Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội

Lực Trang Nghiêm Tam Muội Kinh

Tùy Na Liên Đề Da Xá dịch

Bản Việt dịch của Tuệ Khai

***

Tôi nghe như vầy, một thuở, đức Thế Tôn trụ ở vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây ông thái tử Kỳ Đà tại thành Xá Bà Đề, cùng với chúng Tỳ kheo gồm năm trăm người, tất cả đều là đại Alahán, các lậu đã hết không còn phiền não nữa, lòng được giải thoát tốt, tuệ được giải thoát tốt. Lòng các vị ấy nhu hòa như voi được điều phục, trong ngoài thanh tịnh rốt ráo, đoạn trừ gánh nặng năm ấm, việc làm đã hoàn thành, cho thọ cái “có” về sau, giống như các đức Phật giải thoát vô vi, chẳng bị sinh tử hữu vi dời động, chỉ trừ một người còn ở tại học địa, đó là trưởng lão Anan Tỳ kheo, còn tất cả đều được pháp tịch diệt, tất cả đều được pháp điều phục, tất cả đầy đủ pháp tối thắng, tất cả chẳng trụ ở trong ý thức, tất cả đều được đủ thứ giải thoát, tất cả đều được thần thông tự tại.

Lại có tám mươi trăm ngàn vị Đại Bồ tát mà làm thượng thủ đó là đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài, đồng tử Liên Hoa Tạng Quang Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn, đồng tử Vô Biên Tâm Quảng Nghĩa Tuệ, đồng tử Thiên Bảo Viên Quang Thiện Chiếu Diệu Tràng, đồng tử Nan Khả thí Dụ Thiện Sắc Ái Kiến, đồng tử Quán Chư Chúng Sanh Nhãn Thị Bất Thuấn, đồng tử Đại Nguyện Bất Hư Kiến, đồng tử Thâm Viễn Lôi Chấn Cổ Âm Hương Thanh, đồng tử Ly Chướng Ngại Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn, đồng tử Bảo Tạng Viên Luân Quảng Đức, đồng tử Đa Phước Đức Chúng Sinh Kiến Thắng Tràng, đồng tử Diệu Thắng Vô Biên Hương Quang, đồng tử Vô Biên Lực Tinh Tấn Thiện Đại Phấn Tấn, đồng tử Lao Cố Tinh Tấn Vô Biên Trí Quang Tràng, đồng tử Nhất Thiết Sai Biệt Đức Thắng Trí, đồng tử Bất Khả Phá Hoại Năng Thường Tối Thắng, đồng tử Thành Tựu Nhất Thiết Tự Tại Đạo Sư, đồng tử Tướng Hảo Trang Nghiêm thanh Tịnh Phước Hạnh Thiện Danh Xưng, đồng tử Nhất Thiết Chúng Sinh Tối Ái Lạc. Những đồng tử như vậy.v.v… tất cả đều được đạo Bất thoái chuyển, trang nghiêm đại nguyện bằng giáp đồng kim cương, lòng thường tịch tịnh, hết các “hữu biên”, tối thắng thanh tịnh, bờ kia (bờ giác) thanh tịnh, tất cả hạnh thanh tịnh đều thanh tịnh.

Lúc bấy giờ, đức thế Tôn, ở trong phần thứ nhất của đêm sau đó, vào với tam muội. Tam muội này tên là Lực Trang Nghiêm. Vào tam muội rồi, ngài đều biết hạnh nghiệp sinh tử của tất cả chúng sinh quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhờ thần lực đức Phật nên, lúc đó tất cả đất vườn cây của Kỳ Đà và hư không ở chỗ này đều đầy áo trời, trướng báu, giăng mắc lưới màn, thiên cái, tràng phan đầy ắp khắp cùng, lại buông xuống đủ thứ diệu kỳ, tuông ra nhụy hoa tươi nhỏ, hoa trời rơi tứ tung, rừng cây xen lẫn đê cao bảy báu, đủ thứ trang nghiêm tràn lan dưới đất, nào là các lá thơm của trời, di na la của trời, trụ trời bằng uất kim và hương xông.v.v… khói mây ẩn kín, khí trời đất chan hòa, lúc cuốn lại, khi mở ra khá ưa khá thích. Rừng cây Kỳ Đà với đủ thứ báu trời trang nghiêm như vậy, rộng rãi thanh tịnh nên có uy đức lớn, đủ loại ánh sáng soi sáng hư không, hết cả mười phương diện, sự hiển hiện nay khó lường. Các nơi trang nghiêm xong thì có tòa sư tử tự nhiên xuất hiện, đặc thù, diệu hảo thắng hơn quả báo trời thành tựu. Do tòa trang nghiêm bằng nhân duyên ánh sáng nên khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới nay, tất cả ánh sáng đều soi sáng, ví như trong đêm đốt đuốc lửa hơn thì tất cả tối tăm đều diệt không còn.

Lúc bấy giờ, những xấu ác sở hữu của đất nước ta bà trong ba ngàn đại thiên thế giới này như gò đống, núi đất cao, bờ bến, nguồn sông, sỏi đá, đất cát, hầm hố cao thấp, ao vũng, ngòi bác, suối giếng, sông hồ, sông lớn, sông nhỏ, biển nhỏ, biển lớn, núi tu di, hải đảo, những núi mười báu, chỗ ở của Ni-dân-đà-la tiên thanh, núi Chước-ca-bà-la và núi Chước-ca-ba-la lớn.v.v… đều bằng phẳng, không có những gai gốc và rừng rậm khác cũng thanh tịnh, phẳng phiu như bàn tay lưu ly. Lại có đủ thứ thất bảo trang nghiêm, hoa Thiên-mạn-đà che khắp trên đất, thiên diệp ngẩu căn (rễ ngó lá trời) thiên a ma la, trụ trời uất kim hương xông tỏa hơi mây đều lan tràn khắp cùng trong hư không. Lại có vô lượng âm nhạc của chư thiên với trăm ngàn vạn ức nadotha chủng laọi, tự nhiên phát ra âm thanh nói pháp vi diệu.

Ba ngàn đại thiên thế giới này, trong hư không đầy hoa sen thất bảo trang nghiêm, ánh sáng thơm tối thắng đều làm nên màu vàng, thân thuần bằng lưu ly xanh, đài hoa rộng bảy cánh tay, đều cao bảy tầm, hoa sen nở ra trông rất là ưa thích. Cây Thiên chiên đàn, cây Mạn đà hoa, cây Thiên long hoa… những cây ấy mỗi mỗi đều cao bảy cây đa la, cành lá nâng đỡ, hương sắc đầy đủ, xanh vàng trắng đỏ đều như hoa sen. Như vậy trang nghiêm tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới cho đến trời Hữu Đỉnh đều như đất nước tịnh diệu của cung trời. Hiện thần biến đó rồi, khi ấy tất cả vô lượng chúng sinh nhờ Phật lực gia hộ nên không có chướng ngại, nhìn thấy đây đó thông suốt như lưu ly thanh tịnh, khó có thể nghĩ lường cảnh giới của Phật vậy. Lúc bấy giờ, chư thiên ở trên đất của ba ngàn đại thiên thế giới này, cho đến tất cả trời A-ca-nị-sấc cùng năm trăm Alahán Tỳ kheo và tám mươi trăm ngàn chúng Bồ tát.v.v… tác khởi ý nghĩ như vầy : “ Đây là lực trang nghiêm của sức Như Lai ! Đây là Như Lai, sư tử trong loài người ! Đây là Như Lai tối đại phấn tấn ! Đây là Như Lai sư tử phấn tấn ! Đây là Như Lai đại đạo sư tử phấn tấn nhảy nhót ! Đây là việc Như Lai đại đại thần thông trang nghiêm ! Chẳng thể nghĩ bàn ! Chẳng thể khen ngợi”. Thấy như vậy rồi, trời Thanh Văn và các Bồ tát .v.v…tất cả đại chúng đều ở chỗ đức Phật phát sinh lòng tin lớn, quỳ gối, chắp tay, một lòng đê đầu cúng dường mà đứng. Lúc bấy giờ, ở phương Đông, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Nhất Thiết Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Vô Biên Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo tám ngàn vạn người, Tỳ kheo ni ba ngàn vạn người, Đại Bồ tát tám mươi trăm ngàn vạn, Ưu bà tắc tám mươi tám vạn, Ưu bà di bảy mươi ngàn vạn cũng có trời, người tối đại uy đức… Những chúng sinh kia đều vây quanh tòa ngồi đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở phương Nam, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Đại Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Vô Biên Tinh Tấn Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm mười ngàn vạn người. Đại Bồ tát bốn mươi ngàn vạn, Ưu bà tắc sáu mươi ngàn vạn, cũng có người, trời tối đại uy đức đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi đức Phật ấy mà nghe nói pháp.

Lúc bấy giờ, ở phương Tây, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Phổ Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Phổ Kiến Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm hai ức người, ba ức Tỳ kheo ni, chín ức sáu ngàn vạn Bồ tát Ma ha tát, tám ức Ưu bà tắc, sáu ức Ưu bà di, cũng có trời người uy đức tối đại đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở phương Bắc, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Đại Đăng. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Tác Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm sáu ức người, bốn vạn Tỳ kheo ni, tám ức chúng đại Bồ tát, chín ức Ưu bà tắc, tám ức Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức tối đại đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở phương Đông Bắc, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Kim Quang Chiếu Diệu. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Kim Sắc Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm bảy ức người, ba ức Tỳ kheo ni, tám ức chúng đại Bồ tát, chín ức Ưu bà tắc, tám ức Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức tối đại đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở phương Đông Nam, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Đại Cự Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Bất khả Tư Nghị Nhật Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm tám ức bốn ngàn vạn người, một ức tám ngàn vạn Tỳ kheo ni, chín ức sáu ngàn vạn đại Bồ tát, tám ức tám ngàn vạn Ưu bà tắc, tám ức Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức tối đại đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở phương Tây Nam, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Thiện Thắng Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Đại Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm chín ức sáu ngàn vạn người, tám ức Tỳ kheo ni, chín ức hai ngàn vạn đại Bồ tát, chín ức Ưu bà tắc, chín ức sáu ngàn vạn Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức tối đại đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở phương Tây Bắc, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Bảo Trí Ý. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Bảo Tạng Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm tám ức người, hai ức Tỳ kheo ni, tám ức đại Bồ tát, tám ức tám ngàn vạn Ưu bà tắc, bảy ức Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức tối đại đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở thượng phương, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Nhật Nguyệt Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Nguyệt Tràng Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm mười ức người, ba ức Tỳ kheo ni, tám ức đại Bồ tát, chín ức hai ngàn vạn Ưu bà tắc, chín ức Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức rất lớn đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi của đức Phật ấy mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, ở hạ phương, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có cõi Phật tên là Ly Cấu Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Phổ Nhãn Kiến Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm chín ức sáu ngàn vạn người, bốn ức Tỳ kheo ni, chín ức bốn ngàn vạn đại Bồ tát, tám ức Ưu bà tắc, bảy ức Ưu bà di, cũng có trời, người uy đức rất lớn đều ở với chúng đó vây quanh tòa ngồi đức Phật mà nghe nói pháp yếu.

Lúc bấy giờ, đồng tử Văn Thù Sư Lợi và tất cả đồng tử được chúng sinh rất yêu thích, những người như vậy gồm hai mươi đồng tử, đều nhất thời đứng dậy đi đến chỗ đức Phật . Đến chỗ đức Phật rồi, đức Phật Thích Ca vẫn còn ở trong Tam muội, trăm phước trang nghiêm, tịch nhiên chẳng động, các đồng tử mỗi mỗi đều lặng yên, trật áo vai phải, lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh về bên phải đức Như Lai ba vòng, nhanh như khoảng thời gian người tráng sĩ co duỗi cánh tay, ác vị ấy đều đi đến mười phương.

Lúc bấy giờ, đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đồng tử Trí Luận Đại Hải Biện Tài hướng về phương Đông đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Nhất Thiết Quang. Trong thế giới ấy có đức Phật hiệu là Vô Biên Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Liên Hoa Tạng Quang Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn, đồng tử Vô Biên Tâm Quảng Nghĩa Tuệ hướng về phương Nam đi qua những đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Đại Quang. Trong thế giới ấy có đức Phật hiệu là Vô Biên Tinh Tấn Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thiên Bảo Viên Quang Thiện Chiếu Diệu Tràng, đồng tử Nan Khải Thí Dụ Thiện Sắc Ái Kiến hướng về phương Tây, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Phổ Quang. Trong thế giới đó có đức Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Quán Chư Chúng Sinh Nhãn Thị Bất thuấn, đồng tử Đại Nguyện Bất hư Kiến hướng về phương Bắc, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Đại Đăng. Trong thế giới đó có đức Phật hiệu là Quang Tác Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thâm Viễn Lôi Chấn Cổ Âm Hưởng Thanh, đồng tử Ly Chướng Ngại Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn hướng về phương Đông Bắc, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Kim Quang Chiếu. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Kim Sắc Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Bảo Tạng Viêm Luân Quang Đức, đồng tử Đa Phước Đức hướng về phương Đông Nam, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Đại cự Quang. Trong thế giới đó có đức Phật hiệu là Bất Khả Tư Nghị Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thắng Diệu Vô Biên Hương Quang, đồng tử Vô Biên Lực Tinh Tấn Thiện Đại Phấn Tấn hướng về phương Tây Nam, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Thiện Thắng Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Đại Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Lao Cố Tinh Tấn Vô Biên Trí Quang Tràng, đồng tử Sai Biệt Đức Thắng hướng về phương Tây Bắc, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Bảo ý Tuệ. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Bảo Tạng Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Bất Khả Phá Hoại Năng Thường Tối Thắng, đồng tử Thành Nhất Thiết Tự Tại Đạo Sư hướng về thượng phương, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Nhật Nguyệt Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Bảo Tràng Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đồng tử Tướng Hảo Trang Nghiêm Thanh Tịnh Phước Hạnh Thiện Danh Xưng, đồng tử Nhất Thiết Chúng Sinh Tối Ái Lạc hướng về hạ phương, đi qua số đất nước nhiều như cát sông Hằng, tại đó có thế giới tên là Ly Cấu Quang. Trong cõi ấy có đức Phật hiệu là Phổ Nhãn Kiến Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, đang vì các đại chúng nói pháp vi diệu. Hai đồng tử đến cõi đó rồi, vì đức Phật làm lễ, ngồi ở trong chúng.

Lúc bấy giờ, đức Vô Biên Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai đồng tử báo cho đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Tây của cõi này, đi qua số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh xong rồi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Vô Biên Tinh Tấn Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Liên Hoa Tạng Quang Nhất thiết Chúng Sinh Nhãn, đồng tử Vô Biên Tâm Quảng Nghĩa Tuệ rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Bắc cõi này, đi qua số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Phổ Kiến Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Thiên Bảo Viêm Quang Thiện Chiếu Diệu Tràng, đồng tử Nan Khả Thí Dụ Thiện Sắc Ái Kiến rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Đông của cõi này, đi qua số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Đại Đăng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Quán Chư Chúng Sinh nhãn Thị Bất Thuấn, đồng tử Đại Nguyện Bất Hư Kiến rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Nam của cõi này, đi qua số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Kim Sắc Quang Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Thâm Viễn Lôi Chấn Cổ Âm Hưởng Thanh, đồng tử Ly Chướng Ngại Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Tây Nam của cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Bất Khả Tư Nghị Nhật Quang Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Bảo tạng Viêm Luân Quảng Đức, đồng tử Đa Phước Đức Chúng Sinh Kiến Thắng Tràng rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Tây Bắc cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Thiện Quang Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Thắng Diệu Vô Biên Hương Quang, đồng tử Vô Biên Lực Tinh Tấn Thiện Đại Phấn Tấn rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai vị đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Đông Bắc của cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Bảo Tạng Quang Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Lao Bố Tinh Tấn Vô Biên trí Quang Tràng, đồng tử Nhất Thiết Sai Biệt Đức Thắng Trí rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai vị đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Về phương Đông Nam của cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Bảo Tràng Quang Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Bất Khả Phá Hoại Năng Thường Tối Thắng, đồng tử Thành Tựu Nhất Thiết Tự Tại Đạo sư rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai vị đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Phía hạ phương của cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con vừa từ chỗ đức Phật Như Lai đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đi đến đây.

Lúc bấy giờ, đức Phổ Nhãn Kiến Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các đại chúng cho biết nên hỏi đồng tử Tướng Hảo Trang Nghiêm Thanh Tịnh Phước Hạnh Thiện Danh Xưng, đồng tử Nhất Thiết Chúng Sinh Tối An Lạc rằng :

– Này hai ông Đại sĩ ! Các ông từ đâu đến ?

Hai vị đồng tử đáp lời đức Phật đó rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Phía thượng phương của cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, có nước tên là Ta Bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, dùng đại trang nghiêm vào với Tam muội. Chúng con vừa từ chỗ đức Phật Thế Tôn đó đã cung kính đảnh lễ, nhiễu quanh ba vòng xong, rồi đi đến đây.

Lúc bấy giờ, thế giới của chư Phật mười phương nghe danh hiệu của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà này rồi thì tất cả đất Phật của cõi mười phương đó đều chấn động lớn ! Động ! Động khắp ! Động đều khắp! Chấn ! Chấn khắp ! Chấn đều khắp! Vọt lên ! Vọt lên khắp ! Vọt lên đều khắp ! Động như vậy rồi thì thị giả của các đức Phật mười phương, mỗi mỗi đều chắp tay bạch với đức Phật của mình rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới này chấn động lớn như vậy ?

Các đức Phật mười phương đều liền bảo với thị giả của mình rằng :

– Này thiện nam tử ! Từ phía Tây cõi này, qua khỏi số thế giới nhiều như cát sông Hằng, tại đó có đất nước tên là Ta bà, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà, hiện tại hôm nay đang vào tam muội ực trang nghiêm, vì những bốn chúng vây quanh mà ngồi, sắp nói pháp bình đẳng thậm thâm. Do việc đó nên đất của ba ngàn đại thiên thế giới ở đây đều chấn động. Như vậy theo thứ lớp các phương… cho đến hạ phương, các cõi chấn động cũng lại như vậy.

Các đức Phật mười phương lại bảo đại chúng các Tỳ kheo.v.v… rằng :

– Các ông phải biết, Phật ra đời khéo như hoa Ưu Đàm ! Phật ra đời rồi mà được gặp thì khó hơn bội phần ! Đối với việc đó khó như vậy mà đem so với việc gặp đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai này khó khăn ức bội phần ! Vì sao vậy ? Vì đức Phật Thế Tôn đó, thuở xa xưa, có nhân duyên thệ nguyện lực sinh vào trong cõi tạp uế ngũ trước. Như vậy rất khó ! Này các Tỳ kheo ! Lại danh hiệu đức Như Lai đó chẳng phải là xướng lên suông ! Nếu tất cả chúng sinh trong cõi Phật của đất nước mười phương nghe được đức Thích Ca Mâu Ni này dũng mãnh tinh tấn tu hành hạnh khó, hạnh khổ và đời quá khứ phát thệ nguyện lớn, trong hạnh Bồ tát làm những hạnh khó làm, đầy đủ chủng loại công đức, danh hiệu… tất cả đều được. Nghe như vậy rồi, thì chúng sinh nhiều k lường, chẳng thể tính toán ở trong, tất cả các cõi Phật của mười phương đều được thọ ký Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, huống gì là những người khác đã được quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, Alahán. Vậy nên, này các Tỳ kheo ! Khi nói lên Đại danh xưng của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai này thì tất cả các đức Phật trong những đất nước của ba ngàn đại thiên nhiều như cát sông Hằng, của thế giới mười phương, từng vị đều khen ngợi công đức k lường của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà như vậy. Tiếng khen ấy lại nghe vang đến những xứ khác ở bên ngoài vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng mười phương. Lại có đất nước, lại với số cõi Phật của thế giới nhiều như cát sông Hằng như vậy, các đức Phật ở đó lại đều phát ra âm thanh vì đại chúng nơi ấy xưng nói danh hiệu đức Thích Ca Như Lai. Các vị đại Bồ tát của cõi Phật đó nghe như vậy rồi đều bạch với đức Phật của mình rằng :

– Thật hy hữu, thưa đức Thế Tôn ! Chúng con muốn đi sang thế giới Ta Bà, diện kiến đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, lễ bái cúng dường, nghe những điều chưa nghe.

Các đức Phật đó, mỗi mỗi đều bảo vị đại Bồ tát của mình rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông nên biết, đây là lúc ông đi theo hai vị đại dồng tử cùng sang ! Vì sao vậy ? Vì đức Phật Thế Tôn đó khó gặp khó thấy để nghe pháp, để thính thọ và ở trong chúng đó ngồi chung đồng hội thật khó khăn lắm vậy!

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà từ tam muội lực trang nghiêm mà khởi dậy, bước đi từ từ an tường giống như nga vương (chúa loài ngỗng), nhìn ngắm ngay thẳng, hướng đến tòa sư tử. Đến rồi, Ngài lên trên tòa, tạ tay trải tọa. Bày xong Ngài nghiễm nhiên ngồi kiết già, tất cả đại chúng vây quanh bốn mặt.

Lúc bấy giờ, đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đồng tử Trí Luận Đại Hải Biện Tài từ phương Đông trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức những đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Liên Hoa Tạng Quang Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn Kiến, đồng tử Vô Biên Tâm Quảng Nghĩa Tuệ từ phương Nam trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức những đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thiên Bảo Thiện Quang Chiếu Diệu Trang, đồng tử Nan Khả Thí Dụ Thiện Sắc Ái Kiến từ phương Tây trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức các đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu diện đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Quán Chư Chúng Sinh Nhãn Bất Thuấn, đồng tử Đại Nguyện Bất hư Kiến từ phương Bắc trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức những đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thâm Viễn Lôi Chấn Cổ Âm Hưởng Thanh, đồng tử Ly Nhất Thiết Chúng Sinh Nhãn từ phương Đông Bắc trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức những đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và những vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Bảo Tạng Viêm Luân Quảng Đức, đồng tử Đa Phước Đức Chúng Sinh Kiến Thắng Tràng từ phương Đông Nam trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức các đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Thắng Diệu Vô Biên Hương Quang, đồng tử Vô Biên Lực Đại Tinh Tấn Thiện Đại Phấn Tấn từ phương Tây Nam trở về chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức các đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Lao Cố Tinh Tấn Vô Biên Trí Quang Tràng, đồng tử Nhất Thiết Sai Biệt Đức Thắng Trí từ phương Tây Bắc trở về, chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức các đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Bất Khả Phá Hoại Năng Thường Tối Thắng, đồng tử Thành Tựu Nhất Thiết Tự Tại Đạo sư từ thượng phương trở về, chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức các đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

Lúc bấy giờ, đồng tử Tướng Hảo Trang Nghiêm Thanh Tịnh Phước Hạnh Thiện Danh Xưng, đồng tử Nhất Thiết Chúng Sanh Tối Ái Lạc từ hạ phương trở về, chung với vô lượng a tăng kỳ ngàn vạn ức các đại chúng Bồ tát Mahatát, đều đi đến trước đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Hai vị đồng tử đó và các vị Bồ tát khác, mỗi mỗi đều đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, đều lui về ngồi trên tòa hoa sen.

***

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo trưởng lão A Nan rằng:

– Hôm nay, ông hãy gọi các Tỳ kheo tập họp lại.

Lúc đó, ngài A Nan nhận lời dạy của đức Phật xong, liền đi khắp nơi nơi nói với các vị Tỳ kheo rằng:

– Các ông phải biết, đức Thế Tôn Đạo Sư hôm nay lệnh cho các ông ! Các ông phải đến chỗ ngài !

Các vị Tỳ kheo nghe lời nói đó rồi, tất cả đều kéo đến, thấy đức Phật ngồi ở trên tòa Sư Tử quang hiển, đỉnh đặc, uy đức tối tôn, họ đều chắp tay cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, lễ xong, nhiễu quanh về bên phải, hướng vào trong tòa hoa sen mà ngồi. Lúc bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đầy khắp những hoa sen vi diệu. Hoa ấy nở ra đều như tòa ngồi báu. Lại có cây chiên đàn trời, cây Mạn đà la, cây thiên chúng hương… của thế giới này. Những rừng cây đó, tất cả đều cao bảy đa la (một đơn vị đo chiều cao). Cành lá của cây đó đều là hoa sen. Trong các hoa sen đều đầy những Bồ tát ngồi kiết già và năm trăm La hán Thanh văn này cũng đều ngồi kiết già trên tòa hoa sen… cho đến cung điện vườn rừng của tất cả trời, rồng cõi Hữu Đảnh đều có hoa sen và từng người cũng đều ngồi trên hoa sen. Ba ngàn đại thiên thế giới này với đủ chủng loại hương trời chiên đàn như vậy hòa hợp xông tỏa sực nức đầy ắp khắp cùng khiến cho người nghe ưa thích, khoái lạc, hớn hở. Gió thơm chạm vào thân mát mẻ điều thích có thể khiến cho chúng sanh đều hoan hỷ.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai ở tại tòa Sư tử nhập vào trong Ảnh Hiện tam muội. Do nhân duyên thần lực của tam muội đó nên ở phương Đông, tất cả chúng sinh sở hữu của các cõi Phật đều tạo tác ý niệm này: “Đấng Như Lai Thế Tôn hôm nay đối riêng một mình ta, thương xót ta, biết được lòng ta, hiểu lời nói của ta. Do ngài biết lòng ta, thương xót ta nên xứng với lòng ta, vì ta nói pháp chứ chẳng vì người khác”. Như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng và phương trên, phương dưới, tất cả chúng sinh cho đến các trời, rồng, thần cõi Hữu Đảnh đều nghĩ như vầy: “Đức Phật đối riêng một mình ta, chẳng đối với người khác…” Nói pháp, biết lòng… cũng lại như vậy.

Lúc bấy giờ, ngài đồng tử Văn Thù Sư Lợi ở trên hoa sen cung kính đứng dậy, trật áo vai phải hướng về đức Như Lai, nhất tâm đảnh lễ quì dài chắp tay mà bạch đức Phật rằng:

– Thưa đấng Đại Thánh Thế Tôn ! Tất cả chúng sinh ngu si của thế gian chẳng tin lời nói thâm diệu như vầy: “Như Lai Thế Tôn Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà Giác Liễu Bồ đề, được Như Lai trí, Tự Tại trí, Bất Khả Lượng trí, Vô Đẳng Đẳng trí, Bất Khả Số trí, A Tăng Kỳ trí, Đại trí, Phật trí, Nhất Thiết Chủng Trí”.

Đức Phật dạy rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này Văn Thù Sư Lợi ! Tất cả thế gian chẳng thể nghĩ bàn về Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà Giác Liễu Bồ đề như vậy ! Và Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như ở thế gian có một dùng hết đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng làm vụn nát thành bụi. Những bụi như vậy hợp lại làm một đống, rồi dùng miệng thổi một cái đều khiến cho bụi của cõi nào trở về lại cõi ấy như trước chẳng khác, không có vơi, đầy. Ý ông thế nào? Này Văn Thù Sư Lợi ! Điều đó có thể tin chăng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc đó khó tin ! Chúng sinh ở thế gian thật không có người tin!

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nay ta nói rằng, Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà giác ngộ Bồ đề rồi ! Đây là Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy thì tất cả chúng sinh của thế gian khó tin !

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như ở thế gian có một người dùng thủy tai (tai họa về nước) sở hữu trong những thế giới của ba ngàn đại thiên nhiều như cát sông Hằng mà ba đào ấy trào dâng cho đến cõi Nhị Thiền. Rồi người ấy rút lấy hết chúng cho vào bên trong lỗ của một ngó sen nhỏ. Nước đã vào bên trong rồi mà ngó sen đó chẳng to, chẳng vỡ. Ý ông thế nào? Này Văn Thù Sư Lợi ! Điều đó có thể tin chăng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc đó khó tin ! Chúng sinh trong thế gian thật không có người tin !

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nay ta nói rằng, Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà đã giác ngộ Bồ đề rồi ! Đây là Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy thì tất cả chúng sinh của thế gian khó tin!

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như ở thế gian có một người dùng kiếp hỏa sở hữu trong các thế giới của ba ngàn đại thiên nhiều như cát sông Hằng mà lửa cháy ấy mạnh mẽ cho đến cõi Phạm thiên. Tất cả lửa đó cùng khói cháy ấy, người đó đều hút lấy vào bên trong bụng của mình. Như vậy xong rồi, người đó hoặc lại ăn một quả táo nhỏ, hoặc một hạt mè và một hạt gạo mà sống lâu ở đời trải qua hằng sa kiếp, thân chẳng bị cháy lại cũng chẳng chết. Ý ông thế nào? Này Văn Thù Sư Lợi ! Điều đó có thể tin chăng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc đó khó tin ! Chúng sinh của thế gian thật không có người tin.

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nay ta nói rằng, Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà đã giác ngộ Bồ đề rồi. Đây là Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy thì tất cả chúng sinh của thế gian khó tin.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như thế gian có người dùng tất cả gió tỳ lam của bốn phương, bốn phương bàng và cả trên dưới sở hữu trong những thế giới của ba ngàn đại thiên nhiều như cát sông Hằng mà thổi mạnh cho tất cả phong luân đều hòa hợp lại hết. Rồi người ấy dùng tay chận bắt lấy, đặt vào trong một hạt cải nhỏ mà hạt cải ấy chẳng lớn, chẳng rộng rãi, chẳng chật hẹp, chẳng hủy hoại. Ý ông thế nào? Này Văn Thù Sư Lợi ! Điều đó có thể tin chăng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc đó khó tin ! Chúng sinh của thế gian thật không có người tin !

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nay ta nói rằng, Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà giác ngộ Bồ đề rồi. Đây là Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy thì tất cả chúng sinh của thế gian khó tin.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như thế gian có một người dùng tất cả hư không trong những thế giới của ba ngàn đại thiên nhiều như cát sông Hằng, người ấy muốn ngồi kiết già cho đầy khoảng hư không này, hoặc trụ một kiếp, hoặc trụ nửa kiếp. Ý ông thế nào? Này Văn Thù Sư Lợi ! Điều đó có thể tin chăng?

Ngài Văn Thù bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc đó khó tin ! Chúng sinh ở thế gian thật không có người tin!

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nay ta nói rằng, Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà giác ngộ Bồ đề rồi. Đây là Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy thì tất cả chúng sinh ở thế gian khó tin.

Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi ! Ví như thế gian có một người dùng tâm của tất cả các chúng sinh sở hữu trong các thế giới của ba ngàn đại thiên nhiều như cát sông Hằng. Người đó như vậy, dùng khoảng thời gian một niệm mà hợp tâm của vô lượng chúng sinh này lại, đem đặt vào một chỗ khiến cho chúng trở thành một tâm. Ý ông thế nào? Này Văn Thù Sư Lợi ! Điều đó có thể tin chăng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc đó khó tin ! Chúng sinh trong thế gian thật không có người tin !

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Nay ta nói rằng, Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà giác ngộ Bồ đề rồi ! Đây là Như Lai trí… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng lại như vậy thì tất cả chúng sinh của thế gian khó tin.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ở trên tòa ngồi hoa, trật áo vai phải, quì gối chắp tay, lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi ! Như Lai trí, tự Tại trí, Bất Khả Tư Nghị trí,Bất Khả Lượng trí, Vô Đẳng Đẳng trí, Bất Khả Số trí, A tăng kỳ trí, Đại trí, Phật trí, Nhất thiết chủng trí. Ý nghĩa những trí ấy ra sao?

Đức Phật bảo ngài đồng tử Trí Luận Đại Hải Biện Tài rằng:

– Này thiện nam tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Hãy suy nghĩ cho kỹ ! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói ! Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh bình đẳng nên tất cả pháp cũng bình đẳng. Đây là Như Lai trí. Tất cả pháp bình đẳng nên tất cả chúng sinh cũng bình đẳng. Đây là Như Như chẳng khác ! Như Như thật Như Như. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai trí. Nhân duyên trí đó nên xử trí, phi xử trí, xử phi xử trí của Như Lai, Như Lai biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết tất cả chúng sinh tự tại sinh ra nên tất cả pháp cũng tự tại sinh ra. Tất cả pháp nhân duyên tự sinh ra nên tất cả chúng sinh cũng nhân duyên tự sinh ra. Đây là Như Lai trí ! Vì sao vậy? Vì tất cả chúng sinh chẳng tự tác (tự làm), chẳng phải tha tác (người khác làm), chẳng phải quá khứ, hiện tại và cả tương lai, tìm cầu chẳng được. Vì sao vậy? Vì tác giả không có. Không tác giả nên đời quá khứ của tất cả chúng sinh rỗng không, đời hiện tại rỗng không, đời đương lai cũng rỗng không. Như vậy chúng sinh không tác giả nên tất cả pháp cũng như vậy, không tác giả quá khứ, đương lai và hiện tại. Vì sao vậy? Vì tác giả đều không có. Nếu có người nói rằng, có tác giả thì ông phải biết, người đó hư dối nói láo. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai Tự Tại trí ! Nhân duyên trí đó nên đường đi đến của tất cả hạnh nghiệp Như Lai biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết trí của tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn. Như trí của tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn thì như vậy trí của tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn. Như trí của tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn thì như vậy sự biết của tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, sự biết của tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Vì chẳng phải ý thức đó của tất cả chúng sinh có thể thấy, có thể biết ! Ví như hư không không có khác biệt, chẳng thể hay biết. Thể tính chân thật của tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ lường. Như vậy nhân duyên thật nghĩa của tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn nên tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn. Như tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn thì như vậy tất cả chúng sinh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây là Như Lai Bất Khả Tư Nghị trí. Nhân duyên trí đó nên tất cả quả báo nhân duyên cấu tịnh của quá khứ, hiện tại và cả đương lai, Như Lai biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết tất cả chúng sinh chẳng thể lường nên trí của tất cả pháp cũng chẳng thể lường. Tất cả pháp chẳng thể lường nên trí của tất cả chúng sinh cũng chẳng thể lường. Vì sao vậy? Vì chẳng phải nhận thức của tâm ý tất cả chúng sinh, chẳng thể thấy, chẳng thể biết ! Như hư không chẳng thể xưng kể. Như thật nghĩa của tất cả chúng sinh chẳng thể lường. Như vậy tất cả chúng sinh chẳng thể lường nên tất cả pháp cũng chẳng thể lường. Tất cả pháp chẳng thể lường nên tất cả chúng sinh cũng chẳng thể lường. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai Bất Khả Tư Lương trí. Nhân duyên trí đó nên căn của tất cả chúng sinh tinh tấn, chúng sinh sai biệt, Như Lai biết như thật.

Lại nữa, này Trí Luân Đại Hải Biện Tài đồng tử ! Như Lai biết tất cả chúng sinh bình đẳng nên trí của tất cả pháp bình đẳng. Tất cả pháp bình đẳng nên trí của tất cả chúng sinh cũng bình đẳng. Vì sao vậy? Vì nếu thể tánh của Niết bàn cùng với tất cả chúng sinh có khác thì tức là thí dụ chẳng tương ưng. Ông phải biết Niết bàn, chúng sinh là một, chẳng hai vậy. Như thể tánh của tất cả chúng sinh chẳng khác Niết bàn thì chẳng phải chẳng khác Như Như. Tất cả chúng sinh bình đẳng nên tất cả pháp cũng bình đẳng. Tất cả pháp phi bình đẳng thì tất cả chúng sinh cũng phi bình đẳng trí. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai Vô Đẳng Đẳng Trí. Nhân duyên Vô Đẳng Đẳng Trí đó nên cảnh giới không lường, cảnh giới đủ thứ của tất cả chúng sinh, Như Lai biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết nhân duyên nhiều chẳng thể tính của tất cả chúng sinh nên cũng biết trí chẳng thể tính của tất cả pháp, biết nhân duyên chẳng thể tính của tất cả pháp nên cũng biết trí chẳng thể tính của tất cả chúng sinh. Như thể tánh của pháp giới chẳng thể tính thì như vậy, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Tất cả chúng sinh lìa khỏi phận mình nên chẳng thể tính. Như vậy tất cả pháp cũng chẳng thể tính, tất cả chúng sinh cũng chẳng thể tính. Tất cả pháp chẳng thể tính… cho đến tất cả chúng sinh chẳng thể tính. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai Bất Khả Số trí. Nhân duyên bất Khả Số trí đó nên lòng ưa đủ thứ loại của tất cả chúng sinh. Như Lai biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết a tăng kỳ nhân duyên của tất cả chúng sinh, biết a tăng kỳ trí của tất cả các pháp. Như tất cả pháp có a tăng kỳ nhân duyên thì tất cả chúng sinh có a tăng kỳ trí. Ta cũng biết tất cả chúng sinh có a tăng kỳ nhân duyên nên tất cả pháp có a tăng kỳ trí. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai Atăngkỳ trí. Nhân duyên Atăngkỳ trí đó nên tất cả thiền định giải thoát và tam ma đề, tam ma bạt đề của Như Lai phiền não hay tịch diệt, khởi động hay đoạn trừ, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết tất cả chúng sinh Đại nên cũng biết tất cả pháp đại trí. Biết tất cả pháp đại trí nên cũng biết tất cả chúng sinh đại trí, lìa khỏi chướng ngại. Lìa khỏi chướng ngại thì đây gọi là danh tự của tất cả chúng sinh. Lại nữa, lìa khỏi chướng ngại thì gọi là lìa khỏi tối. Lìa khỏi tối thì đây gọi là thể tánh chiếu diệu quang minh. Ánh sáng chiếu diệu thì ở các cảnh giới không có trần cấu. Không có trần cấu nên gọi là lìa khỏi chướng ngại. Đại giới chúng sinh một mà không khác thì đây gọi là Đại giới của thể tính chúng sinh. Nhân duyên Đại giới của tất cả chúng sinh thì tất cả pháp cũng lìa khỏi trần cấu chẳng khác nên Lớn (Đại). Tất cả pháp đại, tất cả chúng sinh đại thì nên biết, hễ lìa khỏi trần cấu thì tất cả pháp lìa khỏi tối tăm. Nếu có người nói rằng, tất cả “hữu” sinh ra tối tăm thì không có điều đó. Này đồng tử Trí Luân ! Đây gọi là Như Lai Ly Ám Đại trí. Cũng nhân duyên Đại trí nên thiên nhãn của Như Lai thấy được sinh tử của tất cả chúng sinh sinh trong trời, người hiện tại và đương lai, sinh trong địa ngục, súc sinh, ngã quỉ và sự thọ sinh của chúng sinh vì nhân duyên nghiệp khác, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết nhân duyên của tất cả chúng sinh đời quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng biết trí Như Lai của tất cả pháp đời quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng biết nhân duyên của tất cả pháp quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng biết trí Như Lai của tất cả chúng sinh quá khứ, hiện tại và vị lai. Này Trí Luân ! Như pháp giới ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai không thể thấy thì lúc bấy giờ, chúng sinh giới ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai cũng chẳng thể thấy. Như chúng sinh giới quá khứ, hiện tại và vị lai không thể thấy thì lúc bấy giờ, tất cả pháp giới quá khứ, hiện tại và vị lai cũng chẳng thể thấy. Người này chẳng thể thấy pháp tánh, pháp thể, tất cả Phật thân và phi Phật thân, chúng sinh thân.v.v… là một thứ, không khác. Này đồng tử Trí Luân ! Ông phải biết, đây gọi là Như Lai Phật trí. Nhân duyên trí đó nên tất cả sinh tử sở hữu của ba đời, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Như Lai biết Nhất thiết trí của tất cả chúng sinh nên Như Lai biết Nhất thiết chủng trí của tất cả pháp. Như Lai biết Nhất thiết trí của tất cả pháp nên Như Lai biết Nhất thiết chủng trí của tất cả chúng sinh. Nhất thiết trí của tất cả chúng sinh là Như Lai trí. Nhân duyên Như Lai trí nên Nhất thiết trí của tất cả chúng sinh là Như Lai trí. Này đồng tử Trí Luân ! Như Nhất thiết trí của tất cả chúng sinh là Như Lai trí thì như vậy Như Lai trí là Nhất thiết trí của tất cả chúng sinh. Như vậy nhân duyên Nhất thiết trí của tất cả pháp, nhân duyên Nhất thiết trí của Như Lai… cho đến Nhất thiết trí của tất cả pháp, này Trí Luân ! Như vậy, đây là Phật quá khứ, hiện tại và đương lai, là Nhất thiết trí của Như Lai quá khứ, Nhất thiết trí của Như Lai đương lai, Nhất thiết trí của Như Lai hiện tại. Do Nhất thiết trí đó nên Như Lai quá khứ sinh ra Nghĩa trí, Như Lai đương lai sinh ra Nghĩa trí, Như Lai hiện tại sinh ra Nghĩa trí. Này Trí Luân ! Đó gọi là Như Lai Nhất Thiết Chủng trí. Do nhân duyên Nhất thiết chủng trí đó nên trí Như Lai lậu tận, trí Như Lai thật. Trí đó là thế nào? – Đời quá khứ không, đời đương lai không, đời hiện tại không, ba đời đều không, không sinh, không tận, không trụ, không dị (khác), chẳng phải Như, chẳng phải dị… Như Như gọi là Như Lai trí. Tạo tác nhân duyên không gọi là Tự Tại trí. Lìa tâm ý thức, các cảnh giới nên gọi là Bất Khả Tư Nghị trí. Hư không không khác nên gọi là Bất Khả Lượng trí. Vô Đẳng nhân duyên nên gọi là Vô Đẳng Đẳng trí. Pháp giới vô số nên gọi là Bất Khả Số trí. A tăng kỳ, a tăng kỳ nhân duyên nên gọi là A tăng kỳ trí, nhân duyên không chướng ngại nên gọi là Đại trí. Nhân duyên Phật quá khứ, đương lai và hiện tại nên gọi là Phật trí. Nhân duyên trí của tất cả các “hữu” quá khứ, hiện tại và đương lai, đó gọi là Như Lai Nhất Thiết Chủng trí. Tất cả trí này, xứ sở, tên gọi, ý vị và câu cú của tất cả trí là nhân duyên hòa hợp của tất cả văn tự lời nói. Nay ta từng chữ từng chữ lược nói như vậy. Tất cả xử thuận với thắng trí Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà thì đây gọi là Như Lai trí, Tự Tại trí, Bất Khả Tư Nghị trí, Bất Khả Lượng trí, Vô Đẳng Đẳng trí, Bất Khả Số trí, A tăng kỳ trí, Đại trí, Phật trí, Nhất Thiết Chủng trí.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là nhân duyên lực chúng sinh sinh ra nên lực Như Lai cũng sinh ra? Lực Như Lai sinh ra nên lực chúng sinh cũng sinh ra?

Đức Phật dạy rằng:

– Đúng vậy ! Này đồng tử Trí Luân ! Lực Như Lai, lực chúng sinh, hai lực này chẳng một chẳng khác, nên gọi là “Nhất Giới Như”. Nhân duyên lực chúng sinh mà lực Như Lai sinh ra. Nhân duyên lực Như Lai mà lực chúng sinh sinh ra. Vậy nên Như Lai giác ngộ Nhất Thiết Trí.

Lúc đó đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Nhất Thiết Chủng Trí của Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà sinh ra?

Đức Phật dạy rằng:

– Mười hai nhân duyên sinh ra, này đồng tử Trí Luân ! Nên Nhất Thiết Chủng trí của Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà sinh ra. Này đồng tử Trí Luân ! Mười hai nhân duyên dó là: Nhãn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, ý pháp. Do trí nhân duyên này nên Nhất Thiết Chủng Trí sinh ra (Nói trí nhân duyên nên sợ nhân duyên sinh).

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Vô lượng Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà với Nhất thiết trí nhãn? Nhất thiết trí sắc? Nhất thiết trí nhĩ? Nhất thiết trí thanh? Nhất thiết trí tỵ? Nhất thiết trí hương? Nhất thiết trí thiệc? Nhất thiết trí vị? Nhất thiết trí thân? Nhất thiết trí xúc? Nhất thiết trí ý? Nhất thiết trí pháp?

Hỏi như vậy rồi, đức Phật báo cho đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài rằng:

– Vô lượng tất cả chúng sinh với tất cả chúng sinh nhãn, tất cả chúng sinh sắc, tất cả chúng sinh nhĩ, tất cả chúng sinh thanh, tất cả chúng sinh tỵ, tất cả chúng sinh hương, tất cả chúng sinh thiệc, tất cả chúng sinh vị, tất cả chúng sinh thân, tất cả chúng sinh xúc, tất cả chúng sinh ý, tất cả chúng sinh pháp. Như vậy, này đồng tử Trí Luân ! Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà với Nhất thiết trí nhãn, Nhất thiết trí sắc, Nhất thiết trí nhĩ, Nhất thiết trí thanh, Nhất thiết trí tỵ, Nhất thiết trí hương, Nhất thiết trí thiệc, Nhất thiết trí vị, Nhất thiết trí thân, Nhất thiết trí xúc, Nhất thiết trí ý, Nhất thiết trí pháp. Vô lượng Như Lai với Nhất thiết trí nhãn, Nhất thiết trí sắc, Nhất thiết trí nhĩ, Nhất thiết trí thanh, Nhất thiết trí tỵ, Nhất thiết trí hương, Nhất thiết trí thiệc, Nhất thiết trí vị, Nhất thiết trí thân, Nhất thiết trí xúc, Nhất thiết trí ý, Nhất thiết trí pháp. Như vậy tất cả chúng sinh cũng Nhất thiết trí nhãn, Nhất thiết trí sắc, Nhất thiết trí nhĩ, Nhất thiết trí thanh, Nhất thiết trí tỵ, Nhất thiết trí hương, Nhất thiết trí thiệc, Nhất thiết trí vị, Nhất thiết trí thân, Nhất thiết trí xúc, Nhất thiết trí ý, Nhất thiết trí pháp.

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Ý ông thế nào? Vả có một sắc chẳng được mắt chúng sinh nhìn thấy chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không có một sắc nào mà chẳng được nhìn thấy của mắt chúng sinh thì chỉ khiến cho sắc đó đều nhìn thấy hết !

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Mà trong thế gian có sắc như vậy cũng được mắt chúng sinh chẳng thấy chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không như sắc này, chúng sinh chẳng thấy !

Đức Phật nói rằng:

– Này Trí Luân ! Không như sắc này, ở trong thế gian mà Nhất thiết trí nhãn chẳng thấy. Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này sẽ biết vô lượng tất cả chúng sinh nhãn, như vậy là Nhất thiết trí nhãn. Biết vô lượng tất cả chúng sinh sắc, như vậy là Nhất thiết trí sắc.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Ở trong thế gian vả có một thanh cũng được nhĩ thức của tất cả chúng sinh chẳng nghe chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không thanh nào như vậy mà chẳng được tai của chúng sinh chẳng nghe !

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Không tiếng như vậy ở trong thế gian mà Nhất thiết trí nhĩ chẳng nghe ! Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này sẽ biết vô lượng tất cả chúng sinh nhĩ, như vậy là Nhất thiết trí nhĩ. Biết vô lượng tất cả chúng sinh thanh, như vậy là Nhất thiết trí thanh.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Ở trong thế gian vả có một thứ hương mà trong mũi của tất cả chúng sinh chẳng ngửi được chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không có thứ hương như vậy, chẳng được mũi chúng sinh chẳng ngửi thấy !

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Không có thứ hương như vậy ở trong thế gian mà Nhất thiết trí tỵ (mũi) xông tỏa. Nàu đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này sẽ biết vô lượng tất cả mũi của chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí tỵ. Biết vô lượng tất cả chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí hương.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Ở trong thế gian, vả có một vị mà trong lưỡi của tất cả chúng sinh chẳng nếm được chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không có vị như thế ! Vị chẳng được lưỡi của chúng sinh chẳng nếm.

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Không có vị như thế ở trong thế gian mà Nhất thiết trí thiệc chẳng nếm. Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này sẽ biết vô lượng tất cả lưỡi chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí thiệc. Biết vô lượng tất cả vị của chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí vị.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Ở trong thế gian vả có một thức xúc mà ở trong thân của tất cả chúng sinh chẳng biết chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không có xúc như thế ! Xúc mà chẳng thân chúng sinh chẳng biết.

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Không có xúc như thế ở trong thế gian mà Nhất thiết trí thân chẳng biết. Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này sẽ biết vô lượng tất cả thân chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí thân. Biết vô lượng tất cả xúc của chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí xúc.

Lại nữa, này đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài ! Ở trong thế gian vả có một pháp mà được trong ý của tất cả chúng sinh chẳng biết chăng?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Không có pháp như thế ! Pháp mà chẳng được ý chúng sinh chẳng biết !

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Không có pháp như vậy ở trong thế gian mà Nhất thiết trí chẳng biết ! Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này sẽ biết vô lượng tất cả tâm chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí tâm. Biết vô lượng tất cả pháp của chúng sinh, như vậy là Nhất thiết trí pháp. Như vậy, tất cả tâm chúng sinh là Nhất thiết trí tâm, tất cả pháp chúng sinh là Nhất thiết trí pháp. Hai thứ này là một, không có khác.

Lại nữa, này Trí Luân Đại Hải Biện Tài đồng tử ! Như tất cả chúng sinh nhãn, tất cả chúng sinh sắc… cho đến tất cả chúng sinh ý, tất cả chúng sinh pháp. Nhất thiết trí nhãn, Nhất thiết trí sắc… cho đến Nhất thiết trí ý, Nhất thiết trí pháp. Như vậy, cứ hai biên (bên) là một pháp giới. Này Trí Luân ! Như vậy vô lượng tất cả chúng sinh nhãn thì như vậy Nhất thiết trí nhãn… cho đến vô lượng tất cả chúng sinh ý, pháp thì như vậy Nhất thiết trí ý, pháp. Như vậy Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà với nhãn trí, nhãn phiền não trí, nhãn tịch diệt trí, nhãn phiền não tịch diệt trí, sắc trí, sắc phiền não trí, sắc tịch diệt trí, sắc phiền não tịch diệt trí, nhĩ trí, nhĩ phiền não trí, nhĩ tịch diệt trí, nhĩ phiền não tịch diệt trí, thanh trí, thanh phiền não trí, thanh tịch diệt trí, thanh phiền não tịch diệt trí, tỵ trí, tỵ phiền não trí, tỵ tịch diệt trí, tỵ phiền não tịch diệt trí, hương trí, hương phiền não trí, hương tịch diệt trí, hương phiền não tịch diệt trí, thiệc trí, thiệc phiền não trí, thiệc tịch diệt trí, thiệc phiền não tịch diệt trí, vị trí, vị phiền não trí, vị tịch diệt trí, vị phiền não tịch diệt trí, thân trí, thân phiền não trí, thân tịch diệt trí, thân phiền não tịch diệt trí, xúc trí, xúc phiền não trí, xúc tịch diệt trí, xúc phiền não tịch diệt trí, ý trí, ý phiền não trí, ý tịch diệt trí, ý phiền não tịch diệt trí, pháp trí, pháp phiền não trí, pháp tịch diệt trí, pháp phiền não tịch diệt trí là một không có khác. Do không khác nên tất cả chúng sinh nhãn, Nhất thiết trí nhãn… cho đến tất cả pháp, Nhất thiết trí pháp là một pháp giới. Này đồng tử Trí Luân ! Ví như người trí tuệ ở thế gian tự biết khổ, tự biết vui, tự biết chẳng khổ, tự biết chẳng vui. Vì sao vậy? Vì tự thân họ thọ nhận. Này đồng tử Trí Luân ! Như vậy Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà với tất cả chúng sinh nhãn trí, sắc trí, nhĩ trí, thanh trí, tỵ trí, hương trí, thiệc trí, vị trí, thân trí, xúc trí, ý trí, pháp trí, phiền não trí, tịch diệt trí thì cũng… phiền não tịch diệt trí, tận trí. Vì sao vậy? Vì Nhất thiết chủng trí có được mười hai nhập trí của tất cả chúng sinh. Như Lai danh này là danh của tất cả chúng sinh nhập. Như Lai sắc này là tùy theo trí tuệ hạnh cả thân nghiệp ba đời của Như Lai. Tất cả khẩu nghiệp, tất cả ý nghiệp của Như Lai cũng tùy theo trí tuệ hạnh ba đời. Tất cả thọ của Như Lai, Nhất thiết chủng trí hiện tiền đều biết, Như Lai Nhất thiết trí chánh tri, Nhất thiết chủng trí chánh tri, Như Lai dùng Nhất thiết chủng trí để biết hạnh hữu vi. Như Lai Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí biết rồi thì trong đó cũng có bốn ấm của tất cả chúng sanh lìa khỏi sắc. Như Lai danh này thì danh cũng là sắc ấm của tất cả chúng sinh. Danh Như Lai sắc này là dùng danh sắc như vậy nên Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà gọi là Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, Nhất thiết xúc, Nhất thiết giác.

***

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài rằng:

– Này thiện nam tử ! Ông thấy thân của tất cả Như Lai chăng?

Đồng tử Trí Luân liền bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Con thấy.

Đức Phật hỏi ngài Trí Luân:

– Ông nói thấy là thấy những gì?

Ngài Trí Luân bạch rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Con thấy tất cả các đức Phật Như Lai của số thế giới nhiều như cát sông Hằng. Ở tại mỗi đất nước đó, con cũng thấy các đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng, tất cả đều ở trong nước của mình, mỗi mỗi đều nói pháp.

Đức Phật hỏi như vậy lần thứ hai và lần thứ ba, ngài Trí Luân đồng tử cũng đáp như vậy. Đức Phật lại hỏi ngài Trí Luân rằng:

– Này thiện nam tử ! Ông thấy bàn tay phải của Như Lai chăng?

Ngài Trí Luân đáp:

– Thưa thấy !

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Ông nói thấy là thấy những gì?

Ngài Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Con thấy ngón tay, bàn tay phải của tất cả các đức Phật Như Lai và từng vị ở cõi của mình nói các pháp cũng lại như vậy.

– Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện như vậy, ông phải biết là tâm ý và pháp của các tất cả các chúng sinh… Danh Như Lai này là nhãn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc của tất cả chúng sinh. Sắc Như Lai này, danh Như Lai này, sắc danh này là Như Lai Nhất thiết trí cũng gọi là Nhất thiết kiến.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Điều nói của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn về Đa Đà A Già Độ vi diệu tối đại, chẳng thể nghĩ bàn về cảnh giới Như Lai.

Đức Phật dạy rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này đồng tử Trí Luân ! Chẳng thể nghĩ bàn về Đa Đà A Già Độ vi diệu tối đại, chẳng thể nghĩ bàn về cảnh giới Như Lai ! Này đồng tử Trí Luân ! Ta ở dưới cây A Thuyết Tha, ngồi ngay thẳng suy nghĩ, giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác xong, được Nhất Thiết Chủng trí. Này đồng tử Trí Luân ! Ta phát tâm đó chẳng thể nghĩ bàn, vi diệu tối đại chẳng thể nghĩ bàn ! Đây chính là cảnh giới của các đức Phật Như Lai. Ta vào lúc đó, tác khởi ý niệm chẳng thể nghĩ bàn này xong thì từ dưới cây A Thuyết Tha mà đứng dậy, chẳng gần, chẳng xa đối với cây này, một lòng quan sát kỹ càng, nhìn chín chắn, chẳng chớp mắt thì được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi đồ ăn thức uống khác. Như vậy trải qua bảy ngày bảy đêm thấy cây Bồ đề A Thuyết Tha. Ta ngồi dưới gốc cây này rồi mà tất cả thế gian không thể tin Phật được Như Lai trí, được Tự Tại trí, được Bất Khả Tư Nghị trí, được Bất Khả Lượng trí, được Vô Đẳng Đẳng trí, được Bất Khả Số trí, được A tăng kỳ trí, được Đại trí, được Phật trí, được Nhất Thiết Chủng trí. Lại nữa, này Trí Luân ! Đối mặt với cây Bồ đề A Thuyết Tha tức là chỗ đó đã có tháp tên là Bất Thuấn Nhãn Thị (chẳng chớp mắt nhìn), chính là cái tâm chẳng thể nghĩ bàn của ta. Thấy ta dưới cây Bồ đề A Thuyết Tha đứng dậy, mắt chẳng nháy… cho đến bảy ngày được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi thực tưởng khác. Đại Chi Đề đó thường được sự cúng dường của trời người. Này đồng tử Trí Luân ! Như phương tiện này, ông phải biết, tức là chẳng thể nghĩ bàn về cảnh giới thậm thâm của các đức Phật Như Lai. Lại nữa, này đồng tử Trí Luân ! Ông nay chớ tác khởi suy nghĩ như vầy: “Riêng một mình Như Lai giác ngộ Bồ đề rồi, đối mặt với cây A Thuyết Tha, dùng mắt chẳng nháy xem cây đó, được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi đồ ăn thức uống khác, trụ bảy ngày đêm. Này đồng tử Trí Luân ! Cẩn thận chớ như đây mà khởi lên tâm đó ! Vì sao vậy? Vì đời quá khứ tất cả mười phương chư Phật Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà mà nay đã vào với Tịch Diệt Niết Bàn. Những vị Như Lai đó cũng đều ngồi ở dưới cây Bồ đề. Ngồi rồi, các ngài đều được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và Nhất Thiết Chủng trí, đều phát tâm đó chẳng thể nghĩ bàn, tối đại chẳng thể nghĩ bàn ! Cảnh giới Như Lai thậm thâm của chư Phật ! Phật đó cũng đều khởi lên tâm chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Cây Bồ đề kia, từ dưới cây đứng dậy đi đến chỗ khác, dùng mắt chẳng chớp nhìn thẳng cây này thì được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi món ăn khác, trụ bảy ngày bảy đêm cũng lại như vậy. Này đồng tử Trí Luân ! Nếu đời đương lai tất cả các đức Phật Như Lai mười phương cũng ngồi dưới cây Bồ đề được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và được Nhất Thiết Chủng trí chẳng thể nghĩ bàn… cho đến tối đại chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới Như Lai ! Đức Phật Như Lai đó cũng phát tâm chẳng thể nghĩ bàn nghĩ đến cây Bồ đề, xem cây bằng mắt nhìn chẳng chớp, được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi thực tưởng khác, trụ bảy ngày đêm cũng lại như vậy. Này đồng tử Trí Luân ! Nếu hiện tại hôm nay, các đức Phật đang trụ thế ở tất cả mười phương… cho đến đang nói pháp thì các đức Phật Như Lai đó cũng đó cũng ngồi dưới cây Bồ đề được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và Nhất Thiết Chủng trí rồi, cũng nghĩ như vậy… cho đến tối đại chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới Như Lai ! Các đức Phật Như Lai đó được tâm chẳng thể nghĩ bàn rồi thì từ dưới cây Bồ đề đứng dậy, dùng mắt chẳng chớp quan sát cây Bồ đề, được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi đồ ăn thức uống khác, trụ bảy ngày bảy đêm cũng lại như vậy.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Tại sao đức Như Lai và tất cả Phật Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà ở dưới cây Bồ đề được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và Nhất Thiết Chủng trí rồi thì khởi tác niệm như vậy chẳng thể nghĩ bàn, cũng quán như vậy, đối trước cây Bồ đề, mắt nhìn chẳng chớp, được món ăn hoan hỷ, lìa khỏi đồ ăn thức uống khác, hoặc trụ mười bốn ngày ở chỗ đó.

Đức Phật bảo đồng tử Trí Luân rằng:

-Này thiện nam tử ! Chẳng phải tất cả Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà đối trước cây Bồ đề trụ bảy ngày bảy đêm, mắt chẳng nháy. Này đồng tử Trí Luân ! Có các đức Phật Như Lai được giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi… cho đến vào tới Vô Lậu Niết bàn. Ở trong thời gian chẳng thể nghĩ bàn này đã niệm cảnh giới Phật chẳng thể nghĩ bàn. Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện này như vậy ông sẽ biết, các đức Phật thường niệm cảnh giới của các đức Phật chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới Như Lai tối đại chẳng thể nghĩ bàn !

Đồng tử Trí Luân lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Sở hữu cảnh giới của Như Lai Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà nhiều ít ra sao?

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Cảnh giới chư Phật y như cảnh giới của tất cả chúng sinh.

Đồng tử Trí Luân lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Cảnh giới của tất cả chúng sinh nhiều ít?

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Như vậy, cảnh giới của tất cả các đức Phật, đây gọi là cảnh giới của tất cả chúng sinh. Lại nữa, này Trí Luân ! Nay ông phải biết, cảnh giới của chư Phật và cảnh giới của tất cả chúng sinh, hai cảnh giới này là một pháp giới, không có sai khác.

Đồng tử Trí Luân lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Phật? Cái gì là Pháp?

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Nay ông phải biết, tất cả chúng sinh gọi là Phật pháp !

Ngài Trí Luân lại hỏi:

– Ai là chúng sinh? Tại sao đó gọi là Phật?

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Cõi chúng sinh ! Ông phải biết, nghĩa này chính là cảnh giới của Phật ! – đức Phật bảo ngài Trí Luân – Ta nay hỏi ông, ông cứ tùy ý mà đáp ! Tại sao gọi là Tâm? Vì nhân duyên gì Như Lai được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?

Đồng tử Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Tự thể tánh của tất cả chúng sinh ! Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại một lần nữa hỏi đồng tử Trí Luân rằng:

– Này Trí Luân ! Ý ông thế nào? Ông biết trí tuệ của Như Lai ra sao?

Ngài Trí Luân đồng tử liền đáp đức Phật rằng:

– Biết cảnh giới của tất cả chúng sinh nên trí tuệ của Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà đầy đủ !

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Ông phải biết, phương tiện như vậy này thì vô lượng cảnh giới của chư Phật Như Lai cùng với cảnh giới của các chúng sinh là một thứ ! Nếu có cảnh giới của tất cả chúng sinh thì tức là cảnh giới của Phật ! Như vậy tất cả cảnh giới của Như Lai và tất cả cảnh giới của chúng sinh là một cảnh giới, không hai, không khác.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Như con hiểu được nghĩa thú lời nói của đức Phật, biết được chư Phật chẳng khác chúng sinh, tất cả chúng sinh cũng tức là Như Lai.

Đức Phật ấn khả đồng tử Trí Luân rằng:

– Hay thay ! Hay thay ! Này đồng tử Trí Luân ! Ông nay giỏi biết ý nghĩa lời nói của Như Lai ! Ông lại cũng từng ở chỗ Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng không lường, trong quá khứ, gieo trồng mọi gốc đức, nghe lời pháp môn vi diệu của Phật, ngày đêm dài tu Bát nhã Ba la mật, luôn ở đời sống được nghĩa biện tài, được pháp biện tài, được từ (lời) biện tài, được lạc thuyết (ưa nói) biện tài, vì sắc chúng sinh hỏi đáp, không nghi ngờ.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Tại sao Như Lai và các Đại Bồ tát.v.v… có thể làm như vậy mà được Như Lai trí, Tự Tại trí, Bất Khả Tư Nghị trí, Bất Khả Lượng trí, Vô Đẳng Đẳng trí, Bất Khả Số trí, A Tăng Kỳ trí, Đại trí, Phật trí, Nhất Thiết Chủng trí… thông đạt hiểu biết?

Nghe hỏi như vậy rồi, đức Phật liền bảo rằng:

– Này đồng tử Trí Luân ! Ta ở trong Bát nhã Ba la mật chẳng loạn tâm hành. Này đồng tử Trí Luân ! Do chẳng loạn tâm hành Bát nhã nên Đại Bồ tát có thể làm như vậy mà được Như Lai trí, Tự Tại trí, Bất Khả Tư Nghị trí, Bất Khả Lượng trí, Vô Đẳng Đẳng trí, Bất Khả Số trí, A Tăng Kỳ trí, Phật trí, Đại trí, Nhất Thiết Chủng trí và hiểu biết như vậy.

Đồng tử Trí Luân lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Tại sao đức Như Lai và các vị Đại Bồ tát.v.v… ở trong Bát nhã Ba la mật hành hạnh rồi, cũng chẳng xả tưởng, ở trong bất tưởng hành cũng chẳng phải tưởng chứng?

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Trong số này, những vị Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật thì hành trong mắt (nhãn), hành trong sắc, hành trong tai (nhĩ), hành trong thanh (tiếng), hành trong tỵ (mũi), hành trong hương, hành trong lưỡi (thiệc), hành trong vị (mùi vị), hành trong thân, hành trong xúc, hành trong ý, hành trong pháp.

Đồng tử Trí Luân hỏi rằng:

– Sao gọi là hành mắt, hành trong sắc, hành trong tai, hành trong thanh, hành trong mũi, hành trong hương, hành trong lưỡi, hành trong vị, hành trong thân, hành trong xúc, hành trong ý, hành trong pháp?

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Bồ tát hành trong nhãn sắc thì ông phải biết, mắt này bị sắc làm trở ngại, tai bị thanh làm trở ngại, mũi bị hương làm trở ngại, lưỡi bị vị làm trở ngại, thân bị xúc làm trở ngại, ý bị pháp làm trở ngại !

Ngài Trí Luân hỏi rằng:

– Sao gọi là mắt bị sắc làm trở ngại… cho đến ý bị pháp làm trở ngại?

Đức Phật dạy rằng:

– Này Trí Luân ! Mắt duyên vào sắc nên lòng sinh hoan hỷ hay sinh khổ não, hoặc sinh bỏ đi hay nhận lấy, vì lòng thủ trước nên khởi lên tham, sân, si. Nhân duyên hòa hợp tạo ra đủ thứ những nghiệp của thân, miệng, ý. Tạo những nghiệp này rồi thì sinh vào địa ngục, ngã quỉ, súc sinh và a tu la, trời, người. Chúng sinh lấy sáu đường làm nơi y chỉ. Trong đó, quả báo của nhãn sắc sinh ra chịu sự báo đền này nên người ngu si ở đời đương lai, khổ não rộng thêm. Như vậy qua lại tuần hoàn chẳng dứt. Do cái quả đó nên mọi khổ chẳng đoạn dứt. Vì sao vậy? Vì ở trong luân chuyển chẳng thấy đường ra. Phàm phu chúng sinh ngu si điên đão chẳng biết tai nhân duyên thanh… cho đến chẳng biết ý nhân duyên pháp như vậy. Nói rộng ra như trên. Người trí tuệ nên phải hết lòng quan sát kỹ càng mắt này: Mắt là ai vậy? Cái gì chính là mắt? Tìm kiếm nghĩa của mắt và nghĩa chẳng phải mắt (phi nhãn). Rồi cứ như vậy tìm kiếm nghĩa của sắc, nghĩa của phi sắc (chẳng phải sắc)… cho đến nghĩa và phi nghĩa của nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, ý pháp. Tất cả đều tìm, đều vô sở kiến. Kẻ trí tư duy kỹ như vậy rồi thì nghĩa của mắt chẳng thấy, chẳng phải nghĩa của mắt cũng chẳng thấy, nghĩa của mắt và phi nghĩa của mắt, tất cả chẳng thấy… cho đến nghĩa của sắc chẳng thấy, phi nghĩa của sắc cũng chẳng thấy, nghĩa của sắc và phi nghĩa của sắc, tất cả chẳng thấy. Như vậy, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, ý pháp… nghĩa của pháp như vậy chẳng thấy, phi nghĩa của pháp cũng chẳng thấy, nghĩa của pháp phi nghĩa của pháp cũng lại chẳng thấy. Người tu hành đó chẳng thấy mắt (nhãn), đã lìa khỏi nghĩa của mắt, cũng lại chẳng thấy chính là mắt, chẳng phải là mắt, chẳng thấy là sắc, chẳng thấy lìa khỏi sắc, cũng lại chẳng thấy là sắc, chẳng phải là sắc. Như vậy tai chẳng phải tai, tai chẳng phải chẳng phải tai. Tiếng chẳng phải tiếng, tiếng chẳng phải chẳng phải tiếng. Mũi chẳng phải mũi, mũi chẳng phải chẳng phải mũi. Hương chẳng phải hương, hương chẳng phải chẳng phải hương. Lưỡi chẳng phải lưỡi, lưỡi chẳng phải chẳng phải lưỡi. Vị chẳng phải vị, vị chẳng phải chẳng phải vị. Thân chẳng phải thân, thân chẳng phải chẳng phải thân. Xúc chẳng phải xúc, xúc chẳng phải chẳng phải xúc. Ý chẳng phải ý, ý chẳng phải chẳng phải ý. Pháp chẳng phải pháp, pháp chẳng phải chẳng phải pháp. Lại nữa, mắt chẳng biết (giác), chẳng phải mắt cũng chẳng biết, mắt chẳng phải mắt cũng chẳng biết. Như vậy sắc chẳng biết, chẳng phải sắc cũng chẳng biết, sắc chẳng phải sắc cũng chẳng biết. Tai chẳng biết, chẳng phải tai cũng chẳng biết, tai chẳng phải tai cũng chẳng biết. Tiếng chẳng biết, chẳng phải tiếng cũng chẳng biết, tiếng chẳng phải tiếng cũng chẳng biết. Mũi chẳng biết, chẳng phải mũi cũng chẳng biết, mũi chẳng phải mũi cũng chẳng biết. Hương chẳng biết, chẳng phải hương cũng chẳng biết, hương chẳng phải hương cũng chẳng biết. Lưỡi chẳng biết, chẳng phải lưỡi cũng chẳng biết, lưỡi chẳng phải lưỡi cũng chẳng biết. Vị chẳng biết, chẳng phải vị cũng chẳng biết, vị chẳng phải vị cũng chẳng biết. Thân chẳng biết, chẳng phải thân cũng chẳng biết, thân chẳng phải thân cũng chẳng biết. Xúc chẳng biết, chẳng phải xúc cũng chẳng biết, xúc chẳng phải xúc cũng chẳng biết. Ý chẳng biết, chẳng phải ý cũng chẳng biết, ý chẳng phải ý cũng chẳng biết. Pháp chẳng biết, chẳng phải pháp cũng chẳng biết, pháp chẳng phải pháp cũng chẳng biết. Như vậy lìa bỏ nhân duyên của mắt thì sắc chẳng sinh ra. Sắc chẳng sinh nên lìa khỏi mắt và sắc. Đã lìa khỏi mắt và sắc thì không có ái và cả chẳng ái. Như vậy là lìa khỏi ái và chẳng ái thì ở đâu mà lại có ái, chẳng ái sinh ra? Lìa khỏi ái, chẳng ái nên không hòa hợp. Hòa hợp không nên gọi là chẳng đắm trước, cũng gọi là không ngăn ngại. Ông phải biết, đó tức là trí không chướng ngại. Sao gọi là trí không chướng ngại? – Trí vô ngại là vô lượng mắt của tất cả chúng sinh, như vậy Nhất thiết trí nhãn. Vô lượng sắc của tất cả chúng sinh, như vậy Nhất thiết trí sắc. Như vậy mắt của tất cả chúng sinh là Nhất thiết trí nhãn, sắc của tất cả chúng sinh là Nhất thiết trí sắc. Hai thứ pháp này là một, không khác. Đây chẳng phải Giác (hiểu) vậy. Như vậy nhĩ thanh cho đến tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, ý pháp, tất cả chẳng sinh. Nhân duyên lìa khỏi thì không có ái. Không có ái nên trong pháp chẳng hành. Vì pháp chẳng hành nên không chướng ngại. Lìa khỏi chướng ngại nên không có nhiễm trước. Không nhiễm trước vậy nên lìa khỏi chướng. Do lìa chướng nên trí vô ngại phát sinh. Nhân duyên trí nên vô lượng tâm của tất cả chúng sinh là Nhất thiết trí tâm như vậy. Vô lượng pháp của tất cả chúng sinh là Nhất thiết trí pháp như vậy. Như vậy tâm của tất cả chúng sinh là Nhất thiết trí tâm. Như vậy pháp của tất cả chúng sinh là Nhất thiết trí pháp. Hai thứ pháp này là một, không khác. Này đồng tử Trí Luân ! Hành như vậy trong Bát nhã Ba la mật là hành trong phi tưởng, cũng là hành trong phi ly tưởng (chẳng phải lìa tưởng), cũng là chứng trong phi ly tưởng. Này đồng tử Trí Luân ! Đây gọi là tướng Bình đẳng trí của tâm tất cả chúng sinh, pháp của tất cả chúng sinh và Nhất thiết trí tâm, Nhất thiết trí pháp.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Pháp vô sinh là nhãn nhĩ tỵ thiệc thân ý của Như Lai. Sáu thứ thức này, nghĩa của chúng ra sao?

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Vô sinh là nhãn thức.v.v.. rỗng không, vốn không có vật. Trong ấy, tìm kiếm một cái vật không có. Vậy nên chẳng sinh ! Do chẳng sinh nên rỗng không, không có vật. Này đồng tử Trí Luân ! Ví như hư không xưa nay chẳng sinh ra mà chẳng sinh nên không có diệt, không diệt nên không có vật có thể lìa khỏi nên gọi là hư không ! Như vậy tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh pháp cũng chẳng sinh. Chẳng sinh nên không diệt, cũng không lìa khỏi vật nên tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh pháp giống như hư không, một thứ, không khác. Này đồng tử Trí Luân ! Tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh pháp giống như hư không, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng động, chẳng loạn, chẳng phải đó, chẳng phải đây, chẳng nhiễm phiền não, chẳng phải tịch diệt lìa. Như vậy chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng động, chẳng loạn, chẳng phải đó, chẳng phải đây, chẳng nhiễm phiền não, chẳng phải tịch diệt lìa, chẳng phải một, chẳng phải khác… Hư không như vậy. Này đồng tử Trí Luân ! Tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh pháp chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng phải động, chẳng phải loạn, chẳng phải đó, chẳng phải đây, chẳng nhiễm phiền não, chẳng phải tịch diệt lìa. Như vậy các đức Phật Như Lai quá khứ, hiện tại và đương lai chẳng sinh, chẳng phải diệt, chẳng động, chẳng loạn, chẳng phải đó, chẳng phải đây, chẳng nhiễm phiền não, chẳng phải tịch diệt lìa. Đây gọi là pháp trụ, cũng gọi là pháp hành, Như Như chẳng phải khác, Như Như chẳng phải chẳng khác, Như Như sáng rỡ thường trụ, không có dời động, đồng một pháp giới.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Bao nhiêu đức Như Lai đã qua ở đời?

Đức Phật bảo đồng tử Trí Luân:

– Nhiều như cát sông Hằng !

Ngài Trí Luân lại hỏi:

– Bao nhiêu đức Như Lai sẽ lại sinh ra?

Đức Phật đáp rằng:

– Này Trí Luân ! Nhiều như cát sông Hằng !

Ngài Trí Luân lại hỏi:

– Bao nhiêu đức Như Lai hiện tại đang nói pháp?

Đức Phật đáp rằng:

– Này đồng tử Trí Luân ! Cũng nhiều như cát sông Hằng !

Đồng tử Trí Luân một lần nữa bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Như Lai quá khứ đã vào Niết bàn thì thật khó nhìn thấy trở lại ! Các đức Phật đương lai chưa xuất hiện ở thế gian, chẳng thể dự kiến ! Thế Tôn hiện tại chánh trụ giáo hóa chưa vào Niết bàn. Các đức Phật đó Như Như, chẳng phải khác Như Như, chẳng phải chẳng khác Như Như, thường hằng thường thường trụ, chẳng khác pháp. Ý nghĩa vấn đề ấy ra sao?

Nghe hỏi vậy rồi, đức Phật đáp rằng:

– Này Trí Luân ! Ông phải biết, lời nói như vậy chính là pháp thế gian, chẳng phải đệ nhất nghĩa ! Trong pháp chân như có lời nói đó cũng chẳng phải lời nói có thể hiểu biết (giác tri), chính là sự hiểu biết của trí lực đức Phật. Này đồng tử Trí Luân ! Đây gọi là Phật trí. Sao gọi là lực trí? – Như tất cả chúng sinh bình đẳng nên tất cả pháp bình đẳng. Tất cả pháp bình đẳng nên tất cả chúng sinh bình đẳng. Như Như chẳng khác Như Như, chẳng phải chẳng khác Như Như. Đây gọi là Đại Bồ tát, đệ nhất Như Lai lực. Nhân duyên lực đó nên chỗ, chẳng phải chỗ đều biết đúng như thật. Sao gọi là đúng chỗ, chẳng phải chỗ (thị xứ phi xứ)? – Chỗ có nhân duyên thì đây gọi là chỗ, lìa khỏi nhân duyên thì đó gọi là chẳng phải chỗ. Lại nữa, này đồng tử Trí Luân ! Ý ông thế nào? Như đời quá khứ đã đều tận diệt, chẳng thể được thấy, chẳng thể được biết, chúng sinh quá khứ tạo ra ba hạnh nghiệp thì cũng lại quá khứ là có làm không?

Đồng tử Trí Luân đáp đức Phật rằng:

– Thưa có !

Đức Phật bảo Trí Luân rằng:

– Ý ông thế nào? Trong đời đương lai, các pháp chưa sinh, chẳng thể được thấy, chẳng thể được biết, không có một vật, trong đời đương lai đó, ba thứ hạnh nghiệp, chúng sinh có không?

Đồng tử Trí Luân đáp đức Phật rằng:

– Thưa có !

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Ý ông thế nào? Trong đời hiện tại, hiện có chúng sinh có thể thấy, có thể biết. Ba nghiệp hạnh kia, chúng sinh có không?

Đồng tử Trí Luân đáp đức Phật rằng:

– Thưa có !

Đức Phật bảo ngài Trí Luân rằng:

– Sao gọi là có?

Đồng tử Trí Luân đáp rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Đời quá khứ tuy lại diệt lui rồi, nhưng sự tạo ba thứ nghiệp hạnh của các chúng sinh chẳng mất. Lại nữa, đương lai tuy lại chưa có, chưa sinh, chưa thấy, chẳng hiểu, chẳng biết. Do nhân duyên nên trong đời vị lai, có ba nghiệp hạnh. Đời hiện tại hôm nay, nhân duyên khởi nên chúng sinh sinh ra, ba nghiệp tạo tác. Như vậy đủ thứ “hữu” và các nghiệp hạnh.

Đức Phật dạy rằng:

– Đúng vậy ! Này đồng tử Trí Luân ! Trong đời quá khứ, có Nhất Thiết Chủng trí nên có Phật quá khứ. Trong đời đương lai, có Nhất Thiết Chủng trí nên có Phật đương lai. Trong đời hiện tại có các nhân duyên của Nhất Thiết Chủng trí nên có Phật hiện tại. Lại nữa, sao gọi là phải chỗ, chẳng phải chỗ (thị xứ, phi xứ)? – Lìa khỏi y chỉ nên không có chỗ, chẳng phải chỗ – Đức Phật nói rằng – Này đồng tử Trí Luân ! Ý ông thế nào? Như hư không quá khứ đều tận diệt, không quá khứ khác quá khứ?

Đồng tử Trí Luân đáp rằng:

– Chẳng phải vậy, thưa đức Thế Tôn ! Vì sao vậy? Vì lìa khỏi y chỉ nên chỗ hư không quá khứ chẳng phải chỗ tận, chẳng tịnh, chẳng khác, chẳng động, chẳng động pháp.

Đức Phật dạy rằng:

– Này đồng tử Trí Luân ! Ý ông thế nào? Như hư không đương lai chưa sinh chưa nhìn, chẳng thấy, chẳng ghi?

Đồng tử Trí Luân đáp rằng:

– Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn ! Vì sao vậy? Vì lìa khỏi y chỉ như vậy nên phải chỗ chẳng phải chỗ đương lai chẳng khác quá khứ, chẳng động, chẳng động pháp vậy.

– Như vậy hư không hiện tại chẳng tận, chẳng khác, chẳng diệt, chẳng động, chẳng động pháp. Này đồng tử Trí Luân ! Như vậy các đức Phật Như Lai quá khứ chẳng y chỉ nên chẳng biết, chẳng khứ, chẳng khác, chẳng diệt, chẳng động, chẳng động pháp. Như vậy, các đức Phật Như Lai đương lai chẳng y chỉ nên chưa sinh, chưa có, cũng chẳng phải theo nhau (tương tùy) hòa hợp mà có, chẳng phải chỗ khác có, chẳng phải động, chẳng phải động pháp. Như vậy các đức Phật Như Lai hiện tại trụ ở hạnh chân thật, liễu đạt thấy thường thường trụ, chẳng động phải chỗ chẳng phải chỗ các ngài đều biết như thật. Này đồng tử Trí Luân ! Đại Bồ tát phải biết, đây gọi là Đệ nhất xứ lực của chư Phật. Nhân duyên lực đó mà trí Phật đã giác.

Đồng tử Trí Luân lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả thế gian không có thể tin việc này của Như Lai. Lại, chủng trí của Phật giống như hư không, một loại không khác, chẳng sinh, chẳng già, chẳng chết, chẳng loạn, chẳng phải đương lai sinh, chẳng phải phiền não, chẳng phải tịch diệt, trong thể tính chân thật của pháp giới thì trụ ở Như Như bình đẳng? Pháp như vậy này, Phật chuyển pháp luân, thấy các chúng sinh, sinh già bịnh chết? Chỗ kia sinh phiền não, tịch diệt, nghiệp nhân, nghiệp quả?

Nghe hỏi điều đó rồi, đức Phật đáp đồng tử Trí Luân rằng:

– Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này đồng tử Trí Luân ! Tất cả thế gian không có thể tin, quả thật khó tin ! Trong vấn đề này chỉ riêng một mình Như Lai chứng biết ! Lại nữa, các vị Đại Bồ tát Mahatát chẳng thoái chuyển.v.v…đã từng ở chỗ vô lượng đức Phật quá khứ gieo trồng mọi gốc đức mới có thể tin điều này. Này đồng tử Trí Luân ! Chỗ này như vậy là tối đại khó tin. Nếu có Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã giác ngộ Như Lai trí, Tự Tại trí, Bất Khả Tư Nghị trí, Bất Khả Lượng trí, Vô Đẳng Đẳng trí, Bất Khả Số trí, A Tăng Kỳ trí, Đại trí, Phật trí, Nhất Thiết Chủng trí thì này đồng tử Trí Luân ! Đây gọi là tất cả thế gian chẳng thể tin như hư không không có khác của Như Lai. Tất cả chúng sinh, tất cả pháp, Như Lai nói pháp và chuyển pháp luân nói về có sinh, trong vấn đề ấy cũng không có sự sinh có thế nói. Nói về việc già cũng không có già. Nói về việc hoạn cũng không có hoạn. Nói về việc chết cũng không có chết. Nói về việc lậu cũng không có lậu. Nói chẳng phải sinh đó thì việc chẳng phải sinh đó cũng lại là không. Nói nhiễm phiền não thì việc nhiễm cũng không. Nói về tịch diệt thì tịch diệt cũng không. Nói về Niết bàn thì cũng không chúng sinh vào Niết bàn. Này đồng tử Trí Luân ! Đây là Như Lai mà tất cả thế gian không thể tin, khó tin. Tất cả chúng sinh vốn không có danh chỉ giả danh mà nói, vốn không ngôn ngữ chỉ giả lời để nói, vốn không văn tự chỉ giả lập văn tự thôi. Vì sao vậy? Vì nhờ văn tự câu nói mà tất cả thế gian đủ thứ sai biệt đều có thể được biết vậy. Này đồng tử Trí Luân ! Danh tự, các vị của tất cả pháp đó, tất cả trước không có, nay giả nói có. Này đồng tử Trí Luân ! Pháp luân của Như Lai cũng lại như vậy, trước không, nay có. Này đồng tử Trí Luân ! Các đức Phật Như Lai chuyển đến pháp luân vì hai đại sư nhân duyên nên chuyển. Cái gì là hai đại sự nhân duyên? Khi Như Lai Thế Tôn chuyển pháp luân thì một là gia thêm chúng sinh, hai là gia thêm pháp. Này đồng tử Trí Luân ! Ý ông thế nào? Chúng sinh có sinh ra, điều này có thể nói chăng?

Đồng tử Trí Luân đáp rằng:

– Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn !

Đức Phật lại bảo đồng tử Trí Luân rằng:

– Ý ông thế nào? Nếu các chúng sinh là chẳng thể sinh thì pháp là có thể sinh, có nói được chăng?

Đồng tử Trí Luân đáp rằng:

– Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn !

Đức Phật bảo đồng tử Trí Luân rằng:

– Tên chúng sinh lìa khỏi nhân duyên thì tướng chúng sinh cũng chẳng phải sinh. Tướng chúng sinh chẳng phải sinh nên tất cả pháp, tất cả pháp tướng cũng lại chẳng sinh. Pháp chẳng sinh này gọi là Nhất thiết trí. Do lực của Nhất thiết trí tuệ đó nên nghe đến danh hiệu Thích Ca Như Lai rồi thì ba ngàn đại thiên thế giới này, sáu thứ chấn động. Đang khi đó đất nước của tất cả chư Phật mười phương đều chấn động. Như vậy ở trong chúng của các đức Phật thế giới xuất hiện hoa sen lớn, mỗi mỗi đều che khắp. Này đồng tử Trí Luân ! Vô lượng tất cả chúng sinh nhãn như vậy là Nhất thiết trí nhãn. Vô lượng tất cả chúng sinh sắt như vậy là Nhất thiết trí sắc. Như vậy tất cả chúng sinh nhãn là Nhất thiết trí nhãn. Như vậy tất cả chúng sinh sắc là Nhất thiết trí sắc. Hai thứ này, ông phải biết, là một chẳng phải hai. Pháp giới như vậy là tất cả chúng sinh thọ, tất cả chúng sinh tưởng, tất cả chúng sinh hành, tất cả chúng sinh thức, tất cả chúng sinh danh. Danh này là danh Như Lai. Vô lượng tất cả chúng sinh sắc vào với sắc ấm gọi là Như Lai sắc. Sắc này gọi là Nhất thiết trí, cũng gọi là Nhất thiết kiến, cũng gọi là Nhất thiết thức Nhất thiết trí. Vậy nên Nhất Thiết Chủng trí chẳng thủ lấy tướng của trí, cũng chẳng chấp trước trí. Đó gọi là Nhất thiết trí, cũng gọi là Nhất thiết thức, cũng gọi là Nhất thiết kiến Phật nhãn. Như vậy thấy tất cả sắc cũng chẳng thủ lấy tướng. Mắt ta có thể thấy điều đó. Sắc như vậy… cho đến tâm, pháp, thức cũng như vậy. Như Lai chẳng tác khởi: đó là niệm, đó chẳng phải là thức, chẳng nghĩ như vầy chính là thức của ta. Vì sao vậy? Vì nhãn chẳng phải giác (hay biết), sắc chẳng phải giác, cũng chẳng phải giác sự… cho đến chẳng phải giác tâm, chẳng phải giác pháp. Tất cả việc thấy của mắt là Như Lai thấy là Nhất thiết trí thấy. Tất cả tiếng vang ứng trong tai là tất cả tiếng nghe. Tất cả hơi xông trong mũi là tất cả hương ngửi. Tất cả vị nếm trong lưỡi là tất cả vị biết. Tất cả sở chạm trong thân là tất cả hay biết (giác tri). Tất cả thức duyên trong ý là tất cả pháp được. Lại nữa, Như Lai nghĩ như vầy: Tất cả các sắc trong mắt đều thấy. Tất cả các tiếng trong mắt đều nghe. Tất cả các hương trong mắt đều ngửi. Tất cả các vị trong mắt đều nếm. Tất cả các xúc trong mắt đều hay (giác). Tất cả các pháp trong mắt đều duyên. Như vậy, này Trí Luân ! Trong tâm của Như Lai, tất cả sắc thấy, tất cả tiếng nghe, tất cả hương ngửi, tất cả vị nếm, tất cả xúc giác, tất cả pháp duyên, tất cả chúng sinh thuận. Nhất Thiết Chủng trí có thể tạo tác nhân duyên trí như vậy. Này đồng tử Trí Luân ! Phương tiện như vậy, ông phải biết, Như Lai cũng Nhất thiết trí, cũng Nhất thiết trí kiến, cũng Nhất thiết thức.

Lúc bấy giờ, đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn ! Như con giải được nghĩa thú trong lời nói đức Phật là Mắt cũng Như Lai Nhất Thiết Chủng trí, sắc cũng Như Lai Nhất Thiết Chủng trí. Như vậy nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, ý pháp cũng đều là Như Lai Nhất Thiết Chủng trí. Vậy nên Như Lai là Nhất thiết thức, Nhất thiết kiến, Nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Trí Luân Đại Hải Biện Tài rằng:

– Này thiện nam tử ! Ông thấy cái gì là nhân duyên của Như Lai Nhất thiết thân, Nhất thiết trí, pháp bình đẳng trí? – Đó là Nhãn trí, nhãn phiền não trí, nhãn tịch diệt trí, nhãn phiền não tịch diệt trí, nhĩ trí, nhĩ phiền não trí, nhĩ tịch diệt trí, nhĩ phiền não tịch diệt trí, tỵ trí, tỵ phiền não trí, tỵ tịch diệt trí, tỵ phiền não tịch diệt trí, thiệc trí, thiệc phiền não trí, thiệc tịch diệt trí, thiệc phiền não tịch diệt trí, thân trí, thân phiền não trí, thân tịch diệt trí, thân phiền não tịch diệt trí, ý chí, ý phiền não trí, ý tịch diệt trí, ý phiền não tịch diệt trí của Đại Bồ tát và tất cả chúng sinh.

Đức Phật nói Kinh này rồi thì tất cả các Tỳ kheo, tất cả Bồ tát, trời, người, A tu la, Càn thát bà… tất cả đại chúng nghe đức Phật nói pháp, hoan hỷ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Sự Nhân Duyên Lợi Ích Của Danh Hiệu Phật Vô Lượng Thọ - Kinh Tạng
  • Kinh Tất Đàm Phân Đà Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Nhập Lăng Già - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Huyền Thanh dịch - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Pháp Thành - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Trí Huệ Luân - Kinh Tạng
  • Kinh Công Đức Nhiễu Quanh Tháp Phật Vòng Theo Bên Phải - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Tuệ Khai dịch - Kinh Tạng
  • Phật Nói Kinh Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Hỏi Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Một Trăm Danh Hiệu Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Bát Nhã Cộng Lợi Ngôn Đẳng - Kinh Tạng
  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Duyên Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Thánh Phật Mẫu Tiểu Tự Bát Nhã - Kinh Tạng
  • Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Dược Sư Tam Muội Hành Pháp - Kinh Tạng
  • Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ - Kinh Tạng