1
2

Kinh Ngũ Thập Tụng

Tống Thi Hộ dịch

Bản Việt dịch (1) của Thích Nữ Nguyên Nhã

Bản Việt dịch (2) của Thích Nữ Tịnh Nguyên

***

Kinh Ngũ Thập Tụng

Tống Thi Hộ dịch

Bản Việt dịch của Thích Nữ Nguyên Nhã

***

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Phật cùng đại chúng an trú tại ngọn Thứu Phong nơi thành Vương Xá. Trong đại chúng có một nghìn hai trăm năm mươi vị đại tì-kheo, đều chứng A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, trí tuệ thông đạt như đại long vương, đoạn các hữu kết[1], việc làm đã xong, thành tựu tự lợi, tâm được tự tại.

Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo tôn giả Tu-bồ-đề:

– Nếu có thiện nam, thiện nữ, các bậc thanh văn và duyên giác ưa thích tu học pháp Vô thượng bồ-đề, thì phải lắng nghe, thụ trì, đọc tụng, giảng nói phân biệt kinh Bát-nhã ba-la-mật này. Được như vậy các ông sẽ mau thành bậc Chính giác.

– Này Tu-bồ-đề! Kinh Bát-nhã-ba-la-mật này có đầy đủ phương tiện để thông đạt tất cả pháp tạng sâu xa của chư Phật và bồ-tát. Các ông nên học và tu hành như vậy.

– Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát ma-ha-tát nên tùy hỷ, lắng nghe, thụ trì, đọc tụng kinh Bát-nhã ba-la-mật này, rồi học và tu tập đúng như vậy. Vì sao? Vì kinh này giảng rộng tất cả pháp tạng A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề sâu xa của chư Phật, bồ-tát .

– Này Tu-bồ-đề! Lại nữa, kinh Bát-nhã ba-la-mật này, tất cả pháp thanh văn, pháp duyên giác, pháp bồ-tát, pháp bồ-đề phần và tất cả pháp chư Phật, tất cả pháp bát-nhã ba-la-mật đều gom tập thâu nhiếp, bình đẳng như một.

Bấy giờ, Tu-bồ-đề thưa:

– Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả pháp thanh văn, duyên giác, bồ-tát, bồ-đề phần và tất cả pháp chư Phật, tất cả pháp bát-nhã ba-la-mật đều được gom tập thâu nhiếp, bình đẳng như một?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

– Bố thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật, nhẫn nhục ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, thiền định ba-la-mật, trí tuệ ba-la-mật, nội không, ngoại không, nội ngoại không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, vô biến dị không, vô tướng không, tự tướng không, hữu tế không, vô tế không, tính không, bản tính không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không, nhất thiết pháp không, bốn niệm xứ, bốn chính đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo, bốn thánh đế, bốn vô sắc[2], tám giải thoát[3], chín phần pháp, không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn, tất cả tam-ma-địa tổng trì môn, bốn trí, năm thông, tất cả pháp mười lực[4]-bốn vô sở úy-đại từ đại bi-mười tám pháp bất cộng của Như Lai, quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Duyên giác, nhất thiết trí của bồ-tát, tất cả pháp thiện, tất cả bát-nhã ba-la-mật như vậy, kinh này đều gom tập, bình đẳng thâu nhiếp như một không khác.

Tu-bồ-đề nghe Đức Phật dạy xong, liền thưa:

– Bạch Thế Tôn! Nay kinh điển này gom tập, thâu nhiếp tất cả các pháp, tất cả bát-nhã ba-la-mật-đa bình đẳng như một, cùng tột mầu nhiệm, ý thú sâu xa, khó hiểu khó biết.

Phật dạy:

– Tu-bồ-đề! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói. Tu-bồ-đề! Nếu có bạn bè xấu không chịu gieo trồng căn lành, độn căn lười biếng, ngu si vô trí, nghe ít hiểu ít, người mới học kiến thức hạn hẹp và những người thích Tiểu thừa trí tuệ thấp kém, thì thật khó hiểu, khó thâm nhập và không tin nhận kinh Bát-nhã ba-la-mật này.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào tùy hỉ, lắng nghe, thụ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Bát-nhã ba-la-mật này như trì niệm chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, thì mau thành Vô thượng chính đẳng chính giác.

Sau khi nghe Đức Phật giảng kinh này xong, tôn giả Tu-bồ-đề và các bồ-tát, trời, người, a-tu-la đều rất vui mừng, tin nhận và cung kính hành trì.

***

Chú thích:

[1] Hữu kết 有結: hữu là quả báo sinh tử, Kết là phiền não chiêu cảm quả báo. Nghĩa là các phiền não tham, sân, si trói buộc con người, khiến phải ở trong cảnh giới sinh tử, không thể thoát ra được

[2] Tứ vô sắc 四無色: còn gọi tứ không xứ.

[3] Bát giải thoát 八解脫: tám giải thoát nghĩa là dựa vào sức định mà diệt bỏ long tham muốn đối với sắc và không sác. Cũng gọi là Bát bối xả, Bát duy vô, Bát duy vụ.

[4] Thập lực 十力: chỉ cho mười trí lực của Như Lai. Đó là: 1.Tri thị xứ phi xứ trí lực; 2.Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực; 4. Tri chúng sinh thượng hạ căn trí lực; 5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6. Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực; 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực; 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 15 - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 25 – Kinh Bẫy Mồi (Nivàpa sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Xuất Gia - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trụ Kí - Kinh Tạng
  • Kinh Ngài Ma Ha Ca Diếp Độ Bà Lão Nghèo - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Cư sĩ Tịnh Ý Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Viên Giác - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh - Kinh Tạng
  • Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Phẩm 31 đến 45) - Kinh Tạng
  • Kinh Nhập Định Bất Định Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Hải Long Vương - Kinh Tạng