháp tịch mịch không hành, không xứ. Các pháp điềm nhiên không thành tựu. Quan sát khắp các pháp đều đã như vậy cả. Người quan sát như vậy thì chính là pháp quán. Pháp quán như vậy thì chẳng thấy đường về của các pháp. Người ấy có thấy pháp mà chẳng quan sát, chẳng dùng thấy pháp mà thành tựu quan sát vậy. Không tìm, không hiểu, chẳng biết, chẳng thấy thì đó là thấy pháp. Không ngã, không nhân, không thọ mạng thì đó là thấy pháp. Giả sử Bồ-tát quan sát pháp như thế này, thấy người điên đảo, muốn giúp cho chúng sinh mà phát tâm Đại bi. Pháp thanh tịnh như vậy mọi người đều nhờ cậy. Đến đây, Bồ-tát phát chí rộng lớn muốn độ chúng sinh mà chúng sinh đó thì thường không mầm mống. Đó là Bồ-tát kiến lập tuệ pháp.

Phẩm 4: VÔ TẬN TẠNG

Đức Phật bảo:

-Này Long vương, sao gọi là Bồ-tát kiến lập trí tuệ vì người nói pháp chẳng thấy có người?

-Người là không ngã, không nhân, chẳng phải thân. Người là tịch mịch, người không thật có. Người vốn thanh tịnh. Người là âm thanh. Người là cái tên gọi vậy. Người là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Người chẳng phải có số. Người như xét về chân lý. Người không sinh ra. Người chẳng sinh khởi. Vì người nói pháp là giảng nói người thanh tịnh, chẳng chấp ngã, ngã sở, không thọ, không mạng, chẳng diệt tự nhiên, chẳng diệt sở hữu. Theo hạnh vốn có của người mà vì họ nói pháp, huống là chúng sinh vốn tự nhiên tịnh, tự nhiên không ngã, tự nhiên không hình tức là người tự nhiên. Giả sử, người tự nhiên mà do đây tự nhiên thì các pháp tự nhiên. Giả sử các pháp tự nhiên thì tất cả Phật pháp cũng lại tự nhiên. Đó gọi là tất cả các pháp đều là Phật pháp.

Tất cả các pháp chỉ là giả danh vậy, do gọi mà có tên. Giả sử nói các pháp tức là giảng nói phi pháp. Vì sao? Vì lời nói đúng như pháp thì phi pháp cũng vậy. Như nói lên âm pháp tức là âm phi pháp. Vì sao? Vì pháp giới của các pháp vốn đều thanh tịnh, chẳng thể ngôn thuyết, cũng không sở đắc. Pháp giới vốn tịnh cũng không có cái để nắm giữ. Các pháp của tất cả pháp giới vốn tịnh, hủy hoại tất cả pháp thì thành tựu chỗ nào? Đó là các Đức Phật vì chúng sinh nói Kinh pháp. Do nhân duyên tịch mịch như vậy nên chẳng có sự giáo hóa hiểu biết của âm thanh các Phật pháp vậy.

Phật pháp không giáo hóa mà chẳng thể ở hữu vi, vô vi. Vì sao? Vì chẳng lìa khỏi hữu vi, vô vi mà có giải thoát. Chắc có pháp khác có thể tính kể ư?

Long vương đáp:

-Bạch Thế Tôn! Chẳng có vậy! Vì các pháp vô số, Như Lai vô số!

Đức Phật dạy:

-Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời nói của ông! Các pháp vô số, Như Lai vô số tức là không có hai. Này Long vương! Ý ông thế nào? Nói vô số là có xứ sở ư?

Đáp rằng:

-Bạch Thế Tôn, chẳng phải vậy!

Đức Phật dạy:

-Vì sao vậy? Ông nên biết! Ông phải khởi sự quan sát ấy! Phật pháp không xứ, không lời! Như Phật pháp không xứ, không lời thì tất cả các pháp không xứ, không lời cũng lại như vậy.

Này Long Vương! Ông hãy nhìn xem Đại bi của Như Lai vòi vọi! Nếu đem điều ấy khai hóa chúng sinh thì khiến cho họ an lập kiên cố. Lại tất cả pháp không xứ sở, không ngôn thuyết nên nói chỉ là lời dạy phương tiện: Đây là pháp hữu lậu, đó là pháp vô lậu, đây là việc thế gian, đó là việc xuất thế gian, chấp trước, vô trước, hữu số vô số, hữu vi vô vi, phiền não sân hận, là tích tập là xả bỏ, pháp của phàm phu pháp của Thánh hiền, pháp học, pháp chẳng học, pháp Thanh văn, pháp Duyên giác, pháp Bồ-tát, pháp của Phật…

Đức Phật dạy:

-Này Long Vương! Như vậy, Như Lai vì người thuyết pháp giảng nói xứ sở ấy, cũng chẳng thấy pháp và không có các pháp tưởng. Ví như có người, đối với hư không không sắc, không thấy mà muốn dùng các sắc vẽ vào hư không. Họ vẽ tượng trời và tượng người, tượng voi, ngựa, tượng người đi bộ, kẻ ngồi xe… Người đó vẽ thế có khó không?

Đáp rằng:

-Rất khó, rất khó, thật chưa từng có! Thưa Đấng Thiên Trung Thiên!

Đức Phật dạy rằng:

-Này Long Vương! Việc làm của Như Lai là rất khó. Đối với các pháp đó không sắc, không chấp thủ mà chẳng thể thấy, cũng không văn tự, cũng không sở đắc mà vì tất cả giảng nói dạy bảo, thị hiện ra văn tự. Thiết lập bằng phương tiện này mới là rất khó. Nếu có người tin vào tượng pháp như vậy thì chính là những người phần lớn được thành tựu. Nếu người nhận nghĩa pháp thâm diệu này thì chẳng bị sự chi phối của các ma. Nhớ lại đời quá khứ của ta, này Long Vương! Ta lại thấy cúng dường vô lượng số Đức Phật, luôn sẳn sàng bỏ nhà, tịnh tu phạm hạnh. Nhưng những Đức Như Lai đó chưa từng vì ta nói pháp thâm diệu, ứng với bệnh mà giảng nói bố thí, trì giới, pháp học đạo, lắng nghe lời dạy nhẫn nhục, nhân ái, hòa thuận, ở yên nơi vắng lặng, công đức của chỉ túc. Vì sao? Vì đức tu hành chưa xong. Đức tu hành xong rồi, từ Đức Như Lai Đại Thù Diệu, ta liền được nghe pháp thâm diệu ấy, ngay tức thời chứng pháp Nhẫn nhu thuận. Cho ông nên biết ý nghĩa này, ông nên khởi sự quan sát này: Nghe pháp thâm diệu đó thì công đức đầy đủ. Từ đời quá khứ bậc chánh giác nhận Kinh thâm diệu này, không tưởng, không danh, mọi nhân duyên nhơ uế, không ngã, không nhân, không thọ mạng, tin ưa, thọ trì, phúng tụng vì người khác giảng nói thì phước ấy rất nhiều. Nếu có Bồ-tát thương xót tất cả muôn khiến cho yên ổn, khiến cho mỗi một chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều được yên ổn, chư Thiên, nhân dân tập hợp công đức này thí cho một người.

Này Long Vương! Ý ông thế nào? Bồ-tát ấy chắc đã vì chúng sinh gia tăng thêm yên ổn vô cực chăng?

Đáp rằng:

-Rất nhiều, rất nhiều, thưa Đấng Thiên Trung Thiên!

Đức Phật dạy:

-Có Bồ-tát cho những chúng sinh ngần ấy yên ổn, nhưng nếu ông vì người nói một câu về nghĩa của vô thường, khổ, không, phi thân, về việc Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô ngã, vô nhân, vô thọ, vô mạng, chẳng sinh, chẳng khởi thì phước bố thí yên ổn đó khó xưng lường. Vì sao? Vì sự yên ổn hữu vi thì chúng sinh đều trải qua, còn sự yên ổn vô vi thì họ chưa từng trải vậy. Bồ-tát ấy dùng pháp thâm diệu này làm âm thanh, lấy yên ổn vô vi làm đồ ăn uống. Vậy nên, Bồ-tát muốn tự lập nghĩa, đủ nguyện cho thế gian thì phải học pháp thâm diệu.

Nếu có Bồ-tát đã ngồi tại pháp hội mà bỏ pháp thâm diệu, nói tạp cú, trau chuốt thì đó là người đoạn tuyệt sự giáo hóa của chánh pháp. Vì sao? Vì pháp thâm diệu đó ban bố khắp cõi Diêm-phù-lợi mà chẳng mất hết sự nghe nhận của con người. Người ưa thích pháp thì chẳng đủ để nói, còn chẳng phải người nghe pháp thì rất nhiều. Giả sử Pháp sư giấu pháp thâm diệu, đọc tụng tạp cú, là người chẳng ưa pháp sâu xa thì trời chẳng hoan hỷ. Thiện nam đó đã theo niềm vui của đời mà nói việc thế tục. Than ôi! Đau đớn thay!

Trong chúng hội này, người không nói pháp, lòng lo buồn mà lui ra, bỏ đi.

Hải Long Vương bạch Đức Thế Tôn:

-Pháp học đạo bố thí, trì giới là việc thế tục sao? Bỏ nhà xuất gia học tịnh tu phạm hạnh chẳng phải là Phật pháp sao?

Đức Thế Tôn đáp:

-Các Đức Phật ra đời rồi khởi lên pháp vô khởi. Hành hóa ở ba cõi, có sự cứu hộ đều là việc thế tục, chẳng phải là lời nói của Phật. Những cái đó thì sao gọi là bốn Thiền, bốn Tâm bình đẳng, bốn Định vô sắc, năm Thông, mười Hạnh thiện, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, sách sớ, tính toán, kinh quyển, y học, phương thuốc, nghề khéo, kỹ thuật, thân tưởng, y thực, tài vật, cái yêu thích, thiền định… hành động tại ba cõi đều là việc thế tục, chẳng phải là lời của Như Lai?

Đức Phật bảo Long vương:

-Phật xuất hiện ở thế gian chưa từng nghe khổ của phi thường, tịch của phi ngã, trừ tan nghĩa Khổ, đoạn dứt nghĩa Tập, chứng đến nghĩa Diệt, tuân tu nghĩa Đạo, vào đến nghĩa Không, qua khỏi Vô tướng, dẫn đến Vô nguyện, đối với các hạnh chẳng sinh, chẳng khởi, nghĩa Ý chỉ, Ý đoạn, Căn, Lực, Thần túc, Giác ý, quan sát tám đường tịch tĩnh, cầu chân đế bản tịnh, như không khởi lên ấm, gieo trồng các nhập là nghĩa không tịch, do các nghĩa chẳng hoại các pháp, chẳng hoại phi pháp, hiểu tất cả pháp chẳng sinh chẳng trưởng thì đều không có cái để khởi lên, chẳng chấp là có thường, không thường, do nhân duyên khởi nên không chỗ sinh ra. Trở lại với bản tịnh mà lìa khỏi sắc dục, hiện vô số pháp vào với đạo pháp. Ở trong đạo pháp không tưởng gì chẳng tưởng, không ứng gì chẳng ứng, xả bỏ tất cả niệm tưởng thanh tịnh, chẳng tịnh, không nâng lên không hạ xuống, cửa ấm tối tăm tự nhiên như không, được hạnh bình đẳng thì đối với tưởng bình đẳng với tưởng, vô tưởng, đối với tưởng lìa khỏi tưởng đồng đều với tất cả tưởng; lìa khỏi tất cả tưởng thì không quan sát thấy tịch nhiên, đối với các kiến chấp hiện lên các điên đảo, tất cả bình đẳng, nên gọi là được quả Tu-đà-hoàn đều là âm thanh vậy, cái đó không sở đắc, cũng không chẳng đắc, chẳng thọ, chẳng xả.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Những điều trước đó nói về sự ngự trị của các pháp, sở đắc chẳng thể xưng nói, đến với Thanh văn thì được thừa Thanh văn, đến với Duyên giác được thừa Duyên giác, đến với Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn bất khởi, thành đạo Như Lai Vô thượng Chánh chân, làm bậc Tối Chánh Giác. Ấy gọi là lời nói của Phật. Lời nói đó là lời dạy theo tập tục đều là pháp giáo của Phật đối với chân đế. Phật đạo không văn tự, lời Phật không lời, lời Phật không dấu vết, lời Phật không hình tướng, lời Phật không khen ngợi, lời Phật không giáo hóa, lời Phật không dừng lại, lời Phật không danh tự, lời Phật không suy nghĩ, lời Phật dạy không có tâm ý, thức, cũng không có điều để nghĩ. Đó gọi là lời Phật dạy mà chẳng thể nói, cũng không ngổn giáo, chẳng thể chỉ ra, hiện lên.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Lời dạy so sánh như vậy mới là lời nói của Phật. Như Lai chẳng dùng văn nghĩa nói pháp, lời dạy không văn tự mới là nói pháp. Vậy nên, không văn tự thì chính là lời Phật. Pháp của Đức Phật nói chẳng có cái để chứng. Diệt tất cả là được pháp của Đức Phật nói. Vậy nên, không được là lời nói của Đức Phật.

Kinh Phật đã nói từng không ngôn giáo, ngôn giáo tịch diệt. Do vậy nên nói rằng, vô giáo là Phật ngôn! Nói pháp không chấp thủ pháp, không nương cậy vào pháp, không buông lung pháp, chẳng tưởng đến pháp, không khởi lên pháp, không hủy hoại pháp, không rốt ráo pháp, không chứng đắc pháp, không chí nguyện pháp, không niệm pháp, không tu hành pháp, không phân biệt pháp, không tưởng đến pháp, không mong được pháp, không tư duy pháp.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Như Lai vì người nói pháp chưa từng có hành hóa, có sự chứng đắc. Lời nói của ta, tất cả vốn thanh tịnh, pháp không hình sắc. Vậy nên, này Long vương! Các pháp không hình dáng đó gọi là lời nói của Phật.

Lại nữa, sao gọi là lời nói của Phật?

-Hiểu rõ tất cả âm thanh không gì chẳng thấu đạt nên gọi là lời Phật nói. Quan sát quá khứ, vị lai và hiện tại không gì ngăn ngại nên gọi là lời Phật nói, hiểu hết mọi lời nói nên gọi là lời Phật nói, đáp lại được các vấn đề nên gọi là lời Phật nói.

Tất cả nhân duyên đã nói bằng lời nói không gì chẳng rộng rãi nên gọi là lời Phật nói, hiểu biết những lời nói như âm vang của tiếng kêu nên gọi là lời Phật nói, không văn tự, không lời nói nên gọi là lời Phật nói, những văn tự, ngôn thuyết Phật đã dùng cũng đều là lời Phật nói. Vì sao? Vì những văn tự đó là lời nói của Phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Lời nói của Phật hôm nay đã nói và vị lai sẽ nói. Do đó tất cả văn tự, các sự ngôn giáo đều gọi là lời Phật nói. Vào được sự so sánh như thế này, hiểu rõ mọi tuệ đó gọi là Bồ-tát phân biệt đạo nghĩa. Vậy nên nói rằng văn tự, ngôn thuyết đều là lời Phật nói.

Chẳng hoại pháp giới, để tâm vào một vị tuệ đó gọi là Bồ-tát phân biệt kinh bản. Vậy nên nói rằng, văn tự ngôn thuyết đều là lời Phật nói. Nếu ứng hợp thuận với pháp tuệ thì đó gọi là Bồ-tát phân biệt thuận tịch. Vậy nên nói rằng, văn tự, ngôn thuyết đều là lời Phật nói. Người nào nói tuệ không xứ sở, không chấp trước thì đó gọi là Bồ-tát phân biệt hiểu rõ.

Vậy nên, này Long Vương! Tất cả các pháp không gì chẳng trở về sự phân biệt bốn nghĩa này. Bồ-tát hiểu bốn nghĩa này thì văn tự, ngôn thuyết, các chỗ hướng đến, thân hiện tại không gì chẳng khuyên tiến tới đều hiểu lời Phật dạy. Vậy nên không chấp trước vốn không chỗ trụ. Ở trăm ngàn kiếp có ngôn thuyết không thể hạn chế. Vì sao? Vì đó gọi là Vô tận tạng Tổng trì môn.

Giả sử Bồ-tát chứng được Tổng trì ấy thì nói Vô tận cú, khéo thuận với lời dạy, bỏ được lỗi lầm đến đi, luôn ứng hợp, không dựa vào sự trang nghiêm hay trăm ngàn lời lẽ vi diệu. Nhẫn với bản tịnh hỗ tương chẳng loạn, nghĩa tôn ty hiểu rõ bình đẳng, soi sáng phiền não sân nhuế, vào tất cả hạnh mà thuận giải thoát, tám muôn bốn ngàn các căn liền ứng hợp, khéo giảng bản tánh mà vì họ nói pháp, chẳng hết tám nạn, các pháp âm thanh cũng không hết và ví dụ tuệ ba đời không hết mà nguyện quả báo ứng có thể hết sao?

– Kinh điển thuận khắp có thể hết sao?

– Sở nhập của tâm có thể hết sao?

– Dấu ngu của nhân duyên có thể hết sao?

– Thuận tại ái dục có thể hết sao?

– Phát khởi Tổng trì ấy có thể hết sao?

– Nói chỗ của thừa có thể hết sao?

– Phân biệt chỗ của pháp có thể hết sao?

– Tạp cú thâm diệu có thể hết sao?

– Đến với cứu cánh có thể hết sao?

– Lời nói nghịch, thuận có thể hết sao?

– Lời nói khuôn phép của văn tự có thể hết sao?

– Khen ngợi Phật, Pháp, Tăng có thể hết sao?

– Nói chánh đế có thể hết sao?

– Phật đạo, Pháp phẩm có thể hết sao?

– Sự đáp ứng tội, phước có thể hết sao?

– Giảng Độ vô cực có thể hết sao?

Đức Phật nói với Long Vương rằng:

Đó gọi là giảng thuyết vô tận, hiệu là Pháp Tạng Vô Tận, là pháp môn Tổng trì vậy.

***

Phẩm 5: TỔNG TRÌ

Đức Phật bảo:

-Này Long Vương! Có bốn việc là giáo pháp vô tận, Tạng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Phân biệt vô tận.

2. Tuệ sáng suốt vô tận.

3. Trí sáng suốt vô tận.

4. Biện tài Tổng trì vô tận.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng khó nhiếp lấy vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Tính ấy khó nhiếp lấy.

2. Tâm đạo khó nhiếp lấy.

3. Vào pháp khó nhiếp lấy.

4. Hạnh chúng sinh khó nhiếp lấy.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng kiên cố cầu vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Sở nguyện kiên cố.

2. Phụng hành kiên cố.

3. Lập nhẫn kiên cố.

4. Qua khỏi sự tạo tác nhân duyên kiên cố.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng giảng nói vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Giảng nói các chí thành.

2. Giảng nói các duyên khởi.

3. Giảng nói hạnh chúng sinh.

4. Giảng nói các thừa vốn không tuệ.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng ánh sáng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Soi đến pháp giới.

2. Soi đến trí tuệ.

3. Soi đến tuệ minh.

4. Soi đến sự nói pháp ứng hợp.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng ánh sáng tối thượng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Tinh tấn là tối thượng.

2. Sức siêng năng tu hành cấm giới là tối thượng.

3. Cầu tích lũy công đức là tối thượng.

4. Tụ hợp cầu tuệ là tối thượng.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng vô cùng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Cầu các Độ vô cực không cùng cực.

2. Không nhàm chán sinh tử không cùng cực.

3. Khai hóa độ người không cùng cực.

4. Cầu các thông tuệ không cùng cực.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng không nhàm chán vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Trước Đức Phật nghe kinh không nhàm chán.

2. Vì người nói kinh không nhàm chán.

3. Cầu các cội gốc đức không nhàm chán.

4. Cúng dường Như Lai không nhàm chán.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng không thể thắng vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Tất cả phiền não cũng không thể thắng.

2. Tất cả những ma cũng chẳng thể thắng.

3. Các ngoại đạo cũng chẳng thể thắng.

4. Tất cả oán địch cũng không thể thắng.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng không tụ tập vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Chẳng tu tập thừa Thanh văn, Duyên giác.

2. Chẳng tu tập lợi ích của tất cả cúng dường.

3. Chẳng tu tập tất cả các mong cầu nhiễm trước.

4. Chẳng tu tập tất cả các hạnh phàm phu.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng vô đắc vô tận là Tổng trì vậy. Những gì là bốn?

1. Chẳng được sinh ra.

2. Chẳng được khai hóa người ác giới.

3. Chẳng được nói kinh vô thượng Đại thừa tại nơi hữu vi.

4. Chẳng được cầu xin.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng lực vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

1. Sức nhẫn, chịu đựng tất cả mọi việc ác đã tạo.

2. Sức tuệ diệt trừ tất cả nghi kết của chúng sinh.

3. Sức thần thông thấy tất cả ý niệm trong tâm của chúng sinh.

4. Sức thiện xảo vì tất cả mọi người mà nói pháp cho ứng hợp.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng đại tạng vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

1. Chẳng tự lấn lướt lừa dối mà đoạn trừ Tam bảo, đó là Đại tạng.

2. Vào với pháp vô lượng, đó là Đại tạng.

3. Được tất cả tâm, tùy theo chí nguyện đó là Đại tạng.

4. Tuệ bình đẳng như hư không đó là Đại tạng.

Đó là bốn.

Lại có bốn Tạng vô cực vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

1. Học rộng vô cực.

2. Trí tuệ vô cực.

3. Sở nguyện vô cực.

4. Thuận chúng sinh nói pháp vô cực.

Đó là bốn.

Bồ-tát lại có bốn việc chẳng tự lấn lướt đến Tạng vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

1. Nói pháp chẳng tự lấn lướt.

2. Nói chí thành chẳng tự lấn lướt.

3. Thuận pháp hạnh chẳng tự lấn lướt.

4. Được đến đạo cùng cực chẳng tự lấn lướt.

Đó là bốn.

Lại có bốn việc đạt được Tạng vô sở úy vô tận là Tổng trì. Những gì là bốn?

1. Chẳng sợ đường ác.

2. Chẳng sợ chúng hội.

3. Chẳng sợ quyết nghi.

4. Chẳng sợ mất Phật đạo.

Đó là bốn Tạng vô tận là Tổng trì vậy.

Đức Phật bảo Long vương:

-Tạng vô tận tổng trì đó nói lên đức không lường, vào Tuệ vô cực, chứa nhóm hạnh Bồ-tát, do trí tuệ, mong cầu ánh sáng trang nghiêm của Bồ-tát. Của báu của Bồ-tát đã vào pháp tạng, vào cửa Tổng trì, phân biệt ngôn giáo, trang nghiêm thân, miệng, ý, được các cõi nước thanh tịnh, tập hợp tự tại, hộ niệm chánh đạo, vào với chúng sinh, bày tuệ giáo hóa dẫn đường, lực chánh pháp tinh tấn, đủ các Độ vô cực, nghiêm tịnh đạo tràng, chứng được các Phật pháp. Đó gọi là Tạng vô tận là Tổng trì.

Tạng vô tận ấy có số văn tự danh hiệu và các số pháp đi với chánh pháp đều về lại Tạng vô tận là Tổng trì vậy. Bồ-tát vào Tạng vô tận ấy thì đối với các văn tự không có sự phân biệt.

Các pháp thanh bạch chẳng hoại bản tịnh, ưa tất cả pháp chẳng lấn lướt pháp lạc, rốt ráo các pháp, để tâm vào các pháp cũng không lấn lướt lừa dối.

Tất cả pháp của mắt chẳng lấn lướt sự sáng của các pháp.

Các pháp giả danh chẳng lấn lướt pháp nhóm họp. Đã đạt được các pháp chẳng lấn lướt nên hành tinh tấn.

Các pháp định với pháp nhu thuận không có sự lấn lướt.

Các pháp giảng nói không có ánh sáng lấn lướt thiêu đốt các pháp ở trong pháp Vô khởi mà không lấn lướt.

Tin tất cả pháp mà đối với sự ưa thích pháp cũng chẳng lấn lướt.

Nói tất cả pháp mà đối với các ngôn giáo không có sự lấn lướt. Các pháp vốn không mà đối với pháp không nơi hướng đến cũng không lấn lướt.

Các pháp chân đế ngang bằng với pháp ba đời cũng không lấn lướt.

Các pháp thường trụ mà đối với pháp chẳng động cũng không lấn lướt.

Các pháp có bi ai tùy theo niềm vui gốc mà vì hiện bày pháp.

Các pháp đều bình đẳng nên nói không sai khác.

Các pháp tìm cầu dấu vết thì thị hiện các pháp đều bình đẳng. Các pháp đã đến thì thị hiện vào cửa đạo sâu xa.

Các pháp đưa đến lực thì hiện các pháp vô thượng

Các pháp ngu tối thì hiện trí sáng.

Mang lại các pháp thì thị hiện các pháp không có gì quên mất. Tổng trì (nắm giữ) các pháp thì thị hiện các pháp là vô tận.

Các pháp tịch nhiên thì hiện đạm bạc.

Các pháp hư không thì thị hiện pháp rộng khắp

Các pháp vô minh thì hiện gốc si.

Các pháp đều trụ thì hiện chỗ đứng.

Các pháp vào tuệ thì hiện pháp lìa khỏi si.

Các pháp thể nhập nên thị hiện phân biệt các pháp.

Các pháp lìa “hữu” mà vì thị hiện pháp lìa sở hữu.

Các pháp có nạn mà vì thị hiện các pháp tỳ vết dơ bẩn.

Các pháp thường niệm mà vì thị hiện việc đời trước.

Các pháp có duyên thì thị hiện các pháp mà có lấn lướt.

Các pháp vào ý chí mà vì thị hiện tịch tĩnh các rối loạn.

Các pháp rất nặng mà vì thị hiện pháp không bị lay động.

Các pháp trụ xứ mà vì thị hiện mọi cõi pháp giới.

Các pháp Đạo sư mà vì thị hiện pháp Chân đế.

Các pháp đạt đến quả mà vì thị hiện chí không điều suy nghĩ.

Các pháp chỉ có ấm mà vì thị hiện diệt trừ năm âm, các pháp khổ hoạn.

Các pháp sinh tử thì thị hiện các pháp không phiền não.

Các pháp tịch tĩnh thì thị hiện các pháp không chỗ nương tựa.

Các pháp như bền chắc thì thị hiện các pháp đoạn dứt mọi sự bền chắc.

Các pháp tịch diệt thì thị hiện các pháp đoạn dứt nhân duyên.

Đức Phật nói với Long vương:

-Đó gọi là văn tự duyên với Tạng vô tận tổng trì. Bồ-tát được sự hưng khởi phân biệt tất cả văn tự này. Ví như văn tự mà chẳng thể tận thì việc nói các pháp chẳng thể tận cũng lại như vậy. Ví như văn tự cũng chẳng từ thân sinh ra, chẳng từ tâm sinh ra, các pháp như vậy chẳng thể biết chỗ, chẳng trụ tại thân, chẳng trụ tại tâm. Ví như văn tự không chỗ nương tựa mà cầu việc giải thoát khỏi phiền não, cũng không có cái thanh tịnh.

Bồ-tát đã được Tạng vô tận tổng trì thì tuy nói về phiền não mà chẳng nhiễm trước bụi bẩn, rốt ráo thanh tịnh. Ví như văn tự chẳng hợp tại thân nhưng vì người khác có điều giải nói thì các pháp như vậy có sự phát khởi dạy bảo thanh tịnh. Như văn tự khi có điều nói thì không chỗ tụ họp, khi không có điều nói thì chẳng ở tại bên trong.

Các pháp như vậy, giả sử khi nói thì không chỗ đi đến, giả sử khi chẳng nói thì chẳng tích tụ ở bên trong. Như văn tự không sắc tướng, không nhìn thấy mà hiện ở bên ngoài.

Các sắc như vậy, không sắc, không thấy, do nhân duyên của tâm mà có thoái chuyển. Như văn tự rỗng không, tự tại, tịch mịch đều do hoảng hốt không tạo tác văn tự.

Các pháp như vậy rỗng không, tịch tĩnh, không có tạo tác. Như văn tự chẳng sinh ra nhiễm ô, sân hận, ngu si, lại nhờ văn tự mà có âm giáo.

Các pháp như vậy chẳng sinh ra nhiễm ô, tham dục, ngu si, mê hoặc mà do từ tưởng niệm khởi lên tham, sân, si. Như văn tự do các duyên tham mà nói được quả chứng thì văn tự không đạt được cũng không chứng đắc.

Các pháp như vậy, do duyên đối ấy mà nói có quả chứng thì xét đến bản pháp không quả, không chứng. Ví như các pháp vốn có chẳng nhờ văn tự, các hạnh như vậy thì các pháp sở hữu đều do Phật đạo.

Phẩm 6: TỔNG TRÌ THÂN

Đức Phật nói với Long Vương:

Bồ tát đã trụ tạng vô tận mà dùng văn tự cầu Phật đạo là năng lực văn tự của Tổng trì, thân là nơi văn tự quy thú, diệt hết sác tượng, đỉnh thể nhập pháp môn, quán sát trán, mắt Tuệ nhãn, tai Thiên nhĩ, nói danh tự mũi, chế phục loạn ý bằng trán, chặn giữa chân mày, nhiếp lấy tất cả tâm bằng mặt, dẫn dắt tất cả tâm của chúng sinh bằng thiệt căn, điều phục tâm định ý bằng răng, như sư tử xem bườm bước tới, lời nói che dấu rỗng không bằng môi, quán sát tất cả pháp bằng yết hầu, gắng sức làm cho chúng sinh hoan hỷ bnằg mi mắt, đoan nghiêm được gọi là lá lách, xem xét các pháp bình đẳng bằng bụng, vào đến cửa thâm sâu bằng rốn, vào đường phiả, trái bằng bàn tay, tụ hội các pháp bằng vai, mười điều thiện là ngón tay cứu hộ khéo, pháp thanh tịnh là móng đồng, đạt đến niệm hư không bằng hông, theo thứ lớp giảng pháp bằng xương sống, khi nói chẳng lấn lướt, không có đối tượng làm là qua xương mông, đầy đủ tịch quán bằng xương đầu gối, hướng đến pháp chân đế bằng đầu gối, hiểu biết tất cả bằng ấn gót chân xuống đất, tâm ý tịch nhiên bằng mu bàn chân, đi đến mười phương bằng lòng bàn chân, theo thứ lớp nói pháp chân thật bằng bước chân, biết xấu hổ bằng y phục, trang nghiêm chuỗi hoa pháp giúp trang sức, hoa pháp là ngần ấy ngọa cụ, nói đủ thứ là gối pháp, chẳng sân chẳng tranh là hương xoa, việc làm ứng hợp không gì chẳng rõ là đủ loại hương, thể nhập sâu xa giới là hương nói, đối với các pháp tự tại là quyến thuộc, khen ngợi dấu Phạm là bạn thân, được yên ổn là các tri thức, đoạn trừ các oán kết khai hóa mọi người thì thân gần, hiểu rõ các việc là gia thất, tâm ấy thanh tịnh là mẹ; tất cả phương tiện khéo không chỗ nương; tin tuệ là cha, các tâm thông tuệ từ bình đẳng, Thí độ vô cực là nước uống cơm ăn, Giới độ vô cực là an lạc, Nhẫn độ vô cực là trang nghiêm, Tinh tấn độ vô cực là khắc phục bày biện, Nhất tâm độ vô cực là no đủ, Trí độ vô cực là tùy lúc thuận theo, thiện quyền độ vô cực hai câu hợp nghĩa, đạo phẩm là chi tiết của thân… Giảng nói chí thành chưa từng lấn lướt lừa dối, tất cả bậc tôn quý của thế gian là tự tại, đối với pháp tự buông thả.

Đức Phật nói với Long vương:

-Đó là Tạng vô tận tổng trì, thân không sắc tượng vậy. Nếu có Bồ-tát đối với tổng trì đó mà ưa thích niềm vui của pháp thì ví như quốc vương ở trong cung, như Thiên đế Thích ở đỉnh Tu-di, uy thần lồng lộng, như Phạm thiên tôn quý tự tại, như A-tu-la ở yên khó có thể chế phục nắm giữ, như biển công đức vô biên siêu việt thù thắng, như núi báu lớn, niềm vui sướng của trời, như cha mẹ có đứa con độc nhất nên vô cùng thương yêu, như vầng trăng tròn đầy chiếu sáng mọi vì sao, không vị nào chẳng cúi đầu, như Đức Thế Tôn vì trời, người phóng ra ánh sáng lớn, như mặt trời mới mọc, ánh sáng nhu hòa, như chim khổng tước ở trong rừng cây phóng ra âm thanh vi diệu, như sư tử ở trong hang núi được đồ ăn thức uống ngon, như khi tâm ý của rồng điều hòa tuôn mưa xuống, như vua Chuyển luân ở đại pháp giáo hóa dân chúng, như các rồng múa phát ra sấm chớp, như vua rồng đã được tự tại tuôn xuống mưa đại pháp, như trời Đế Thích vỗ về giáo hóa tất cả các ngoại đạo, như tướng dũng mãnh tiêu diệt hàng phục địch; trừ các cấu bẩn trần lao, hàng phục dung nạp các ma như nước làm tắt lửa, như gió thổi cỏ rạp; tâm như đất, khai hóa người mù, theo giáo hóa chúng sinh, như lửa đốt cỏ; đều nhịn chịu khổ vui như người nhũ mẫu nuôi con ông trưởng giả; trị liệu mọi bệnh, giữ tâm kiên cường, đủ ước nguyện cho mọi người như ngọc Như ý nắm giữ các báu.

Đức Phật nói với Long vương:

-Nếu có Bồ-tát trụ ở pháp môn Tạng vô tận tổng trì thì có thể gọi là vào đạo tràng của Đức Phật, như biển lớn đều nhận các báu, hòm, tủ chứa đồ trân quý. Tạng vô tận tổng trì như vậy, bao bọc rộng rãi các đạo pháp, là hòm chứa kho tàng báu như hòm chứa vô số hương khiến vô lượng người thỏa lòng ham muốn.

Bồ-tát đã trụ ở pháp môn Tạng vô tận tổng trì thì dùng lời nói chân diệu khai hóa tất cả khiến cho đều được Tổng trì này, vào tất cả âm thanh.

Đất này tên là Đạo tâm. Cõi nước của Đức Như Lai Nhất Bảo Cái trong thế giới Vô tận đó gọi là Mục tiền.

Đây tên là các Thông tuệ. Cõi nước của Đức Như Lai Đạo Long trong thế giới Siêu đắc độ đó gọi là Phổ đạt.

Đây tên là Thí độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Cát Tường trong thế giới Tịch định đó gọi là Tinh khí.

Đây tên là Giới độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Ly Ưu trong thế giới Vô ưu đó gọi là Đa an.

Đây tên là Nhẫn độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Ly Cấu trong thế giới Vô cấu đó gọi là Vô tận cú.

Đây tên là Tấn độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Vô Cấu Quang trong thế giới Phổ minh đó gọi là Thượng độ.

Đây tên là Thiền độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Kiên Yếu trong thế giới Đạo ngự gọi là Tịch hạnh.

Đây tên là Trí độ vô cực. Cõi nước của Đức Như Lai Vũ Vương trong thế giới Âm vũ đó gọi là Thanh tịnh.

Đây tên là Thiện quyền phương tiện. Cõi nước của Đức Như Lai Ly Cấu Tích trong thế giới Tôn điều đó gọi là Tùy tập tục nghi.

Đây tên là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Cõi nước của Đức Như Lai cát tường nghĩa trong thế giới Phong thịnh đó gọi là lòng nhân thương xót nhiếp lấy hai tịch tĩnh của ta và người.

Đây tên là Khổ, Tập, Tận, Đạo. Cõi nước của Đức Như Lai Thủ Tịch trong thế giới Vô duyệt đó gọi là nguồn gốc bởi căn, căn diệt tận vê gốc.

Đây tên là bốn Ý chỉ. Thế giới phương khác gọi là không dừng.

Đây tên là bốn Ý đoạn. Đó gọi là Thượng thắng.

Đây gọi là Thần túc. Đó gọi là Siêu bộ.

Đây tên là năm Căn. Đó gọi là Duyệt nguyên (nguồn vui).

Đây tên là Năm lực. Đó gọi là Kiên Cường.

Đây tên là Giác ý. Đó gọi là vô minh.

Đây tên là Tám do. Đó gọi là sở độ.

Đây tên là Phân biệt. Đó gọi là mắt thấy.

Đây tên là Hộ ngưỡng. Đó gọi là tùy thuận.

Đây tên là Pháp thí. Đó gọi là thiện nhiếp.

Đây tên là Tịnh quán. Đó gọi là định sát.

Đây tên là Cửa giải thoát. Đó gọi là lìa si.

Đây tên là Công đức. Đó gọi là nghiêm biện.

Đây tên là Trí tuệ. Đó gọi liễu tiện.

Đây tên là Bỏ nhà. Đó gọi là Tu hành. Đây tên là Cụ giới. Đó gọi là Không phạm.

Đây tên là Yên ổn Vô vi. Đó gọi là tịch diệt độ. Đây tên là khen Phật vô lượng. Đó gọi là Phật, mắt Phật phóng ánh sáng.

Đức Phật bảo Long vương:

-Xét về âm thanh lời dạy trong cõi nước các Đức Phật thì lời dạy bảo nhiều vô ngần! Bồ-tát nếu chứng được Tạng vô tận thì đều biết lời dạy bảo bằng âm thanh văn tự của tất cả cõi nước các Đức Phật. Như Lai dù có dùng một kiếp hoặc hơn một kiếp để khen ngợi lời dạy bảo bằng lời nói chương cú hữu vi mà mười phương đã phát ra thì chẳng thể rốt ráo được ý nghĩa âm thanh của cõi nước các Đức Phật.

Khi Đức Phật nói pháp môn Tạng vô tận tổng trì này, sáu vạn vị Bồ-tát được nhập Tổng trì, tám ngàn Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi, ba vạn hai ngàn người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Phẩm 7: TỔNG TRÌ MÔN

Bấy giờ, Đức Phật bảo:

-Này Long vương! Bồ-tát do đó nên lìa khỏi các đường tối tăm, hướng đến các thông tuệ. Trở về thuở xa xưa, chẳng thể kể vô lượng số kiếp, chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Đức Phật hiệu là Phạm Thủ Thiên Vương Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn, có thế giới tên là Tập dị đức, kiếp tên là Tịnh trừ.

Lúc đó, thế giới Tập dị đức giàu có, thịnh vượng, yên ổn, năm giống lúa tự nhiên có, an lạc vô cùng, trời người đông đúc. Như trăm ức bốn châu ở cõi này của ta hợp lại làm một cõi Phật thì ở nước ấy chỉ là một cõi gồm bốn khu vực lớn. So sánh như vậy với trăm ức núi Tu-di. Thế giới Tập dị đức của Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên Vương này rộng lớn vô biên như thế. Thế giới ấy như viên ngọc báu kim cương Quang minh Ma-ni luôn tỏa sáng khắp nơi một cách tự nhiên, thế giới ấy có các thứ báu giăng mắc giáp vòng, che lọng báu, treo tràng phan bằng lụa ngũ sắc, trăm ngàn nhạc cụ ở trong hư không chẳng tấu mà tự kêu lên. Tiếng nhạc ấy nghe vang khắp cõi Phật. Âm thanh nhạc cụ đó chẳng phát ra âm thanh tham, sân, si, dục, chúng chỉ diễn xướng âm thanh tịch nhiên, đạm bạc, pháp lạc hoan hỷ. Chư Thiên, nhân dân nghe tiếng nhạc thì đạt được nhất tâm tịch định yên ổn, bình yên chẳng bị sự nguy hại của phiền não. Cõi ấy bằng phẳng như áo mềm mại, không có lời răn bảo của âm thanh đường ác, trời người thanh tịnh đều hiểu lý vi diệu, chí nguyện ở Đại thừa ít cầu thừa Thanh văn, Duyên giác, nếu có ý nghĩ về ăn mặc, nhà cửa… thì theo ý đều tự nhiên mà đến!

Trời người đồng đẳng không có người cùng khốn thiếu thốn, y phục, ẩm thực, như trên cõi trời Đâu-suất. của cải trong dân chúng nước ấy bình đẳng không sai khác. Đức Như Lai ấy sống lâu tròn sáu mươi bảy vạn hai ngàn năm. Nhân dân cõi ấy sống lâu cũng lại như vậy, không có người chết yểu. Bồ-tát của cõi Phật ấy có đến bảy mươi hai ức còn Thanh văn rất ít.

Bấy giờ, có vị Chuyển luân thánh vương hiệu là Vô Tận Phước, làm chủ mười sáu cõi trong bốn thiên hạ. Vua Vô Tận Phước ấy có tám mươi tư ức phu nhân như ngọc nữ của trời, có bốn vị thái hậu: một tên là Ly Cấu, hai tên là Vô Cấu Quang, ba tên là Thanh Tịnh, bốn tên là Tịnh Cú Tử, có tám muôn bốn ngàn con trai thân tướng đều lớn và dũng mãnh, có tám con gái đoan chánh đẹp đẽ. Họ đều để tâm vào Đại thừa.

Lúc đó, vua Vô Tận Phước đang ở tại thành lớn tên là Cụ lạc. Chiều Đông tây của thành ấy dài hai ngàn bốn trăm bốn mươi dặm. Chiều Nam bắc cũng vậy. Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên Vương xuất hiện ở nước đó. Vua Vô Tận Phước kiến lập tinh xá, trồng rừng cây lớn tên là vườn Thượng hương quang, để Đức Phật dừng nghỉ khi hành hóa. Chính giữa thành, cung điện của nhà vua được xây dựng bằng bảy báu hợp thành. Trong thành có tám muôn bốn ngàn đường lớn, hẻm nhỏ, tám muôn bốn ngàn lan can, bực cửa. Mỗi một đường lớn, hẻm nhỏ có tám muôn bốn ngàn nhà ở. Thành lớn ấy có bảy lớp vách, bảy lớp lan can, bảy lớp hàng cây, bảy lớp giao lộ. Bao quanh thành có một vạn vườn dạo chơi. Hào đào quanh thành ấy có bảy lớp chứa đầy nước tám vị, sinh ra hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng với mùi thơm sực nức. Uyên ương, le le, nhạn cùng nhau hót vang. Thành ấy như vậy, gọi là bình đẳng không lường chẳng thể nghĩ bàn.

Nhà vua cúng dường Đức Phật, dâng cúng sự yên ổn, mọi việc đầy đủ không gì thiếu thốn, ở hàng trăm ngàn năm chẳng thể giới hạn. Nhà vua ra lệnh cho con cháu, thân tộc, bạn bè, quyến thuộc và nhân dân trong nước đi đến tòng lâm Thượng hương quang, yết kiến Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên vương. Họ cúi đầu dưới chân Đức Phật rồi lui về đứng một bên.

Đức Phật bảo vua:

-Có bốn việc làm đại quốc vương quân tử thánh chúa được tự tại cùng với những người bất đồng, tăng thêm pháp lành. Những gì là bốn?

1. Kiến lập niềm tin vững chắc, luôn đến với Hiền thánh, vui mừng thưa thỉnh, cầu đức, thích nghĩa lý.

2. Dùng pháp tự vui, thường quán pháp vô thường, khổ, không, phi thân, quan sát sự dơ bẩn của cõi hữu vi và cuộc đời hiện tại đều trở về với biệt ly.

3. Tự nhiếp lấy tâm mình, vào hạnh không buông lung, hiểu rõ dục lạc không ham muốn lợi lộc.

4. Chẳng hủy hoại phước đức đời trước, chẳng phế bỏ tâm đạo, chí ham tuệ vi diệu.

Đó là bốn việc Thánh chúa nước lớn còn được tự tại cùng với người bất đồng.

Vua Vô Tận Phước bạch Đức Thế Tôn:

-Bồ-tát có bao nhiêu pháp để được tự tại?

Đức Phật bảo vua:

-Bồ-tát có tám pháp để được tự tại. Những gì là tám?

1. Được năm thần thông để tự vui sướng chưa từng thoái lui, không gì ngăn ngại, cũng trừ sân hận mà tâm không hại.

2. Thỏa mãn Thánh tuệ, nhiếp lấy ánh sáng đạo, việc làm đã hoàn thành, hiện được thông đạt.

3. Thần túc thành tín bứng đi các sở hữu, dùng trí tuệ thánh để lìa bỏ tất cả tà kiến trần cấu.

4. Được bốn giải minh thì sự kiến lập chỗ Phật không đắm trước, chẳng trụ.

5. Đầy đủ lực hành xứ thì chứng được Tam-muội Vô tận phước hải ấn.

6. Có thể làm vui chúng sinh, thu tóm lời dạy của tất cả chư Phật để thành Tổng trì.

7. Tâm ấy thanh tịnh, điều nghe chẳng quên, đáp ứng như điều mong muốn mà vì người nói pháp.

8. Vào vị nhất nghĩa, trụ ở bản tế, chẳng chấp ngã, ngã sở, chẳng khởi pháp nhẫn.

Đó là tám việc được tự tại.

Đức Phật bảo vua:

-Lại có Tổng trì tên là Bảo sự. Bồ-tát được Tổng trì này thì được tự tại đối với các pháp.

Bấy giờ Đức Phật vì vua nói về tuệ của Tổng trì Bảo sự. Trọn trăm ngàn năm khắp phân biệt ý nghĩa, nhà vua bỏ việc nước, bỏ tất cả mọi duyên, chuyên tinh một lòng cùng với quyến thuộc nghe nhận giáo hóa. Trong trăm ngàn năm nhà vua chưa từng tưởng đến dục, không có ý sân hận, chẳng niệm tưởng đến hại, chẳng đoái hoài đến vợ con, đất nước, quyến thuộc, tất cả sở hữu mãi chẳng kể đến, chỉ nguyện cầu niềm vui pháp, lập chí theo Phật đạo, lòng đại Từ thanh tịnh, bình đẳng với tất cả mà thực hành đại Bi, mặc áo giáp đại đức mà nghe nhận pháp. Như vậy đủ trăm ngàn năm lãnh thọ giáo huấn của Đức Phật xong, do pháp cốt yếu của Tổng trì Bảo sự này mà việc làm hoàn thành, vượt khỏi hoạn nạn đầu tiên đến cuối cùng của bảy trăm vạn kiếp, tiêu trừ các tội lỗi đã tích chứa hàng mười vạn kiếp, gặp hàng ức trăm ngàn Đức Phật và theo thọ nhận gốc đức. Vua ấy, ở hằng hà sa số kiếp làm trời Đế Thích, hoặc làm Phạm thiên hay Chuyển luân thánh vương, đã tích lũy công đức, dùng tâm chí thanh tịnh ngự trị các pháp, dùng tâm chẳng loạn nghe trăm ngàn Đức Phật, lãnh thọ chẳng quên. Vua và các con đều chứng được pháp Nhẫn nhu thuận. Tám vạn bốn ngàn thể nữ trong cung đều phát ý học đạo Bồ-tát. Tám muôn bốn ngàn người chứng được pháp nhẫn, chín mươi ức chư Thiên, nhân dân đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân, ba mươi sáu ức người học thừa Thanh văn được Pháp nhãn tịnh, một vạn sáu ngàn Tỳ-kheo rõ hết ý giải. Vua Vô Tận Phước bỏ nước, từ vương vị, chẳng ưa những niềm vui ở trên trời và thế gian, chỉ đặt chí nguyện vào đạo Vô thượng chánh chân. Hay tin vua xuất gia tu đạo làm Sa-môn nên các con cũng vậy đều làm Sa-môn. Nhân dân trong nước thấy nhà vua bỏ nước nên sáu vạn người đều làm Sa-môn; thể nữ, bốn đại phu nhân trong cung cũng làm Sa-môn. Lời Phật dạy thanh tịnh, khắp nơi nhờ ân yên ổn, gieo trồng các cội gốc đức, mọi hạnh đầy đủ.

Đức Phật nói:

-Này Long vương! Vua Vô Tận Phước, vị Thánh đế chuyển luân, bấy giờ chẳng phải là ai khác mà chính thân ta. Các con của vị Thánh đế chuyển luân bấy giờ thì hôm nay là các Bồ-tát Đại sĩ trong hội này; Tổng trì Bảo sự mà Đức Như Lai Phạm Thủ Thiên Vương giảng nói cho vua Vô Tận Phước thì hôm nay Như Lai đang nói về tổng trì Vô tận tạng này vậy.

Đức Phật nói với Long vương:

-Hôm nay, Như Lai dùng tuệ vô trước quan sát các gốc của con người mà vì họ nói pháp. Ta từ vô lượng số trăm ngàn ức ức các Đức Phật đã nghe Tạng tổng trì Vô tận. Do nhiều lần nghe kinh này nên hôm nay ta mới chí niệm dũng mãnh bước đi một mình không ngại như thế, biện tài khó bì kịp, chí mang trí tuệ. Nếu có Bồ-tát nghe tên của tổng trì Vô tận này, hoặc có người nói Tổng trì này thì đều sẽ chứng được biện tài Vô trước. Vì sao? Vì do Tổng trì này, về sau đời vị lai là chỗ lưu bố của Tổng trì Ly cấu đều chính là sự kiến lập tám muôn bốn ngàn Pháp tạng của Như Lai. Cửa Tổng trì đó là đầu mặt vậy. Tám muôn bốn ngàn hạnh đều trở về với Tổng trì, tám muôn bốn ngàn Tam-muội đều phát xuất từ Tổng trì, tám muôn bốn ngàn Tạng tổng trì thì Tổng trì Vô tận là nguồn gốc.

Đức Phật nói với Long vương:

-Giả sử Bồ-tát không trụ, không chấp trước, thì đối với bốn cách giải nghĩa sẽ tuông xuống như mưa đại pháp khiến đều nương cậy vào Tạng vô tận này. Tạng tổng trì Vô tận này thể nhập thuận theo thứ lớp từng câu từng chương. Các trời, rồng, thần, thần Hương âm, thần Vô thiện, thần Phượng hoàng, thần Điềm Nhu… đều cùng theo hộ trì. “Duyên ứng hợp ý – Tùy thuận ý – Dấu an lạc – Ý ngay thẳng – Vượt qua – Vô tận cú – Thứ lớp – Mặt sáng – Mắt sáng – Sáng chói – Lập chí – Ý thanh tịnh – Bước đi vào – Sức dũng mãnh – Cứu tối tăm – Giữ gìn – Là trên hết – Pháp môn tịch tĩnh – Vào tịch tĩnh – Diệt trần – Lìa chỗ ở – An trú thiện – Tùy thuận – Lìa thứ lớp – Không chỗ đến – An trụ – Không chỗ trụ – Nơi đến – Không nơi đến – Trụ cốt lõi – Tuệ nhạy bén – Trí căn – Chuyển bản căn – Ánh sáng mặt trăng – Mặt trời lửa sáng – Ánh sáng thiện lìa cấu – Vô cấu – Tịnh các cấu – Hiểu điều đã kiến lập – Chư Thiên giúp đỡ – Hộ các quỷ mị – Dạy các Thừa – Phạm thiên biến hóa – Đế Thích khen – Tứ thiên hộ – Chúng thánh mến – Tiên nhân nương về – Các chủng tộc đều tu hành – Mở trói lao ngục – Hộ trì trời người – Xả các trần lao – Phá hoại chúng ma – Hàng phục ngoại đạo – Trừ dục trí sáng – Khai hóa tự đại – Chẳng xúc phạm Pháp sư – Chẳng loạn chúng hội – Vui ưa pháp lạc – Hộ trì được pháp âm – Chẳng đoạn trừ Tam bảo – Từ mẫn chúng sinh – Khen ngợi đức nghĩa (sáu mươi hai việc)”.

Đức Phật bảo:

-Này Long vương! Những pháp cú đó là hộ trì Tạng tổng trì Vô tận. Nếu có Pháp sư nhận sáu mươi hai chương cú này mà phúng tụng thì được ba mươi hai điều không sợ hãi. Những gì là ba mươi hai?

1. Học rộng không sợ.

2 Khen ngợi người khác khắp nơi không sợ.

3. Lời nói không lỗi lầm đáp ứng đúng không sợ.

4. Ném bỏ, trịnh trọng mà không gì sợ.

5. Vào biện tài theo âm thanh không sợ.

6. Không gì ngăn ngại, tâm không sợ.

7. Giữ đạo tâm, chí ấy không sợ.

8. Vui vẻ với mọi người, bước đi không sợ.

9. Mau chóng giải quyết hồ nghi, giác ý không sợ.

10. Quan sát mọi người không khiếm khuyết không sợ.

11. Lời nói, việc làm tương ứng, không khuyết không sợ.

12. Giới cấm thanh tịnh, tâm mặt không sợ.

13. Nhẫn nhục thanh tịnh, kiên cường không sợ.

14. Đối với chân đế phát nguyện mà chẳng chuyển trở lại chỗ ở không sợ.

15. Tâm chẳng lầm lẫn tuệ biện tài không sợ.

16. Có thể vui trong chúng hội, trí tuệ không sợ.

17. Biết pháp thâm diệu, hàng phục giáo hóa không sợ

18. Lìa khỏi hý luận, sư tử không sợ.

19. Hàng phục các ngoại đạo, không thọ nhận không sợ.

20. Không tham ăn mặc, vui không tỳ vết không sợ

21. Hàng phục mọi giặc khiến cho chúng trụ ở chánh kiến, không mắng không sợ.

22. Người trí chẳng hủy báng dẫn đường ngự trị không sơ.

23. Nói các kinh chẳng loạn…không sợ.

24. Tùy lúc mà dạy bảo không dua nịnh không sợ.

25. Nói và làm tương ứng, lìa kiêu mạn không sợ.

26. Thấy tất cả mọi người khiêm thuận không sợ.

27. Vô tận cú vốn tu thiện, thưa hỏi không sợ.

28. Khai hóa tất cả bằng vô lượng pháp tùy theo mọi người mà dạy bảo không sợ.

29. Thân mình thanh tịnh nên hàng phục ma không sợ.

30. Trừ các trần lao đại Từ không sợ.

31. Lòng chẳng ôm hại, đại Bi không sợ

32. Hộ trì chúng sinh, trí tuệ không sợ, dùng pháp trị nước.

Đức Phật nói với Long vương:

-Bồ-tát nghe Tạng tổng trì Vô tận này hoan hỷ tin nhận liền được ba mươi hai vô úy. Giả sử Bồ-tát chẳng đoạn ba mươi hai vô úy này thì từng chút từng chút dần dần thành tựu bốn Vô sở úy của Như Lai, Vô sở úy của Phật. Những trời, người trước được nghe tiếng gầm sư tử thì mặc tình lắng nghe tất cả những điều đã hỏi. Họ đều không có người có thể đến được trí cùng cực của Như Lai, cũng chẳng dám đoạn dứt lời nói của Đức Phật. Vậy nên, Bồ-tát muốn đạt đến Vô sở úy đó thì phải học hành Tạng tổng trì Vô tận.

Việc học hành Tổng trì đó ra sao?

Hành không mắt, hành không sắc, hành không nhãn sắc thức. Hành không tai, hành không tiếng, hành không nhĩ thanh, thức.

Hành không mũi, hành không hương, hành không thức hương, mũi.

Hành không lưỡi, hành không vị, hành không thiệt vị, thức. Hành không thân, hành không xúc chạm, hành không thức, xúc chạm, thân.

Hành không tâm, hành không pháp, hành không thức, pháp, tâm.

Hành không sắc, hành không sắc sinh, hành không sắc diệt, hành không sắc xứ, hành không thông tưởng, hành không thức hành, hành không thức sinh, hành không thức diệt, hành không thức xứ. Tất cả không hành động, đó là ứng với hành Tổng trì.

Lại nữa, này Long vương! Hành sắc ấy rỗng không, tâm chẳng rỗng không sắc. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì. Thông, tưởng, hành, thức; hành thức ấy rỗng không, tâm chẳng rỗng không thức. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành vô tưởng sắc ấy chẳng nghĩ đến hành vô tưởng. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì. Thông, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Hành vô tưởng thức ấy chẳng nghĩ đến hành vô tưởng thức. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành chẳng đoạn sắc ấy là đối với sắc hành không hành, hành chẳng sắc sinh, hành chẳng sắc khởi, hành chẳng sắc tịch, hành sắc như chân đế, hành sắc như bản tịnh, hành cũng chẳng nghĩ sắc như chân đế, bản tịnh. Đó là ứng hợp với hành Tổng trì. Thông tưởng hành thức cũng lại như vậy.

Hành chẳng đoạn thức ấy là đối với thức hành không hành, hành chẳng thức sinh, hành chẳng thức khởi, hành chẳng thức tịch, hành thức như chân đế, hành thức như bản tịnh, hành cũng chẳng nghĩ thức như chân đế, bản tịnh. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành đối với nguyên do thành pháp giới là hành chẳng tưởng pháp giới, hành chẳng tưởng các nhập vốn tịnh rỗng không của pháp giới, chẳng tưởng vốn tịnh rỗng không. Đó là ứng với hành Tổng trì. Nếu hành tất cả pháp duyên khởi mà chẳng tưởng duyên khởi thì đó ứng với hành Tổng trì.

Hành chẳng nương cậy các pháp, hành chẳng nương chẳng cậy thì đó ứng với hành Tổng trì.

Hành các pháp như vốn không là hành chẳng hoại các pháp vốn không. Nếu hành đối với các pháp trụ ở bản tế thì hành chẳng nghĩ bản tế trụ ở các pháp. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Lại nữa, hành biết tham dục ấy là hành chẳng đối với pháp giới tưởng niệm đến tham dục. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Hành biết sân hận ấy là hành chẳng đối với pháp giới tưởng niệm đến sân hận. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Hành biết ngu si ấy là hành chẳng đối với pháp giới tưởng niệm đến ngu si. Đó là ứng với hành Tổng trì.

Hành đẳng phần ấy là hành chẳng đối với pháp giới có sự hủy hoại. Nếu đối với tám muôn bốn ngàn những điều tu hành mà vào đến pháp giới không có ngần ấy hành thì đó ứng với hành Tổng trì. Hoặc hành hoặc hợp hành, đối với hành, hợp hành mà không có cái để hành, cũng không gì chẳng hành. Vì sao? Vì hành ấy không lường cũng không có sự vượt qua, cũng không nghĩ tưởng. Vậy nên, hành đó là hành bình đẳng.

Đối với hành bình đẳng cũng không gì hủy hoại, cũng chẳng hữu vi, cũng chẳng vô vi, cũng chẳng nhận, cũng không gì chẳng nhận, không xứ, không trụ nên gọi là hành bình đẳng. Bồ-tát hành như vậy thì được pháp môn Tạng tổng trì Vô tận vậy.

Đến đây, Đức Thế Tôn nói kệ tụng:

Tâm ý người ấy được thanh tịnh

Được Độ vô cực thông kinh điển

Âm thanh mọi người đều biết rõ.

Khi được Tổng trì, thành như vậy.

Tâm hạnh chúng sinh quán biết hết

Ý nghĩ thiện, ắc và trung gian

Phân biệt sự tạo lập bản tánh

Để vì nói pháp luôn ứng hợp.

Biết rõ hết nhân duyên báo ứng

Khiến chẳng thấy thường và vô thường

Đều do ném bỏ, rơi biên tế

Tùy thuận hóa, phân biệt Tổng trì.

Giải sáng tỏ phương tiện vấn tự

Biết vô lượng số những âm vang

Hiểu rõ nghĩa lý pháp vi diệu

Người được Tổng trì, thành như vậy.

Chứng được Thiên nhãn không cấu bẩn

Cũng như vậy, Thiên nhĩ sạch trong

Trí tuệ không lường, biết mọi hạnh

Nhớ việc ở ngàn kiếp xưa nay.

Được bốn Thần túc cũng như vậy

Giây lát đến nhiều nước không lường

Cúng dường Đạo sư nhiều vô số

Nghe giảng pháp, Tổng trì này xong,

Ngần ấy ma, đến trăm ngàn ức

Chẳng thể nhìn biết cảnh giới hành

Con người thanh tịnh không phiền não

Giảng nói kinh pháp vô số ngàn.

Ví như hoa sen không nhiễm ô

Cũng như vậy, chẳng nương thế pháp

Thường giải thoát các điều không, có

Đẳng tâm tất cả như hư không.

Nắm giữ sắc tướng mà dũng mãnh

Mọi người chiêm ngưỡng không nhàm chán

Tiến, dừng an tường, hành không khuyết

Ở đời vì thương xót quần sinh.

Trời Đế Thích, Phạm và Hộ thế

Cúi đầu lễ cung kính cúng dường

Lòng ấy chẳng do kiêu mạn nói

Cũng vậy khi được tổng trì xong.

Miệng nói nhu nhuyến như âm Phạm

Vì mọi người nói hợp với tâm

Lời thấm nhuần lưu loát phải lúc

Có thể giáo hóa không che ngăn.

Ở tại trong chúng không gì sợ

Làm sư tử gầm không gì khó

Hàng phục tất cả những dẫn chúng

Như vậy là thành tịnh Tổng trì.

Người dua nịnh kia khó điều hóa

Kiêu mạn tự đại hưng khởi lên

Nghe lời nói pháp thánh minh đó

Cúi đầu lễ, cống cao bỏ liền.

Vào với bản tịnh, pháp giới tịch

Hiểu rõ các pháp thông đạt nghĩa

Do vậy lời nói không cùng tận

Biết luật pháp, phân biệt văn tự.

Bản tánh con người pháp giới tịnh

Cũng như vậy hiểu chúng sinh tịnh

Biết rõ vốn không, người không gốc

Giảng nói kinh pháp không ngăn ngại.

Việc tận không tận chẳng thể biết

Việc không tận không thể tận cùng

Hiểu biết rõ đường đó tịch mịch

Thì nói không trụ ức quyển kinh.

Chẳng ở thân các văn tự ấy

Cũng chẳng tại ý, chẳng ở tâm

Bản tánh vẫn tự rỗng tịch mịch

Ví như trong núi tiếng hô vang.

Xét Tổng trì chẳng chấp trước chữ

Không âm, không ngôn, không lời lẽ

Do biết thú hướng của văn tự

Giả sử lời nói không ngại ngăn.

Không tâm, không ý cũng không tưởng

Giả sử có nói mà không niệm

Lại nữa biết xa lìa pháp tuệ

Giảng nói kinh thuận theo ứng hợp.

Để vào phân biệt nghĩa tứ cú

Hiểu nghĩa lý, pháp biết rõ ràng

Xét suốt âm thanh, thuận điều nghe

Nên giảng “vô trước” chẳng thể lường.

Tập quen nguồn gốc nương ở tuệ

Nên nói ngần ấy pháp thâm sâu

Tuệ hiểu rõ được thuận và nghịch

Pháp có đỉnh đến vượt bờ kia.

Nếu có phương tiện để cứu giúp

Các khiếp nhược lẫn điều hoảng hốt

Tạo ra trí sáng là giải thoát

Như vậy mới thành tựu Tổng trì.

Thân, miệng, ý đều đã tịch tĩnh

Chẳng chấp có, các tuệ phân rành

Giảng nói không chán, trừ sân hận

Được trụ tổng trì là dũng mãnh.

Pháp Tổng trì ấy, tâm nắm giữ

Ý đã hội nhập, trụ pháp tuệ

Người có nghe ấy chưa từng quên

Thuận đúng như nghe, chọn kinh điển.

Nghĩa Tổng trì ấy, pháp chẳng loạn

Xét ở pháp hành, không chỗ vào

Pháp bình đẳng nên nói bình đẳng

Ứng hợp bình đẳng thuận thanh tịnh.

Phẩm 8: PHÂN BIỆT DANH

Khi Đức Phật nói bài kệ về chương cú này, quyến thuộc của Hải Long Vương gồm một vạn ba ngàn rồng đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Họ lại bạch rằng:

-Ngài tuyên nói rộng rãi lời nói này, kính Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ đạt được Tạng tổng trì Vô tận này. Chúng con sẽ vì tất cả mọi loài chúng sinh nói kinh pháp rộng nói.

Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật:

-Thật chưa từng có, bạch Thế Tôn! Nên mới khiến cho các rồng phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Con người ngược lại chẳng thể phát khởi đại đạo vậy.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

-Một vạn ba ngàn rồng đó, vào thời Đức Phật Ca-diếp đều làm Sa-môn, theo Đức Như Lai Ca-diếp một lần nghe nói hạnh Bồ-tát, đồng thời vui mừng khen: “Hay thay, hay thay! Đức Phật nói việc Đại thừa chẳng thể nghĩ bàn! Chúng cùng với dòng họ, bạn bè đều đi khất thực nhưng vì tham lợi chẳng thận trọng, chẳng hộ trì cấm giới. Do đó sau khi mạng chung bị đọa vào trong loài rồng”. Lúc đó, theo Đức Phật Ca-diếp nghe lời dạy Đại thừa, khen ngợi Đức Phật Ca-diếp. Do duyên của cội gốc đức báo ứng nên nay nghe ta nói, khen ngợi Đại thừa và giảng về Tạng tổng trì Vô tận, họ đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Này Xá-lợi-phất! Ông hãy quan sát sự chí tâm đặc biệt kỳ lạ đó! Nay ta thọ ký cho họ rằng, hằng hà sa số kiếp cúng dường các Đức Phật, tích lũy đạo phẩm, tự thành đạo Vô thượng chánh chân hiệu là Tuệ Thượng, Trí Thượng, Pháp Thượng, Phạm Thượng. Khi được thành Phật, do bốn việc đó nên hiệu thế giới là Vô cấu tạng, kiếp tên là Đại hân. Các rồng ấy đều đồng một kiếp được thành đạo Vô thượng chánh chân Tốì chánh giác, giống như ở kiếp Hiền sẽ có ngàn Đức Phật ra đời.

Phẩm 9: THỌ KÝ

Đến đây, Hải Long vương bạch Đức Phật:

-Con từ kiếp đầu tiên ở biển lớn, từ Đức Như Lai Câu-lâu-tần ra đời đến nay, quyến thuộc thê tử của các rồng trong biển lớn rất ít. Hôm nay thì vợ con, quyến thuộc xa gần của chúng rồng nhiều lắm, giả sử muốn tính toán cũng chẳng thể cùng tận. Bạch Thế Tôn! Việc này thế nào? Có gì biến đổi kỳ lạ?

Đức Phật bảo Long Vương:

-Ấy là những người ở trong Phật pháp xuất gia giữ luật, hành giới chẳng đủ, hiện tại thành tựu giới, vi phạm giới hạnh mà chẳng bỏ chân kiến, chẳng đọa địa ngục. Những loại người như thế, sau khi mạng chung rồi đều sinh trong loài rồng.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Thời Đức Phật Câu-lâu-tần có chín mươi tám ức người tại gia và xuất gia trái phạm cấm giới nên đều sinh trong loài rồng.

-Thời Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có tám mươi ức người tại gia và xuất gia hủy phạm cấm giới, buông thả tâm nên sau khi mạng chung đều sinh ra trong loài rồng.

-Thời Đức Phật Ca-diếp có sáu mươi tư ức người tại gia và xuất gia phạm giới nên sau khi mạng chung đều sinh trong loài rồng.

-Ở trong đời của ta có chín trăm chín mươi ức người tại gia và xuất gia với biết bao sự đấu tranh, quen biết bao hành động, bài báng kinh điển, giới luật nên sau khi mạng chung đều sinh trong loài rồng. Như hôm nay cũng có người sinh ra!

Đức Phật nói với Long Vương:

-Do đó ở trong biển lớn của ông, vợ con quyến thuộc của các rồng nhiều chẳng thể tính kể. Sau khi ta vào Niết-bàn có nhiều ác Tỳ-kheo, ác Ưu-bà-tắc trái phạm cấm giới sẽ sinh trong loài rồng, hoặc đọa vào địa ngục.

Hải Long vương bạch Đức Phật:

-Đến nay, Tỳ-kheo bỏ nhà tu đạo mà phạm giới bị đọa vào trong loài rồng thì có gì đặc thù?

Đức Phật dạy:

-Bỏ nhà tu hành, tới nay Tỳ-kheo phạm giới bị đọa vào trong loài rồng, họ tu hành với phương tiện chẳng thể thanh tịnh nhưng lại rất có lòng tin ở Phật pháp. Do sức chí tâm, họ ở trong loài rồng, sau khi mạng chung được sinh lên trời và nhân gian, sẽ gặp các Đức Phật ra đời của kiếp Hiền. Họ đều sẽ gặp! Giả sử có người chẳng được giải thoát thì đều ở trong kiếp Bạt-đà vào Niết-bàn ngoại trừ người có chí nguyện Đại thừa. Này Long vương! Hãy xem sự rộng lớn của lời Phật dạy! Nhân duyên khác lạ xuất gia, bỏ các pháp ác được vượt qua các loài khác.

Bấy giờ, có con của Long vương hiệu là Uy Thủ bạch Đức Phật:

-Thật chưa từng có, bạch Thế Tôn! Loài rồng thân cận Đức Như Lai, thật khó gặp, khó nghe! Tuy có tạo tác mọi tội chướng nhưng nếu khởi lên một ý thiện, tâm nghĩ đến Phật pháp thì nhất định chẳng mất đức và nhờ hạnh đó mà được diệt độ. Nay con nguyện phát ý đạo Vô thượng chánh chân! Do Đức Phật Thế Tôn khó gặp khó nghe nên khiến cho hành động Bồ-tát không có sai trái khuyết điểm, đi dến đạo tràng, không khiến trong lòng quên mất cội gốc đức, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Bất cứ ở đâu cũng thường gặp các Đức Phật, được nghe kinh pháp, cúng dường chúng Tăng và khai hóa chúng sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Long Vương tử Uy Thủ:

-Hay thay, hay thay! Những điều ông hỏi là mới phát tâm cứu hộ tất cả. Hôm nay ông chí tâm khởi Bi vô cực mà dấy lên ý đạo. Nhờ cội gốc đức này, Như Lai khen ngợi ông! Bảy ngày, bảy tháng hoặc đến một năm làm công đức mà phước chẳng thể cùng tận, nhờ gieo trồng hạnh thiện mới như vậy.

Đức Phật thấy được ý nghĩ trong lòng của con vua rồng Uy Thủ, liền cười rạng rỡ. Phép cười của chư Phật có vô lượng số màu sắc, mà từng sắc từng sắc đều khác. Ánh sáng từ miệng Đức Phật phát ra soi chiếu thế giới chư Phật nhiều chẳng thể kể xiết. Ánh sáng ấy nhiễu quanh thân Đức Phật ba vòng rồi theo đỉnh đầu mà vào.

Bấy giờ, Hiền giả A-nan dùng kệ khen Đức Phật:

Trăm phước công đức trang nghiêm thân

Thể đủ ba mươi hai tướng tốt

Trong sạch không bẩn như ánh trăng

Ngài cười hôm nay, vui điều gì?

Lìa ba cấu không bụi sạch trong

Như trăm lá hoa, hành không mệt

Được trời, người, thần rồng cung kính

An trụ, nay vì sao Ngài cười?

Hay thay! Răng đều bằng sạch trong

Mặt Đấng Thập Lực sắng thơm sạch

Do trừ căn nguyên của tử sinh

Nay Thế Tôn cười vì điều gì?

Không tỳ vết, tâm như hư không

Ý bình đẳng bạn lành, kẻ oán

Giữ chí như đã không ghét thương

Nguyện Thế Tôn sao vui cười vậy?

Lời giảng âm thanh như Phạm thiên

Như âm chim Ai loan vi diệu

Lời nói nhu nhuyến ai chẳng mừng

Sao Ngài cười? Nguyện Thế Tôn nói!

Tâm đôi Thánh tuệ, không chấp trước

Biết vận hành tâm cả ba đời

Hiểu căn mọi người được vui mừng

Nay Đạo sư cười, cảm gì vậy?

Vì là thành Y vương

Trị Hệu bệnh chúng sinh

Hay thí yên rốt ráo

Duyên gì cười? Thế Tôn

Hộ đức vì con nói

Chư Thiên và nhân gian

Nghe đều sẽ vui sướng

Chí ở các thông tuệ!

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

-Ông có thấy con vua rồng Uy Thủ đứng ở trước Phật chí tâm phát ý đạo Vô thượng chánh chân chăng?

Tôn giả A-nan đáp:

-Thưa vâng, con đã thấy!

Đức Phật dạy:

-Con vua rồng Uy Thủ đó, trải qua tám trăm lần chẳng thể kể vô lượng số kiếp sẽ được làm Phật hiệu là Tuệ Kiến Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Tịnh trụ, kiếp tên là Minh sát. Con vua rồng đó chí thành phụng hành đạo Bồ-tát, gặp vô lượng số các Đức Phật cúng dường phụng sự, thường tu phạm hạnh, khai hóa độ thoát vô lượng chúng sinh, khiến họ an trụ ba thừa.

Thế giới Tịnh trụ của Đức Như Lai Tuệ Kiến giàu có thuần thục, năm giống lúa dồi dào, an lạc không lường, trời người đông đúc, quần áo, đồ ăn thức uống giống như trên cõi trời Viêm. Đức Phật ấy sẽ sống lâu đến trăm vạn năm, có sáu mươi ức Hiền thánh chúng Tăng Thanh văn, một trăm hai mươi vạn ức Bồ-tát. Những vị thân cận Đức Như Lai Tuệ Kiến ấy đều được Tam-muội Từ hạnh. Đức Như Lai Tuệ Kiến nói kinh, nếu hành giả Thanh văn lần đầu thấy Phật thì được Đạo tích, thấy lần thứ hai thì được Vãng lai, thấy lần thứ ba thì được Bất hoàn, thấy lần thứ tư thì được Vô sở trước. Người có chí Đại thừa thì vừa đến hầu hạ Đức Như Lai Tuệ Kiến liền được Nhẫn nhu thuận, thấy lần nữa thì được thần thông, thấy lần thứ ba thì được Biện tài tổng trì, thấy lần thứ tư thì được pháp Nhẫn bất khởi. Thế giới Tịnh trụ không có người hủy phạm giới, ý thanh tịnh không tà đều trụ ở chánh kiến. Người ở đó sau khi mạng chung không có đường ác đều sinh lên trời hay cõi Phật thanh tịnh…

Con vua rồng Uy Thủ nghe Đức Phật thọ ký rất đỗi vui mừng, lòng lành phát sinh. Ông dâng trăm ngàn chuỗi ngọc để tung lên trên Đức Phật, chắp tay nói kệ khen:

Nhân Tôn thanh tịnh như ánh trăng

Uy thần, vô lượng chúng tôn kính

Năng lực Tổng trì ấy không lường

Nguyện cúi lễ Đấng Vô Biên Tuệ

Thánh từ chẳng thể hạn lường

Chẳng thể bàn trí sáng không vết

Cầm giới rộng, định trụ khắp cùng

Cúi đầu Nhân Tôn như hư không

Không lường không hạn ức kiếp số

Không gì chẳng vào, hạnh rốt cùng

Do vậy hiểu biết những chúng sinh

Chỗ về tâm tánh các cội gốc.

Dung nhan Thế Tôn, người nhìn thấy

Một lòng quan sát không nhàm chán

Chẳng bị mê hoặc của trần tục

Bẩn dơ ái dục đều diệt tan.

Ai loan, Câu-di các thần, quỷ

Cũng như vậy, tiếng của Phạm thiên

Tiếng nghe mười phương rất vi diệu

Sánh tiếng Như Lai siêu việt hơn.

Giả như mặt trời rơi xuống đất

Nước biển phải khô, Tu-di tan

Hư không còn nát, đất lật ngược

Trọn không khác, lời nói Thế Tôn.

Thế Tôn chí thành nói chắc chắn

Đem Đại Thánh Tuệ trao cho con

Con không hồ nghi trừ lưới kết

Được Phật tự tại làm Chúng Hựu.

Mười phương vô lượng ức vạn nước

Đầy trân bảo cưng thầy dẫn đường

Giả sử có người phát tâm đạo

So trồng đức trước thì đầy hơn.

Cúng dường Chánh Giác, đức đệ nhất

Nếu người phát chí Đạo Phật Tôn

Là đã báo ân Đấng Thập Lực

Mạng Đạo Sư này chẳng đoạn tan.

Con vua rồng nói bài kệ khen Đức Phật này rồi, mười ngàn người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân và đều nói lên:

-Khi Đức Như Lai Tuệ Kiến chứng được Tối chánh giác thì chúng con đồng lòng nguyện sinh về thế giới Tịnh trụ để phụng trì lời dạy chánh pháp của Đức Như Lai đó, đồng thời cúng dường Đức Phật đó. Sau khi Đức Phật diệt độ, chúng con lần lượt bổ xứ vào cõi ấy, được Tối chánh giác.

Đức Phật thọ ký cho họ đều sẽ sinh về thế giới Tịnh trụ.

***

Phẩm 10: THỈNH PHẬT

Bấy giờ, Hải Long vương bạch Đức Thế Tôn:

-Nguyện xin Đức Phật gia thêm lòng thương xót các trời, rồng, thần và vô lượng người khiến cho được yên ổn, kính thỉnh Ngài vào biển cả, đi đến trong cung của con, hạ cố đến bữa ăn đạm bạc. Vì sao? Vì trong biển lớn có rồng, quỷ, thần, thần Hương âm và vô số loài chúng sinh khác. Thấy Đức Như Lai rồi, họ đều gieo trồng cội gốc đức đều sẽ đi đến pháp hội và do nghe pháp âm mà đoạn trừ nguồn gốc của sinh tử không đáy. Toàn cung rồng chúng con đều nhờ ân đức ấy, trên trời nhân gian nhờ đó mà được độ thoát. Đức Như Lai thị hiện lòng đại đạo của Phật khắp nơi khiến cho thân chúng con gần gũi với đạo phẩm pháp.

Đức Phật thương xót vua rồng, lặng yên nhận lời mời ấy để cho vô lượng người đều sẽ được gieo trồng rộng rãi mọi cội gốc đức. Vua rồng biển thấy Đức Phật nhận lời mời thì rất vui mừng, cúi đầu lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, rồi cùng với quyến thuộc bỗng nhiên biến mất. Vua rồng trở lại biển lớn, nhóm họp dân rồng mà bảo họ:

-Sáng ngày mai, ta sẽ thỉnh Đức Phật, Đức Phật rủ lòng thương đã hứa, các ngươi phải đồng lòng chuẩn bị vật phẩm cúng dường.

Vua rồng biển lại bảo Yến Cư, thần Vô Thiện, Cuông Hoặc Phược Bổ Ly Câu Cẩm rằng:

-Các ông nên biết! Đức Như Lai giáng thần, sẽ đi đến biển này. Các ông phải đích thân thống lãnh các quyến thuộc tập hợp đến cung của ta mà hiến dâng bữa ăn cho Đức Thế Tôn.

Vua rồng lại ra lệnh cho các Long Vương tên là Chủ Độ Vương, Hoan Vô Lượng Vương, Ly Cấu Vương, Diệm Quang Vương, Hý Lạc Vương, Thanh Tịnh Vương, Diệu Diệu Ý Vương, Hiện Chư Nan Vương và chúng trăm ngàn vua rồng khác đều phải đến hội tại nội cung của ông để phụng hầu Đức Như Lai. Vua rồng lại lệnh cho rồng con Uy Thu:

-Con hãy đến kính cẩn tuyên đọc lệnh của ta cho vua rồng Vô Phần, để vua ấy lệnh cho các hải cung đến cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Uy Thủ tức thời lãnh mạng. Long vương lại lệnh cho con là Cường Uy đi đến đỉnh núi An minh mời vua rồng Hoan Hỷ, vua rồng Ca Hoan Hỷ và Thiên đế Thích đi đến biển lớn, tụ họp ở nội cung của mình để cúng dường Đức Như Lai. Tức thời Cường Uy lãnh mệnh, tuyên lệnh như vậy.

Khi ấy, vua rồng biển hóa làm đại điện, được tạo thành bằng lưu ly xanh biếc, kim cương, vàng ròng xen lẫn nhau, dựng lên tràng phan, tạo giao lộ bằng vàng với chuỗi ngọc báu, lan can làm bằng bảy báu rất rộng lớn, với biết bao hương thơm dùng để đốt xông và tung lên hoa đủ màu bay lả tả như tuyết. Ở trong đại điện hóa lập nên tòa Sư tử cao bốn trăm tám mươi dặm, làm thành bằng mọi thứ báu, trải vô số trăm ngàn tấm lụa ngũ sắc của trời làm tua nơi tòa Sư tử để làm chỗ ngồi cho các Bồ-tát và chúng Tỳ-kheo, từng cái đều trang nghiêm mỹ lệ, thềm bực đặc biệt. Bữa ăn cúng Phật gồm không biết bao nhiêu món vị. Đồ ăn thức uống thiết lễ cúng dường thanh tịnh đã đủ. Bấy giờ, sáng sớm vua rồng biển cùng quyến thuộc sửa soạn kính cẩn đứng ở mười hai hộc núi của dãy núi An minh, từ xa thỉnh Đức Thế Tôn bằng kệ tụng:

Tuệ đặc thù không lường

Với pháp được tự tại

Trí biết rõ mọi việc

Như “không” Thánh vô hạn.

Lìa cấu mắt thanh tịnh

Ở đời là Tối thượng

Đến lúc mời Thế Tôn

Xin thương mà hứa khả.

Tiếng thanh tịnh như Phạm

Nhân hòa, lời nhu nhuyến

Như ai loan sầm vang

Vì chúng hiện cam Ịộ.

Trừ ngần ấy bụi trần

Vì chúng, thầy thuốc giỏi

Bấu loài người, nguyện đến

Nay chính là đúng lúc.

Tâm điều nhu tịch nhiên

An hòa chí nhu nhuyến

Tự độ, cứu chúng sinh

Nhân dân, xin Ngài cứu

Khai hóa mọi lê dân

Khiến vượt khỏi bốn dòng

Qua bờ kia được yên

Mời Ngài, đã đến lúc

Ưa bố thí nhân từ

Học đạo giới thanh tịnh

Sức nhẫn nhục tối thượng

Đã được đại tinh tấn.

Diệt trừ thiền thoát môn

Trí tuệ khắp vô lượng

Lời dạy như ánh trăng

Thưa ngài đã đến lúc

Dẫu trí phân biệt đường

Lôi tà mãi đã đoạn

Bảy Giác ý, lực, căn

Hóa hiện dùng bồ đề.

Bình đẳng bốn Ý chỉ

Bốn Thần túc, ý định

Tổng trì thông suốt khắp

Thời đến, xin Ngài đến

Ba mươi hai tướng tốt

Vi diệu trăm công đức

Vì bảo tồn đức nghĩa

Nên hiện ruộng phước lớn.

Được tôn xưng Chúng Hựu

Như mầm xuân tươi tốt

Thêm từ, xin xót thương

Đại Bi, xin Ngài đến

Chí như núi Tu-di

Tâm bình đẳng như đất

Trừ ái và tôi sân

Như giảng nói không.

Nhân Tôn chẳng tự ti

Cống cao chưa từng có

Về với không thoát môn

Kính thỉnh, nay là lúc

Biết nghĩa phân biệt liền

Hiểu cốt yếu tùy thuận

Rõ kinh pháp suốt thông

Tâm, hành luôn như thế.

Thâu đạt bản tánh người

Quan sát các nghĩa tuệ

Lạy dưới chân Tối Thắng

Đến lúc, mời Ngài đến

Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ xa nghe vua rồng khải bạch thời đã đến, Ngài bảo các Tỳ-kheo đắp y mang bát, đi đến biển lớn khai hóa chúng sinh và tề tựu về Long cung thọ thực Tỳ-kheo ứng đáp:

-Thưa vâng!

Tức thời, Đức Thế Tôn cùng những vị Bồ-tát, chúng Tỳ-kheo và quyến thuộc vây quanh vọt lên hư không, thân phóng ánh sáng lớn, mưa xuống hoa trời, trăm ngàn nhạc cụ hòa nhau tấu lên, rồi tập họp ở bờ biển, đi đến vườn Hân lạc. Vườn ấy có loài hoa Tư-di tên là Ý lạc, Đức Phật dừng ở đó.

Vua rồng biển đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu dưới chân Đức Phật, kính cẩn trình bày xong rồi lui về đứng một bên. Vua rồng tự nghĩ rằng: “Ta muốn hóa làm thềm bậc báu từ bờ biển xuống đến đáy biển để cho Đức Phật, chúng Tỳ-kheo và các Bồ-tát theo đó xuống biển đến trong cung của ta như thuở xưa Đức Thế Tôn hóa làm thềm báu từ trời Đao-lợi xuống đến cõi Diêm-phù-lợi”. Vừa khởi ý niệm này, ông liền từ bờ biển hóa làm ba thềm báu vàng, bạc và lưu ly xuống đến cung điện sâu vi diệu đẹp đẽ.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng năng lực uy thần biến hóa nước trong biển lớn biến mất mà các loài sống trong biển chẳng bị hoạn nạn. Thân Đức Phật phóng ánh sáng soi đến biển lớn và đến khắp tam thiên đại thiên thế giới. Thân các loài sống trong biển ấy nhờ ánh sáng này đều có lòng từ mẫn nhu hòa nhân ái, chẳng nhiễu hại lẫn nhau, nhìn nhau như cha như mẹ, như anh, như em như con không khác. Bấy giờ, người trời cõi Dục, người trời cõi sắc theo hầu Đức Thế Tôn, muôn nghe đạo hóa và còn muôn chiêm ngưỡng cung điện trang nghiêm của Long vương.

Đức Phật cùng các vị Bồ-tát và đại Thanh văn, chư Thiên, rồng, thần, thần Hương Âm, thần núi Phượng hoàng, thần Điềm nhu, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương từ cây hoa Tư di trong vườn Hân lạc muốn đi đến cung vua rồng. Đức Phật bước lên bậc thềm báu ở chính giữa, các chúng Bồ-tát trụ ở thềm bên phải, các đại Thanh văn trụ ở thềm bên trái, sáu mươi ức Đế Thích dẫn đường ở trước, sáu mươi ức Phạm thiên ở trên hư không đều cầm lọng báu, sáu mươi ức trời ở phía sau Đức Phật mưa xuống hoa trời, sáu mươi ức người trời cõi Dục tấu các nhạc cũ cúng dường Đức Phật, sáu mươi ức chúng ma đều ở trước Đức Phật vẫy nước thơm tưới đất, sáu mươi ức hoàng hậu rồng ở giữa hư không đều hiện nửa thân mình, tay cầm chuỗi ngọc tung xuống Đức Phật, sáu mươi ức thần núi đều tấu nhạc cụ ca ngợi công đức của Đức Phật, sáu mươi ức thần Hương Âm, tay cầm lọng hoa dâng lên trên Đức Phật, sáu mươi ức thần Vô Thiện đều đem ngần ấy trăm ngàn loại áo để che lên trên Đức Phật, vua rồng Vô Phần cùng hàng ức trăm ngàn quyến thuộc, ở trên hư không đều dùng hoa hương, tạp hương, bột thơm… trỗi mọi nhạc cụ trang nghiêm các rồng và đem các hoa trời để cung dường Đức Phật… đủ loại như vậy, sáu vạn vua rồng đều cúng dường Đức Phật, muốn yết kiến Đức Thế Tôn và vua rồng biển.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Vô Lượng Thọ của thế giới An lạc hiệu là Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đại sĩ đã cùng với vô lượng số ức các Bồ-tát vì Đức Phật Thế Tôn mà thị hiện sự cúng dường trang nghiêm của mình làm cho vật phẩm cúng dường trang nghiêm trước đó bị che khuất biến mất, không ai có thể biết.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Nan Đãi của thế giới Diệm khí hiệu là Đại sĩ Pháp Anh, Pháp Đạo.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Vô Nộ của thế giới Diệu lạc hiệu là Đại sĩ Hương Thủ, Chúng Hương Thủ.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Nguyệt Biện của thế giới Chiếu minh hiệu là Đại sĩ Sư Tử, Sư Tử Âm.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Thiện Mục của thế giới Bất tuần hiệu là Đại sĩ Đạo Ngự, Chư Pháp Tự Tại.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Phổ Thế của thế giới Quang diệu hiệu là Bảo Trường, Bảo Diệm.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Bảo Thủ của thế giới Lạc ngự hiệu là Tuệ Bộ, Tuệ Kiến.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Phổ Quán của thế giới Quang sát hiệu là Vũ Vương, Pháp Vương.

Có hai vị Bồ-tát ở cõi Phật của Đức Như Lai Tôn Tự Tại của thế giới Ái kiến hiệu là Thoái Ma, Hậu Ma Vương…

Nói tóm lại, khắp mười phương đều có vô lượng số ức những Bồ-tát như vậy đều đến khen ngợi vua rồng trong biển, muốn diện kiến Đức Như Lai để cúng dường phụng sự. Đến đây, Đức Thế Tôn dùng sức Đại đạo chư Phật cảm động để làm gương soi đạo đức, dùng uy lực rộng lớn của Phật khuyên hóa không hý luận để cúng dường chư Phật. Đức Phật phóng ánh sáng lớn soi suốt mười phương vô lượng thế giới dùng “âm thanh của tiếng gầm đại sư tử” của Phật mà giảng nói giáo hóa. Hàng trăm ngàn chư Thiên đều tấu âm nhạc, mưa xuống hoa trời, diệt trừ các đường ác, bố thí cho tất cả sự yên ổn. Có Tam-muội tên là “Lập ư đại ai hoan duyệt quần manh”, Đức Phật vào chánh thọ Tam-muội rồi, Ngài tạo tác ánh sáng trang nghiêm cho biển lớn chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Phật từ thềm báu giáng thần xuống cung điện trong biển, tự nhiên âm nhạc vang khắp mười phương vô lượng thế giới. Uy thần của Đức Phật và sự cảm động của Như Lai đều có thể thấy khi Đấng Năng Nhân Như Lai xuống đến biển lớn. Lúc ấy, hàng ức trăm ngàn ngọc nữ, hoàng phi cùng thê thiếp của thần Vô Thiện, thần Phượng Hoàng, thần Sơn, thần Điềm Nhu, thần khác… đều mang theo nhạc cụ đi nghênh đón Đức Phật. Họ điều hòa các âm nhạc mà ca tụng công đức của Đức Phật:

Bố thí, giới thanh tịnh

Sức nhẫn lòng từ tôn

Tinh tấn, nghĩa siêng năng

Lễ ưa thiền, giải thoát

Lòng tịnh tuệ trí sáng

Nghiêm minh hiển uy thần

Hiện tại bày giải thoát

Nên đến trừ câu trần

Bố thí cam lộ an

Đạo ngự hết nhơ uế

Đức nhiều như hư không

Biển tuệ mời xuống biển!

Lời cốt yếu đầy đủ

Giảng khen Độ vô cực

Thí mắt sáng thanh tịnh

Người trên của tất cả

Ngợi khen nghĩa sâu xa

Thương người, sáng không sánh

Thờ cúng, tuyên dương khắp

Hàng phục các ngoại đạo.

Thí pháp không keo kiệt

Giảng kinh sạch dục trần

Ngợi khen ánh tuệ thật

Đạo phô diễn trân quý

Thấy Đế, chớ chẳng nhận

Chánh quán đoạn kết sử

Như núi vững, chẳng động

Cúi đầu thầy dẫn đường

Chư Thiên, Kim sí điểu

Chân-đà-la, Tu-luân

Ca-lâu, Cưu-bần-trầ

Nguyện cúi đầu dưới chân

Ba mươi hai tôn tướng

Hiện vô tỷ diệu lành

Thể mềm sắc vàng tía

Móng dưới chân an bình

Tiếng hãy như ai loan

Tiếng ấy vượt Phạm thiên

Âm vượt ba ngàn cõi

Cúi đầu Nhu nhuyến âm ĩ

Căn điều, tâm tịch mịch

Giống như ánh chớp trăng

Nói thật, luôn bình đẳng

Xin cúi đầu ưa pháp!

Khổ già, bệnh, độ xong

Cứu tất cả giải thoát

Mọi mã đều phục hàng

Diệt trừ sinh hiện tận

Vô trước, trần lao tan

Được chư Thiên tôn kính

Chí tôn, cứu hộ khắp

Đạo sư khai hóa chúng.

Phẩm 11: MƯỜI ĐỨC SÁU ĐỘ

Lúc ấy, công chúa và các hoàng phi, hoàng hậu của vua và các hoàng hậu thần Vô thiện, thần Phượng hoàng, thần núi, thần Điềm nhu… cùng khen ngợi Đức Phật xong, tất cả đều phát ý đạo Vô thượng Chánh chân. Họ cởi chuỗi ngọc trên thân để tung lên trên Đức Phật. Đức Phật cùng đại chúng đều xuống đến biển lớn. Đến ngôi thành trong biển ấy, Đức Phật đi thẳng đến đại điện trang nghiêm của vua rồng biển, ngồi lên tòa Sư tử. Các vị Bồ-tát và chúng Tỳ-kheo đều lần lượt ngồi vào tòa ngồi trong cung điện ấy.

Bấy giờ, vua rồng biển cùng quyến thuộc trong cung thấy Đức Phật đã an tọa xong thì tự tay dâng hiến thức ăn thức uống thanh tịnh. Họ đem vô lượng số vị ngon cúng dường Đức Phật và Tỳ-kheo tăng. Chư vị ăn uống xong, mang nước rửa tay rồi, họ ngồi trước Đức Phật nghe kinh cùng với chư Thiên, rồng, thần, thần Hương Âm, thần Vô Thiện, thần Phượng Hoàng, thần núi, thần Điềm Nhu, Đế-thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương và các Bồ-tát từ mười phương đến trong hội.

Lúc ấy, Đức Phật thấy chúng hội ngồi đã yên định thì từ thân phóng ra ánh sáng. Ánh sáng tên là Thiện độ thuyết pháp nhu hòa, soi hết các loài sống trong biển lớn, từ hạng thượng, trung đến hạng dưới cùng đều chính mắt thấy Đức Phật nên vô cùng vui mừng, nguyện ưa nghe pháp. Họ đều cung kính từ xa cúi đầu làm lễ Đức Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua rồng biển rằng:

-Người nương vào thế gian, tạo tác ngần ấy duyên, sự vận hành của tâm chẳng đồng, tội phước đều khác, do đó sự sống khác biệt. Này Long Vương! Vả lại quan sát chúng hội và biển cả thấy ngần ấy chủng loại hình mạo chẳng đồng. Các hình mạo đó đều là bức vẽ của tâm. Nhưng tâm không hình sắc, chẳng thể thấy. Tất cả các pháp dối trá như vậy, do mê hoặc khởi ra hình tướng đều không có chủ, tùy theo sự tạo tác ấy mà mỗi mỗi tự nhận lấy. Ví như vị họa sĩ vốn không tạo tượng, các pháp như vậy, chẳng thể bàn. Chúng tự nhiên như tướng huyễn hóa đều là sự tạo tác của tâm. Người sáng suốt thấy các pháp do mê hoặc khởi ra sắc tướng thì sẽ thực hành các thiện đức. Người ấy hiểu được tướng mê hoặc khởi ra thành các pháp, “ấm” là hạt giống của các “nhập” thì sẽ hoan hỷ vui lòng được đoan chánh đẹp đẽ.

Này Long Vương! Vả lại quan sát thân của Như Lai, do trăm ngàn phước mà được hợp thành, vượt khỏi chúng hội, lồng lộng hiện khắp. Trăm ngàn đức ấy do được tự tại mà khiến cho Phạm vương, Đế Thích bị che mờ biến mất. Quan sát thân Như Lai, mắt chẳng dám nhìn thẳng vào uy quang ấy. Quan sát sắc thân của các đại sĩ, tướng tốt trang nghiêm đầy đủ đều dùng đức thiện trang sức thân mình.

Đức Phật nói với Long vương:

-Sự trang nghiêm thanh tịnh của ông đều do phước mà thành. Sự trang nghiêm của các Đế Thích, Phạm vương, trời, rồng, quỷ thần, thần Hương Âm, thần Vô thiện, thần Phượng Hoàng, thần Núi, thần Điềm Nhu… đều do phước sinh ra. Hôm nay trong biển lớn này, có ngần ấy chủng loại thân thiện ác, lớn nhỏ, rộng hẹp, đẹp xấu, mạnh yếu, nhỏ nhoi đều từ tâm mình mà đạt được, vì ngần ấy hình mạo đều là hành vi tạo tác của thân, miệng, ý.

Vậy nên, này Long Vương! Tự hộ trì hành động của thân là cứu tế tội phước. Hãy học như vậy! Các ông do hộ trì hành động của thân, cứu tế tội phước, thực hành các điều thiện mà được thành Phật đạo, diệt bỏ tà kiến, chẳng trụ ở kiến chấp hữu thường, vô thường, phải cầu quả vị Phật, gieo trồng cúng dường, do cúng dường nên được sự cung kính của chư Thiên và loài người.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Bồ-tát có một pháp đoạn dứt hết mọi tai nạn của tât cả đường ác. Những gì là một?

-Chuyên quan sát pháp vi diệu xem cái nào là chân lý nhập vào trong pháp là ưa quan sát nhiều pháp thiện, chẳng nghe các điều ác và mọi tư tưởng tà bậy, đã đoạn trừ ác pháp, phụng hành mọi điều thiện thì sinh ra nơi nào cũng cùng tánh hiền thiện với Phật và Bồ-tát.

Đức Phật dạy:

-Những việc thiện nào đã lập gốc đức để an ổn người trời? Chẳng vì gốc Thanh văn, Duyên giác? Lập gốc đạo thì chí đặt vào đạo Vô thượng chánh chân. Những gì gọi là kiến lập căn bản? Đó là làm mười việc. Những gì là mười?

-Thân chẳng sát sinh, trộm cắp, tà dâm.

-Miệng chẳng nói dối, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói thêu dệt.

-Ý chẳng ganh ghét, sân hận, ngu si.

Đó là kiến lập căn bản.

Đức Phật nói với Long vương:

-Người chẳng sát sinh được mười pháp thiện tịch tĩnh. Những gì là mười?

1. Thường bố thí yên ổn cho tất cả mọi người.

2. Thường ưa tâm Từ.

3. Đoạn dứt lòng sân hận.

4. Sinh ở chỗ nào cũng thường không tật bệnh.

5. Thường sông lâu.

6. Được sự hộ trì của loài chẳng phải người.

7. Nằm ngủ an vui chưa từng có ác mộng.

8. Chẳng ôm lòng oán kết.

9. Chẳng sợ đường ác.

10. Sau khi chết được sinh nơi yên ổn.

Người chẳng sát sinh được pháp tịch tĩnh ấy. Dùng đức của gốc thiện chẳng sát sinh để chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân, hoặc khi thành Phật được tự tại đối với tuổi thọ vậy.

Đức Phật bảo Long vương rằng:

-Người chẳng trộm cắp được năm pháp tin tưởng. Những gì là năm?

1. Được giàu to, không có vua quan, nước, lửa, trộm cắp, oan gia, con hư có thể trộm lấy.

2. Được sự ái kính của mọi người.

3. Đến chỗ tịch nhiên, không có tai nạn.

4. Hoạn nạn, sợ hãi mãi mãi tiêu trừ.

5. Do chẳng chấp thủ phước nên chí luôn bố thí tuệ.

Gieo trồng mọi gốc đức, chí nguyện đạo Vô thượng chánh chân, do nương theo tuệ Vô kiến của Như Lai thành Tối chánh giác, khiến kiến lập thần thông.

Đức Phật nói với Long Vương rằng:

-Người chẳng phạm tà dâm được bốn đức an lạc của người trí sáng suốt. Những gì là bốn?

1. Hộ trì các căn.

2. Lìa các hý luận.

3. Tất cả thế gian đều khen ngợi.

4. Đã lìa khỏi tà dâm thì không dám xem thường thê thiếp của mình.

Đem gốc đức đó chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân, được tướng mã âm tàng của bậc Đại nhân.

Đức Phật nói với Long vương rằng:

-Người chẳng nói dối thì chư Thiên, loài người dùng tám pháp để khen ngợi. Những gì là tám?

1. Được diện mạo thanh tịnh.

2. Lời nói sẽ được sự tín nhiệm của tất cả mọi người.

3. Tự thành tựu sự chứng đắc, trời người kính trọng.

4. Tâm chí thành, không có tưởng tà vạy.

5. Tâm ý thanh tịnh, không dua nịnh.

6. Có nhiều vui vẻ, người không chán ghét.

7. Hay nhận lời răn cấm, không có lời thô tháo. Sinh lên cõi trời hay nhân gian riêng được tín nhiệm, không có người nghi ngờ.

8. Đem gốc đức lành của lời nói chí thành để chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân, do hạnh này nên thường được chí thành.

Đức Phật nói với Long vương rằng:

-Người chẳng nói hai lưỡi được năm sự chẳng biệt ly. Những gì là năm?

1. Thân chẳng biệt ly, không tán loạn.

2. Quyến thuộc chẳng ly tán, chẳng cao ngạo với người khác.

3. Được niềm tin không hoại, thấy duyên báo.

4. Pháp không phá hoại người khác, lấy hành động làm trọng yếu.

5. Được bạn bè hòa thuận do không lừa dối.

Dùng gốc đức đó để cầu Tối chánh giác thì được thành quyến thuộc không loạn của Như Lai. Tất cả mọi ma cùng với oán địch nhất định chẳng thể phá hoại quyến thuộc của Như Lai Đức Phật nói với Long vương:

-Người không ác khẩu được tám quả báo của ngôn từ thanh tịnh, sau khi mạng chung được sinh lên trời. Những gì là tám?

1. Lời nói như thật.

2. Lời nói nhu nhuyến.

3. Lời nói ứng hợp.

4. Lời nói hòa thuận.

5. Lời nói có thể chấp nhận.

6. Lời nói rõ ràng.

7. Lời nói mà mọi người không ai chẳng tin theo, ưa thích.

8. Lời nói chẳng lừa dối mọi người.

Do gốc đức này mà chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân thì được thành tựu âm thanh vượt trời Phạm của Như Lai.

Đức Phật nói với Long vương:

-Người chẳng nói lời thêu dệt thì được ba hạnh chân chánh. Những gì là ba?

Thường làm cho mọi người hiểu rõ những sự kính yêu bình đẳng.

Lòng luôn chuyên nhất vào chí thành, chẳng dùng nhiều lời.

Ở trên trời và nhân gian luôn được tôn trọng chẳng bị phiền toái thì được sự thọ ký của Phật, được thành Như Lai, lời nói không sai khác.

Đức Phật nói với Long vương:

-Người chẳng ganh ghét được năm uy thần. Những gì là năm?

1. Thân, miệng, ý sáng suốt, các căn đầy đủ.

2. Được của cải giàu có cùng cực, tiêu dùng tùy thích.

3. Hàng phục các oán địch, ưa nghiệp sinh hoạt ăn uống vị ngon.

4. Phước đức lồng lộng, được sự cung kính của các quốc vương, nhờ che chở.

5. Có của báu vi diệu của riêng mình, nhờ gốc công đức thuở xưa nên sinh vào nhà thù thắng chẳng ganh ghét của cải người khác, do gốc đức đó, chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân, thành tựu ngang bằng Thế Tôn, ba cõi phụng thờ.

Đức Phật nói với Long vương:

-Người chẳng sân hận được tám pháp tâm hoan hỷ. Những gì là tám?

1. Không hại niềm vui chắc thật, diệt trừ sân hận.

2. Vui với tâm thành thật, chẳng ưa tâm tranh cãi.

3. Ưa ngay thẳng an tường mà nhu hòa.

4. Bình đẳng với Thánh hiền luôn mang tâm Từ.

5. Đầy đủ tâm Bi, thấy người an vui.

6. Đoan chánh đẹp đẽ, mọi người cung kính.

7. Sinh lên cõi trời Phạm chẳng lấy làm khó.

8. Tâm dùng phương tiện xót thương, nhu hòa với mọi người.

Đó là tám.

Do tám gốc đức đó, chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân thì được làm Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, người nhìn không chán.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Người chẳng tà kiến được mười pháp đức. Những gì là mười?

1. Chí tính chân thật, được gặp bạn lành.

2. Tin quả báo thiện ác, nếu có mất mạng, chẳng làm tổn thương, xâm phạm người.

3. Nghĩ, làm Phật đạo, tâm không sai khác.

4. Chẳng thờ trời, thần, chí luôn chất phác.

5. Xả bỏ dua nịnh, thuật thần chú.

6. Cùng những người trời kết làm bạn bè.

7. Chẳng cùng với địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh làm bạn lữ.

8. Cùng với mọi công đức thù thắng, đạo Thánh lồng lộng làm tốì thượng.

9. Lìa khỏi tà kiến, lìa khỏi tham sân, lìa khỏi ác kiến đều không ngăn ngại.

10. Đối với Thánh bình đẳng, phút chốc sinh lên cõi trời và nhân gian.

Đó là mười pháp đức.

Dùng gốc đức lìa khỏi tà kiến để chí nguyện nơi đạo Vô thượng chánh chân thì được gần đạo pháp của chư Phật, mau chóng chứng được thần thông, thành Như Lai.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Bồ-tát lìa khỏi sát sinh, làm bố thí thường được giàu sang, sống lâu vô cùng.

Hành đạo Bồ-tát thì tất cả oán kết bên ngoài không thể đương đầu, đã lìa trộm cắp mà bố thí thì đã có nhiều của cải, người chẳng dám lấy.

Hành đạo Bồ-tát thì không thể phương hại, phế bỏ mà lại tụ họp tất cả pháp công đức, lìa khỏi tà dâm, bố thí thì đời sau thường giàu có, vợ không có tình trạng lỗi lầm. Ở tại nhân gian, không người dám xâm phạm, chẳng nhìn hình sắc con gái nhà khác. Người lìa khỏi vọng ngữ, bố thí thì thường giàu có lớn, chẳng bị bài báng, vì người thấp hèn đều nhờ ân ủng hộ.

Hành đạo Bồ-tát thì lời nói và việc làm tương ứng, chí nguyện kiên cường, lìa khỏi nói hai lưỡi, bố thí thì thường giàu có, quyến thuộc chẳng cách biệt.

Hành đạo Bồ-tát thì được tất cả quyến thuộc tánh ngay thẳng bình đẳng của Bồ-tát, đã không nói lời ác, bố thí thì thường giàu có lớn, lời nói ra có người thọ lãnh.

Hành đạo Bồ-tát vào với chúng hội không ai chẳng vui thích, không nói lời thêu dệt, bố thí thì thường giàu có lớn, lời nói luôn đi đôi với việc làm.

Hành đạo Bồ-tát đoạn dứt tất cả nghi ngờ, lìa khỏi ganh ghét, bố thí thì thường giàu có lớn, đầy ắp vui mừng tốt đẹp, áo quần, ăn uống, giường nằm đầy đủ.

Hành đạo Bồ-tát rồi, mừng vui, gia thêm bcí thí thì được tôn quý, lìa khỏi lòng sân hận, bố thí thì thường giàu có lớn, uy nghi sáng ngời đoan chánh, lời đã nói ra thì mọi người yêu thích.

Hành đạo Bồ-tát, lòng không gia hại, các căn đầy đủ, lìa khỏi tà kiến, bố thí thì thường giàu có lớn trụ ở chánh kiến, sinh vào dòng họ danh tiếng, gặp được Phật Thế Tôn.

Hành đạo Bồ-tát chẳng lìa khỏi các Đức Phật, luôn được nghe pháp, phát tâm Bồ-tát.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Đó gọi là Thập thiện trang nghiêm bố thí rộng lớn. Những ai đối với mười hạnh thiện này mà dùng giới trang nghiêm thì tự đủ nguyện, được các Phật pháp; dùng nhẫn trang nghiêm các tướng tốt, thành tựu âm thanh của Phật; dùng tinh tấn trang nghiêm thì hàng phục được ma oán; dùng đạo pháp của Phật trang nghiêm thì có sự giải thoát; dùng thiền trang nghiêm làm nơi hướng đến của tâm ý thì thanh tịnh; dùng trí tuệ trang nghiêm thì tiêu trừ các kiến chấp; hành Từ trang nghiêm thì phải dùng lòng nhân hòa chẳng hại chúng sinh; hành Bi trang nghiêm thì chẳng bỏ chúng sinh; hành Hỷ trang nghiêm thì không lòng lười chán; hành xả trang nghiêm thì được không chấp trước, đoạn dứt các nghi kết; hành ân trang nghiêm thì khuyên hóa được chúng sinh, hành Ý chỉ trang nghiêm thì dừng các thọ của thân, tâm pháp đầy đủ; hành Ý đoạn trang nghiêm thì đoạn trừ các pháp ác, đầy đủ đức lành; Thần túc trang nghiêm thì được thần thông nhẹ nhàng; năm Căn trang nghiêm thì được hạnh kiên cô ấy, dùng tinh tấn tăng thượng mà không buông lung, dùng tâm sửa trị trừ các trần lao; năm Lực trang nghiêm thì dùng lòng chât trực hàng phục giáo hóa mọi oán địch; Giác ý trang nghiêm thì hiểu rõ các pháp do nơi gốc chân như. Tám đường trang nghiêm thì mang lại chánh tuệ tịch nhiên trang nghiêm, diệt trừ tất cả các cáu bẩn trần lao; dùng quán trang nghiêm thì quán các pháp, xét kỹ đều không; thiện xảo trang nghiêm thì có số không số, hữu vi, vô vi đầy đủ yên ổn.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Nói tóm lại, đức của Thập thiện đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy thì thành các Phật pháp. Do đầy đủ những điều đó nên đối với đức Thập thiện này trang nghiêm rộng khắp, thường phải tinh tấn. Ví như nước quận, huyện ấp, làng xóm, gò đông, trăm giống lúa, dược thảo, cây cối, hoa quả… gieo trồng, gặt hái đều do nơi đất mà tạo lập. Đức mười thiện cũng vậy, trên trời nhân gian đều nương nhờ vào đó. Những người học, chẳng học và được chứng quả, trụ ở đạo Duyên giác, đạo Bồ-tát mà hành đạo pháp của các Đức Phật đều do từ đó mà ra.

Đến đây, Long Vương bạch Đức Thê Tôn rằng:

-Sao gọi là thể nhập hạnh pháp môn Bồ-tát? Người vào pháp môn thì tiêu trừ tội của ấm cái đời trước. Đã trừ được phiền não thì đạt được siêu thoát.

Đức Phật nói với Long Vương:

-Bồ-tát có một pháp trừ các tội lỗi. Những gì là một?

-Luôn được sự ủng hộ, chẳng bỏ lời nói hối lỗi về những tội đứng đầu!

Lại có hai pháp trừ các tội lỗi. Những gì là hai?

1. Thường quán pháp thanh tịnh.

2. Chẳng tạo tội hiện tại.

Lại có ba pháp trừ các tội lỗi. Những gì là ba?

1. Vào tuệ nhân duyên.

2. Đầy đủ lòng vui vẻ.

3. Nương pháp bản tịnh rõ biết vốn không.

Lại có bốn pháp trừ các tội lỗi. Những gì là bốn?

1. Hiểu rõ đối với Không.

2. Chẳng trụ ở Vô tướng.

3. Hướng tới Vô nguyện.

4. Tuệ không tạo tác.

Lại có năm pháp trừ các tội lỗi. Những gì là năm?

1. Không ngã.

2. Không nhân.

3. Không thọ.

4. Không mạng.

5. Không thức.

Lại có sáu pháp trừ các tội lỗi. Những gì là sáu?

1. Hoan hỷ thuần tín.

2. Không có hoài nghi.

3. Qua lại tiến dừng.

4. Quan sát chân lý.

5. Việc làm chí thành.

6. Chẳng mất niềm tin chân chánh.

Đó là sáu pháp trừ các tội lỗi.

Long vương bạch Đức Phật rằng:

-Sao gọi là Bồ-tát đạt đến siêu thoát?

Đức Thế Tôn đáp:

-Bồ-tát có mười việc đạt đến siêu thoát. Những gì là mười?

1. Thường hoan hỷ.

2. Tâm tánh thanh tịnh.

3. Phương tiện thiện xảo.

4. Kiên cường tinh tấn.

5. Quan sát người vật.

6. Hành Bi vô cực.

7. Tu đức không chán.

8. Học rộng hiểu nhiều chẳng mệt.

9. Phụng trì không buông lung.

10. Nghĩ đến đạo tràng.

Những việc đó khiến Bồ-tát được Phật tuệ, chẳng bỏ đạo tâm. Đó là mười việc, Bồ-tát thực hành thì đạt đến siêu thoát.

Phẩm 12: A-TU-LA YẾN CƯ ĐƯỢC THỌ KÝ

Đến đây, thần Vô Thiện Yến Cư bạch Đức Thế Tôn rằng:

-Sao gọi là Bồ-tát vượt lên trên các đức?

Đức Phật bảo thần Vô Thiện rằng:

-Bồ-tát có tám pháp vượt lên trên các đức. Những gì là tám?

1. Ở đây, Bồ-tát lìa khỏi cống cao, vì tất cả mọi người, khiêm hạ cung kính nhận lời dạy bảo kính thuận, lời nói và hành động tương xứng, khiêm nhường thuận theo bậc tôn trưởng.

2. Tất cả đức hạnh, các pháp là gốc.

3. Các hạnh kiên cường, vượt các đức thiện.

4. Ưa thích ngần ấy sự bố thí vi diệu.

5. Thà mất thân mạng chẳng cầu tiện nghi của người khác.

6. Thấy có người nguy hiểm sợ sệt thì ban cho vô úy.

7. Người đến nương nhờ chẳng xả bỏ ai.

8. Cầu tất cả nghiệp phước tuệ chẳng cảm thấy chán, đủ.

Đó là tám pháp.

Thần Vô Thiện lại hỏi Đức Phật rằng:

-Bồ-tát có bao nhiêu pháp hạnh để được thân to lớn? Gương mặt rộng đầy đặn? Quyến thuộc đông đúc? Ý nghĩ rộng vô cực?

Đức Phật bảo thần Vô thiện Yến Cư rằng:

-Bồ-tát có bốn việc được thân to lớn. Những gì là bốn?

1. Chẳng nói việc làm tham lam ganh ghét của người khác.

2. Tạo tác hình tượng của Đức Phật với căn tướng đầy đủ.

3. Hòa hợp, ly biệt khuyên bảo khiến cho chí nguyện ở đạo Vô thượng chánh chân.

4. Hướng đến chúng sinh, không làm tổn thương tướng mạo.

Đó là bốn việc được thân to lớn.

Bồ-tát có bốn việc để gương mặt rộng đầy đặn. Những gì là bốn?

1. Dùng ngần ấy chuỗi ngọc mà dùng bố thí.

2. Tất cả vật yêu thích đem bố thí mà chẳng tiếc.

3. Luôn dùng mắt Từ chiêm ngưỡng Như Lai.

4. Thấy người đoan chánh chẳng sinh lòng ganh ghét.

Đó là bốn việc được khuôn mặt rộng đầy đặn.

Bồ-tát có bốn việc được quyến thuộc đông đúc. Những gì là bốn?

1. Lìa khỏi lời nói hai lưỡi.

2. Chưa từng phá hoại quyến thuộc người khác.

3. Thấy bè bạn người khác thì thay họ vui mừng.

4. Chẳng bỏ tâm đạo, đồng thời giáo hóa người khác khiến họ phát ý đạo.

Đó là bốn việc.

Bồ-tát có bốn việc ý rộng vô cực. Những gì là bốn?

1. Tâm ấy thanh tịnh mà không dua nịnh.

2. Trừ ái dục cực nặng, ở chỗ trung gian mà không chán mệt.

3. Chí nguyện ở pháp yếu thậm thâm vi diệu.

4. Gốc ngọn của tất cả các pháp đều rỗng không.

Đó là bốn pháp Bồ-tát được ý rộng vô cực.

Đến đây, thần Vô Thiện Yến Cư cùng ba vạn hai ngàn quyến thuộc đều dùng vô số chủng loại, tám ngàn hoa trời tung lên trên Đức Thế Tôn, dùng kệ khen rằng:

Loài người ở mười phương

Chẳng có thể lường xét

Khoảng thời gian giây lát

Cúng dường Đức Thế Tôn.

Giả sử người mười phương

Cúng dường tất cả đức

Ở tại trăm ngàn kiếp

Bố thí tâm bình đẳng.

Lòng từ chẳng thể sánh

Thực hành phước thương xót

Tịch nhiên rất ứng hợp

Đâu cúng dường báo đáp?

Đó là những phụng sự

Cúng dường Phật mười phương

Phát tâm không đồng đẳng

Trụ Chánh đế ứng hợp.

Ở đây con tự tại

Lập chí, không dua nịnh

Bản vô đã hiểu rõ

Phật đạo, tự được thành.

Đấng Nhân Tôn thương xót

Ba cõi, chứng ngã không

Mười lực thô đạt ngã

Hiểu tâm tánh hạnh con.

Nhu nhuyến không khiếp nhược

Lìa khỏi các kinh sợ

Bố thí giới thù thắng

Trì giới và nhẫn nhục

Tinh tấn với ý thiền

Vì ứng trụ trí tuệ

Thuận theo tâm từ mẫn

Thường giữ chí thành kính.

Chẳng vì con, thêm thương

Chẳng nhận sự thọ ký

Nhân Tôn con đảm đương

Riêng được Phật thọ ký

Chí con chẳng nghi ngờ

Là chẳng thành tự tại

Con rõ hết, rốt cùng

Ở đạo chí thanh tịnh.

Khi Đấng Nhân Tôn cười

Nguyệt Anh liền hỏi rằng.

Nay sao cười rạng rỡ?

Xin bậc Thánh giảng nói

Khi hóa độ, bảo rằng:

Nguyệt Anh lắng nghe kỹ

Tu sở dĩ hiện lên

Phóng vì ánh sáng lớn

Vì tùy hỷ Yến Cư

Chí nguyện tôn Đại đạo

Ba vạn hai ngàn người

Tùy tùng và quyến thuộc.

Trong số kiếp trăm ngàn

Thường hành đạo Bồ-tát

Tất cả chí tương đồng

Sẽ được đạo thành Phật

Sẽ cúng dường Thế Tôn

Nhiều như cát sông Hằng

Nhân dân được khai hóa

Số ấy lại nhiều hơn.

Kiếp ấy tên Hoan hỷ

Danh hiệu Tịnh Phục Tịnh,

Được Phật Ly Tịch Trần

Hiểu rõ không lo ngại

Yến Cư Quảng Phổ nầỵ

Sẽ được làm Pháp vương

Vượt trên lực tinh tấn

Hiệu là Đê Phiến Tràng.

Thế giới ấy tên gọi

Hân lạc nhân trang nghiêm

Nhật thực nhiều thừa thải

Ví như trời Đâu-suất

Tuổi thọ Đức Phật ấy

Bảy mươi ức vạn năm

Đầy đủ sáu mươi ức

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Còn các chúng Bồ-tát

Số hơn tám trăm ức

Trụ vững ở Tổng trì

Đã nghe đều thông suốt

Kia ở kiếp Hoan hỷ

Hiệu là Tịnh Phục Tịnh

Đều do sánh như vậy

Sẽ thành Phật đạo tồn

Khai hóa trăm ngàn người

Khiến trụ đạo Thế Tôn

Quán đủ đức thù thắng

Là đạo tâm Bồ-tát.

Yến Cư Vô Thiện thần

Nghe Đức Phật thọ ký,

Đại chúng bốn ngàn muôn

Đều phát tâm Bồ-tát

Chấn động ba ngàn cõi

Hoa trời rền mưa xuống

Hay thay! Nắm giữ đức

Giữ gìn ý và tâm.

Phẩm 13: VUA RỒNG VÔ PHẦN ĐƯỢC THỌ KÝ

Bấy giờ, vua rồng Vô Phần bạch Đức Phật rằng:

-Tất cả các pháp đều không chỗ trụ, cũng không có người thì sao có thọ ký? Ai sẽ thành tựu đạo Vô thượng chánh chân làm Tối chánh giác?

Đức Phật đáp:

-Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông! Tất cả các pháp đều không chỗ trụ, cũng không có người. Tất cả các pháp cũng như vậy. Kẻ phàm phu ngu muội trụ nơi điên đảo, ngã, ngã sở, nhân, vô nhân, khởi lên tưởng về nhân.

Bồ-tát phát lòng đại Bi vì muốn trừ điên đảo, khử bỏ ngã, ngã sở, nhân nên mặc áo giáp giác đức. Những vị Chánh sĩ này hiểu rõ các pháp không ngã, ngã sở, nhân, nhưng vì khai hóa dẫn dụ nên trụ ở ngã, ngã sở, nhân, mạng, liên hệ đến lời nói của ông, ai được thọ ký? Các ông lý giải được con người rỗng không, vô ngã thì đã được thọ ký, quán tất cả các pháp bình đẳng… tịch tĩnh tức là thọ ký. Các cõi Phật bình đẳng… mà không chấp thủ, lòng thanh tịnh không cấu bẩn tức là thọ ký. Trí tuệ quan sát các Đức Phật… đạo của chư Phật chẳng hoại pháp giới tức là thọ ký. Đối với các ma… tất cả ma đối với trần hay vô trần hiểu rõ gốc của tâm rồi tức là thọ ký. Không danh, không tướng, không có sự ứng hợp nào chẳng ứng hợp, không niệm gì chẳng niệm, chẳng thọ, chẳng xả tức là thọ ký.

Đức Phật nói với Long vương:

-Ý thức của tâm ấy không chỗ trụ lập tức là thọ ký. Các pháp như vậy do không nhân duyên, các pháp vốn chân thật. Hiểu rõ các pháp bình đẳng không khác thì thành đạo Vô thượng chánh chân. Tìm cầu rốt ráo vốn không có thọ ký và thành Phật đạo, hoặc đang thọ ký hoặc thọ quyết rồi. Vì sao? Vì các pháp không hình dáng, gốc ngọn đều đoạn dứt hết đều không có chủ. Tất cả các pháp theo nhân duyên chuyển biến.

-Các pháp như hư không, không từ tướng sinh vậy.

-Các pháp không từ tướng sinh, không chỗ tướng đến.

-Các pháp không từ đâu đến, suy xét thì vốn rỗng không vậy.

-Các pháp không chỗ đến do chưa phát khởi vậy.

-Các pháp không chỗ trụ, chẳng có xứ sở vậy.

-Các pháp đều rỗng không do không thân

-Các pháp không chấp trước do không nương tựa.

-Các pháp không chỗ nương tựa nên chẳng động.

-Các pháp chẳng thể động vì không xứ sở.

-Các pháp tự nhiên không ngôn giáo.

-Các pháp không ngôn giáo vì không sắc tướng.

-Các pháp không sắc tướng vì không ý nghĩ.

-Các pháp không niệm vì không nhân duyên.

-Các pháp không nhân duyên nên không vận hành.

-Các pháp không vận hành do tịch nhiên.

-Các pháp tịch nhiên nên không chấp ấm.

-Các pháp không chấp ấm vì vốn thanh tịnh rỗng không.

-Các pháp thoát khỏi tướng vì không hai.

-Các pháp không hai.

-Các pháp là không hai vì vốn là một.

-Các pháp vốn là một nên lìa khỏi số lượng.

-Các pháp bình đẳng không sai khác vì giác ngộ bình đẳng.

Đức Phật nói với Long vương:

-Hiểu các pháp… không thọ ký thì chẳng thành Đẳng giác, vả lại, quan sát như vậy thì Như Lai hưng khởi Từ bi vô cực kiên cố và sức khuyến hóa các Bồ-tát. Như vậy, các pháp dùng vô lượng số là vì người giải nói, nhóm họp nên có số, đối với các pháp quán, không có pháp giải thoát người, cũng chẳng độ. Người như pháp thì người cũng “Như”, đạo cũng “Như”, Phật cũng “Như”, thọ ký cũng “Như”, các pháp cũng “Như”, vậy nên nói rằng Như Lai thấu rõ đến bản vô, trụ ở bản vô mà chẳng thể động nên nói rằng, bản vô vốn không hình tượng, vốn không hoại.

Hiểu rõ bản vô nên nói rằng Như Lai. Vì là Như Lai nên trụ bình đẳng với bản vô. Các pháp trụ bình đẳng như bản vô. Đó là địa vị trụ bình đẳng của Như Lai. Nếu Bồ-tát nghe lời nói đó chẳng sợ chẳng kinh, chẳng cho là khó mà nên đem địa vị trụ bình đẳng của Như Lai vì người giải nói.

Khi Đức Phật nói điều đó, ba ngàn Bồ-tát đều được pháp nhẫn, vua rồng A-nậu-đạt rất vui mừng, dùng chuỗi ngọc trắng giá trị tương đương cả cõi đời này dâng lên Đức Phật.

Phẩm 14: NỮ BẢO CẨM ĐƯỢC THỌ KÝ

Bấy giờ, Long vương có công chúa tên là Bảo Cẩm Ly Cấu Cẩm, đoan chánh đẹp đẽ, dung nhan tinh anh diễm lệ cùng với hàng vạn phu nhân của loài rồng đều dùng tay phải cầm chuỗi ngọc, một lòng chiêm ngưỡng Đức Phật chưa hề chớp mắt, lễ Đức Phật rồi an trụ.

Công chúa Bảo Cẩm và hàng vạn phu nhân đem chuỗi ngọc dâng lên Đức Phật Thế Tôn, đồng thanh khen rằng:

-Hôm nay, chúng con đều đồng tâm phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Đời sau chúng con được làm Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, chúng con sẽ nói kinh pháp, hộ trì chúng Tăng như Đức Như Lai hôm nay.

Đến đây, Hiền giả Đại Ca-diếp nói với công chúa và các phu nhân rằng:

-Vô thượng Chánh giác rất khó đạt được, thân nữ thì không thể được thành Phật đạo!

Long nữ Bảo Cẩm nói với Tôn giả Đại Ca-diếp rằng:

-Tâm chí vốn tịnh, hành đạo Bồ-tát thì được làm Phật không khó! Việc phát tâm đạo thành Phật đó như quan sát lòng bàn tay! Vừa dùng khả năng phát khởi những tâm thông tuệ thì liền nhiếp lấy tất cả Phật pháp.

Long nữ Bảo Cẩm nói với Tôn giả Ca-diếp:

-Lại như điều Tôn giả nói, chẳng thể bằng thân nữ mà được thành Phật đạo, thì thân con trai cũng chẳng thể được. Vì sao? Vì tâm đạo ấy thì không nam không nữ. Như Đức Phật đã nói, suy xét đối với mắt thì không nam, không nữ, tai, mũi, miệng, thân, tâm cũng như vậy không nam, không nữ. Vì sao?

Thưa Tôn giả! Vì mắt rỗng không, xét mắt đã rỗng không thì không nam, không nữ. Tai, mũi, miệng, thân, tâm đều rỗng không. Như vậy hư không và tịch tĩnh không nam, không nữ. Nếu có thể hiểu rõ, phân biệt cái gốc của mắt thì gọi là đạo. Tai, mũi, miệng, thân tâm cũng lại như vậy, suy xét đối với đạo thì không có pháp nam, nữ. Vậy nên, thưa Tôn giả Ca-diếp! Lại như các pháp đều ở tại tự nhiên, đạo cũng tự nhiên, tôi cũng tự nhiên.

Tôn giả Ca-diếp hỏi Long nữ:

-Nàng chính là đạo sao?

Long nữ đáp rằng:

-Thưa Tôn giả! Tôn giả cho là tôi chẳng phải là đạo ư?

Tôn giả Ca-diếp đáp rằng:

-Tôi chẳng phải Phật đạo mà chính là Thanh văn vậy!

Long nữ lại hỏi rằng:

-Ai khai hóa cho ngài?

Đáp rằng:

-Đức Như Lai!

Long nữ nói rằng:

-Giả sử Đức Như Lai chẳng thành Chánh giác thì có thể khai hóa cho Trưởng lão chăng?

Đáp rằng:

-Chẳng thể vậy!

-Vậy nên, Tôn giả nên biết rằng, ngay đó tức là đạo, không gì chẳng giác ngộ đạo!

Tôn giả Ca-diếp hỏi Long nữ rằng:

-Ngược lại là đạo ư?

Đáp rằng:

-Vâng, thưa Tôn giả Ca-diếp! Trái ngược tức là Đạo! Tại sao? Vì khác bản tịnh có thể hiểu rõ! Đạo thì không hiểu trái ngược. Trái ngược bản tịnh thì gọi là Đạo. Rỗng không là vốn không, phân biệt các trái ngược thì gọi là đạo. Giả sử các pháp có hợp có tan thì chẳng phải đạo vậy. Tất cả pháp bình đẳng thuận theo, ứng hợp thì mới là đạo.

Tôn giả Ca-diếp hỏi Long nữ rằng:

-Ai đem biện tài như thế này cho nhau?

Long nữ đáp rằng:

-Tôn giả Ca-diếp cho tôi biện tài! Vì giả sử Tôn giả chẳng hỏi đến tôi thì tôi nương vào cái gì mà phát khởi biện tài? Ví như Tôn giả Ca-diếp không có kêu lên thì nhờ vào đâu có tiếng vang đáp lại. Giả sử Tôn giả không hỏi về nghĩa Bồ-tát thì không có nhân duyên phát khởi biện tài.

Tôn giả Ca-diếp hỏi Long nữ:

-Nhân giả cúng dường được bao nhiêu Đức Phật?

Long nữ đáp rằng:

-Như Tôn giả đã đoạn trần lao rồi chứ?

Tôn giả Ca-diếp đáp:

-Tôi chẳng đoạn trần lao!

Long nữ lại hỏi:

-Tôn giả vẫn có trần lao nhơ uế sao?

Tôn giả Ca-diếp đáp rằng:

-Tôi không có trần lao, cũng chẳng đoạn vậy.

Long nữ lại hỏi rằng:

-Các trần lao đặt ở đâu?

Đáp rằng:

-Chẳng khởi, chẳng diệt, cũng không chỗ đặt! Hiểu được như đây là như bản vô vậy!

Lại hỏi:

-Bản vô chắc có thể biết sao?

Đáp rằng:

-Chẳng biết vậy!

Lại hỏi:

-Vì sao Tôn giả nói rằng, tuệ ấy như đạo, như sở tri, sáng tỏ vô vi, biết như đây là như hiểu được bản vô. Vậy nên gọi là tuệ cùng phàm phu bình đẳng.

Lại hỏi Long nữ rằng:

-Biện luận của Nhân giả là đoạn dứt tất cả lời nói?

Đáp rằng:

-Tôi không có cái để đoạn, cũng không có lời nói! Vì sao? Vì pháp giới không có cái để đoạn. Tất cả điều nói ra đều ứng với pháp giới.

Tôn giả Ca-diếp lại hỏi Long nữ rằng:

-Chúng ta đối với pháp phàm phu chắc chẳng có gì nghi ngờ ư?

Long nữ đáp rằng:

-Giả sử lập pháp tuệ phàm phu của Tôn giả đều khác thì tôi sẽ có nghi ngờ. Tôi gọi Tôn giả là phàm phu không khác, do vậy không nghi ngờ. Các pháp đều bình đẳng, không có nhiều nên đó gọi là bình đẳng. Như hư không thì đó gọi là bình đẳng.

Lại hỏi Long nữ rằng:

-Nàng đối với phàm phu ngang bằng Hiền thánh sao?

Đáp rằng:

-Tôi chẳng phàm phu, cũng chẳng phải Thánh hiền. Vì sao? Vì giả sử thân chúng tôi bình đẳng với phàm phu, chẳng hành đạo Bồ-tát mà giả sử bình đẳng Hiền thánh thì đoạn dứt Phật pháp.

Lại hỏi Long nữ rằng:

-Giả sử nàng chẳng bình đẳng như phàm phu, cũng chẳng bình đẳng Thánh hiền thì chắc bình đẳng với Đức Phật ư?

Long nữ đáp rằng:

-Chẳng như vậy! Vì sao? Vì thân tôi vốn chẳng bình đẳng đối với Phật pháp.

Lại hỏi Long nữ rằng:

-Giả sử nàng bình đẳng đối với Phật pháp thì chắc nàng đạt được Phật pháp rồi ư?

Long nữ đáp rằng:

-Tôn giả là bậc Trưởng lão, chắc Tôn giả tin Phật pháp có duyên quá khứ, vị lai và hiện tại sao? Có phương tiện ư? Có chỗ ở xanh vàng, đỏ, trắng, đen chăng?

Đáp rằng:

-Pháp của các Đức Phật không có hình mạo!

Long nữ đáp rằng:

-Giả sử pháp của chư Phật không có hình mạo thì sao theo tôi mong cầu?

Tôn giả Ca-diếp hỏi:

-Phật pháp phải cầu ở đâu?

Đáp rằng:

-Phải ở trong sáu mươi hai kiến mà cầu?

Lại hỏi:

-Sáu mươi hai kiến phải cầu ở đâu?

Đáp rằng:

-Phải ở trong giải thoát của Như Lai mà cầu!

Lại hỏi:

-Giải thoát của Như Lai phải cầu ở đâu?

Đáp rằng:

-Phải ỏ trong ngũ nghịch mà cầu!

Lại hỏi:

-Ngũ nghịch phải cầu ở đâu?

Đáp rằng:

-Phải ở độ tri kiến mà cầu!

Lại hỏi:

-Lời nói này nghĩa là sao?

Long nữ đáp rằng:

-Không trói, không mở, không chấp thủ, không xả bỏ… đây là căn bản thanh tịnh. Đó là lời dạy sâu sắc của các pháp, chẳng phải ngần ấy lời nói.

Lại hỏi Long nữ rằng:

-Lời dạy đó chẳng trái lời nói của Đức Như Lai ư?

Long nữ đáp rằng.

-Đó là lời nói chân thật, chẳng bị trái lỗi với lời dạy của Đức Như Lai. Vì sao? Vì đạo của Như Lai không có chứng đắc, cũng không thể nắm giữ, cũng không lời nói. Tất cả lời nói ra đều là âm thanh vậy. Hiểu rõ gốc đạo cũng không âm thanh.

Thưa Tôn giả! Hiểu thấu đạo tịch nhiên không dấu tích. Vì gọi là dấu tích mà tự vướng vào dấu tích.

Tôn giả Ca-diếp lại hỏi:

-Giả sử đạo không dấu tích, như vậy so sánh với nhau sao gọi là thành Tối chánh giác?

Đáp rằng:

-Cũng chẳng từ thân, cũng chẳng từ ý mà được thành Tối chánh giác! Vì sao? Vì thân tâm tự nhiên mới thành đạo vậy. Tự nhiên ấy thì đều không giác ngộ. Tôi tức là đạo, chẳng vì là đạo mà thành Tối chánh giác.

Tôn giả Ca-diếp hỏi Long nữ rằng:

-Nhân giả thiết lập đạo này, sao chẳng chuyển bánh xe pháp?

Long nữ đáp rằng:

-Tôi chuyển bánh xe pháp vậy!

Tôn giả Ca-diếp hỏi rằng:

-Nhân giả chuyển bánh xe pháp thuộc loại nào?

Long nữ đáp rằng:

-Bánh xe không động, xa lìa tất cả những sự nương trụ. Pháp luân ấy gọi là Pháp giới trụ. Cái vốn không pháp luân là thuận với bản vô vậy.

Không đoạn dứt pháp luân là như vốn trụ thanh tịnh vậy.

Không chấp trước pháp luân là hiểu rõ tất cả các pháp, không chấp trước vậy.

Không có hai pháp luân là bình đẳng với tất cả pháp.

Không ngần ấy pháp luân là nhẫn một hạnh.

Pháp luân vô ngôn là hóa hiện các âm thanh đều không có tưởng, vào một vị.

Pháp luân thanh tịnh là tất cả không trần cấu.

Đoạn dứt các “pháp luân bất điều” là chẳng còn hữu thường, vô thường.

Pháp luân không loạn là giỏi quan sát báo ứng.

Pháp luân chí thành là không khởi, không diệt.

Pháp luân không vô là vô tướng, vô nguyện vậy.

Thưa Tôn giả Ca-diếp! Pháp luân đã như vậy thì chuyển chỗ nào?

Tôn giả Đại Ca-diếp nói rằng:

-Như biện tài của Nhân giả thì chẳng bao lâu sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân làm Tối chánh giác!

Long nữ đáp rằng:

-Giả sử khi ngài Ca-diếp thành Tối chánh giác thì tôi cũng sẽ thành Tối chánh giác.

Tôn giả Ca-diếp đáp rằng:

-Tôi nhất định chẳng được thành Tối chánh giác!

Long nữ đáp rằng:

-Rõ Pháp thân như vậy thì đạo trụ ở không chỗ trụ, không thể được đạt thành Tối chánh giác!

Khi Long nữ nói lời đó, năm trăm vị Bồ-tát chứng được Pháp nhẫn, đồng thời được Đức Phật khen rằng:

-Hay thay, hay thay! Ngươi nói pháp này hay lắm!

Bấy giờ, trong chúng hội trời, rồng, quỷ thần, thần Vô Thiện, thần Hương Âm… tự nghĩ: “Long nữ Bảo Cẩm đó khi nào sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân làm Tối chánh giác”?.

Đức Phật biết ý nghĩ của các trời, rồng, thần, thần Hương Âm… nên bảo các vị Tỳ-kheo rằng:

-Long nữ Bảo Cẩm này sau ba trăm lần chẳng thể kể kiếp sẽ được làm Phật hiệu là Phổ Thế Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Quang minh, kiếp là Thanh tịnh. Ánh hào quang của Đức Như Lai ở thế giới Quang minh ấy luôn rất sáng. Đức Phật có chín mươi hai ức Bồ-tát và Ngài sống lâu mười tiểu kiếp.

Đến đây, một vạn hoàng hậu của vua rồng bạch Đức Phật rằng:

-Khi Đức Như Lai Phổ Thế được làm Phật thì chúng con nguyện vãng sinh về nước đó.

Đức Phật liền thọ ký cho họ sẽ vãng sinh về nước ấy.

Phẩm 15: TRỜI ĐẾ THÍCH

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Đức Thế Tôn rằng:

-Trời Đao-lợi này thường ôm nạn sợ sệt thần Vô Thiện. Khi trời cùng với thần Vô Thiện chiến đấu, tranh nhau mang sự oán kết ấy đều có mầm độc sân hận. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót chúng sinh! Nhân các thần Vô Thiện đều đến trong hội với chư Thiên của cõi Đao-lợi, xin Ngài khiến chọ họ hòa thuận với nhau!

Đức Phật bảo thần Vô Thiện Yến Cư, thần Vô Thiện Cuống Trá Siêu Độ Ly Cấu Cẩm rằng:

-Này các ông! Lòng nhân từ ấy các Đức Phật đã ngợi khen! Người hay làm nhân từ thì đời này và đời sau được đầy đủ lợi ích. Thân mạng ấy rất ngắn, rồi sẽ đến đời sau, hội hợp thì có chia ly, đất nước giàu sang đều về với vô thường, thân của các ông cũng chẳng khỏi hoạn nạn này!

Phải quán sát đến đời sau mà hòa thuận đồng lòng, không được ôm sân hận! Tạo tội phước là sự đáp lại của nhân duyên.

Đến đây, Đức Thế Tôn vì họ nói lên lời Từ bi thắm thiết khiến cho thần Vồ Thiện và trời Đao-lợi đều hòa giải với nhau. Họ đều tự nói rằng:

-Bắt đầu từ hôm nay, chúng con sẽ là thân hữu hòa thuận với hành động bình đẳng đều mang lòng từ xót thương, không có ý sân nhuế!

Đức Phật dạy rằng:

-Hay thay, hay thay! Hành động các ông chính là cúng dường Như Lai bậc nhất! Vì các ông thực hành lòng từ vậy!

Khi Đức Phật nói lời nói đó là đã dạy họ tạo ra phước hòa thuận, chẳng tranh cãi. Đó gọi là Tam-muội Từ tâm. Có bốn việc tôn kính Như Lai? Những gì là bốn?

1. Chẳng trái phạm giới.

2. Thân, miệng, ý Bi.

3. Chẳng đoạn dứt Tam bảo, chí nguyện ở Phật đạo.

4. Theo đúng như pháp đã nghe mà vì người giảng nói.

Đó là bốn việc tôn kính Như Lai, là cúng dường vậy.

Đến đây, hai vạn ba ngàn chư Thiên, thần Vô Thiện ở trong hội, nghe nói lời này đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

***

Phẩm 16: KIM SÍ ĐIỂU (CHIM CÁNH VÀNG)

Bấy giờ, có các vua rồng, một tên Hấp Khí, hai tên là Đại Hấp Khí, ba tên là Hùng Bi, bốn tên là Vô Lượng Sắc, bạch Đức Thế Tôn rằng:

-Vô số loài rồng ở trong biển này, với ngần ấy chủng loại do quả báo của nhân duyên hành động mà lại sinh đến đây. Hoặc có loài lớn, hoặc có loài nhỏ, hoặc có loài ốm yếu… nhìn thấy đã khinh nhờn. Có bốn giống chim cánh vàng thường ăn thịt loài rồng ấy và vợ con của loài rồng. Các chủng loại rồng trong biển sợ sệt, nguyện xin Đức Phật ủng hộ, khiến cho các rồng biển được yên ổn, chẳng sợ sệt.

Đến đây, Đức Thế Tôn cởi y trên người và bảo vua rồng biển rằng:

-Ông hãy lấy y của Như Lai phân chia cho các vua rồng, làm sao cho đều cùng khắp. Vì sao? Vì ở trong biển lớn này chỉ đặt một sợi của y này thì vua chim cánh vàng cũng chẳng thể xúc phạm. Vì sở nguyện của người trì cấm giới thì nhất định phải được.

Lúc ấy, các vua rồng lớn đều ôm lòng lo sợ. Họ đều nghĩ rằng: “Y của Đức Phật rất nhỏ nhoi mà chia khắp hết các rồng trong biển lớn thì đâu có được”?.

Đức Phật biết được sự hoài nghi lo sợ của các vua rồng nên bảo vua rồng biển rằng:

-Giả sử nhân dân trong tam thiên đại thiên thế giới đều được chia phần y của Như Lai thì nhất định y ấy chẳng giảm, chẳng hết. Họ muốn lấy y thì ví như hư không, tùy theo ước muốn của họ mà tự nhiên sinh ra. Sự kiến lập của Phật chẳng thể nghĩ bàn! Công đức lồng lộng, y ấy như việc này vậy.

Vua rồng biển liền nhận lấy y của Đức Phật mà tự chia làm vô lượng số trăm ngàn mảnh. Mỗi một phần đều chia cho các vua rồng. Cung vua rồng tùy theo nơi ấy rộng hẹp, lớn nhỏ tự nhiên cấp cho mà y ấy vẫn như cũ, nhất định chẳng hết. Đến đây, vua rồng biển bảo các vua rồng rằng:

-Các ông phải kính y này như kính Đức Thế Tôn, như kính tháp, chùa. Vì sao? Vì hôm nay, y này là đồ mặc của Đức Như Lai. Do đó, nên nói là như kính tháp chùa vậy. Giả sử, tất cả cúng dường Đức Như Lai so với việc phụng thờ y này thì ngang bằng, không sai khác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua rồng biển rằng:

-Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời nói của ông! Người phụng thờ y này tức là cúng dường Như Lai! Ông hãy xem các rồng và vợ con loài rồng, tất cả đều có được phần y của Như Lai không?

Đáp lại rằng:

-Thưa vâng, con đã thấy!

Đức Phật dạy rằng:

-Ta đều thọ ký thì họ liền thoát khỏi thân rồng, ở kiếp Hiền này, trừ người có chí Đại thừa, còn các rồng khác đều không vướng mắc sẽ vào Niết bàn. Như vậy, này Long Vương! Như Lai còn tại thế thì tất cả chúng sinh phát một tâm thiện, nhân duyên sẽ đạt đến quả Phật, chưa từng có mất đi.

Bấy giờ, các rồng và vợ con loài rồng ở trong biển hớn hở vui mừng, kính lễ trước Đức Phật đồng thanh nói rằng:

-Lời nói của Đức Như Lai không có hai, rất thành thật, chẳng hư dối! Ngài đã thọ ký cho chúng con, đạt đến giải thoát vô vi. Chúng con hôm nay ở biển lớn, quy y Phật, Pháp và các Thánh chúng, thọ trì cấm giới, kính thuận Đức Như Lai, là ý nghĩa của sự quay về.

Đức Như Lai còn ở đời, chúng con luôn luôn đi đến yết kiến Đức Phật, cúi đầu, lắng nghe, thâu nhận nghĩa pháp. Sau khi Đức Phật vào Niết-bàn thì chúng con cúng dường xá-lợi. Chúng con đem tất cả mọi thứ để phụng sự xá-lợi của Đức Thế Tôn!

Đến đây, vua bốn loài chim cánh vàng nghe sự kiến lập của Đức Phật, sợ hãi mau chóng đi đến trước chỗ Đức Phật, cúi đầu dưới chân kêu rằng:

-Tại sao Đức Thế Tôn đoạt mất phần ăn của chúng con?

Đức Phật dạy rằng:

-Tóm lại có bốn thứ ăn buộc phải đến ba nơi. Những gì là bốn?

1. Chăng lưới săn cầm thú, tàn hại bầy vật nuôi, sát sinh hại mạng dùng làm đồ ăn thức uống thì đó là đến chỗ ác.

2. Cầm đeo gậy gộc, dao, xà mâu… chặt đâm, bức bách, xô xát bắn giết để cướp đoạt của cải người khác mà ăn uống thì đó là đến chỗ ác.

3. Tham tiếc, dua nịnh, tối loạn, phạm cấm giới, tà kiến, khéo lừa dối để được ăn thì đó là đến chỗ ác.

4. Chẳng phải thầy xưng là thầy, chẳng phải Thế Tôn xưng là Thế Tôn, rơi vào tà xưng là chánh, chẳng phải tịch tĩnh xưng là tịch tĩnh, chẳng phải thanh tịnh xưng là thanh tịnh, chẳng phải phạm hạnh xưng là phạm hạnh… Tự xưng dối trá để cầu mà được ăn.

Đó là bốn thứ ăn buộc phải đến ba chỗ ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Lời nói pháp của ta là trừ diệt bốn thứ ăn này. Chẳng phải vì nuôi dưỡng tấm thân này mà hại mạng của chúng sinh. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều tự yêu thân mạng, không ai tự ghét. Cho nên, muốn tự hộ trì thân thì phải hộ trì người khác, làm yên ổn chúng sinh. Như vậy, người thông minh chẳng dùng nguy hại bức bách người, điều chẳng nên làm, thận trọng chớ làm vậy.

Bấy giờ, vua của bốn loài chim cánh vàng đều cùng với hàng ngàn quyến thuộc, bạch Đức Phật rằng:

-Hôm nay chúng con tự quy y Phật, Pháp và Tăng chúng. Bắt đầu từ đây, chúng con sám hối tội lỗi đã phạm từ trước và phụng trì cấm giới. Bắt đầu từ hôm nay, chúng con thường dùng vô úy bố thí cho tất cả rồng, ủng hộ chánh pháp đến chừng nào Phật pháp còn trụ, tương thuận đạo pháp cho đến diệt tận, chẳng trái lời dạy của Đức Phật.

Đức Phật bảo bốn vua chim cánh vàng rằng:

-Thân các ông, thời Đức Phật Kim Nhân là bốn Tỳ-kheo tên là Hân Lạc, Đại Hân Lạc, Thượng Thắng, Thượng Hữu. Bốn vị Tỳ- kheo đó trái phạm giới pháp, tham đồ cúng dường, chí say mê hoặc, theo thân hữu trục lợi giàu sang, ý loạn ngã, ngã sở, rơi vào tà kiến, khinh các Tỳ-kheo, bức bách não hại họ, chẳng hộ trì thân, miệng, ý, làm nhiều việc ác. Nhưng các ông cúng dường Đức Phật Kim Nhân cũng nhiều chẳng thể kể. Do đó, nên các ông chẳng bị đọa vào địa ngục mà đọa vào loài cầm thú này. Trước sau, các ông sát sinh nhiều chẳng thể kể xiết, bị nhiều sự sợ hãi vì chẳng tự hộ trì.

Ngay tức thời, Đức Thế Tôn liền như hình dáng ấy mà hiện thần túc khiến cho bốn vua chim cánh vàng biết được đời trước mà họ đã cúng dường Đức Phật Kim Nhân và các đệ tử, việc làm phước tội đều nhớ ra được hết, mắt nhìn đều thấy việc làm của đời trước, họ bạch Đức Thế Tôn rằng:

-Tâm ấy cứng cỏi khó có thể điều phục, buộc lòng tham lam ghen ghét tạo nhiều điều nguy hại trái lời dạy tôn quý của Đức Phật Kim Nhân. Chúng con hôm nay bắt đầu nguyện, thà mất thân mạng chẳng dám phạm điều ác!

Đức Phật vì họ nói Kinh và thọ ký cho họ rằng:

-Thời Đức Phật Di-lặc, các ông đều sẽ được độ tại pháp hội thứ nhất.

Phẩm 17: XÁ-LỢI

Bấy giờ, vua rồng biển và tất cả rồng bạch Đức Phật rằng:

-Bạch Thế Tôn, thật chưa từng có! Những điều thuyết giảng của Đức Như Lai làm yên ổn khắp tất cả, Ngài đã thọ ký cho các rồng và khai hóa quyến thuộc đều phát ý đạo. Ngài lại gia ân bố thí y cho các rồng. Các rồng đều đem đồ cúng dường cúi đầu phụng sự. Nhờ đó được hộ trì, rồi nhân đó phát ý đạo, thương xót chúng sinh, tu theo bốn Đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, hưng long bốn ân, bố thí, nhân ái, lợi người lợi cho tất cả, cứu tế tụ hợp. Do hạnh đức này mà cát chẳng trút xuống thân, lìa khỏi mọi hoạn nạn.

Lại khi ý tịch tĩnh chẳng mất thân trời, biến làm loài rắn, đến bữa ăn sau cùng, chẳng gặp được ễnh ương, vua chim cánh vàng chẳng bắt ăn thịt. Đức Phật giáo hóa bốn loài chim đều hiểu biết đời trước.

Thời Đức Phật Kim Nhân làm bốn Tỳ-kheo, hành động hung bạo, chẳng thuận chánh pháp, bức bách người đồng học, nên đọa làm chim cánh vàng, tự bắt đầu hối lỗi, đổi lòng, thay hạnh, phát ý đạo lớn, hành bốn Đẳng tâm, chẳng hại quần sinh. Do được hộ trì tốt nên chúng con mãi được yên ổn, chẳng bị ăn thịt nữa, chí chẳng mang lo sợ, đêm dài không nạn đều là nhờ ân Đức Phật.

Hôm nay Đức Như Lai nhận lời mời của vua rồng, đã diễn bày sự che chở rộng rãi. Ví như hư không, không đâu chẳng che. Đến đây, Đức Thế Tôn trở lại cõi Diêm-phù-lợi thì các rồng ở trong biển không nơi quy ngưỡng. Kính xin Ngài gia thêm đại Bi, sau khi Đức Phật diệt độ, xin Ngài lưu lại toàn thân xá-lợi ở tại biển này để cho tất cả mọi loài đều được cúng dường hoa hương, âm nhạc, quần áo, cờ phướn… mà chuyển thêm công đức, mau thoát khỏi thân rồng, chóng được đạo Vô thượng chánh chân, tiếp tục được cứu tế.

Xin Đức Phật rủ lòng ban ân, tăng thêm uy đức để ước nguyện chúng con được kết quả!

Đức Phật dạy rằng:

-Hay thay! Ta theo chí nguyện của các ngươi!

Lúc ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với các con của rồng:

-Này các ông! Các ông chớ kiến lập tấm lòng này! Nó làm phương hại, phế bỏ tất cả mọi đức! Vì sao? Vì sau khi Đức Phật vào Niết-bàn thì xá-lợi được phân bố cho tám phương và phương trên phương dưới. Trời, rồng, quỷ, thần, tất cả nhân dân… những loài người, vật đi, bò, hít thở đều sẽ cúng dường hương hoa, âm nhạc, cúi đầu tự quy y. Xá-lợi ấy biến hóa hiện ánh hào quang người nhìn thấy vui mừng, biết được uy thần Đức Phật lồng lộng vô cực. Nhờ lòng tin đó, họ đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Rồi hoặc thành Duyên giác, hoặc thành Thanh văn, hoặc sinh lên cõi trời hay trở lại được làm thân người, họ cùng với pháp gặp nhau, đời đời được độ. Xét như vậy thì khắp nơi nhờ được cứu tế.

Hôm nay, các ông đều tự cầu nguyện khiến Đức Thế Tôn ở tại biển cả mà diệt độ, cung cấp cho các ông toàn thân xá-lợi để độc quyền phụng hầu, thỏa lòng mong muốn, còn tất cả chúng sinh thì nhờ vào đâu mà được độ? Họ vĩnh viễn bị khôn cùng ách nạn, không một lần cứu hộ. Vì vậy ta nói rằng, chớ phát tấm lòng này, khiến Đức Phật Thế Tôn ở trong biển diệt độ để độc quyền phụng sự toàn thân xá-lợi mà cúng dường ư?

Các rồng đáp rằng:

-Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Tôn giả chớ nói lên lời nói ấy! Không lấy cái trí giới hạn ngăn ngại của thân mình để giới hạn trí vô cực của Như Lai. Đạo Thánh công đức Như Lai tự tại, không gì chẳng biến hiện, không xa, không gần, không đó, không đây, đi khắp mười phương.

Đạo thánh ấy như hư không. Trong khoảnh khắc phát ý có thể khiến cho cung điện của các rồng thần trong biển, khu vực, quận nước, huyện ấp, gò đống, trong loài người, đồng trống, trên trời, thế gian của tam thiên đại thiên thế giới, mỗi mỗi đều hóa hiện ra toàn thân xá-lợi của Đức Phật cho tất cả được cúng dường mà ở thân thể Đức Phật chẳng tăng chẳng giảm. Đức Phật phân thân ở vô số cõi Phật trong mười phương mà cũng không phân thân, hiện khắp tất cả mà chẳng đi chẳng lại. Ví như bóng mặt trời hiện ở trong nước, Đức Phật cũng chẳng sinh ra, cũng chẳng diệt độ thì làm sao muốn giới hạn tuệ của Như Lai ư? Muốn giới hạn tuệ của Như Lai là giới hạn hư không?

Tôn giả Tu-bồ-đề nghe các Long tử khen ngợi đức của Như Lai vô cùng vô cực, chẳng thể ví dụ, lặng thinh không nói.

Các rồng trong biển, chư Thiên trên hư không và các quỷ thần rất đỗi vui mừng đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Đức Phật khen ngợi các rồng con rằng:

-Hay thay, hay thay! Các ông là gương soi sáng! Thật đúng như lời nói không có khác vậy. Phật đạo cao diệu không bờ không cõi, không vuông không tròn, không rộng không hẹp, không xa không gần… ví như hư không không thể làm ví dụ.

Phẩm 18: PHÁP CÚNG DƯỜNG

Đến đây, Đức Thế Tôn bảo vua rồng biển rằng:

-Việc giáo hóa ở biển lớn của ta đều đã chu tất, ta muốn trở về tinh xá.

Đức Phật liền đứng dậy cùng với đại chúng, theo thềm báu ra khỏi biển lớn. Ngài dùng trang nghiêm vô cực, uy thần rộng khắp trụ ở bờ biển. Lúc ấy, thần biển lớn tên là Quang Diệu liền dùng kệ khen ngợi rằng:

Thân ba mươi hai tướng

Được trời người cung kính

Thần Vô Thiện phụng kính

Cúi đầu Đấng Nhân Tôn.

Sáng như hoa trăm cánh

Giống như vầng trăng tròn

Đức thanh tịnh siêu tuyệt

Cúi đầu xin ban an.

Dung nhan đẹp thù diệu

Tướng trăm phước công đức

Tuệ đức Độ vô cực

Cúi đầu Thầy dẫn đường

Bố thí cho điều thuận

Tích lũy giới sạch trong

Sức nhãn nhục tối thắng

Cúi đầu Đấng Thế Tôn!

Vượt khỏi sức tinh tấn

Thiền định nghĩ thanh tịnh

Trí tuệ như hư không,

Cúi đầu xin về nương

Hành Từ tâm bình đẳng

Tu Bi nhiếp chúng sinh

Tâm Hỷ, thầy dẫn đường

Hộ trì qua bờ kia!

Tiếng hay như ai loan

Lời nói hơn tiếng Phạm

Âm vang ấy nhu nhuyến

Nguyện cui đầu kính lễ

Hàng phục được ma oán

Sức ấy không ai bằng

Tuân tu nguyên đạo pháp

Ba cõi thờ cúng dường

Tịnh trừ được ba cấu

Giảng ba pháp giải thoát

Danh vang ba ngàn cõi

Nên cúi đầu kính lễ

Thiện nguyện rất thành thật

Các pháp vượt lên trên

Hơn hẳn vua các nước

Của cải thường ban phát

Đã lìa bụi dua nịnh

Uy thần cao lồng lộng

Mặt sáng rất thù diệu

Nên con cúi lễ mừng

Tâm bền như kim cang

Ví như núi Tu-di

Ý chí giống như đất

Cúi đầu Đức như biển!

Vì người nói nghĩa Không

Thường tịnh Độ vô cực

Lòng bình đẳng sáng rực

Con nguyện tự về nương!

Khai diễn như cam lộ

Không đường đoạn dứt đường

Được người trời tôn kính

Cúi đầu Tối Thắng Tôn

Nghe trên trời, nhân gian

Danh xưng không thể sánh

Đức khắp chẳng thể lường

Cúi đầu Đấng Biển Đức

Lời nói như việc làm

Vì người nói bản hạnh

Vì mọi người giảng nói

Cúi đầu Đấng Điều Ngự

Vượt khỏi già bệnh chết

Chúng Hiền thánh cúng dường,

Diễn nói câu giải thoát

Cúi đầu nương theo Phật

Phân biệt tội phước ứng

Trừ tăm tối tà kiến

Vì hiện hạnh chánh đạo

Nương theo Đấng Tối Thắng

Đem kinh báu bố thí

Pháp lạc xét suốt thông

Lòng bình đẳng bạn, oán

Xin quy y Thế Tôn

Đạo sư Con ngợi khen

Với đức Độ vô cực,

Sở dĩ khen ngợi phước

Nguyện sau như Thế Tôn!

Đến đây, thần biển Quang Diệu nói bài kệ khen Phật này xong, hiển dương biển lớn, Đức Như Lai ra khỏi biển. Thần biển Vô Uy nguyện Đức Phật rủ lòng ra ân ban lời pháp giáo, khiến cho trong biển này, nhờ sự trang nghiêm ấy mà được độ thoát.

Đức Phật bảo thần biển rằng:

-Có mười pháp hạnh được đến trang nghiêm. Những gì là mười?

1. Hộ trì các căn được mười điều thiện thanh tịnh.

2. Chí ở tâm Từ chẳng hại chúng sinh.

3. Ý kiến lập đại Bi, phát khởi đạo Vô thượng chánh chân.

4. Tất cả bố thí dùng ngàn ấy hạnh trang nghiêm nguyện của mình.

5. Dùng đại tinh tấn đầy đủ thiện pháp, lòng thường tịch nhiên.

6. Chẳng trái gốc đức, ưa thích kinh pháp.

7. Trí tuệ thanh tịnh, dùng hạnh từ mẫn.

8. Khai hóa chúng sinh, kiến lập ở đức chân chánh.

9. Vào đến thù thắng đạt được an lạc.

10. Chứng được ý Phật, dẫn đường bằng lời Phật dạy.

Đó là mười pháp đạt đến trang nghiêm.

Thần biển lớn Quang Diệu cùng với hai vạn thiên thần phát ý đạo Vô thượng chánh chân đều cùng khen rằng:

-Hôm nay, Đức Phật đã đem trang nghiêm đến biển lớn này! Vì sao? Vì nếu phát khởi ý đạo tức là trang nghiêm ba ngàn thế giới, huống gì là biển ư? Chúng con đã phát những tâm thông tuệ, tất cả công đức trang nghiêm. Chúng con ở tại biển này, Đức Như Lai hiện tại hoặc sau khi diệt độ, chúng con cũng ủng hộ Phật pháp khiến cho pháp ấy được lưu truyền.

Đức Như Lai vào thành, thị hiện mọi trang nghiêm, dùng ân pháp hóa làm giảng đường.

Đức Phật bảo thần biển Quang Diệu rằng:

-Ông trước sau đã cúng dường hàng vạn Đức Phật và lập đại điện khắp nơi, lại còn ủng hộ chánh pháp. Ông, tiếp theo sẽ cúng dường các Đức Phật ra đời ở kiếp Hiền, sẽ dẫn đường Chánh pháp. Cuối kiếp Hiền rồi, ông sẽ sinh ra ở thế giới Diệu lạc, nước của Đức Phật Vô Nộ, chuyển thân nữ nhân được làm thân nam. Đức Như Lai Vô Nộ sẽ thọ ký cho ông thành đạo Vô thượng chánh chân.

Thần biển Quang Diệu nghe Đức Phật thọ ký, rất vui mừng, liền lấy chuỗi ngọc giá trị hơn cả báu của biển, tung lên trên Đức Phật mà khen rằng:

Phật dùng tiếng Thánh đế

Năng Nhân thọ ký con

Con do dự chẳng màng

Sau sẽ thành Phật chăng?

Dù khiến ba ngàn cõi

Kia dù có nát tan

Khiến trăng rơi xuống đất

Lời Phật nói chẳng quên.

Quẩn cảnh giới từ chí

Tinh tấn, lòng sạch trong,

Nay xét ta trang nghiêm

Cung kính nghĩa tuệ pháp.

Nhìn các hạnh an trụ

Giải quyết nghi bằng tuệ

Rõ lòng như sóng nắng

Lời nói rất thành thật

Trừ mọi khổ ban an

Mất mạng cứu lo sợ

Trị liệu không khó thêm

Cúi đầu Tối chánh giác

Độ thoát các đường ác

Quy mạng chiếu Thế Gian

Đạo sư sáng vô cùng

Cúi đầu đạo Phật nói

Nếu có nghe tiếng Phật

Các trời, người lợi ích.

Phật Pháp, hạnh sạch trong

Chí ở tại Phật đạo

Đường ác chẳng nương theo

Liền bỏ được tám nạn.

Sinh lên trời, nhân gian

Sau được dấu Tịch Nhiên.

Đến đây, con vua rồng tên là Thọ Hiện bạch Đức Phật rằng:

-Vô số trời, rồng, quỷ, thần, thần Hương Âm, thần Vô Thiện, thần Phượng Hoàng, thần Núi, thần Điềm Nhu cúng dường Đức Phật, đích thân con cũng sẽ cúng dường chút ít Đức Như Lai Chánh giác! Giả sử Đức Thế Tôn thương xót cho phép thì con sẽ hóa làm đại điện ví như cung điện tối thượng của trời Đao-lợi để Đức Phật và đệ tử đều ở trên điện ấy mà tiễn đưa đến núi Linh thứu.

Đức Thế Tôn nói rằng:

-Ông nên biết! Nguyện của ông thật đúng lúc!

Rồng con Thọ Hiện tự dùng thần lực, nương Thánh chỉ Phật hóa làm đại điện như cung điện của trời Đao-lợi.

Đức Phật và chúng hội đều ở trên điện ấy, ở giữa hư không, cùng với tám muôn bốn ngàn vua rồng, các hoàng hậu, tấu lên đàn cầm sắt, mưa xuống mọi loại hoa và tất cả các hương thơm, tiễn đưa Đức Thế Tôn đi đến núi Linh thứu. Con vua rồng biển cùng với mọi người trong cung, ở trước Đức Thế Tôn, cúi đầu quy y nguyện chu cấp chẳng sánh kịp. Vì sao? Vì sự hưng khởi cúng dường phải như báu ấy. Đức Phật là ruộng phước vô thượng của tất cả, Đức Thế Tôn là báu lớn. Giả sử A-la-hán đầy trong tam thiên đại thiên thế giới đều cúng dường họ đến trăm ngàn kiếp thì chẳng bằng phụng sự hầu hạ Đức Như Lai Thế Tôn. Con vua rồng biển lại hỏi Đức Thế Tôn:

-Sao gọi là Bồ-tát cúng dường Như Lai?

Đức Phật dạy rằng:

-Hãy lắng nghe! Hạnh Bồ-tát cúng dường Như Lai là lòng họ thanh tịnh, trừ diệt các lầm lỗi mà không dua nịnh, bản tánh tự nhiên, chẳng chấp trước tất cả các gốc thiện, không có lòng tổn hại, bình đẳng quan sát chúng sinh, trừ diệt lòng yêu tà, hành động tinh khiết, lời nói hành động tương ứng, chẳng lấn lướt, lừa dối đời, đủ trí Hiền thánh, uy nghi đức độ, bình đẳng với tất cả mà chẳng trái bỏ, đại nguyện Hiền thánh, ưa thích nơi thanh vắng, xả bỏ mọi não, tự điều phục lòng mình, nghe pháp tư duy, hiểu rõ chân lý.

Không ngã, không nhân không thọ, không mạng, thể nhập nghĩa không, vào khắp tịch diệt, quán không, không tướng, không nguyện, đạt đến ba pháp giải thoát. Pháp như vậy điều phục các tà, bỏ thường, vô thường, chẳng khởi chẳng diệt, chứng được pháp nhẫn, vốn thanh tịnh không nhân, không thân miệng ý, chí hành nhân duyên. Đó là đúng pháp cúng dường Như Lai.

Tạo tác thân, miệng, ý thì chẳng cúng dường, không có tạo tác, chẳng tiến chẳng lùi, thanh tịnh ba đạo tràng, bình đẳng với ba đời, trừ khử ba cấu, chẳng đắm trước ba cõi, vào ba cửa giải thoát, được ba đạt trí thì đó gọi là cúng dường Như Lai.

Vua rồng biển hỏi Đức Như Lai rằng:

-Nếu có người dùng hương hoa, hương trộn lẫn, hương bột, lọng báu, cờ phướn bằng lụa ngũ sắc, âm nhạc, y phục, các thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh… để cúng dường Như Lai thì có đúng pháp cúng dường không?

Đức Phật dạy rằng:

-Này Long vương! Tùy theo sự gieo trồng nào thì đều được những loại ấy. Sự cúng dường này chẳng làm cứu cánh! Lìa khỏi phiền não, gieo trồng gốc đức, đạt đến sự giải thoát của tâm Hiền thánh, chẳng làm điều không có đức thì chẳng đến được vô thượng. Bồ-tát có bốn việc đúng pháp cúng dường Như Lai. Những gì là bốn?

1. Chẳng bỏ tâm đạo, gieo trồng các gốc đức.

2. Tâm kiến lập đại Bi, tập hợp tuệ phẩm.

3. Kiến lập đại tinh tấn, nghiêm tịnh cõi Phật.

4. Vào pháp thâm diệu, tâm được pháp nhẫn.

Đó là bốn việc tôn kính Như Lai làm sự cúng dường vậy.

Bấy giờ, trong thành Vương-xá, từ Phạm chí, Trưởng giả và vô số nhân dân, Tôn giả, đại thần… lên đến vua A-xà-thế của nước Ma-kiệt nghe Đức Phật ở cung vua rồng biển lớn, được thỉnh trở lại núi Linh thứu thì bảy vạn hai ngàn người đều đi đến chỗ Đức Phật.

Vua A-xà-thế cùng với quan lại, quyến thuộc gồm ba vạn hai ngàn người ra khỏi thành Vương-xá, đi đến núi Linh thứu, cúi đầu dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Ngài ba vòng, rồi lui về đứng một bên, bạch trước Đức Phật rằng:

-Đức Phật vào biển lớn thì nước đi đến đâu?

Đức Phật dạy rằng:

-Này đại vương! Nếu có uy quang của tâm Tỳ-kheo định ý chánh thọ thì dù khắp nơi thấy đầy lửa thì nước chỗ ấy vẫn an trụ!

Nhà vua thưa:

-Là sự đạt đến của Tam-muội tự tại! Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Là sự tạo tác của tâm chí vậy!

Đức Phật nói rằng:

-Chắc nhà vua được sự hưng khởi Tam-muội tự tại của Thanh văn rồi sao? Vận hành của tâm ư? Như Lai luôn định, bình đẳng với tất cả pháp, hiểu rõ ngồi, đứng dậy mà được tự tại, đối với pháp vẫn tôn trọng mà tâm không gì ngăn ngại. Phật vào biển lớn mà những loài sống ở nước biển ấy tiếp tục thấy như cũ. Người sống trên đất nhìn đến biển lớn thấy nước biển ấy khô ráo, chỉ thấy mọi thứ báu trang nghiêm ở đó ví như cung điện được trang nghiêm của chư Thiên ở cõi trời thứ sáu Tha hóa tự tại vậy. Ánh sáng của Phật soi khắp cung điện của các rồng, cung điện của thần Hương Âm, cung điện của thần Vô thiện, những loài có máu sống trong biển lớn ấy đều tu hành lòng từ, ý nhân, hòa hướng đến nhau không ôm lòng độc hại.

Vua A-xà-thế bạch Đức Phật rằng:

-Vua rồng biển ấy đã phát ý đạo Vô thượng chánh chân bao lâu rồi? Phụng sự bao nhiêu Đức Phật? Khi nào sẽ chứng được Tối chánh giác? Hiệu của ngài là gì?

Đức Phật bảo nhà vua rằng:

-Thuở xa xưa, vô số kiếp nhiều chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Đức Phật hiệu là Quang Tịnh Chiếu Diệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư hiệu Phật Thế Tôn. Ở phương Đông có thế giới gọi là Thiện tịnh hiện, kiếp tên là Khả ý tịch. Thế giới Thiện tịnh hiện bằng phẳng, thảy đều trang nghiêm. Giả sử dùng cả một kiếp để khen ngợi công đức của thế giới ấy cũng chẳng thể rốt ráo. Có vị Chuyển luân thánh vương hiệu là Hộ Thiên thường cúng dường Đức Như Lai Quang Tịnh Chiếu Diệu, suốt bốn trăm hai mươi vạn năm đều bố thí tất cả.

Cuối số năm này, ông nằm ngủ, trong mơ tự nhiên ứng điềm nghe bài kệ này:

Vua đã cúng dường bậc Đại Thánh

Rất nhiều vô lượng khó nghĩ bàn.

Thường khởi Từ bi với chúng sinh,

Sẽ phát tâm tối thượng Bồ đề.

Cúng dường đó tôn diệu đệ nhất

Đây là cung kính các Thế Tôn.

Nếu có thể phát chí Bồ-tát

Tức là đức uy thần độ thế.

Đức Phật bảo vua A-xà-thế rằng:

-Chuyển luân thánh vương Hộ Thiên ấy nằm mơ nghe bài kệ này rồi, thức dậy tự lấy làm kinh sợ quái lạ: “Ta cúng dường Đức Phật suốt bốn trăm hai mươi vạn năm, Đức Phật nói kinh pháp, chương cú đều khác mà ta chưa từng nghe như bài kệ kinh này. Là lời nói của Phật hay lời tà ma”?.

Vua liền chú giải văn kệ mà đọc tụng. Đức Như Lai Quang Tịnh Chiếu Diệu du hành đến các nước. Vị Thánh vương cùng với tám muôn bôn ngàn vị vua và tám muôn bôn ngàn hoàng hậu, thần dân trong nước, những vị vua đến ấy đều có tám muôn bốn ngàn người đi theo… tất cả đều đi theo Đức Phật, muốn ngài giải thích sự nghi ngờ ấy. Họ liền theo kịp Đức Phật, cúi đầu dưới chân Ngài, kính hỏi không lường, bạch Đức Phật rằng:

-Con cúng dường Đức Phật suốt bốn trăm hai mươi vạn năm, nghe Đức Phật nói kinh pháp ngần ấy nghĩa. Đêm qua con nằm mơ, trong mơ thấy Đức Phật nói hai bài kệ này. Thức dậy con kinh hoàng quái lạ vì con chưa nghe bài kệ này từ Đức Như Lai nên chẳng biết là lời khen của Đức Phật hay là lời nói của ma? Hôm nay, từ xa đến muốn Đức Phật giải thích sự nghi ngờ này! Nguyện xin Đức Thế Tôn phân biệt giải nói cho.

Đức Phật bảo vua Hộ Thiên rằng:

-Đó là lời khen ngợi của ta, chẳng phải là lời nói của ma.

Nhà vua lại bạch Đức Phật rằng:

-Con phụng sự Đức Thế Tôn ngần ấy ức năm, cúng dường y phục, vật thực không hề thiếu thốn, Ngài vì con nói kinh, chương cú đều khác. Lúc ấy, sao Ngài chẳng khen nghĩa này?

Đức Phật dùng kệ đáp:

Tâm người hèn yếu chưa thể biết

Chưa thấy sâu việc phước mới quen

Chẳng thể vì nói pháp vi diệu

Trong lòng nghi sợ hoặc từ chối.

Đã hiểu tội phước, tin Phật pháp

Chẳng lay động, lòng chắc ý bền

Mới nên vì nói việc Bồ-tất

Mới hiểu đến Vô cực tuệ thông.

Lúc ấy, nhà vua và quần thần, phi hậu, nhân dân… trong lòng rất mừng đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân và an trụ nơi địa không thoái chuyển.

Họ liền dùng kệ khen ngợi Đức Thế Tôn rằng:

Chẳng do tham các sắc

Cũng chẳng dựa âm thanh

Hương xông, vật dụng đẹp…

Đó chẳng thể được quả Phật

Lìa giải đãi, khiếp nhược

Lánh phạm pháp, ghét ghen

Trừ sân hận rối loạn

Mới được thành Chánh giác.

Xả thân vì yên ổn

Chịu khổ thay chúng sinh

Tinh tấn muốn ưa pháp

Như vậy mới thành Phật.

Con nay nguyện đạo lớn

Phật, trời chứng cho con

Xin Đạo Sư tạo hạnh

Khiến lời không thể khác.

Trong mơ nghe tâm đạo

Chí Đại thừa học xong

Tạo tác tuệ vô ngại

Được đến Phật Pháp Vương.

Đức Phật Thích-ca bảo vua A-xà-thế rằng:

-Ông muốn biết Chuyển luân thánh vương Hộ Thiên lúc ấy là ai không?

-Ông ấy nay là vua rồng biển đó! Lúc đó, ông mới bắt đầu phát ý đạo Vô thượng chánh chân. Lại còn câu hỏi của nhà vua, khi nào thành Phật? Thì vua hãy lắng nghe!

Qua hai trăm lần vô số kiếp thì sẽ thành Phật hiệu là Vô Cấu Tịnh Vô Lượng Đức Siêu Sở Hữu Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Pháp âm thanh, kiếp tên là Thủ hoa.

Thế giới Pháp âm thanh ấy do mọi thứ báu hợp thành ngần ấy chủng loại sắc hình. Đất bằng phẳng như bàn tay. Đất cõi ấy mềm mại như dải lụa trời, có hàng vạn ức núi An minh rộng lớn khó lường, yên ổn, giàu có, thuần thục, ngũ cốc dư thừa, người trời đông đúc, áo quần ăn uống như cuộc sống của người trên cõi trời thứ sáu.

Ở thế giới Pháp âm thanh, những cây, rễ, lá, thân, đốt, hoa, quả đều bằng bảy báu đều phát ra vô số ngần ấy trăm ngàn âm thanh đạo pháp. Nhân dân cõi ấy giống như chư Thiên. Lời nói biến hóa, âm thanh nhu nhuyến đều nương theo pháp âm tịch nhiên đạm bạc và lời dạy bốn ân, trí độ vô cực của Phật pháp, phương tiện thiện xảo, diệt định, ly dục, Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô vi, vô số… Vì vậy nên cõi ấy có tên là Pháp âm thanh. Như có người trời ở cõi ấy ưa pháp hoan hỷ thì đều sẽ vào hàng Đại thánh, phân biệt các tuệ, xét biết chân thật rốt ráo, phát ý đạo Vô thượng chánh chân.

Khi Đức Phật ấy muốn nói pháp thì thân Ngài phóng ra ánh sáng lớn soi khắp cõi Phật. Trong ánh sáng ấy phát ra hàng ức tiếng giảng nói pháp của Phật. Các trời, người thấy ánh sáng nghe lời pháp đều rất hớn hở vui mừng đi đến tự quy y, cúng dường Đức Như Lai.

Vô số người ấy dùng sức thần túc bay đi trên hư không, hóa làm hoa sen báu mà ngồi lên. Đức Như Lai ngay lúc đó cũng ngồi trên tòa Sư tử ở trong hư không vì các Bồ-tát giảng nói kinh đạo. Vô số trăm ngàn những Bồ-tát ở khắp mười phương đều sẽ đến trong hội, nghe nhận kinh pháp. Nhân dân nước ấy đều ưa kinh pháp, cũng không có sự nhiễu hại của các ma, cũng không theo những đạo khác, cũng không bị chết oan uổng.

Đức Phật ấy sồng lâu mười hai kiếp. Các hạnh Bồ-tát vượt qua khỏi hư không. Nước ấy trang nghiêm không lường như vậy. Đức Phật nói pháp không giới hạn, Bồ-tát nhiều vô số.

Phẩm 19: KHÔNG TỊNH

Vua A-xà-thế bạch Đức Phật rằng:

-Kính thưa Đức Thế Tôn! Ngài thường đối với các pháp có lòng xót thương lớn! Nhưng các pháp dối trá mê hoặc, khởi lên tưởng, rồi tùy theo tham dục ấy đắp đổi mê hoặc nhau. Hạnh Bồ-tát chẳng thể kể lường. Đó là vì Bồ-tát phải tu đạo hạnh để đến cõi Phật trang nghiêm đầy đủ kia. Hạnh tu của các Bồ-tát đều phải học hỏi hộ trì cõi Phật, như đất nước nghiêm tịnh của vua rồng biển.

Đức Phật dạy rằng:

-Đúng vậy, đúng vậy! Này đại vương! Tất cả các pháp đều từ ý niệm dấy khởi, rồi tùy theo tạo tác ấy mà đều thành tựu. Các pháp không trụ cũng không có xứ sở.

Lúc ấy, vua A-xà-thế nói với vua rồng biển rằng:

-Hay thay! Vì ông được lợi ích nên mới khiến cho Đức Như Lai thọ ký cho ông. Ông sẽ thành Phật, có đất nước thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Vua rồng đáp rằng:

-Pháp không có thọ ký! Vì sao? Vì các pháp đều tịnh, do gieo trồng “ấm”, “nhập” mà giả danh gọi “người”. Sự thọ ký ấy không ấm, không nhập. Do có danh sắc mà giả danh gọi là người. Người thọ ký ấy không danh không sắc. Nhân duyên báo ứng nên thấy, nghĩ, tưởng niệm mà giả danh gọi là người. Người thọ ký ấy không có báo ứng, không thấy, không nghĩ, không tưởng, không niệm. Giả sử Bồ-tát bình đẳng tu hành gốc đức thì gốc đức đó cũng không thọ ký vậy. Tướng của các pháp rỗng không, không thọ ký. Tất cả các pháp vô tướng, vô nguyện, vô vi, vô số nên chẳng thọ ký vô tướng, vô nguyện, vô vi, vô số vậy.

Vua rồng lại nói với vua A-xà-thế rằng:

-Đại bi của chư Phật thật chẳng thể nghĩ bàn! Các kinh không tên, không có tư tưởng mà nói có tên có tư tưởng! Các Đức Phật Thế Tôn không tên, tướng, thức mà nhân theo thế gian thị hiện có thọ ký vậy. Sự thọ ký đó cũng không có pháp nhận thọ ký, cũng không có trong ngoài sẽ nhận thọ ký!

Vua A-xà-thế lại hỏi vua rồng rằng:

-Đã được Pháp nhẫn, chứng hạnh bình đẳng, Bồ-tát như vậy mới được thọ ký ư?

Vua rồng biển đáp rằng:

-Nhẫn ấy đều không, tưởng chẳng thể tận, hiểu rõ rốt ráo đến với bản tế, bản tế của bình đẳng, bản tế của vô tận, bản tế của vô ngã, bản tế của ngã, ngã sở, bản tế của chân lý, đến với rốt ráo, không thành tựu bản tế.

Bản tế ấy đã rỗng không đến với bản tế giải thoát, bản tế của tham sân si. Có rõ bản tế đó thì không chỗ tựa. Không chỗ tựa thì giả sử đối với âm thanh không hội hợp. Không hội hợp thì chẳng chấp trước, không giải thoát. Không giải thoát, không hạnh thì hành không chỗ hành, cũng không gì chẳng hành, cũng không chỗ lo. Đã không chỗ lo thì đối với Bồ-tát ấy nhìn tất cả các hạnh tạo tác, đối tượng thấy đều không thấy. Giả sử không có đối tượng thấy, chẳng tạo tác chân lý mà đã vào bình đẳng, đã có chỗ trụ, đã vượt bình đẳng thì chẳng tàn, chẳng loạn, chẳng mất đi, chẳng bộc lộ ra. Do bình đẳng với các pháp, sau đạt được nhẫn. Cái gọi là nhẫn và sự thọ ký đó là nếu thọ ký rồi và người được thọ ký thì đó là tất cả pháp đều là pháp bình đẳng. Các pháp giới rốt ráo không pháp giới, chẳng dùng thọ ký để quyết định, cũng không có cái để thành.

Quan sát pháp này rồi, xem xét nghĩa lý ấy thì các pháp không thể kể xiết. Ví như hư không chẳng thể kể số lượng, vượt qua các số lượng. Các pháp là như vậy!

Khi vua rồng biển nói lời nói đó, thì hai vạn vị Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi, hàng trăm vị Tỳ-kheo hết, lậu hoặc, được giác ngộ.

Bấy giờ, vua A-xà-thế bạch Đức Phật rằng:

-Bạch Thế Tôn! Biện tài của Long vương thật chưa từng có.

Đức Phật nói rằng:

-Chưa thật kỳ lạ, chẳng lấy làm khó! Người mới phát ý nghe pháp đó mà chẳng lo, chẳng khó, chẳng sợ thì đó mới là khó. Vì sao? Vì đó là đạo pháp gốc của các Đức Phật Thế Tôn. Khó bì kịp như vậy nên ít có người tin. Trên trời, người thế gian chẳng thể nhận, chẳng vào, chẳng tin, chẳng ưa thích. Vì vậy, ông nên biết, nếu có người nghe kinh pháp thâm diệu đó chẳng sợ sệt thì đây mới là điều khó. Đời trước cúng dường vô số Đức Phật đâu có gì khó. Ví như có người, hư không không có hình mà họ hiện ra hình tượng thì đó là khó chăng?

Đáp rằng:

-Rất khó, thưa Đấng Thiên Trung Thiên!

Đức Phật dạy rằng:

-Nếu có người nghe nghĩa thâm áo của kinh này, tin ưa tất cả đều biết là không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, có người đã tin, có người sẽ tin, thì những người này chính là hạng người bình đẳng sáng suốt thuận theo Như Lai, là bạn thân, thầy tốt. Họ có thể đủ sức tin ưa, diệt trừ phiền não, vì tất cả mọi người giảng nói kinh pháp, có thể đi đến đạo tràng dùng tâm Từ hàng phục trăm ngàn ức ma và vua quan khác. Vì đối với các pháp được tự tại nên lòng họ thanh tịnh, các tuệ thông đạt gần ở trước mắt. Trong khoảnh khắc phát ý, họ thành tựu trí tuệ sáng suốt, chứng Tối chánh giác, khuyên bảo chúng sinh, biết tất cả tâm và các căn của mà chuyển bánh xe Vô thượng đại pháp, trị liệu tất cả bệnh, khai hóa ngoại đạo, phá tan thù oán, thổi loa Đại pháp.

Đến đây, vua rồng biển đạt hết ước nguyện, chẳng mất chí hướng, nghe được sự thọ ký hớn hở vui mừng, lòng thiện phát sinh. Vua rồng vọt lên hư không dùng kệ khen Đức Phật rằng:

Vốn thanh tịnh như hư không

Không sắc không thọ không sở

Như vậy nói pháp an trụ

Hư không tự nhiên trùm khắp.

Danh chẳng có mà chẳng không

Tạo nhân duyên và báo ứng

An trụ giảng nói chẳng tranh

Không nhân, mạng, không thọ, thức.

Tất cả pháp rất sạch trong

Ngã, ngã sở tịnh, bình đẳng

Ngã, ngã sở, pháp thanh tịnh

Hiểu vậy tức được thọ ký.

Xét pháp giới vốn sạch trong

Cõi người tịnh cũng như vậy

Như cõi chúng sinh lặng yên

Phật pháp lặng cũng như vậy.

Nếu pháp của Phật thanh tịnh

Cũng bằng các cõi Phật tịnh

Giả sử cõi Phật sạch trong

Các tuệ tịnh không sai khác.

Các pháp tịnh do số, tên

Vì kể số, tên chẳng được

Do tưởng số tên vốn không

Các danh số ấy không ngại.

Ý niệm của các chúng sinh

Không kiến, không sắc, không thanh

Như không thành tâm ý thức

Các pháp rỗng ấy không tâm.

Hoặc tạo tác, không tạo tác

Có tội duyên, không người nhận

Không kẻ lầm lỗi xưa nay

Gọi Vô tịch nhiên, Niết-bàn.

Vào nguồn bản tế không ngại

Vô ngã tế vốn hư không

Chọn các tế, được bình đẳng

Biết chúng sinh vốn chân thật.

Bản tế khứ, lai, hiện tại

Trí thông đạt các tế ấy

Tuệ ngang bằng vô tế môn

Xét pháp giới chủng tánh Phật

Chẳng khởi diệt Tối Thắng Tràng

Không, vô tướng, nguyện vốn tịnh

Không tiếng nói pháp chân thật

Là Địa tịch tĩnh các Thánh.

Các pháp tịch tĩnh nếu thông

Tự vui như nắm hư không

Không ngã, ngã sở tịch tĩnh

Giả như đây ưa pháp Thánh

Pháp, Phật mười phương đã nói

Phật vị lai sẽ tuyên dương

Tiếng vị lai bình đẳng cả

Theo tiếng hiện vào vô thanh.

Tiêng rỗng tự nhiên như vang

Các pháp không, như niệm rỗng

Vô pháp, phi pháp dạy răn

Thật vốn không, chẳng thể được.

Tất cả pháp, vô chủ tên

Ngần ấy tưởng niệm chẳng sáng

Chẳng thể được người thanh tịnh

Các pháp vốn tịnh như vậy.

Phẩm 20: CHÚC LỤY THỌ TRÌ

Đến đây, Đức Thế Tôn bảo các vị Đại sĩ rằng:

-Các ông phải giữ gìn đạo Vô thượng chánh chân của Như Lai nói này, khiến được tồn tại lâu dài. Ai có thể đủ sức thọ trì đọc tụng, giảng nói đúng như kinh này?

Tức thời, hai vạn Bồ-tát, một vạn Thiên tử đứng dậy ở trước Đức Phật, đồng thanh bạch Đức Thế Tôn rằng:

-Chúng con sẽ thọ trì đúng như kinh này! Sẽ khiến lưu bố cùng khắp xa gần!

Đức Phật lại hỏi rằng:

-Các ông làm sao mà ngự trị pháp, giữ gìn đạo Vô thượng chánh chân của Như Lai?

Trong số đó có một vị Bồ-tát tên là Tuệ Anh Tràng, bạch Đức Phật rằng:

-Kính thưa Đức Thế Tôn! Xét kỹ các pháp đều không có cái để giữ gìn. Đâu có thể gìn giữ Phật đạo một cách mơ hồ được ư?

Đức Thế Tôn đáp rằng:

-Này Thiện nam! Như thế là phù hợp gìn giữ Phật đạo!

Bồ-tát Đẳng Kiến bạch Đức Phật rằng:

-Đo lường xem xét Phật đạo thì bằng với tội năm nghịch, hiểu chút ít lờ mờ giữ gìn Phật đạo được ư?

Đức Thế Tôn dạy rằng:

-Này Thiện nam! Vậy nên ông là người ứng hợp giữ gìn đạo lớn của Như Lai.

Bồ-tát Vô Kiến thưa rằng:

-Kính thưa Đức Thế Tôn! Con chẳng thấy pháp phàm phu, cũng chẳng thấy pháp học và chẳng học, chẳng thấy pháp Duyên giác và Bồ-tát, cũng chẳng thấy pháp Phật. Con có thọ trì được pháp của Như Lai ư?

Đức Thế Tôn dạy rằng:

-Này Thiện nam! Do sự tịch tĩnh đó nên ứng hợp giữ gìn đạo lớn của Như Lai vậy.

Bồ-tát Chư Pháp Vô Sở Nguyện thưa rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con vĩnh viễn chẳng biết cái phải giữ gìn của tất cả các pháp, chắc có thể được giữ gìn pháp của Như Lai ư?

Đức Thế Tôn dạy rằng:

-Này Thiện nam! Do sự tịch tĩnh đó nên ứng hợp giữ gìn đạo lớn của Như Lai!

Bồ-tát Bất Tuần thưa rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con tự chẳng làm, cũng chẳng điều khiển tâm, cũng chẳng phát ý. Con chắc được trì pháp của Đức Như Lai ư?

Đức Thế Tôn dạy rằng:

-Này Thiện nam! Do sự tịch tĩnh đó nên ứng hợp giữ gìn đạo lớn của Như Lai!

Bồ-tát Vô Đắc bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nói pháp và phi pháp, chẳng diễn nói pháp trừ các tưởng về pháp thì hành giả như vậy là hộ trì tất cả pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Vô Tại bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe nhận pháp ứng hợp chẳng ứng hợp là hộ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Hư Không Tạng bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu quan sát các pháp bình đẳng như hư không, chẳng thấy pháp đó có sự giữ gìn là hộ trì tất cả pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Độ Kim Cương Tác bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Chẳng hoại pháp giới, vào với cõi người và cùng pháp giới là trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Độ Bất Động Tích bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đối với pháp không gì động chuyển, chẳng dựa pháp và phi pháp là hộ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Trào Ma bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đến cõi ma, cõi Phật thì đối với cõi Phật và cùng đi cõi ma đều cho là vào cảnh giới các pháp. Đó là hộ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Vô Trước bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đôi với các pháp đều không nắm giữ mà tất cả lỗ chân lông đều phát ra âm thanh pháp là hộ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Phổ Tịch bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Chẳng ủng hộ các ma, tu hành đạo Bồ-tát là hộ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bồ-tát Hải Ý bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu dùng hải ấn bình đẳng với tất cả pháp, tu tất cả vị giải thoát mà biết tự nhiên là hộ trì pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên tử Tu Thâm bạch rằng:

Bạch Thế Tôn! Nêu có chỗ sinh, chẳng khởi chẳng sinh các ấm, chủng, nhập, không tâm ý thức là hộ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên tử Vô cấu Quang bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu thấy các pháp không phiền não, không tỳ vết, giải thoát các thọ là hộ trì pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên tử Độ Nhân bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu độ chúng sinh chẳng biết có chúng sinh, độ không chỗ độ, đã có chỗ độ thì thị hiện quay trở lại, chẳng trụ đó, đây. Đó là thọ trì pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên tử Hiền Vương bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đối với chúng sinh mà bình đẳng tất cả, các pháp đã bình đẳng, bình đẳng các cõi nước, bình đẳng các Phật đạo là thọ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên tử Tự Tại bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đốivới các pháp mà được tự tại, đối với khắp các pháp chẳng khởi chẳng diệt là thọ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên tử Thiện Niệm bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con chẳng nghĩ pháp cũng không nắm bắt, cũng chẳng có tưởng là thọ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nam! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên nữ Liên Hoa bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Biết tất cả pháp đều là Phật pháp, chẳng thành Chánh giác mà không gì chẳng giác là thọ trì chánh pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nữ! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiên nữ Ma Du Thượng bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con chẳng chấp nữ, cũng chẳng chấp nam. Như tưởng Phật pháp và pháp tưởng giới nữ cũng lại đồng đẳng. Các pháp tưởng này tức là chẳng phải pháp, cũng chẳng phải không pháp, không hai không một cũng không chỗ đến. Con được thọ trì pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nữ! Đó là ứng với tịch nhiên.

Bảo nữ bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy Phật đạo của Đức Phật, nhìn thấy hạnh Bồ-tát, được mặc áo giáp tất cả chí đức, chẳng xét đến gốc ngọn là thọ trì pháp ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nữ! Đó là ứng với tịch nhiên.

Thiện nữ Vô Cấu Quang bạch rằng:

-Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp chẳng khởi tưởng về pháp, đối với tất cả người chẳng khởi tưởng về nhân, cũng chẳng tưởng nghĩ đến pháp nhân pháp Phật, nhìn thấy các Phật pháp nhập vào tất cả pháp, chẳng thấy gốc ngọn. Con được thọ trì chánh pháp của Đức Phật ư?

Đáp rằng:

-Này Thiện nữ! Đó là ứng với tịch nhiên. Kiến lập hạnh như vậy chính là thọ trì Phật pháp.

Đến đây, trời Đế Thích bạch Đức Phật rằng:

-Thật chưa từng có, thưa Đức Thế Tôn! Lời nói biện tài của những thiện nữ này chẳng thể nghĩ bàn! Họ dùng phương tiện phân biệt, tổng hợp ngần ấy âm thanh, lời nói văn tự giảng về pháp giới chẳng rối loạn các pháp, các pháp bình đẳng, như diễn nói đạo bình đẳng chẳng sai khác.

Đức Phật dạy rằng:

-Đúng vậy, này Câu-dực! Những thiện nữ đó phân biệt vô lượng pháp, chẳng thể nghĩ bàn, cúng dường phụng sự Phật nhiều chẳng thể kể, đã được pháp nhẫn. Lại, này Câu-dực! Kinh này hiệu là Bất Khởi Nhẫn Trì Vô Sở Ngự, ta sẽ vì chúng hội giảng nói rộng rãi ý nghĩa ấy. Sau khi Như Lai diệt độ, người thọ trì pháp này là bậc hộ trì thành lũy của pháp, tức là đã cúng dường Phật Thế Tôn!

Trời Đế Thích bạch Đức Phật rằng:

-Con đã phụng trì bản kinh này! Sự kiến lập của Đức Phật sẽ khiến cho rộng khắp. Con sẽ vì các Đại sĩ vị lai mà phân biệt giảng nói pháp này. Con nhất định chẳng mê lầm sai sót lời dạy của Đức Phật. Sở dĩ vì sao? Vì Đức Như Lai ủng hộ và thọ ký pháp nhẫn cho con. Đức Phật sẽ kiến lập kinh điển này khiến cho chúng ma bị hàng phục! Chí hạnh của con là ở chỗ ấy.

Đức Phật dạy rằng:

-Này Câu-dực! Có thần chú tên là Già Chư Phương Ngại. Ông hãy lắng nghe. Nay ta sẽ vì ông nói lời cốt yếu của thần chú khiến cho tất cả ma, các ngoại đạo và các quyến thuộc của chúng tự nhiên hàng phục, khiến cho ánh sáng pháp của Như Lai đứng vững lâu dài.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói thần chú rằng:

Vô úy ly úy – Tịnh chư khủng cụ – Thí vô úy – Độ ư diệt độ – Vô sở loạn – Tịnh sở loạn – Vô sở tranh – Bất đấu tụng – Vô hoài sân – Vô dĩ một – Tịnh uy thần – Uy thần tích – Đại uy thần tịch diệt – Thú từ tâm – Trừ ư hà – Thị hiện đế – Vô sai thố – Kỳ đồng nghĩa – Cát tường nghĩa – Cam lộ cú- Kiến ư yếu – Dĩ đạo ngự – Vô sở hoài – Hành thứ đệ – Vô sở tận – Quang vô sinh – Thanh tịnh sinh – Tiên khiết quang chiếu cú – Đẳng thuận ư đẳng tâm – Chí vô thượng – Phật sở kiến lập giới thanh tịnh – Vô sở phạm – Vô sở đảm – Chế ma trường – Hàng ngoại kính – Quang diệu pháp minh – Nhiếp dĩ pháp thí – Khai pháp tạng.

Các Đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đã nói thần chú này để ủng hộ pháp mà thuận nghĩa lý. Dùng thần chú này tổng nhiếp, hàng phục dấu vết trần lao của tất cả các ma vậy. -Con sẽ nhận lấy chỗ trọng yếu của kinh điển này, tinh tấn phúng tụng và sẽ phổ biến rộng rãi. Vì sao? Vì đối với pháp của Đức Như Lai thì có sự quay trở lại, thêm lớn pháp luật, tuyên bố giáo điển thanh tịnh. Còn tu hành quay trở lại ủng hộ hành trang mắt pháp của Đức Như Lai.

Có vị Thiên tử tên là Đức Siêu bạch Đức Phật rằng:

-Nếu có người thọ trì pháp của Đức Như Lai này thì phước ấy ra sao?

Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng rằng:

Nay ta thấy cõi nước

Mắt Phật nhìn mười phương

Bên trong đầy trân bảo

Đều dùng đem bố thí

Phước người ấy thu được

Sẽ hơn phước thí trên

Chí tâm giữ kinh pháp

Như lời dạy Thế Tôn

Tập hợp các thí dụ

Giảng nói mọi lời khen

Trọn chẳng thể rốt ráo

Nắm giữ đức chánh pháp.

Khi Đức Phật nói kinh này thì bảy mươi sáu ức người đều phát ý đạo Vô thượng chánh chân, sáu vạn Bồ-tát được pháp Nhẫn bất khởi, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách ánh sáng lớn chiếu soi khắp thế gian, trời mưa xuống hoa trời, trăm ngàn nhạc cụ chẳng tấu mà tự nhiên vang. Các nhạc cụ phát ra những âm thanh như vầy: “Đấng Như Lai kiến lập kinh này, hàng phục chúng ma, giáo hóa các ngoại đạo. Đức Như Lai dùng ấn ấn chứng kinh này rồi thì thuận mà chẳng quên”.

Bấy giờ, vua rồng biển mưa xuống chuỗi ngọc lớn để cúng dường kinh này, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới.

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan rằng:

-Ta đem kinh này giao phó cho ông. Ông hãy thọ trì đọc tụng khiến cho kinh này lưu bố khắp nơi! Ông hãy vì người mà giảng nói kinh này!

Tôn giả A-nan bạch rằng:

-Thưa vâng, thưa Đức Thế Tôn! Con đã kính nhận kinh này! Thưa kinh tên là gì? Phụng trì ra sao?

Đức Phật dạy rằng:

-Kinh này tên là Hải Long Vương Vấn Long Tổng Trì Phẩm, lại còn tên là Tập Chư Pháp Bảo Tịnh Pháp Môn Phẩm. Ông hãy khéo léo phụng trì!

Đức Phật nói như vậy rồi, vua rồng biển và các con vua rồng, chư Thiên, nhân dân, các vị Bồ-tát ở mười phương đến trong hội, các đại Thanh văn, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, Hiền giả A-nan, tất cả chúng ma, trời, rồng, thần, thần Hương Âm, thần Vô Thiện, thần Phượng Hoàng, thần Núi, thần Điềm Nhu và người thế gian… không ai chẳng vui mừng làm lễ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Phật Vì Hải Long Vương Dạy Pháp Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Ta Già La Long Vương Sở Thuyết Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Bài Tụng Bồ Tát Long Thụ Khuyến Giới Vương - Kinh Tạng
  • Củ Lí Ca Long Vương Tượng Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Nữ Long Thí - Kinh Tạng
  • Kinh Long Thí Bồ Tát Bổn Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Long Vương Huynh Đệ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Hưng Khởi Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Câu Lợi Già La Đại Long Thắng Phục Ngoại Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Người Phụ Nữ Gặp Điều Bất Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Ngữ - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Chánh Pháp Đại Tập Hội - Kinh Tạng
  • Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị Đại Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng