Kinh Phạm Thiên Trì Tâm Thưa Hỏi

Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh

Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 1: ÁNH SÁNG CỦA BỒ-TÁT MINH VÕNG

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn trúc Ca-lân, thuộc thành Vương xá, cùng với sáu vạn bốn ngàn Tỳ-kheo, bảy vạn hai ngàn Bồ-tát, tất cả đều là bậc Đại thánh, đã đạt được thần thông, các pháp Tổng trì, biện tài vô ngại, các pháp Tam-muội, trí tuệ vô sở úy, hiểu rõ sự vận hành tự nhiên của các pháp, đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

Tên của bảy vạn hai ngàn Bồ-tát ấy là: Bồ-tát Phổ Thủ, Bồ-tát Bảo Sự, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Không Tạng, Bồ-tát Phát Ý Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Minh Võng, Bồ-tát Trừ Chư Âm Cái, Bồ-tát Nhất Thiết Thí, Bồ-tát Thắng Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Hạnh, Bồ-tát Sư Tử, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Tôn Ý, Bồ-tát Tự Nghiêm… và nhóm của Bồ-tát Hiền Hộ gồm mười sáu vị: Bồ-tát Hiền Hộ, Bồ-tát Bảo Sự, Bồ-tát Ân Thí, Bồ-tát Đế Thiên, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Hiền Lực, Bồ-tát Thượng Ý, Bồ-tát Trì Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Thiện Kiến, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Bất Tổn Ý, Bồ-tát Thiện Đạo, Bồ-tát Nhật Tạng và Bồ-tát Trì Địa…

Bốn Đại thiên vương, trời Đế Thích và hàng tùy tùng, chư Thiên trời Đao-lợi, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, các vị trời Phạm thiên, trời Phạm thân và các vị trời khác, cùng với các chúng Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều vân tập đông đủ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn đang nói pháp cho vô số trăm ngàn đệ tử quyến thuộc vây quanh, khiến tam thiên đại thiên thế giới đều cảm động, mưa xuống đủ loại hoa rải trên đại chúng.

Lúc này, Bồ-tát Minh Võng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay, đảnh lễ ngang chân Phật, thưa:

-Bạch Thế Tôn! Con tối tăm có điều không hiểu rõ, kính xin Ngài rủ lòng thương cho phép, con mới dám thưa.

Đức Phật bảo Bồ-tát Minh Võng:

-Ông có điều gì nghi ngờ muốn thưa hỏi thì cứ nêu bày, Như Lai sẽ giải thích rõ để ông được vui lòng.

Đức Phật cho phép, Bồ-tát Minh Võng liền thưa:

-Bạch Thế Tôn! Hào quang rực rỡ nơi thân của Như Lai thật khó có, sáng gấp trăm ngàn ức lần ánh sáng mặt trời, tôn nhan của Ngài oai nghiêm không ai sánh kịp, từ loài cao nhất cho đến loài hạ đẳng cùng cực không ai có thể chiêm ngưỡng kỹ càng được, sự tu hành của Ngài cũng không ai có thể suy lường. Con lại nghĩ: “Người nào được thấy oai tướng của Bậc Chí Chân và tư duy quán xét về công hạnh của Ngài đều là nhờ oai thần gia hộ của Phật Đại Thánh, có làm việc gì cũng đều được hoàn toàn an lạc.”

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Minh Võng:

-Đúng như điều ông đã nói, người nào thấy thân của Như Lai chắc chắn đạt được chí nguyện và người hỏi cũng thế.

Như vậy, này Minh Võng! Thế Tôn có ánh sáng tên là Tịch nhiên ngôn sự (lời nói và việc làm đều vắng lặng), chúng sinh nào nhìn thấy ánh sáng này, tức là thấy được Như Lai, xem xét các hình sắc bằng nhãn căn sáng suốt thấu rõ, chưa từng tối tăm.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Biện tài vô úy (biện tài không sợ hãi), người nào thấy được ánh sáng này, có thể thưa hỏi Đức Như Lai về những điều khó hiểu.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Tích thiện đức (chứa nhóm phước đức, căn lành), người nào thấy ánh sáng này, có thể thưa hỏi Phật về các đức hạnh của Chuyển luân thánh vương.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Thanh tịnh liễu (hiểu biết thanh tịnh) người nào thấy được ánh sáng này, có thể thưa hỏi Phật về nhân duyên tạo tác để được sinh về cõi nước Đế Thích.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Đãi oai nhiên đỉnh, người nào gặp được ánh sáng này, có thể thưa hỏi Phật về việc sinh lên cõi Phạm thiên.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Thoát dục trần môn, người nào gặp được ánh sáng này, có thể thưa hỏi Phật về thừa Thanh văn.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Chuyên nhất tuân đạm bạc hạnh, người nào gặp được ánh sáng này, có thể thưa hỏi Phật về thừa Duyên giác.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Nhất thiết tuệ trì tán dung, người nào gặp được ánh sáng này, có thể thưa hỏi Phật về trí tuệ của hàng Đại thừa và trí tuệ của Phật Chánh giác.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Nhạo trì dị bộ, thường phóng ra trong lúc đi dạo hay kinh hành, người nào gặp ánh sáng này, thì luôn được an ổn, sau khi qua đời được sinh lên cõi trời.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Nghiêm nhất thiết thanh tịnh anh lạc, Như Lai vào thành phóng ra hào quang này, những ai gặp được, tất cả đều đạt an lạc, ngay lúc đó, trong thành ấy, các châu báu và chuỗi anh lạc tự nhiên hiện bày, trang hoàng khắp chốn.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Hoại trừ, giả sử Như Lai hiện bày ánh sáng này, thì tạo sự cảm động đến vô lượng không thể tính kể các thế giới của Phật. Tóm tắt mà nói, lại nữa, này Bồ-tát Minh Võng! Như Lai lại có ánh sáng tên là Tích an, nếu chúng sinh trong địa ngục thấy được ánh sáng này, thì các khổ não hoạn nạn tự nhiên chấm dứt.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Siêu từ, nếu loài cầm thú gặp được ánh sáng này, thì không còn hung dữ và nguy hại.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Tế sở tạo, nếu loài ngạ quỷ trù luân trông thấy ánh sáng này thì không còn bị đói khát.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Ly cấu, giả sử người mù gặp được ánh sáng này thì mất sẽ sáng tỏ như thường.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Nhĩ văn, người điếc nếu gặp ánh sáng này thì liền nghe được.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Hữu chí, người điên nếu gặp ánh sáng này thì liền được tỉnh.

Như Lai lại có ánh sáng tên Là Nhạo định, người nào thấy ánh sáng này, tự nhiên trừ bỏ các điều ác, tu hành mười điều thiện.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Thoát môn, người tà kiến nếu gặp ánh sáng này, liền đạt được chánh kiến.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Thú thiên, người tham lam keo kiệt nếu thấy được ánh sáng này sẽ ưa thích bố thí.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Vô nhiệt não, người phạm điều ác, nếu gặp được ánh sáng này sẽ giữ gìn giới cấm.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Trì tâm, những người sân hận trông thấy ánh sáng này liền có được nhẫn nhục.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Ân cần, người biếng nhác nếu thấy ánh sáng này liền đạt được siêng năng.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Chánh định, người buông lung nếu thấy ánh sáng này liền được thiền định.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Hiển diệu, người trí ác nêu gặp ánh sáng này liền đạt được trí tuệ sáng suốt.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Thanh trừng, người nghi ngờ gặp được ánh sáng này liền có lòng kính tin.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Tổng trì, người ít trí tuệ gặp được ánh sáng này liền được sự hiểu biết rộng.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Tuân cú tích, người không biết hổ thẹn gặp được ánh sáng này liền biết hổ thẹn.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Diệt trừ, người tham lam, dâm dục nếu gặp được ánh sáng này, liền tẩy sạch mọi hình tướng của tham dục.

Như Lai lại có ánh sáng tên là An lạc, người giận dữ nếu gặp được ánh sáng này thì không còn bị phẫn nộ làm hại.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Chiếu diệu, khiến người si mê trừ bỏ ngu tối.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Phổ tồn, khiến người tham, sân, si bỏ hết tham, sân, si.

Như Lai lại có ánh sáng tên là Phổ hiện sắc thân, chúng sinh nào gặp được ánh sáng ấy, tức là thấy được vô số sắc tướng, trăm ngàn hình tượng không thể tính kể của Như Lai.

Đức Phật bảo Bồ-tát Minh Võng:

-Hôm nay, Như Lai chỉ giảng nói sơ lược những điều cốt yếu này cho ông. Giả sử trong một kiếp, hoặc hơn một kiếp chỉ để thưa hỏi, cùng bàn luận về ánh sáng của Như Lai theo đấy mà mở bày kinh, pháp, thì cũng không thể nói hết về ánh sáng của Như Lai và tên gọi của các thứ ánh sáng ấy.

Bồ-tát Minh Võng bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc vượt trên mọi chư Thiên, thật chưa từng có. Thân của Như Lai không có giới hạn, oai đức cao tột không thể nghĩ bàn, theo phương tiện thích hợp để diễn nói kinh pháp, từ xưa chưa từng nghe, hôm nay mới được như ý.

Bồ-tát nào nghe Đức Như Lai thuyết giảng về tên của những ánh sáng này mà hoan hỷ, kính tin đều sẽ được thân giống như Đức Như Lai, đầy đủ oai đức cao vời. Lại được nghe Đức Thế Tôn diễn nói về ánh sáng hiện có của chư Phật Như Lai tên là Khuyến hóa. Các vị Bồ-tát từ những cõi nước khác đều cùng vân tập đến, đến rồi họ liền vào trong chúng hội nơi cõi Ta-bà, ở đây Bồ-tát nào muốn thưa hỏi, liền đến trước Đức Như Lai để thỉnh vấn những điều còn nghi ngờ trong kinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy Bồ-tát Minh Võng có điều cần thưa hỏi, liền phóng ánh sáng từ nơi thân tướng tỏa chiếu khắp đến vô lượng cõi Phật, đến vô số thế giới của chư Phật không thể nêu bày, khiến cho vô số ức trăm ngàn Bồ-tát thấy được ánh sáng ấy,

liền vân tập đến chúng hội nơi cõi Ta-bà.

Lúc này, về phương Đông, cách đây bảy vạn hai ngàn thế giới của chư Phật, có nước tên là Thanh tịnh, Đức Phật ở đấy hiệu là Như Lai Nguyệt Minh. Cõi nước của Phật ấy có vị Phạm thiên tên là Trì Tâm, đã trụ nơi bậc không thoái chuyển của Bồ-tát, tự an lạc bằng diệu lực thần thông, trí tuệ của bậc Thánh, khi gặp được ánh sáng khuyến hóa rồi, liền đến chỗ của Đức Như Lai Nguyệt Minh Chí Chân Đẳng Chánh Giác, cúi đầu đảnh lễ ngang chân Phật, thưa:

-Bạch Thế Tôn! Con muốn đến cõi Ta-bà để yết kiến Đức Như Lai Năng Nhân Chí Chân Đẳng Chánh Giác, cung kính, hầu hạ để lãnh thọ những điều cần thưa hỏi, giải đáp, Đức Thế Tôn ở cõi Ta-bà ấy cũng muốn được gặp con.

Đức Phật bảo:

-Này Phạm thiên! Ông nên đi đến cõi đó và biết rõ là đúng thời, hãy cùng với vô số ức chúng Bồ-tát đi đến thế giới Ta-bà.

Lại bảo:

-Này Phạm thiên! Ông đi đến cõi Ta-bà thì phải thực hành mười hạnh nguyện. Mười hạnh ấy là những gì?

1. Đối với mọi sự khen chê, tâm không thêm bớt. Nghe điều lành điều dữ, tâm không phân biệt.

2. Thực hành hạnh Từ bi.

3. Bình đẳng giáo hóa cho những hạng chúng sinh thượng, trung, hạ.

4. Ai khinh khi hay cung kính đều nhất tâm hồi hướng cho họ.

5. Không tìm tòi lỗi lầm của người khác.

6. Dùng một vị bình đẳng đối với tất cả các thừa.

7. Không sợ hãi đối với âm thanh xấu ác và âm thanh của cõi ác.

8. Đối với hàng Bồ-tát luôn cung kính xem như Phật.

9. Ở cõi đời năm trược xem như cõi nước Phật.

10. Như luôn thấy Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác.

Đó là mười hạnh nguyện.

Phật bảo Phạm thiên:

-Giữ gìn mười hạnh nguyện này, thì có thể đi đến cõi kia.

Khi ấy, Phạm thiên Trì Tâm thưa:

-Lúc ở trước Phật, con không dám phát ra âm thanh như tiếng gầm của sư tử, cũng không hiện ra hình tướng kỳ lạ với bất kỳ nhân duyên nào, chỉ muốn thanh tịnh để tu tập các hạnh nguyện, đạt được định ý mới đến thế giới ấy.

Bấy giờ, các Bồ-tát khác ở cõi Phật Nguyệt Minh đều tự khen ngợi:

-Bạch Thế Tôn! Thật là may mắn, chúng con đã có lợi ích tốt đẹp, nhờ đạt được phước đức nên không sinh vào cõi kia. Các chúng sinh ở cõi ấy, do tích chứa những thứ hoạn nạn, khổ đau nên mới chịu như vậy.

Đức Thế Tôn Nguyệt Minh bảo các Bồ-tát:

-Này các đệ tử! Đừng nói những lời như vậy. Vì sao? Giả sử ở cõi nước của ta tu tập phạm hạnh trong trăm ngàn kiếp, cũng không bằng ở cõi Ta-bà, từ sáng đến trưa không dấy khởi tâm mưu hại. Đây là việc rất thù thắng.

Lúc này, một vạn hai ngàn Bồ-tát ở thế giới Thanh tịnh đều phát nguyện:

-Chúng con sẽ thực hành đầy đủ các hạnh nguyện thanh tịnh, cùng nhau ủng hộ Đại sĩ Phạm thiên để đến chỗ Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẩng Chánh Giác.

Trong thời gian bằng lực sĩ co duỗi cánh tay phải, Phạm thiên Trì Tâm cùng với một vạn hai ngàn vị Bồ-tát liền ẩn thân nơi cõi Phật của mình, hiện ra đến trước Đức Phật Năng Nhân ở cõi Ta-bà, cung kính đảnh lễ sát đất, rồi đứng qua một bên.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Minh Võng:

-Ông có thấy Phạm thiên Trì Tâm không?

-Bạch Thế Tôn, con đã thấy!

Đức Phật liền bảo:

-Phạm thiên Trì Tâm này đã hiểu rõ về cách thức thưa hỏi những điều khó hiểu, thông đạt Phật pháp, biện tài khéo léo, là vị

Bồ-tát đứng đầu trong chúng hội, Từ bi, dốc lòng dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh, ở chỗ nào cũng đều đạt được an lạc.

Khi ấy, Phạm thiên Trì Tâm cùng một vạn hai ngàn Bồ-tát cung kính đảnh lễ xong, đi quanh chỗ Đức Phật ba vòng, mỗi vị đều dùng năng lực thần thông của mình hóa ra tòa ngồi, rồi an tọa trên tòa ấy. Phạm thiên Trì Tâm chắp tay, dùng kệ khen Phật:

Âm thanh vi diệu

Thông đạt của Phật

Oai đức xiển dương

Vang khắp mười phương.

Nay ở nước nầy

Chư vị tối thắng

Thảy đều thưa hỏi

Đức hạnh Đại Thánh.

Con ở cõi kia

Thanh tịnh không nhơ

Cõi ấy không có

Tên các đường ác.

Thảy đều giải thoát

Như cõi Phật đây

Mong được Như Lai

Ban rải lòng thương.

Nên con đến đây

Thánh tuệ cửa Phật

Không có tổn giảm

Tất cả Như Lai.

Từ Xưa đến nay

Điều phục chúng sinh

Cứu độ bình đẳng

Các cõi nước Phật.

Hành hóa rộng lớn

Luôn luôn thanh tịnh

Nghiêm trì giới luật

Thực hành phạm hạnh.

Bị ai lầm hại

Thì đem lòng Từ

Báo đáp cho họ

Tam ý thù thắng.

Đặc biệt như vậy

Có thể thanh tịnh

Hộ trì ba nghiệp

Thân, miệng và ý.

Hôm nay vì pháp

Diệt trừ tất cả

Khổ não hoạn nạn

Trong ba đường ắc.

Các Bồ-tát nào

Sinh ra ở đây

Thì chư vị ấy

Chưa từng lo sợ.

Các nghiệp đã tạo

Bị đọa đường ác

Cõi này cõi kia

Cũng đều diệt trừ.

Nếu Bồ-tát nào

Tâm có lo sợ

Phật đều ủng hộ

Đối chánh pháp này.

Chúng sinh đời sau

Ở khắp các cõi

Không bỏ chí nguyện

Không lìa trí tuệ.

Họ sẽ đoạn trừ

Kết sử trói buộc

Nếu đoạn trừ hết

Tham dục trần cấu.

Liền sẽ hộ trì

Chánh pháp chư Phật

Cũng sẽ vượt qua

Đạt đến thông tuệ.

Như cõi Phật khác

Vô số ức kiếp

Giữ gìn chánh pháp

Hoặc thuyết giảng kinh.

Không như Ta-bà

Giây lát giảng kinh

Đều rất thù thắng

Tôn quý bậc nhất.

Con cũng nhìn thấy

Thế giới diệu lạc

Và lại quan sắt

Cõi Phật an vui.

Không có khổ não

Âm thanh hoạn nạn

Nếu như tu thiện

Không đủ đạt tánh.

Giả sử trừ hết

Tất cả trần lao

Bị người dữ hại

Luôn luôn nhẫn nhục.

Rồi dùng kinh phắp

Khuyên dạy cho người

Khiến họ đến đạo

Điều nầy thật khó.

Con kính cúi đầu

Xin Đấng Vô Thượng

Thương xót chỉ bầy

Các pháp thoát khổ.

Việc Như Lai làm

Thật chưa từng có

Người có tâm ác

Ngài dùng pháp độ.

Ở giữa chúng hội

Làm bậc Đạo sư

Là bậc Bồ-tát

Tiếng lành mười phương.

Đối pháp không ngại

Giống như biển lớn

Giảng nói Phật pháp

Cho các chúng sinh.

Đế Thích, Phạm thiên

Và trời Hộ Thế

Các trời, rồng, thần

Chúng A-tu-la.

Và Khẩn-na-la

Vô số chúng sinh

Vân tập đến đây

Cầu Phật giảng nói.

Ý nghĩa kinh pháp

Tỳ-kheo tăng, ni

Cư sĩ nam, nữ

Cũng đều đến đây.

Trong chúng hội này

Kính xin Đức Phật

Giảng nói kinh pháp

Những người được nghe.

Đều đạt an lạc

Chí nguyện vững bền

Kính tin Đạo Sư

Chúng các Thanh văn.

Các vị Duyên giác

Năng Nhân biết rõ

Tùy nguyện hóa độ

Ngài vì các chúng.

Giải rõ nghi ngờ

Hổm nay con vì

Tất cả chúng sinh

Chí cầu Phật đạo.

Thưa hỏi Pháp Vương

Để họ được nghe

Những lời Phật dạy

Luôn tu lòng Từ.

Làm vô lượng báu

Chúng sinh mười phương

Nghe tiếng lành Phật

Dũng mãnh đạt được.

Trí tuệ vô lượng

Sẽ vì chúng sinh

Tùy theo chí nguyện

Hiểu biết của họ.

Giảng nói các hạnh

Không gì sánh kịp

Nếu chẳng phải chúng

Thanh văn đệ tử.

Tất cả Duyên giác

Thì không thể hiểu

Chúng con kính tin

Tối Thắng cứu độ.

Trí tuệ Thế Tôn

Không thể nghĩ bàn

Con xin quy y

Đạo Sư của đời.

Thưa hỏi Đại Thánh

Ý nghĩa pháp này

Xin không nhàm chắn

Cũng không mệt mỏi

Vì con giảng nói

Cốt yếu pháp Phật.

***

Phẩm 2: BỐN PHÁP

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm nói kệ tán thán Phật xong, liền quỳ gối chắp tay bạch Phật:

-Thế nào là chí nguyện kiên cường, không hề nhàm chán của Bồ-tát?

Thế nào là lời nói nhu hòa, từ tốn không phiền não của Bồ-tát? Thế nào là cội gốc công đức đã tạo của Bồ-tát vượt trên các chúng sinh?

Thế nào là oai nghi đĩnh đạc không thô tháo của Bồ-tát?

Thế nào là pháp thanh tịnh được lợi ích lớn của Bồ-tát?

Thế nào là tự tại đi đến các cõi của Bồ-tát?

Thế nào là sự thực hành phương tiện thiện xảo đối với chúng sinh của Bồ-tát?

Bồ-tát giáo hóa khắp tất cả các loài như thế nào?

Bồ-tát có thể giữ gìn tâm đạo như thế nào?

Bồ-tát không làm cho tâm chúng sinh tán loạn như thế nào? Bồ-tát tìm cầu căn lành nơi ý nghĩa của pháp như thế nào? Bồ-tát hiểu rõ ý niệm, không bỏ lòng tin như thế nào?

Bồ-tát diệt trừ các phiền não như thế nào?

Bồ-tát thực hành phương tiện thiện xảo trong chúng hội như thế nào?

Bồ-tát giảng nói rõ ràng và ban bố chánh pháp rộng rãi như thế nào?

Bồ-tát biết được diệu lực báo ứng và không làm mất nguồn gốc công đức như thế nào?

Thế nào là Bồ-tát hiểu rõ nơi chúng sinh tu tập trí tuệ bất khởi và sáu pháp Ba-la-mật?

Thế nào là Bồ-tát thông đạt phương tiện để tu tập thiền định? Thế nào là Bồ-tát không thoái chuyển đối với pháp Phật?

Thế nào là Bồ-tát chưa từng nghi ngờ đối với lời Phật dạy?

Đức Phật bảo Phạm thiên Trì Tâm:

-Lành thay, lành thay! Chính ông mới có thể thưa hỏi Đức Như Lai những ý nghĩa như vậy. Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ.

-Lành thay, bạch Thế Tôn! Con xin dốc sức lãnh hội.

Phạm thiên Trì Tâm vâng lời Đức Phật rồi lắng nghe.

Đức Phật bảo Phạm thiên Trì Tâm:

-Có bốn pháp làm cho chí nguyện của Bồ-tát kiên cường, không hề nhàm chán. Bốn pháp ấy là gì?

1. Thương xót chúng sinh.

2. Tinh tấn không biết mỏi mệt.

3. Biết tất cả đều như mộng.

4. Đạt trí tuệ bình đẳng của Phật.

Lại có bốn việc để nói lời nhu hòa, từ tốn không tạo phiền não. Bốn việc ấy là gì?

1. Bồ-tát nhất tâm vì một người nên hiểu rõ về các pháp.

2. Bồ-tát nhất tâm nên không ưa thích tất cả các cõi.

3. Bồ-tát nhất tâm khen ngợi pháp Đại thừa.

4. Bồ-tát nhất tâm giảng nói các pháp thanh tịnh không làm mất nghiệp thanh tịnh.

Lại có bốn việc làm cho công đức đã tạo vượt trên các chúng sinh. Bốn việc ấy là gì?

1. Phụng trì giới cấm.

2. Học rộng nghe nhiều.

3. Bố thí.

4. Lìa bỏ thế tục.

Lại có bốn việc để làm cho oai nghi đĩnh đạc không thô tháo. Bốn việc ấy là gì?

1. Không cầu lợi dưỡng.

2. Không cầu danh dự.

3. Không cầu tiếng khen.

4. Không có khổ đau.

Lại có bốn việc làm cho nguồn sốc công đức của pháp thanh tịnh được lợi ích lớn. Những gì là bốn?

1. Có đầy đủ lòng tin, giáo hóa người khác.

2. Nếu có bố thí thì không mong đền đáp.

3. Giữ gìn chánh pháp.

4. Giảng nói rộng rãi về trí tuệ cho hàng Bồ-tát.

Lại có bốn việc để Bồ-tát tự tại đi đến các cõi. Bốn việc ấy là gì?

1. Phát khởi nguồn gốc công đức.

2. Từ bỏ các lỗi lầm.

3. Hiểu rõ và giúp đỡ.

4. Ân cần tinh tấn.

Lại có bốn việc để Bồ-tát thực hành phương tiện thiện xảo đối với chúng sinh. Bốn việc ấy là gì?

1. Thuận theo chúng sinh.

2. Khuyến khích người khác tạo nguồn gốc công đức.

3. Hối hận về những lỗi lầm đã làm.

4. Giảng nói Phật pháp.

Lại có bốn việc để giáo hóa rộng rãi khắp tất cả các loài. Những gì là bốn?

1. Thương xót người và vật.

2. Tu tập khiến cho mình được an ổn.

3. Nhẫn nhục an vui.

4. Khiêm nhường không kiêu mạn.

Lại có bốn việc để có thể giữ gìn tâm Bồ-đề. Những gì là bốn?

1. Tâm ý luôn nhớ nghĩ đến tất cả các công đức của Phật.

2. Đạt được tâm Bồ-đề.

3. Gần gũi bạn lành.

4. Thưa hỏi pháp Đại thừa.

Lại có bốn việc để chuyên tâm không tán loạn đối với chúng sinh. Những gì là bốn?

1. Không phát tâm theo hàng Thanh văn.

2. Hoặc là tâm của hàng Duyên giác.

3. Cầu pháp không nhàm chán.

4. Giảng nói lại giáo pháp đã nghe cho người khác.

Lại có bốn việc đề tìm cầu nguồn gốc căn lành nơi ý nghĩa của giáo pháp. Những gì là bốn?

1. Diệt trừ tất cả các bệnh phiền não giống như vị thầy thuốc.

2. Thuận theo nguồn gốc công đức không hề chông trái hay bỏ mất.

3. Nghĩ về đạo để diệt trừ tất cả các khổ của chúng sinh.

4. Đạt đến Niết-bàn.

Lại có bốn việc để hiểu rõ ý niệm không bỏ lòng tin. Những gì là bốn?

1. Dấy khởi nhẫn vô sinh.

2. Vượt trên nhẫn bất diệt.

3. Nhẫn nhân duyên, nhẫn vô sở trụ.

4. Làm mọi việc mà tâm không hề tán loạn.

Lại có bốn việc để chế ngự, chuyển hóa các thứ phiền não nơi trần cảnh. Những gì là bốn?

1. Suy nghĩ những điều thuận theo giáo pháp.

2. Giữ gìn giới cấm.

3. Hiểu rõ về năng lực của các pháp.

4. Thích ở nơi an ổn.

Lại có bốn việc để thể hiện các phương tiện thiện xảo trong chúng hội. Những gì là bốn?

1. Hiểu rõ ý nghĩa của các pháp.

2. Không tìm tòi lỗi lầm của người khác.

3. Luôn cung kính không hề kiêu mạn.

4. Mong cầu công đức, không phải vì cầu lợi cho mình mà bố thí khuyến khích mọi người tạo nguồn gốc công đức.

Lại có bốn việc để giảng nói rõ ràng và ban bố chánh pháp rộng khắp. Bốn việc ấy là gì?

1. Luôn hộ trì chánh pháp.

2. Làm cho mình và người khác đạt được trí tuệ.

3. Tu tập theo hạnh nguyện của Bồ-tát.

4. Thị hiện các kết sử, sân hận, phiền não để giáo hóa.

Lại có bốn việc để biết được diệu lực của báo ứng và không làm mất nguồn gốc công đức. Những gì là bốn?

1. Không hề thấy xét về lỗi lầm của người khác.

2. Thực hành lòng Từ, diệt trừ tâm sân hận.

3. Giảng nói về nghiệp báo.

4. Đối với các pháp thường nhớ nghĩ về tâm Bồ-đề.

Lại có bốn việc để hiểu rõ nơi chúng sinh dùng trí tuệ vô sinh tu tập sáu pháp Ba-la-mật. Những gì là bốn?

1. Luôn xem việc bố thí giống như bạn bè thân thiết.

2. Giáo hóa mọi người, hiểu rõ bốn ân để chỉ dạy cho chúng sinh.

3. Ưa thích pháp sâu xa.

4. Thuận theo kinh điển.

Lại có bốn việc để thông đạt phương tiện tu tập thiền định. Những gì là bốn?

1. Hiểu rõ về tâm và nơi hướng đến của tội, phước.

2. Siêng năng tạo nguồn gốc công đức.

3. Không xa lìa chúng sinh.

4. Tu tập về trí tuệ phương tiện.

Lại có bốn việc để không thoái chuyển đối với Phật pháp. Những gì là bốn?

1. Cứu giúp vô lượng hoạn nạn trong sinh tử của chúng sinh.

2. Cúng dường và phụng sự vô số chư Phật.

3. Luôn tu tập theo vô lượng tâm Từ.

4. Hiểu rõ trí tuệ của chư Phật là không có giới hạn.

Lại có bốn việc làm cho Bồ-tát chưa từng nghi ngờ đối với lời Phật dạy. Những gì là bốn?

1. Không phân biệt về trí tuệ.

2. Lời nói luôn đi đôi với việc làm.

3. Trừ bỏ tham lam.

4. Kiến lập điều gì cũng nương nơi bản tánh.

Khi Đức Phật giảng nói về bốn sự việc này xong thì có vô số chư Thiên bằng số cát nơi hai sông Hằng đều phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, năm ngàn người đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Các vị Bồ-tát ấy đều từ vô số cõi Phật vân tập đến với chúng hội để cúng dường Đức Thế Tôn và chư Phật trong tam thiên đại thiên thế giới, cúng dường tung rải đầy khắp mọi nơi chốn.

***

Phẩm 3: PHÂN BIỆT LỜI NÓI PHÁP

Lúc ấy, Bồ-tát Minh Võng nói với Phạm thiên Trì Tâm:

-Chỉ Nhân giả mới có thể hiểu những điều luận bàn tôn quý, sâu xa, thấu tỏ ý nghĩa nơi các phương tiện của Bồ-tát. Đức Phật đã giảng nói rõ, vậy thế nào là Bồ-tát có điều muốn thưa hỏi ứng hợp với sự luận bàn vi diệu?

Phạm thiên Trì Tâm đáp:

-Người bình đẳng đối với ngã và ngã sở để hỏi, là hỏi thuận theo nghĩa lý bình đẳng hỏi về sự giữ gìn các hạnh của người khác, đó là hỏi thích hợp bình đẳng hỏi về hình tướng của các pháp, đó là hỏi thích hợp.

Lại nữa, này Bồ-tát Minh Võng! Không chấp về ngã, ngã sở, không chấp về người khác, không chấp vào pháp để hỏi, đó là hỏi thích hợp hỏi về sự sinh khởi, hỏi về sự diệt tận, hoặc hỏi về nơi chốn, đó là hỏi thích hợp giả sử có người hỏi về pháp không chỗ sinh khởi, không diệt tận, cũng không có nơi chốn, đó là hỏi thích hợp.

Nếu hỏi về các tham dục, phiền não của người khác, hoặc hỏi về Sự tranh cãi điên đảo, đó là hỏi thích hợp hỏi về sinh tử, sự vượt qua sinh tử, hỏi về vô vi, đó là hỏi thích hợp. Không hỏi về phiền não về sự không điên đảo, không sinh tử, không vượt qua sinh tử, cũng không có Niết-bàn, đó là hỏi thích hợp. Vì sao? Vì người quan sát các pháp cũng khổng tịch tĩnh, không bỏ tham dục, điên đảo, sinh tử, vô vi, đó là hỏi thích hợp. Điều mà người hỏi đạt được đó cũng là thích hợp. Giả sử lại hỏi có sự chứng đắc, đến lúc nào đó có sự đoạn trừ, hoặc có sự thực hành, đó là hỏi thích hợp.

Nếu có người không hỏi về sự chứng đắc, sự nhớ nghĩ về các tưởng, không giới hạn thời gian, không chấp giữ, không đoạn trừ các tưởng, cũng không thấy sự thực hành, đó là hỏi thích hợp. Vì tất cả chúng sinh mà thưa hỏi, tâm không vướng mắc, ý không nghĩ đến sự hỏi, đó là hỏi thích hợp.

Nếu hỏi về các căn lành, phước đức, đó là hỏi thích hợp với chân như. Nếu không hỏi về căn lành phước đức, đó là hỏi không thích hợp với chân như. Đây là việc thế tục, đây là việc vượt qua thế tục, đây là điều tội lỗi, đây là điều không tội lỗi, đây là các lậu, đây là chấp giữ, đây là không chấp giữ, nếu hỏi về hai việc như trên, chấp giữ những việc này là hỏi không thích hợp. Nếu không hỏi cũng không thấy có hai việc ấy, đó là hỏi thích hợp.

Nếu hỏi có bao nhiêu người nhìn thấy các Đức Phật, đó là hỏi thích hợp hỏi có bao nhiêu pháp, đó là hỏi thích hợp với chân như hỏi Thánh chúng có bao nhiêu, đó là hỏi thích hợp với chân như; hỏi chúng sinh có bao nhiêu, cõi nước có bao nhiêu, đó là hỏi thích hợp với chân như, hỏi về các thừa có bao nhiêu, chỗ dứt các tưởng có bao nhiêu, đó là hỏi thích hợp với chân như. Pháp không có liên quan, cũng không có bao nhiêu mà hỏi để luận bàn, đó là hỏi thích hợp với chân như. Tất cả các pháp đều thích hợp với chân như, tất cả các pháp cũng không thích hợp với chân như.

Bồ-tát Minh Võng hỏi Phạm thiên:

-Tất cả các pháp thích hợp với chân như và không thích hợp vđi chân như là thế nào?

Phạm thiên đáp:

-Người có thể hiểu rõ các pháp thì pháp ấy thích hợp với chân như. Nếu hỏi các pháp về tâm để làm cho tâm tinh tấn, đó là không thích hợp. Nếu cho rằng, tất cả các pháp và tướng của các pháp đều vắng lặng đều không và không phân biệt, đó là thích hợp. Người không vui thích trong pháp tịch tĩnh, đó là thích hợp. Người tinh tấn thực hành theo như vậy, dù có thực hành với tâm kiêu mạn thì cũng là thích hợp với chân như.

Bồ-tát Minh Võng lại hỏi:

-Thế nào là quán xét các pháp?

Phạm thiên đáp:

-Bản tánh tịch tĩnh, lìa hẳn tham dục, là quán xét các pháp.

Bồ-tát Minh Võng lại hỏi:

-Sao lại có rất ít người lãnh hội như vậy, mà chỉ hiểu điều không thích hợp với chân như, không lìa tham dục mà luận bàn đạo pháp?

Phạm thiên đáp:

-Có nhiều người không xa lìa hẳn tham dục mà thực hành và luận bàn các pháp hợp với chân như. Những người đã hiểu, vừa mới hiểu và sẽ hiểu, thì những người ấy cũng không hiểu các pháp, cũng không có chứng đắc, cũng không có người và cũng không có điều để hiểu. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn đại Bi đâu có nói gì. Mà họ lại nghe Đức Phật có thuyết pháp, rồi tu hành tinh tấn, làm theo lời dạy, trọn đời họ cũng không được trở về với bản tánh của mình. Nếu có đạt được điều gì, thì chẳng phải là chỗ quay về, là nơi hướng đến vì sự tu tập là không trở lại sinh tử, cũng không đạt đến Niết-bàn. Vì sao? Vì điều mà Đức Thế Tôn đã thông đạt thì không có sinh tử, cũng chẳng có Niết-bàn.

Bồ-tát lại hỏi:

-Đức Phật không vượt qua các nghiệp của sinh tử mà thuyết pháp sao?

Phạm thiên đáp:

-Đức Thế Tôn có tự nói: Ta đã vượt qua sinh tử hay không?

-Thưa không.

-Cho nên, thưa Nhân giả! Đức Phật Thế Tôn không bỏ sinh tử, không cầu Niết-bàn. Giả sử có các tưởng về sinh tử và Niết-bàn thì cũng không vượt qua cả hai, vì Ngài không có sinh tử. Người nào có chỗ để vượt qua thì không thể đạt được Niết-bàn. Vì sao? Vì sinh tử và Niết-bàn cũng đều bình đẳng. Vì không có sinh tử, cũng chẳng có Niết-bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen Phạm thiên Trì Tâm:

-Lành thay, lành thay! Này Phạm thiên! Nếu muốn giảng nói điều gì thì phải giảng nói như vậy mới thật sự là nói.

Khi giảng nói lời ứng hợp này, có hai ngàn Tỳ-kheo đã đoạn trừ hết các phiền não, tâm đạt giải thoát.

Đức Phật nói với Phạm thiên:

-Như Lai không trở lại sinh tử, cũng không vào Niết-bàn. Tuy thị hiện nơi sinh tử nhưng không có lưu chuyển, cũng không diệt độ, không lo buồn, cũng không thấy có người và có sự diệt độ. Giả sử có Phạm thiên nào hiểu được ý nghĩa này, thì vị ấy không còn ở nơi sinh tử, cũng không thấy có pháp Niết-bàn.

Lúc này, trong chúng hội có năm trăm Tỳ-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy đi ra, liền nói như vầy: “Trong lúc tu tập phạm hạnh, chúng ta đều nghĩ là sẽ được diệt độ, nhưng nếu không có người được diệt độ, dù có dốc chí tu tập theo đạo này thì thật là uổng công, đâu có thể đạt được trí tuệ?”

Bấy giờ, Bồ-tát Minh Võng bạch Phật:

-Như vậy, bạch Thế Tôn! Giả sử có người muốn khiến cho pháp sinh khởi, đối với những hạng người ấy thì Đức Phật không ra đời, họ không thể vượt qua các nạn khổ nơi sinh tử, vì họ quyết định cầu đạt Niết-bàn.

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Niết-bàn là dứt bặt tất cả các niệm và tưởng, cũng không vọng động hư dối, đó là sự thông tuệ thù thắng, đặc biệt. Nếu các Tỳ-kheo này bằng lòng như vậy tức họ đã tự khinh khi với chính mình.

Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Các vị ấy đôi với chánh pháp và luật của Phật, xuất gia tu hành mà nay bị rơi vào hàng ngoại đạo tà kiến, cho Niết-bàn là có xứ sở, giống như từ mè làm thành dẫu, từ váng sữa làm đề hồ.

Bạch Thế Tôn! Người nào đối với tướng diệt tận của các pháp mà cầu đạt được Niết-bàn thì con cho rằng người ấy là kẻ tăng thượng mạn.

Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Người tu hành đúng nghĩa thì không có đối tượng để tu tập, người muôn đạt được bình đẳng, thì không bao giờ thọ lập dấy khởi chấp về pháp và thủ đắc về Niết-bàn, cũng không có sự mong cầu. Người muốn chứng đắc về pháp thì cũng không chấp nơi bình đẳng.

Bấy giờ, Bồ-tát Minh Võng nói với Phạm thiên Trì Tâm:

-Khi Nhân giả giảng nói những lời này, có năm trăm Tỳ-kheo nghe xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Nhân giả biết tâm niệm và sự hướng đến của những người ấy là có lòng tin, sao họ không hiểu được chánh pháp, phải nên cứu giúp họ thoát khỏi lưới tà kiến?

Phạm thiên Trì Tâm đáp:

-Thưa Đại sĩ! Giả sử họ có đi đến các cõi nước của chư Phật, với kiếp số nhiều như số cát nơi sông Hằng không thể tính kể, thì họ cũng không thể thoát khỏi pháp môn này. Giống như người ngu si, vì sợ hư không nên dong ruổi khắp nơi nhưng cũng không thể lìa khỏi hư không. Các Tỳ-kheo này cũng vậy, giả như họ có thể đi xa không thể hạn lượng, thì tướng Không, tướng Vô tướng, tướng Vô nguyện vẫn là thật tướng. Giống như có người thứ hai dốc tìm kiếm hư không khắp mười phương, muôn có được hư không, liền suy nghĩ: “Ta muốn có được hư không. Ta sẽ đạt được hư không và ở trong đó”. Người này tự nói về hư không nhưng không hề biết hư không là gì. Tất cả lời nói và việc làm của người ấy đều ở trong hư không, nhưng không thấy hư không.

Như vậy, thưa Đại sĩ! Các Tỳ-kheo này vì cầu được diệt độ nên thực hành về Niết-bàn, vì cầu Niết-bàn nên không thể lãnh hội được chỗ hội nhập. Vì sao? Vì cho đạt được Niết-bàn thì đó chỉ là giả danh. Giống như hư không, nếu có đi qua hay ở trong hư không, thì lời nói về hư không cũng gọi là không. Niết-bàn cũng vậy chỉ là giả danh mà thôi.

Khi ấy, nghe Phạm thiên Trì Tâm giảng nói như thế xong, có năm trăm Tỳ-kheo đoạn trừ hết các phiền não, đạt được thần thông liền khen ngợi:

-Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp đều là Niết-bàn. Giả sử có người nào cầu đạt Niết-bàn, thì đôi với người ấy Đức Phật không ra đời.

Kính bạch Đấng Đại Thánh! Chúng con hiện tại chẳng phải là phàm phu, không phải là hàng Hữu học cũng chẳng phải là bậc Vô học, không có sinh tử cũng chẳng có Niết-bàn, cũng không có pháp diệt độ. Vì sao? Vì đối với các thông tuệ, chúng con đã xa lìa sự hiểu biết vốn có, làm hưng khởi Phật pháp.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

-Các vị đã kiến lập, thông đạt đối với tuệ này và tự đạt được lợi ích chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

-Chúng tôi đã kiến lập và thông đạt đối với các phiền não không còn tạo tác.

-Vì sao các vị nói như vậy?

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì đoạn trừ phiền não, biết được thật tướng của phiền não, rõ tánh của Niết-bàn là không tạo tác. Do đó, chúng tôi mới nói là đã hội nhập vào thông tuệ, ở trong phiền não mà không hề tạo tác.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

-Lành thay, lành thay! Thưa các Nhân giả! Ta xin hỏi các vị, các vị đã kiến lập quả vị của Như Lai rồi sao?

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đức Thế Tôn cũng còn là bậc Như Lai chưa hoàn toàn thanh tịnh, huống chi là chúng tôi mà đạt đến sự thanh tịnh rốt ráo.

Lại hỏi:

-Do đâu mà nói như thế?

-Đức Phật biết rõ về pháp giới vốn là thanh tịnh.

Lúc ấy, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bậc Như Lai ứng hiện ở đời?

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Không bị mê hoặc theo pháp thế gian, cũng không chê bai pháp thế gian.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là làm thanh tịnh hết các việc của Như Lai?

Phật dạy:

-Nếu đối với các pháp, không có đối tượng để thọ nhận.

-Bạch Thế Tôn! Ai là ruộng phước của thế gian?

Phật dạy:

-Là người không làm mất tâm Bồ-đề.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là bạn lành của chúng sinh?

Phật dạy:

-Không xa lìa tất cả chúng sinh.

-Bạch Thế Tôn! Người nào có sự báo đáp đối với Như Lai?

Phật dạy:

-Người không chống trái, nghi ngờ lời Phật dạy.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là phụng sự Như Lai?

Phật dạy:

-Là người hiểu rõ và đạt đến cảnh giới vô sinh.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là gần gũi với hạnh của Như Lai?

Phật dạy:

-Thà mất thân mạng, không bao giờ hủy bỏ giới cấm.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là người cung kính đối với Như Lai?

Phật dạy:

-Người tu hành luôn phòng hộ các căn.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là sự giàu có ở thế gian?

Phật dạy:

-Là đầy đủ bảy báu.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là người biết nhàm chán nơi thế gian?

Phật dạy:

-Là người đã đạt và vượt trên trí tuệ ở thế gian.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là hiểu rõ?

Phật dạy: -Là đối với ba cõi, không có đối tượng để mong muốn.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là can ngăn và dẫn dắt thế gian?

Phật dạy:

-Đó là người không còn các kết sử, trói buộc.

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là ở an ổn trong thế gian?

Phật dạy:

-Đó là người không tham lam, không nhận của cải. -Thế nào là không tham lam?

Vì không có năm ấm ngăn che.

-Thế nào là xa lìa sự ngăn che của năm ấm?

Là xa lìa sáu nhập, cũng không có đôi tượng để buông bỏ.

-Thế nào là luôn vượt hơn chính mình?

Là trí tuệ hiểu rõ về đạo.

-Thế nào là Bồ-tát làm chủ việc bố thí?

Là khuyến khích, giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ được nhập vào thông tuệ.

-Thế nào là giữ gìn giới cấm?

Là không bỏ tâm Bồ-đề.

-Thế nào là nhẫn nhục?

Là biết tâm đạt được sự diệt tận. -Thế nào là tinh tấn?

Là tìm tâm mà không thủ đắc về nơi chốn.

-Thế nào là nhất tâm?

Là tâm hoàn toàn buông bỏ.

-Thế nào là trí tuệ?

Đối với tất cả pháp, không có sự hý luận.

-Thế nào là Bồ-tát thực hành tâm Từ?

Là không thực hành theo các tướng chấp.

-Thế nào là Bồ-tát thực hành tâm Bi?

Là không nhớ nghĩ về các pháp.

-Thế nào là Bồ-tát thực hành về Hỷ?

Là không chấp vào ngã và ngã sở.

-Thế nào là Bồ-tát thực hành pháp xả?

Là không chấp vào tưởng của mình hay tưởng của người.

-Thế nào là Bồ-tát kiến lập niềm tin vững chắc?

Là không lìa bỏ các pháp thanh tịnh.

-Thế nào là Bồ-tát học rộng nghe nhiều, an trụ vào không?

Là không nương tựa vào tất cả âm thanh ngôn ngữ.

Thế nào gọi là hổ?

Là hiểu rõ và đoạn trừ hết các pháp bên trong.

-Thế nào gọi là thẹn?

Không tập theo các pháp bên ngoài.

-Thế nào là Bồ-tát hội nhập vào khắp tất cả?

Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Nếu thân thanh tịnh

Không phạm điều ác

Lời nói thanh tịnh

Luôn nói thành thật,

Tâm ý thanh tịnh

Thực hành lòng Từ

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Tu theo lòng Từ

Không còn phiền não

Luôn tu lòng Bi

Không hề sân hận,

Lại thêm tâm xả

Nên chẳng ngu si

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Nếu đến xóm làng

Hoặc nơi vắng vẻ

Thành ấp an ổn

Và trong chúng hội,

Chưa từng chống trái

Oai nghi lễ tiết

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Lòng tin trùm khắp

Chánh pháp chư Phật

Lại thường vui thích

Kinh điển vô ngã,

Thánh chúng hoan hỷ

Không có luận bàn

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Thoát khỏi sắc, dục

Chẳng đối tượng biết

Vượt qua sân hận

Không đối tượng vượt,

Hiểu rõ các hành

Là nơi hướng đến

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Không hề trụ chấp

Đối với cõi Dục

Cũng không kiến chấp

Ở trong cõi Sắc,

Không còn đắm nhiễm

Trong cõi Vô sắc

Đây là Bồ-tất

Vào khắp tất cả.

Tin hiểu tất cả

Các pháp là không

Nhưng vì chúng sinh

Tư tưởng dong ruổi,

Do đó không thể

Sạch hết phiền não

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Hiểu rõ hết thảy

Duyên giác, Thanh văn

Nhưng vì phương tiện

Khai thị người mê,

Nên dùng âm thanh

Giáo hóa cho họ

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Hiểu rõ hết thảy

Các nẻo hướng đến

Chưa từng chống trái

Lời dạy Đạo sư,

Đối với ghét thương

Thực hành bình đẳng

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Chưa từng nghĩ nhớ

Các pháp quá khứ

Hiện tại, vị lai

Cũng lại như vậy,

Không nương, chắp giữ

Tất cả nơi chốn

Đây là Bồ-tát

Vào khắp tất cả.

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tổn! Thế nào là Bồ-tát vượt qua pháp thế gian, thông đạt pháp thế gian, hiện tại đi vào thế gian để cứu độ chúng sinh thị hiện tâm bình đẳng đối với pháp thế gian, nương vào pháp thế gian để ở trong thế gian mà không hề hủy hoại pháp ấy, cũng chẳng làm mất tâm Bồ-đề?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Thế gian là năm ấm

Không vướng mắc thế gian

Cũng chẳng hề tham đắm

Không bỏ pháp thế gian,

Bồ-tát hiểu rõ ràng

Về thật tướng thế gian

Năm ấm không nguồn gốc

Không chấp pháp thế gian.

Lợi ích hay chẳng lợi

Khen ngợi hoặc chê bai

Danh tiếng, không danh tiếng

Hổ thẹn, khổ hoặc vui,

Bồ-tát có trí tuệ

Tuy ở trong thế gian.

Không vướng vào tham dục

Tâm Bồ-đề chẳng động.

Lợi ích chẳng vui mừng

Tổn hao cũng không lo

Kiên cố như núi lớn

Không gì lay động được.

Khen ngợi hoặc chê bai

Tâm vị ấy bình đẳng

Danh tiếng, không danh tiếng

Khổ, vui, tâm bình đẳng.

Biết thật tướng thế gian

Đều khởi từ điên đảo

Thông đạt, ở trong đời

Chẳng lệ thuộc thế gian.

Nếu đi vào thế tục

Biết rõ nơi cần đến

Tùy theo nghiệp chúng sinh

Để cứu họ thoát khổ.

Dũng mãnh nơi thế gian

Vượt lên như hoa sen

Không hủy hoại thế gian

Do thông đạt phấp tánh.

Người đời ở thế gian

Không hiểu rõ các pháp

Bồ-tát ở thế gian

Tường tận tướng thế tục.

Thế gian, tướng hư không

Cũng không tướng hư không

Bồ-tát hiểu điều này

Nên chẳng nhiễm thế tục.

Tùy theo điều đã biết

Để giáo hóa chúng sinh

Thông suốt các thật tướng

Khổng hủy hoại thế gian.

Không chấp vào năm ấm

Là thật tướng thế gian

Vì không hiểu như vậy

Nên luôn vướng thế tục.

Nếu xa kìa năm ấm

Không khởi, không chấp giữ

Tuy vẫn ở trong đời

Nhưng chẳng hề vướng mắc.

Không hiểu pháp thế gian

Nên luôn thích tranh cãi

Do hư vọng, không thật

Nên kiến lập hai tướng.

Ta chưa từng can thiệp

Tranh cãi về thế gian

Do nhân duyên như vậy

Ta giảng thật tướng pháp.

Pháp là không tranh cãi

Lời dạy của chư Phật

Hiểu thế gian bình đẳng

Không giả, cũng chẳng thật.

Giả sử nói Phật pháp

Là giả dối, chân thật

Là lợi ích, tổn hại

Thì giống với ngoại đạo.

Thật nghĩa của các pháp

Không thật, không hư vọng

Nên Như Lai giảng nói

Pháp xuất thế không hai.

Ta đạt được trí tuệ

Thông đạt pháp thế gian

Không hư vọng, không thật

Thấy được mọi lỗi lầm.

Nên soi sáng thế gian

Thành bậc Đại Danh Văn

Ta đã hiểu rõ đời

Thanh tịnh, không nhơ uế.

Ai quan sát thế gian

Tự thân thấy thật tướng

Là thấy chư Như Lai

Hiện tại khắp mười phương.

Biết pháp từ duyên sinh

Các pháp không thật tướng

Nếu hiểu rõ nhân duyên

Thì thâu đạt pháp tánh.

Nếu thông đạt pháp tánh

Thì hiểu rõ về không

Nếu tường tận tướng không

Chắc chắn thấy Đạo sư.

Giả sử dùng âm thanh

Giảng nói về thế gian

Tuy làm việc thế gian

Nhưng không hề nương tựa.

Người rơi vào kiến chấp

Chẳng lầm được điều này

Giả gọi ở trong đời

Không nhiễm việc thế tục.

Sau khi Phật diệt độ

Người nào thích pháp nhẫn

Hiện tại Phật vì họ

Mà hiện bày Pháp thân.

Nếu ai tu pháp này

Là đã cúng dường Phật

Nên biết là người ấy

Làm Đạo sư cho đời.

Cho dù ma Ba-tuần

Cũng không thể hại được

Nếu ở trong thế gian

Giảng nói về kinh này.

Là bậc đại trí tuệ

Bô thí tất cả pháp

Giữ tịnh giới hoàn hảo

Mau thành bậc Đạo sư.

Đạt đến nhẫn, dũng mãnh

Vị ấy luôn tinh tấn

Thông đạt, thích thiền định

Hiểu rõ về thế gian.

Giảng pháp không của Phật

Những ai nghe pháp này

Chắc chắn ở đạo tràng

Thành Đại sĩ hàng ma.

***

Phẩm 4: HIỂU RÕ CÁC PHÁP

Đức Phật bảo Phạm Thiên Trì Tâm:

-Như Lai đã vượt qua cảnh giới của thế gian thị hiện ở đời để chỉ dạy cho chúng sinh đoạn trừ tập, đạt đến an lạc ở thế gian, muốn đạt đến an lạc phải diệt trừ tập, đó là năm ấm của thế gian. Người nào cho rằng: Ta đã vượt qua năm ấm, đạt được sự diệt tận ở thế gian, thành tựu được đạo, thì gọi là hai con đường diệt trừ tập.

Lại nữa, này Phạm thiên! Sao gọi là năm ấm?

Nói năm ấm tức là nói về tập, nếu muốn trừ các kiến chấp thì phải xả bỏ tập, người nào đoạn trừ các kiến chấp về tưởng nơi thật tướng các pháp thì người ấy đạt đến sự diệt tận. Diệt và đạo là không còn các kiến chấp, nên diệt trừ các kiến chấp ở thế gian thì đạt đến chánh đạo.

Do đấy, này Phạm thiên! Vì điều này, Như Lai nói ở thế gian có ba pháp phải giữ gìn và ba gánh nặng, diệt trừ tập ở thế gian, đạt đến sự diệt tận để cầu giải thoát.

Lúc ấy, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã giảng nói về bốn Thánh đế. Thế nào là chỗ quy về của đế?

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Đó là nói về Khổ đế, Tập đế chẳng phải là Thánh đế; Diệt đế và Đạo đế cũng chẳng phải là Thánh đế. Vì sao? Vì giả sử các khổ đều là Thánh đế, thì tất cả các loài súc sinh như bò, ngựa, la, lừa, chó, heo… đều đạt được Thánh đế.

Nếu nói các tập là Thánh đế, thì tất cả chúng sinh trong năm cõi đều đạt được Thánh đế. Nếu nói diệt khổ là Thánh đế, thì tất cả các loài thấy sự đoạn diệt, liền cho là đoạn trừ hết khổ và đạt được Thánh đế. Nếu nói đạo là Thánh đế, thì tất cả các pháp hữu vi đều là đạo Thánh đế.

Này Phạm thiên! Do nhân duyên ấy, nên biết Thánh đế là quan sát về Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Thánh đế là biết rõ khổ vốn không có đối tượng được sinh khởi, đây gọi là Thánh đế. Người nào thực hành về tập đế thì không phải là Thánh đế, khi hiểu rõ pháp là không sinh, không diệt mới chính là Thánh đế. Nếu đối với tất cả pháp đều bình đẳng, đối với đạo cũng bình đẳng không hai, đây chính là Thánh đế.

Phật bảo Phạm thiên:

-Gọi là Thánh đế vì không có hư vọng. Sao gọi là hư vọng? Nghĩa là chấp có ngã, chấp có nhân, chấp có tuổi thọ, chấp có mạng sống, chấp vào tướng nam, nữ, nương vào ba cõi, xa lìa cái vốn có, nương vào sinh, nhờ vào diệt, chấp nhận sinh tử, nương tựa Niết-bàn. Đó gọi là hư vọng. Đối với các điều này mà không nương tựa, cũng không mong cầu thì gọi là chân thật. Nếu muốn diệt trừ khổ nên là hư vọng, muốn diệt tập đế cũng là hư vọng, cho rằng ta sẽ chứng diệt đế cũng là hư vọng, tu hành về đạo đế cũng là hư vọng. Vì sao? Vì chấp giữ những lời Như Lai giảng nói về tám Thánh đạo hay bốn Niệm xứ cũng đều là hư vọng.

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Sao phải tư duy về những lời dạy của Đức Phật?

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Không có tâm cũng không có niệm, đối với tất cả các pháp cũng vậy, đây mới thật sự là tư duy về những lời dạy của Như Lai. Đối với bốn Niệm xứ thì không có đối tượng để trụ, cũng chẳng chấp vào các tưởng. Đã không trụ vào tất cả các tưởng nên trụ vào cõi chân thật, trụ vào cõi chân thật thì không còn đối tương trụ chấp. Nếu biết tâm không còn đối tượng để nương hay có đối tượng để trụ, thì không gọi là chân thật mà gọi là hư vọng. Do đó, nên biết quan sát về sự không chân thật cũng không hư vọng như vậy mới chính là Thánh đế, là quan sát về Thánh đế.

Thế nào là Thánh đế? Là không có đối tượng được sinh khởi, cũng không có đối tượng gọi là chân thật. Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện thì Như Lai cũng chẳng trụ chấp vào pháp tánh và Niết-bàn, cũng không trụ nơi sinh tử, hay luôn quan sát về định chân thật. Vì sao? Vì Thánh đế là không có sinh tử, cũng chẳng có Niết-bàn.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Nếu chứng biết về bốn Đế như vậy thì gọi là Thánh đế.

Này Phạm thiên! Đời sau sẽ có Tỳ-kheo không tu tập về thân, không giữ gìn giới cấm, không thể điều phục tâm, không siêng năng tu trí tuệ, liền giảng nói các tướng sinh tử là khổ đế, cho các duyên hòa hợp là tập đế, pháp được dứt trừ gọi là diệt đế, dùng hai pháp để cầu đạt về tướng là đạo đế. Đây là người ngu si, ta gọi người này là thuộc về ngoại đạo, không phải là hàng Thanh văn đệ tử của ta, là người bị rơi vào tà đạo, phá hoại chánh pháp, tự mình buông lung.

Này Phạm thiên! Lúc ngồi bên gốc cây nơi đạo tràng thành Phật, Như Lai không chứng đắc pháp chân thật, cũng chẳng có pháp hư vọng. Đối với các pháp, Như Lai không hề có nơi hướng đến. Do đó, đừng nên nói là có hai pháp môn quan sát để cầu chứng đắc pháp của Như Lai.

Phạm thiên bạch Phật:

-Thưa vâng, bạch Đấng Thiên Trung Thiên!

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Đó gọi là con đường điên đảo mê lầm, không thể diệt trừ hết tất cả các nơi hướng đến.

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Pháp của Như Lai không hề điên đảo, cũng không có đối tượng được chứng đắc. Vì sao khi thành Phật, Như Lai lại có danh hiệu là Bình Đẳng Giác. Ý nghĩa này là thế nào?

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Ý ông nghĩ sao? Như Lai đã giảng nói pháp là hữu vi hay vô vi, là chân thật hay hư vọng?

Phạm thiên đáp:

-Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Pháp ấy là hư vọng, không thật có, không trụ vào Thánh đạo.

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Pháp hư vọng, không thật ấy có chỗ trụ hay không có đối tượng để trụ?

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Pháp hư vọng, không thật ấy không có chỗ trụ, cũng chẳng phải không có chỗ trụ.

-Này Phạm thiên! Sao gọi các pháp là không có chỗ trụ, cũng chẳng phải không có chỗ trụ? Thế nào là đắc đạo?

-Bạch Thế Tôn! Như Lai không có thủ đắc về đạo.

-Này Phạm thiên! Lúc ngồi ở đạo tràng nơi gốc cây Bồ-đề, Như Lai đã thông đạt các phiền não và hết thảy mọi điên đảo vốn luôn thanh tịnh, là tánh không, là thật tướng. Thông đạt như vậy, nhưng không có đối tượng để thông đạt, cũng chẳng phải không thông đạt. Vì sao? Vì Như Lai đã thấy suốt các pháp, thành Bậc Chánh Giác, sự thành tựu ấy là không thể thấy, không thể nghe, không thể nghĩ, không thể biết, không thể nhận, không thể chấp, cũng chẳng có nơi hướng đến, vượt qua tất cả các pháp tánh, không lời nói, không văn tự, không chữ nghĩa, không câu cú, cũng chẳng giảng nói. Như vậy, này Phạm thiên! Các pháp như hư không ông có muốn đạt được các pháp như thế chăng?

-Thưa không, bạch Đức Thế Tôn!

Phạm thiên lại thưa:

-Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai đã thành tựu đầy đủ pháp chân thật chưa từng có, thật không gì có thể sánh bằng. Chư Phật Thế Tôn đã có đủ lòng Từ bi rộng lớn, hiểu rõ tường tận các pháp là vắng lặng, dùng văn tự để giáo hóa cho mọi người. Những ai tin ưa pháp Như Lai thuyết giảng nên biết những người ấy đã tạo lập đầy đủ các cội gốc công đức. Những chúng sinh như vậy, thì đối với chư Phật không hề có lỗi lầm. Vì sao? Vì đối với pháp này, tất cả thế gian đều khó có thể tin nhận được.

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Chúng sinh tin vào pháp, cho pháp chính là ngã sở. Họ nương tựa, chấp giữ nơi pháp nhưng pháp không thật có, không hư vọng, không có pháp cũng chẳng phải không có pháp. Chúng sinh nương tựa vào Niết-bàn, nhưng quan sát về Niết-bàn thì không có đầu tiên cũng chẳng có cuối cùng, cũng không có Niết-bàn. Họ nương vào pháp lành, nhưng không có pháp lành cũng chẳng phải không có pháp lành. Chúng sinh nương vào an lạc nhưng không có khổ, không có vui. Chúng sinh nương vào Phật, cho là Phật ra đời, nhưng Phật không ra đời, cũng chẳng diệt độ, lại vì sự quan sát chân lý của Thánh chúng mà xiển dương giáo pháp, dùng pháp vô vi để quan sát chân lý. Kinh điển như vậy thì thế gian có thể tin được. Ví như từ nước sinh ra lửa, từ lửa sinh ra nước đều là do nhân duyên hòa hợp.

Đức Phật dạy:

-Do nhân duyên này, Như Lai đã hiểu tường tận các phiền não, liền thành quả vị Phật. Vì sao? Vì Như Lai thông đạt về nhân duyên của các phiền não nên thành Bậc Chánh Giác, cũng chẳng thành Bậc Chánh Giác, tuy có thuyết pháp nhưng không thấy có sắc tướng, cũng chẳng có đối tượng để niệm, không tạo tác nhị biên, cũng không có đối tượng được chứng đắc, không thủ đắc Niết-bàn, cũng không hề vắng lặng.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể tin tưởng, hiểu rõ pháp này thì đoạn trừ hết tất cả các kiến chấp và được giải thoát, nên biết người ấy đã đảnh lễ quy y, cúng dường chư Như Lai ở quá khứ, đã được gần gũi bậc Thiện tri thức, được họ giúp đỡ nên đạt đến an lạc vi diệu, vun trồng các cội gốc công đức sâu dày, hiểu rõ và giữ gìn tạng pháp của chư Phật, diệt trừ mọi tội lỗi, kiến lập chánh đạo, sinh vào dòng dõi tôn quý, nắm giữ các tôn chỉ của Như Lai đã giảng nói, luôn thực hành bố thí, xả bỏ hết phiền não, đạt được diệu lực của giới, không còn tham dục nên đạt được năng lực của nhẫn, không còn sân hận nên được sức tinh tấn không hề nhàm chán, đạt được năng lực thiền định, diệt trừ mọi tội lỗi, có năng lực trí tuệ nên xa lìa tà kiến, tất cả các ma không thể lay chuyển, mọi thù địch oán hận đều không thể phá hoại, không bị mê hoặc.

Đối với thế gian, người ấy dùng lời chân thật để giảng nói rõ ràng về các pháp vốn là thanh tịnh, là chân thật, giảng nói về pháp rốt ráo nên được sự hộ trì của Như Lai, luôn an lạc, hòa nhã ở nơi an ổn, gọi là người có tài sản của bậc Thánh, thường biết đủ đối với hạnh Hiền thánh, khéo léo biết được sự trưởng dưỡng và ân cần cúng dường nên có được lòng tin, đạt đến bờ bên kia, vì người có chí nguyện giải thoát nên khuyên họ nỗ lực để đạt được, vì người muốn được giải thoát nên khiến họ được giải thoát, làm chỗ nương tựa cho những ai không có nơi trở về, khiến cho người ưa thích pháp vô vi đạt được Niết-bàn, diễn nói pháp đầy đủ cho những ai ưa thích đạo pháp, thị hiện sự giải thoát đối với người ưa thích giải thoát, làm vị lương y biết rõ các phương pháp trị bệnh, vì tất cả những người bệnh mà trị cho họ được lành, dùng năng lực để dẫn dắt, khiến họ đạt được trí tuệ, có uy lực mạnh mẽ nên luôn vui vẻ, tự tại, không nương nhờ, không nhận bất cứ việc gì từ người khác, không sợ hãi, đến đâu cũng được thừa vi diệu như sư tử.

Tâm của người ấy an ổn như rồng thần, ở trong chúng tự tại như bậc điều tượng, có sức dũng mãnh như thần tiên, hàng phục oán thù như ở trong chúng hội, chí nguyện mạnh mẽ, tâm ý tự tại không hề lo lắng, thuyết giảng chánh pháp đều không có sự trở ngại, trừ sạch mọi phiền não cấu uế như ánh trăng rằm, ánh sáng trí tuệ như bó đuốc chiếu soi rộng rãi, như ánh mặt trời mọc tỏa sáng khắp nơi, diệt trừ tất cả tối tăm như đốt lửa giữa sân để soi sáng, xa lìa chấp giữ không hề tăng giảm, giữ gìn hành trì các pháp như đất, chúng sinh đều chiêm ngưỡng.

Người ấy như ruộng tốt để gieo trồng, phát triển trăm giống lúa, tẩy sạch tất cả các nhơ uế giống như nước, diệt trừ các tưởng giống như lửa, không chấp thủ tất cả các pháp giống như gió, không kề lay động như núi Tu-di, chí nguyện kiên cố như núi Kim cang, Thiết vi, các học phái ngoại đạo không thể so sánh, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể theo kịp. Người ấy dùng pháp vị nhiều như biển, làm bậc Thầy dẫn dắt, trừ sạch tất cả mọi thứ khao khát về ái dục nơi chúng sinh, mong cầu kinh pháp chưa từng nhàm chán, đối với trí tuệ thường không biết đủ, luôn vì Đức Phật mà chuyển pháp luân, dung mạo thù thắng như trời Đế Thích, tâm tự tại như Phạm thiên, giảng nói chánh pháp như sấm sét, rưới pháp cam lộ như mưa thấm nhuần đúng lúc, các căn, lực và giác ý đều được tăng trưởng, vượt qua hoạn nạn của sinh tử, nhập vào trí tuệ của bậc Thánh và chư Phật, gần gũi với sự giác ngộ của Phật, học rộng nghe nhiều không gì sánh bằng, vượt qua lãnh vực lường xét nên không thể lường xét được, trí tuệ biện tài không ai sánh kịp, đạt được các pháp Đà-la-ni, chí nguyện bền vững, tâm ý sáng suốt, thấy rõ tất cả tâm tánh của chúng sinh, quan sát thông suốt nghĩa lý các pháp, luôn thực hành Từ bi đối với thế gian, vượt trên các pháp thế gian, không hề vướng mắc tham đắm giống như hoa sen, không bị nhiễm ô theo các pháp thế gian, được các bậc có trí tuệ kính mến, được những bậc học rộng nghe nhiều tin thuận, luôn được các hàng tu học cung kính thuận theo, được chư Thiên và loài người cúng dường, được các bậc Thiền định cung kính lễ bái, các bậc Hiền thánh đều tôn trọng gần gũi, hàng Thanh văn, Duyên giác đều khâm phục, thích xa lìa hạnh trụ chấp nơi các địa, không dua nịnh, phô trương, không tham lợi dưỡng, oai đức cao vời, làm sáng rõ dấu vết của Hiền thánh, tướng mạo đoan nghiêm, hòa nhã, oai nghi sáng rỡ không thể lường xét, dùng tướng tốt để tự trang nghiêm.

Người ấy có thể tu tập theo lời dạy của Phật giữ gìn giáo pháp, kinh điển, giúp đỡ chúng Hiền thánh, luôn được gặp chư Phật, nhờ điều này nên mau thành tựu Phật nhãn, được chư Phật thọ ký, đầy đủ ba nhẫn, sẽ được ngồi nơi đạo tràng của Phật, hàng phục các ma và quyến thuộc của chúng, thành tựu các thần thông, trí tuệ để chuyển pháp luân, thực hiện tất cả các Phật sự, hiểu được pháp sâu xa, không lo không sợ, không có hoạn nạn, không hề nghi ngờ.

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Trong một kiếp hay trải qua nhiều kiếp, nếu con có nêu bày tán dương về công đức của vị ấy cũng chẳng thể cùng tận, vì vị ấy đã đạt được công đức, sự hành hóa không có giới hạn. Vì đạo của chư Phật vi diệu như thế, khó có thể thọ trì, khó lãnh hội, không thể thấy, khó thông đạt. Có người nào thọ trì, đọc tụng như lời dạy mà tu hành, hoặc vì người khác giảng nói pháp này thì người ấy đã kiến lập lòng tin bậc nhất.

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Công đức của vị ấy đạt được như ông đã nêu bày tán dương chỉ có Như Lai mới biết được tường tận, ông khó có thể thấu tỏ. Như Lai dùng trí vô ngại, biết rõ công đức của người ấy. Như Lai dùng câu cú nghĩa lý để thuyết giảng về công đức của người ấy thì ông mới có thể hiểu tường tận. Nếu người nào đã hiểu rõ ràng, luôn tùy thuận không hể chống trái, thành thật không bị mê lầm, hiểu rõ nghĩa lý chân chánh không bị tán loạn, thì hiểu rõ các tướng của sự việc như lời giải đáp, như pháp chân thật mà Như Lai đã giảng nói.

Lại nữa, giáo pháp Như Lai đã thuyết giảng, vượt qua các tướng của văn chương, câu cú, không ai có thể hiểu rõ tường tận, không thuận hợp, không chống trái, không thực hành cũng chẳng thông đạt. Chỉ có ông mới có thể biết được nên không buông lung, đối với các tướng thì không nên nương theo lời nói mà hiểu được. Nếu lúc Như Lai không dùng lời nói thì chính là lúc Như Lai đang thuyết pháp. Như Lai chỉ dùng phương tiện giảng nói kinh điển vì lòng Từ bi thương xót chúng sinh nên Như Lai mới diễn thuyết chánh pháp.

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Bồ-tát nào hiểu rõ Như Lai nương vào năm lực để thuyết pháp, thì Bồ-tát ấy có thể kiến lập, thực hành các Phật sự.

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Như Lai nương vào năm lực nào để thuyết pháp?

Đức Phật dạy:

1. Giảng nói pháp.

2. Dùng phương tiện thiện xảo để trả lời thích hợp.

3. Giảng nói pháp rõ ràng.

4. Không thiếu sót văn tự, nghĩa lý, nêu bày tường tận về đạo lý.

5. Nhập vào lòng Bi lớn.

Này Phạm thiên! Đó là năm lực mà Như Lai nương vào để thuyết pháp. Tất cả các hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể sánh bằng.

Phạm thiên lại thưa:

-Bạch Thế Tôn! Như Lai dùng ngôn từ nào để giảng nói chánh pháp?

Đức Thế Tôn bảo Phạm thiên.

-Như Lai thuyết giảng về quá khứ, hiện tại và vị lai, giảng nói về phiền não, điên đảo, pháp thế gian, xuất thế gian pháp hữu lậu, vô lậu; pháp nhiễm ô, không nhiễm ô; pháp có tội, không có tội; pháp hữu vi, vô vi; pháp ngã, nhân, thọ mạng; pháp chứng đắc, giảng về luân hồi sinh tử và Niết-bàn.

Này Phạm thiên! Đối với các ngôn từ này nên quán như huyễn, không có gì chắc chắn; quán ngôn từ như mộng, thấy là không thật có; quán ngôn từ như tiếng vọng, do các duyên mà có âm thanh; quán ngôn từ như hình ảnh, do duyên hòa hợp tạo nên; quán ngôn từ như bóng, phản chiếu trong gương; quán ngôn từ như dấu ấn hiện ra, quán ngôn từ như dợn nắng, do nhận thức điên đảo; quán ngôn từ như hư không, sẽ có lúc chấm dứt; quán ngôn từ là không có lời lẽ, không thể nắm bắt.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Bồ-tát nào có thể hiểu rõ về ngôn từ của các pháp như vậy, thì vị ấy có thể dùng ngôn từ để giảng nói các pháp. Đối với các pháp không hề nương tựa, vì không có đối tượng được duyên dựa nên có thể đạt được biện tài vô ngại, vì đạt được biện tài vô ngại nên có thể hiển bày các pháp bình đẳng không chướng ngại, giảng nói kinh pháp cho người ngang hàng cũng không hề trở ngại, đối với tất cả ngôn từ không làm hủy hoại pháp tánh, không chấp vào ngôn từ, không hủy hoại, cũng không duyên dựa.

Này Phạm thiên! Như Lai có thuyết pháp cũng chẳng dùng ngôn từ để giảng nói.

Phạm thiên thưa:

-Bạch Thế Tôn! Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói chánh pháp như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Như Lai đối với các phiền não mà thị hiện sự trói buộc, lại ở nơi trói buộc mà thị hiện phiền não, Bồ-tát nên hiểu rõ điều này.

Này Phạm thiên! Như Lai đối với các phiền não mà thị hiện sự trói buộc như thế nào? Vì các phiền não là tự nhiên, bình đẳng không sai khác. Lại nữa, Như Lai đối với sự trói buộc mà thị hiện các phiền não, vì dựa nơi trói buộc mà thực hành bố thí nên đạt được Niết-bàn thanh tịnh, do ngu tối nên chúng sinh không thể hiểu rõ tai họa của các phiền não.

Bồ-tát nào hiểu rõ tất cả các pháp bố thí, thì đời sau vị ấy là của báu lớn ở thế gian. Vị ấy không còn có nơi hướng đến nên gọi là giới vô vi, là Niết-bàn, do không có đối tượng được chứng đắc nên cũng không có đối tượng để thực hành, do nhẫn nhục vô vi nên hư vọng, không thật có, do tinh tấn vô vi nên không có sự tu hành, do thiền định vô vi nên không có đối tượng được hoan hỷ, do trí tuệ vô vi nên thông đạt các tướng, bản tế của tướng là lìa dục nên pháp tánh là vô dục, bản tế của sân hận là suy xét về pháp tánh không trói buộc, bản tế của ngu si là suy xét về pháp tánh không ngu si, bản tế của sinh tử là vồ vi nên không có đối tượng được sinh khởi, do vô vi nên vị ấy không còn sinh tử, thấy rõ ngôn từ là hư vọng, nếu cho rằng hư vọng là chân thì đó là tăng thượng mạn.

Lại nữa, này Phạm thiên! Như Lai tuần tự tùy theo các nhân duyên mà giảng nói pháp chân thật, tùy theo nhân duyên mà nói là thường, vì những người chấp vào ngã và ngã sở nên từ bỏ những sự bàn luận sai trái, vì những người tà kiến, không có lòng tin mà tạo lập chánh kiến, làm cho họ phát khởi lòng tin, không còn mong cầu, vì biết rõ những người tà kiến nên Như Lai giảng nói rõ ràng, đến khi họ có chánh kiến thì Như Lai lại giảng nói về pháp chân thật. Chúng sinh nào từ bỏ cao ngạo ngã mạn, Như Lai vì họ mà giảng nói pháp chân thật.

Lại nữa, này Phạm thiên! Bồ-tát nào biết Như Lai là Bậc Chí Chân, nên hiểu rõ những lời dạy của Như Lai đều là phương tiện, nêu biết rõ Như Lai dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói chánh pháp, thì người ấy đạt được giải thoát. Người nào tin tưởng vào những điều sai trái, thì Như Lai sẽ vì họ mà thị hiện các sự báo ứng của chúng sinh khiến họ được giác ngộ. Nếu người nào nghe giảng nói về Pháp thân, liền cho là ngôn từ chân thật của Như Lai, vì giải thoát tà kiên mà dốc lòng tin, do nương vào pháp nên tôn kính văn tự, những chúng sinh như vậy thì đừng giảng nói pháp này cho họ. Vì muốn giải thoát tà kiến nên người ấy chưa từng tin vào pháp ấy, cũng không có đối tượng được chứng đắc, cũng không có sự sai biệt, nếu cho là có Niết-bàn, đó là tin vào tà kiến, người ấy ở trong điên đảo phiền não mà cho là vô vi, thì không bao giờ đạt được Niết-bàn, vì những người có lòng tin như vậy muốn được giải thoát nên Như Lai giảng nói các pháp là không sinh cũng chưa từng diệt, nếu cho là đối tượng được diệt thì đó là tin theo tà kiến, khi được nhập vào pháp tịch tĩnh thì sẽ được giải thoát, liền biết là không có đối tượng, người tin theo tà kiến như vậy, liền được hiểu rõ các pháp chân thật.

Này Phạm thiên! Bồ-tát nào có thể hiểu rõ về phương tiện thiện xảo và ngôn từ nơi pháp chân thật, thì đối với tất cả âm thanh họ không hề sợ hãi, lại có thể mở bày dẫn dắt làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh.

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Như Lai thực hành các phương tiện như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Như Lai vì chúng sinh mà giảng nói, nếu bố thí thì sẽ được phước báo giàu có, trì giới thì được sinh lên cõi trời, nhẫn nhục thì được thân đoan nghiêm, tinh tấn thì được trí sáng suốt, thiền định thì đạt được an lạc không tán loạn, học về trí tuệ thì diệt trừ phiền não, ái dục, học rộng nghe nhiều thì mau đạt được trí tuệ, thực hành mười điều lành thì được dự vào hàng tôn quý ở cõi trời và cõi người, thực hành về Từ, Bi, Hỷ, xả thì được sinh lên cõi Phạm thiên, nếu quan sát về sự tịch tĩnh lặng lẽ thì đạt được học địa, địa Duyên giác, địa Vô học, địa Như Lai thanh tịnh. Như Lai thị hiện trí tuệ không có giới hạn, nếu chúng sinh đạt được giải thoát thì diệt trừ tất cả khổ.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Như Lai dùng phương tiện thiện xảo, vì chúng sinh mà thị hiện, giảng nói chánh pháp đúng lúc như vậy, nhưng Như Lai chưa từng nghĩ nhớ đến các tướng về ngã, ngã sở, nhân và thọ mạng. Sự hành hóa của Như Lai cũng chẳng có đối tượng được chứng đắc, không tham tiếc cũng chẳng bố thí, không trì giới cũng chẳng phá giới, không nhẫn nhục cũng chẳng sân hận, không tinh tấn cũng không biếng nhác, không thiền định cũng không tán loạn, không trí tuệ cũng không ngu si, không có Bồ-đề cũng chẳng có Niết-bàn, không an lạc cũng chẳng có hoạn nạn.

Này Phạm thiên! Giáo hóa chúng sinh khiến họ siêng năng tu hành, nhờ siêng năng tu hành nên hiểu được pháp ấy như chí nguyện đã lập, hoặc đạt được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, hoặc A-la-hán, cho đến quả vị Duyên giác, hoặc chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến vượt qua pháp vô vi. Như vậy, này Phạm thiên! Như Lai dùng phương tiện thiện xảo vì chúng sinh mà giảng nói kinh điển. Hàng Bồ-tát cũng vì chúng sinh nên dùng phương tiện thiện xảo dấy khởi lòng Từ, thường giảng nói chánh pháp để cứu giúp họ.

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Giáo pháp Như Lai đã thuyết giảng là gì?

Đức Phật dạy:

-Pháp không có nơi mắt, cũng chẳng có giải thoát, cho đến tai, mũi, thân, miệng, ý cũng vậy. Vì sao? Vì mắt là không, nên không có ngã cũng chẳng có ngã sở, tất cả vốn là thanh tịnh, cho đến tai, mũi, lưỡi, thân, miệng, ý, ý cũng là không, nên không có ngã cũng chẳng có ngã sở, tất cả vốn là thanh tịnh.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Đó gọi là tất cả các pháp đều quy về pháp môn giải thoát, nếu còn có nơi hướng đến thì gọi là huyễn hóa, sáu pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng vậy, tất cả các pháp thảy đều là không, vô tướng, vô nguyện, không sinh, không diệt, không trụ cũng chẳng phải không trụ. Gọi như vậy là vì ý không trụ cũng không sinh, vốn thanh tịnh, tịch tĩnh như nhiên.

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Như Lai dùng tất cả văn tự để diễn nói pháp môn giải thoát, dùng các câu cú để dẫn dắt người ngu si, khiến họ nương vào văn tự để quan sát về giáo pháp chân thật, nếu hiểu rõ tất cả từng lời dạy của Như Lai thì sẽ đạt được giải thoát, vì những điều Như Lai đã thuyết giảng đều là chân thật. Kinh điển mà Như Lai đã giảng nói không có phiền não, tất cả các pháp ấy đều là không, là giải thoát, Niết-bàn. Đây gọi là kinh điển do Như Lai giảng nói, Bồ-tát nên tu học nơi pháp như vậy.

Đức Phật lại bảo:

-Này Phạm thiên! Như Lai dùng phương tiện gì để phát khởi lòng Từ bi lớn, giảng nói chánh pháp cho chúng sinh?

Này Phạm thiên! Như Lai dùng ba mươi hai pháp để phát khởi lòng Từ bi lớn cứu giúp chúng sinh. Ba mươi hai pháp ấy là những gì?

1. Tất cả các pháp không có ngã, ngã sở nhưng chúng sinh tin là có ngã, ngã sở, Như Lai vì họ mà phát khởi lòng tin.

2. Tất cả các pháp không có nhân, nhưng chúng sinh chấp là có nhân, Như Lai vì họ mà phát khởi lòng Từ bi.

3. Tất cả các pháp không có mạng sống (chúng sinh), nhưng chúng sinh lại chấp là có mạng sống, Như Lai vì họ mà phát khởi lòng Từ bi.

4. Tất cả các pháp không có tuổi thọ, nhưng chúng sinh lại chấp là có tuổi thọ, Như Lai vì họ mà phát khởi lòng Từ bi.

5. Tất cả các pháp là không phân biệt, nhưng chúng sinh lại chấp là có phân biệt, Như Lai vì họ mà phát khởi lòng Từ bi.

6. Tất cả các pháp không có đối tượng được duyên dựa, nhưng chúng sinh lại chấp là có đối tượng nắm bất.

7. Tất cả các pháp đều hư vọng mà chúng sinh lại cho là có sự an lạc.

8. Tất cả các pháp đều không có ngã, ngã sở mà chúng sinh lại cho là có ngã và ngã sở.

9. Tất cả các pháp đều không có chủ tể mà chúng sinh lại tham chấp.

10. Tất cả các pháp không thể giữ gìn, nhưng chúng sinh lại nương tựa vào thân sắc.

11. Tất cả các pháp đều không sinh, nhưng chúng sinh lại chấp là có phát sinh.

12. Tất cả các pháp đều không diệt, nhưng chúng sinh lại tham lam đôi với sinh tử.

13. Tất cả các pháp đều không phiền não nhưng chúng sinh lại chìm đắm trong phiền não.

14. Tất cả các pháp là không tham dục nhưng chúng sinh lại bị nhiễm ô.

15. Tất cả các pháp không có sân hận, nhưng chúng sinh lại kết buộc giận dữ.

16. Tất cả các pháp đều không ngu si nhưng chúng sinh lại bị mê lầm.

17. Tất cả các pháp đều không từ đâu đến nhưng chúng sinh lại thích nương vào nơi hướng tới.

18. Tất cả các pháp đều không có nơi hướng đến nhưng chúng sinh lại cho là có đầu tiên và cuối cùng.

19. Tất cả các pháp là không tạo tác mà chúng sinh lại kiến lập sự tu tập.

20. Tất cả các pháp đều không buông lung, mà chúng sinh lại dong ruổi, phóng túng.

21. Tất cả các pháp đều tịch tĩnh, nhưng chúng sinh lại cho là có xứ sở, có đối tượng để thấy biết.

22. Tất cả các pháp là không có tưởng nhưng chúng sinh lại cho là có tưởng, hành là hơn hết.

23. Tất cả các pháp đều không tạo tác nhưng chúng sinh lại dốc mong cầu.

24. Thế gian ôm lòng giận dữ, trói buộc, luôn bị lo âu, chán nản, không cùng hội họp với thù địch, không nhu hòa đối với những điều khó nhẫn nại, Như Lai khiến cho họ trừ bỏ được tất cả những điều đã chấp giữ.

25. Thế gian tích tập làm theo tà kiến, điên đảo nên Như Lai vì họ mà diệt trừ tận gốc những điều ấy.

26. Chúng sinh không hướng đến đạo nên nương tựa vào phiền não và tài lợi ở thế gian, ưa chuộng tất cả tài sản, tham lam không hề nhàm chán, nên Như Lai vì họ mà kiến lập đầy đủ bảy loại báu của Hiền thánh là: Tín, giới, tàm quý, văn, thí và trí tuệ.

27. Chúng sinh là nô lệ của sự ái ân, cho điều không bền chắc là bền chắc, mà những niềm vui về của cải, nhà cửa, vợ con đều chẳng an ổn. Sở dĩ gọi là nô lệ của sự ái ân là vì các chúng sinh tưởng rằng điều không bần chắc là bền chắc, Như Lai sẽ giảng nói pháp vô thường đối với những điều mà họ cho là thường.

28. Chúng sinh mong cầu về tài sản, nhưng tài sản như thù địch, trái lại họ cho là bạn bè thân thiết, Như Lai vì họ mà hiển bày các hạnh như bạn bè thân thiết, làm cho họ dứt trừ được những hoạn nạn khổ sở, đạt đến Niết-bàn rốt ráo.

29. Vì các chúng sinh làm những nghề bất chánh, Như Lai sẽ giảng dạy rõ ràng cho họ về các nghề nghiệp thanh tịnh vi diệu, không còn tạo tác.

30. Vì chúng sinh bị phiền não xấu ác làm nhiễm ô, ở nơi gia đình tạo nhiều việc tai hại, rối rắm nên Như Lai thuyết pháp khiến họ thoát khỏi ba cõi.

31. Tất cả các pháp đều do tâm tham chấp, các tướng đều do duyên tạo thành, đối với những điều này chúng sinh rất biếng trễ, Như Lai giảng nói chánh pháp đưa đến giải thoát của bậc Thánh nhằm khuyến khích họ tinh tấn, kiên trì và đạt được an lạc.

32. Đối với những người bỏ trí tuệ vô ngại, Niết-bàn tối thượng mà hướng đến thừa Duyên giác, Thanh văn, vì để hiển bày các hạnh vi diệu, nên Như Lai vì họ mà khởi lòng đại Bi.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Đó là ba mươi hai pháp, Như Lai dùng để phát khởi lòng đại Bi, giáo hóa chúng sinh, cho nên Như Lai là bậc thực hành lòng đại Bi. Bồ-tát nào thực hành theo ba mươi hai pháp này, thì được hội nhập vào lòng Từ bi lớn. Bồ-tát như vậy là bậc Đại sĩ, gọi là ruộng phước lớn, là bậc có đại oai thần, an lạc cao vời đạt đến quả vị không thoái chuyển, vì các chúng sinh mà tạo lập các hành.

Khi Đức Phật giảng nói pháp môn đại Bi này, có ba vạn hai ngàn hàng trời, người phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ba vạn hai ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

***

Phẩm 5: NÊU VẤN NẠN

Bấy giờ, Bồ-tát Minh Võng bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Phạm thiên Trì Tâm nghe Đức Như Lai giảng nói rõ ràng về pháp môn Đại Bi, sao lại không hoan hỷ cũng không lo buồn?

Phạm thiên Trì Tâm đáp:

-Thưa Đại sĩ! Người nào tu tập và nhận biết về hai hạnh thì người ấy còn có hoan hỷ và lo buồn, vì biết xứ sở của cõi chân thật là vĩnh viễn không còn hai hạnh, do điều ấy nên không hoan hỷ cũng không lo buồn. Như nhà ảo thuật làm các phép thuật kỳ lạ, huyễn hóa, tuy làm như vậy nhưng vị ấy không vui không buồn.

Thưa Đại sĩ! Nếu có thể nhập vào thật tướng của các pháp thì thấy được thật tướng và sự hiện bày, biến hóa của Như Lai nên không hoan hỷ cũng không lo buồn. Đối với sự hành hóa của Như Lai và nghe những biện tài nơi Đức Như Lai giảng nói thì không hoan hỷ cũng không lo buồn. Nếu hiểu rõ các pháp như vậy thì đối với tất cả sự việc như huyễn đều bình đẳng, không sai khác, nên không ân cần, hoan hỷ đối với Đức Như Lai, cũng không có tâm thấp kém đối với chúng sinh.

Bồ-tát Minh Võng lại hỏi:

-Thưa Nhân giả! Nhân giả đã hiểu rõ về tướng huyễn của các pháp chăng?

Phạm thiên đáp:

-Thưa Đại sĩ! Người nào thực hành và an trú trong các pháp mới có thể thưa hỏi điều này.

Bồ-tát Minh Võng lại hỏi:

-Nhân giả thực hành hạnh gì?

Phạm thiên đáp:

-Tất cả các hạnh phàm phu đã thực hành tôi cũng thực hành những hạnh ấy.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Phàm phu hành theo tham đục, sân hận, ngu si, chấp vào thân cho là có ngã, ngã sở và theo tà kiến. Sao Nhân giả lại thực hành những hạnh ấy?

Phạm thiên đáp:

-Chẳng phải Đại sĩ vì muốn cho hàng phàm phu không còn là phàm phu và thành tựu các pháp hay sao?

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Tôi không ưa thích pháp của hàng phàm phu thì sao lại muốn thành tựu các pháp ấy!

Phạm thiên thưa:

-Thưa Đại sĩ! Tất cả các pháp đều không có đối tượng để thành tựu, pháp không có chỗ trụ, cũng không có nơi tích tập, không trói buộc, không chỗ quên mất, nên cũng không nghĩ đến sự báo ứng chăng?

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Thưa Nhân giả! Xa lìa tham dục, giận dữ, ngu si, không thực hành các pháp thì gọi là hành theo tướng. Nếu ai thực hành theo hạnh của phàm phu như trên và hạnh của Hiền thánh thì người ây đã khởi lên hai pháp.

Lại nữa, thưa Nhân giả! Tất cả sự thực hành là không có đối tượng để thực hành, tất cả sự giáo hóa là không có đôi tượng để giáo hóa, tất cả các xứ sở là không có xứ sở, tất cả các nơi hướng đên là không có nơi để hướng đến.

Bồ-tát Minh Võng lại hỏi:

-Thưa Nhân giả! Tất cả sự thực hành là không có đối tượng để thực hành, nghĩa ấy là thế nào?

Phạm thiên đáp:

-Thưa Đại sĩ! Nếu tu hành trong trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không thể biết được sự tăng, giảm của pháp tánh. Do đó, tất cả sự thực hành là không có đôi tượng để thực hành.

Lại hỏi Phạm thiên:

-Thế nào là tất cả sự giáo hóa là không có đối tượng để giáo hóa, tất cả xứ sở là không có xứ sở?

Phạm thiên đáp:

-Tất cả các pháp đều là chỗ giáo hóa của Như Lai, là xứ sở của Như Lai. Do đó, tất cả sự giáo hóa là không có đối tượng để giáo hóa, tất cả xứ sở là không có xứ sở.

Lại hỏi:

-Thế nào là tất cả các nơi hướng đến là không có nơi hướng đến?

Phạm thiên thưa:

-Suy xét là không có người và không có nơi hướng đến, do đó tất cả các nơi hướng đến là không có nơi nơi chốn để hướng đến.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Phạm thiên Trì Tâm:

-Lành thay, lành thay! Nếu muốn giảng nói thì nên giảng nói như vậy.

Khi ấy, Bồ-tát Minh Võng hỏi Phạm thiên Trì Tâm:

-Như lời Nhân giả vừa nói là Nhân giả đã tu hành theo tất cả các hạnh của phàm phu. Nếu như vậy thì những điều đạt được đều là điên đảo hay sao?

Phạm thiên đáp:

-Làm gì có sự sinh ra để dẫn đến chỗ hành hóa.

Bồ-tát Minh Võng lại hỏi:

-Nếu không sinh ra thì sao có thể giáo hóa chúng sinh?

Phạm thiên đáp:

-Cũng như Như Lai là hóa sinh nên tôi cũng hóa sinh như Ngài.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Như Lai là hóa sinh sao lại có sinh ra?

Phạm thiên đáp:

-Nếu cần có sự biến hiện thì Như Lai sẽ biến hiện, vì cảnh giới của Phật thì ai có thể tạo dựng được.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Nhân giả nói có sự biến hóa, sự thị hiện cùng với cảnh giới, tuy có chỗ hiện nhưng không có sự biến hiện chăng?

Phạm thiên thưa:

-Muốn biết về nơi sinh ra của tôi thì nên quan sát như vầy: Nơi sinh ra ấy cũng là cảnh giới do nhân duyên kiến lập.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Nhân giả chẳng phải vì nhân duyên sinh tử mà hành hóa sao?

Phạm thiên đáp:

-Tôi không vì nhân duyên sinh tử mà hành hóa.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Vậy thì sao lại có sự sợ hãi đối với cảnh giới?

Phạm thiên đáp:

-Giống như pháp nhân duyên, nguyên nhân sợ hãi về cảnh giới cũng vậy, biết rõ là không có nguồn gốc, cũng không có sự thoái lui.

Bấy giờ, Trưởng lão Xá-lợi-phất bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Có người nào hoặc các chúng trời, rồng… lãnh hội được ngôn từ này thì đạt được vô lượng phước đức. Vì sao? Vì hôm nay, được nghe Đức Thế Tôn nói về danh hiệu của các bậc Đại sĩ, chúng con rất ưa thích, huống nữa là được nghe Như Lai giảng nói về chánh pháp. Ví như cây không nương vào đất mà trụ trong hư không, lại hiện ra đủ thân, gốc, cành, lá, hoa quả.

Như vậy, thưa Bậc Đại Thánh, hành tướng của các bậc Đại sĩ ấy cũng nên quán xét như thế, các vị trụ nơi các pháp mà thị hiện thọ sinh, thị hiện có đầu, có cuối cùng, có tồn tại, có biến mất, có xoay vần, đến đi và hiện ra các cõi Phật, tuy dùng “trí tuệ đối chiếu” vi diệu như vậy, nhưng đã an trụ tự tại trong biện tài vô ngại. Thiện nam, thiện nữ nào thấy được sự biến hóa của trí tuệ như thế mà không phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sao?

Lúc này, trong chúng hội có Bồ-tát tên là Phổ Hoa hỏi Trưởng lão Xá-lợi-phất:

-Thưa Tôn giả! Chẳng phải Tôn giả đã đạt được pháp tánh rồi chăng? Đức Thế Tôn cũng nói Tôn giả là trí tuệ bậc nhất, sao Tôn giả không vận dụng oai lực ấy để biến hóa?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Đức Thế Tôn đã nói! Trong cảnh giới của hàng Thanh văn, tôi là trí tuệ bậc nhất.

Bồ-tát Phổ Hoa hỏi:

-Thưa Tôn giả! Có nhiều cảnh giới để có thể giảng nói pháp chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không có.

Bồ-tát Phổ Hoa hỏi:

-Thưa Tôn giả! Có thể giảng nói về cảnh giới ấy không?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Cũng như cảnh giới đã hội nhập, sự giảng nói cũng vậy.

Bồ-tát Phổ Hoa hỏi:

-Tôn giả đã hiểu được pháp tánh là không có giới hạn chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Đúng vậy!

Bồ-tát Phổ Hoa hỏi:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế nào là tùy theo cảnh giới đã hội nhập và sự giảng pháp cũng vậy? Thưa Tôn giả! Tùy theo giới hạn của cảnh giới đã hội nhập nên giới hạn của sự giảng nói cũng vậy, tức là giới hạn đó đã trói buộc pháp tánh mà pháp tánh ấy là không có giới hạn.

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

-Pháp tánh ấy chẳng phải là nhập nơi tướng sao?

Bồ-tát Phổ Hoa hỏi:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu pháp tánh không nhập vào tướng thì ở nơi pháp tánh không có đối tượng để nhập vào tướng, do nhân duyên gì Tôn giả lại ân cần với pháp tánh để mong được giải thoát?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không phải vậy.

Bồ-tát Phổ Hoa lại hỏi:

-Nếu bình đẳng thuận theo pháp thì cũng như được hội nhập nơi pháp tánh chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Tôi muốn được thấy, được nghe về điều ấy.

Bồ-tát Phổ Hoa nói:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp tánh là có thể nhớ nghĩ, các pháp có thể giảng nói, có thể lãnh hội được không?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không thể được.

Bồ-tát Phổ Hoa hỏi:

-Thưa Tôn giả! Pháp có thể thuyết giảng, có thể thấy và nghe được chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Đức Thế Tôn đã nói! Có hai hạng người đạt được phước vô lượng, đó là chuyên cần giảng nói pháp và nhất tâm lắng nghe. Do vậy, khi Nhân giả giảng nói giáo pháp, tôi sẽ lắng nghe pháp ấy.

Phạm thiên Trì Tâm hỏi:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả có thể bặt dứt tư tưởng, trụ trong định, tư duy để lắng nghe pháp sao?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Thưa Đại sĩ! Định ấy diệt tận, không có hai việc để lắng nghe về nghĩa lý của giáo pháp.

Phạm thiên hỏi:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả đã đạt được sự an lạc và nguồn gốc tịch tĩnh của các pháp rồi chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Thưa Đại sĩ! Tất cả các pháp vốn là thanh tịnh và vắng lặng.

Phạm thiên nói:

-Thưa Tôn giả! Như vậy thì không thể luôn định tĩnh để lắng nghe chánh pháp. Vì sao? Vì tất cả các pháp vốn đều tịch tĩnh.

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

-Này Thiện nam! Ông có thể không xuất định mà giảng nói chánh pháp chăng?

Phạm thiên đáp:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! quán xét về các pháp thì làm sao có thể đạt đến, mà Tôn giả cho là không xuất định có thể giảng nói chánh pháp?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không phải vậy.

Phạm thiên lại hỏi:

-Thưa Tôn giả! Tất cả hàng phàm phu luôn trụ trong định chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

-Tất cả hàng phàm phu đạt được Tam-muội định ý gì?

Phạm thiên đáp:

-Tất cả các pháp không có nơi hướng đến nên gọi là luôn trụ trong định.

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

-Như vậy, tất cả hàng phàm phu giống với Hiền thánh sao?

Phạm thiên đáp:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đúng vậy, như sự quán xét của tôi thì không muốn có sự khác nhau giữa phàm phu và Hiền thánh. Vì sao? Vì pháp của Hiền thánh không có sự đoạn trừ, pháp của phàm phu cũng không có sự sinh khởi, các pháp đều bình đẳng. Do đó, không có người được giải thoát.

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

-Này Thiện nam! Các pháp không có nguồn gốc là thế nào?

Phạm thiên nói:

-Như Tôn giả biết rõ, có thể dấy khởi pháp của Hiền thánh chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không thể được.

Phạm thiên hỏi:

-Tôn giả đã diệt trừ được pháp của phàm phu chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không thể diệt trừ.

Phạm thiên hỏi:

-Tôn giả đã đạt được pháp Hiền thánh rồi chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Chưa đạt được.

Lại hỏi:

-Tôn giả đã hiểu rõ về pháp phàm phu sao?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không thể hiểu.

Phạm thiên hỏi:

-Tôn giả biết thế nào là đúng thời?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Như pháp đã lãnh hội là xa lìa phàm phu cũng không có nguồn gốc, bình đẳng cũng là Như, nên không có giải thoát; diệt độ cũng là Như, nên không có nguồn gốc cũng là Như.

Phạm thiên nói:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp ấy không có nguồn gốc, cũng không có sự sai khác. Pháp không có nguồn gốc là không có nơi hướng đến nên gọi là không có nguồn gốc. Như cũng không có nguồn gốc, vì tất cả các pháp đều hội nhập vào không.

Bấy giờ, Trưởng lão Xá-lợi-phất bạch Phật:

-Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Ví như lửa lớn bừng cháy, thiêu rụi tất cả, các thiện nam cũng vậy, đối với các pháp đã giảng nói đều thông đạt tất cả pháp tánh.

Đức Thế Tôn đáp:

-Đúng vậy, này Xá-lợi-phất! Các thiện nam giảng nói về pháp tánh là đúng như lời Tôn giả nói.

Lúc ấy, Bồ-tát Minh Võng nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

-Đức Phật khen Tôn giả có trí tuệ bậc nhất, vậy trí tuệ của Tôn giả được thể hiện thế nào?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Thưa Bồ-tát Minh Võng! Hàng Thanh văn nương vào âm thanh, tự xem xét về thân mình mà đạt được giải thoát. Đức Phật khen tôi có trí tuệ bậc nhất là trong hàng Thanh văn chứ không phải là trí tuệ của hàng Bồ-tát.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Xét về trí tuệ thì có thể nói về tướng không?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không thể.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Chẳng phải trí tuệ ấy là cùng khắp, là bình đẳng sao?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Đúng vậy, như lời Nhân giả nói, trí tuệ là bình đẳng.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Vì sao biết các pháp là bình đẳng cùng khắp mới chính là trí tuệ; nhưng Tôn giả lại giảng nói về giới hạn của trí tuệ.

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Đúng vậy, thưa Nhân giả! Trí tuệ, pháp tánh là không có giới hạn, nhưng có giới hạn là tùy thuộc vào cảnh giới, nguồn gốc nơi trí tuệ và sự hành hóa mà vị ấy đã hội nhập.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Theo Nhân giả thì trí tuệ không có giới hạn hay có giới hạn?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

-Không có giới hạn.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Sao Nhân giả lại tự mình trói buộc và cho là trí tuệ có giới hạn?

Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng không trả lời.

Bấy giờ, Hiền giả Đại Ca-diếp nương nơi oai thần của Phật thưa:

-Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Minh Võng vì sao có danh hiệu là Minh Võng?

Lúc này, Đức Thế Tôn biết được lời thỉnh cầu của Trưởng lão Đại Ca-diếp là muốn khiến cho chúng hội thấy rõ đầy đủ nguồn gốc của công đức, nên bảo Bồ-tát Minh Võng:

-Này Thiện nam! Ông hãy vì chư Thiên và loài người mà hiện bày ánh sáng rực rỡ, thanh tịnh về công đức đã tạo, khiến hàng Bồ-tát có cội gốc căn lành cùng những người có chí nguyện thuần thục đều phát tâm Bồ-đề và làm cho họ tinh tấn thêm.

Nghe lời Phật dạy, Bồ-tát Minh Võng sửa lại y phục, từ những đầu ngón tay, màn kết của cánh tay phải, Bồ-tát liền phóng ra ánh sáng, chiếu đến các cõi nước của chư Phật trong mười phương, thông suốt không có giới hạn. Ánh sáng ấy tỏa chiếu khắp tất cả các thế giới của vô lượng chư Phật, không thể lường xét. Chúng sinh nơi ba cõi ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, những chúng sinh bị đui, điếc, câm, ngọng, khập khiễng, tật bệnh, gầy yếu, điên cuồng, ngu tối, ôm lòng tham dục, sân hận, ngu si, không có y phục, bị đói khát, tù đày, bần cùng, xấu xí, già nua gần chết, keo kiệt, ganh ghét, phạm giới, giận dữ, biếng nhác, buông lung, có trí ác, không có niềm tin, không chịu học hỏi, không biết hổ thẹn, rơi vào sáu mươi hai kiến chấp điên đảo, sinh trong tám nạn, những nơi chốn không yên ổn… nhờ gặp ánh sáng này, lập tức tất cả đều được an lạc. Bấy giờ, các chúng sinh ấy liền không có tham dục, giận dữ, ngu si phiền não và cũng không còn bị bức não.

Lúc đó, ở trước Đức Thế Tôn, tất cả chúng hội gồm Bồ-tát, Thanh văn, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni, Cư sĩ nam nữ… đều hiện ra sắc vàng ròng giống nhau và đều có tướng tốt dung mạo như Đức Như Lai, cùng có tướng vô kiến đảnh, thân như kim cương. Tất cả chúng hội đều an tọa trên hoa sen tự nhiên hiện bày, châu ngọc kết thành màn, đủ loại báu làm lọng, hết thảy đều giống nhau, tự nhiên hiện ra thân như Đức Phật, cả chúng hội đều được an lạc giống như hàng Bồ-tát đã đạt

được pháp Tam-muội phát khởi tâm hoan hỷ.

Khi ấy, tất cả chúng hội đều kinh ngạc, được điều chưa từng có, thảy đều nhìn thấy nhau giống Đức Như Lai, tự thấy thân mình không có lỗi lầm, lại phóng ra ánh sáng. Ngay lúc ấy, ở phương dưới có bốn vị Bồ-tát tự nhiên vụt lên, chắp tay an trụ đều suy nghĩ: “Ta nên đảnh lễ Đức Như Lai nào?”

Trong hư không liền có tiếng nói: “Do ánh sáng thù thắng của Bồ-tát Minh Võng nên khiến cho tất cả chúng hội đều có hình tướng giống như Đức Như Lai.”

Bốn vị Bồ-tát nghe nói như vậy, cho là điều chưa từng có, nên đồng thanh thưa:

-Chúng con tha thiết muốn được thấy Đức Như Lai. Nhưng nay tất cả hình tướng trong chúng hội đều giống nhau, các pháp bình đẳng cũng không sai khác. Nếu đây là lời chân thật thì xin cho chúng con được thấy thân tướng trang nghiêm của Đức Như Lai và xin được cúng dường Ngài.

Tức thì bốn vị Bồ-tát thấy Đức Thế Tôn an tọa trên tòa sen báu sư tử, cách đất bảy thước, họ liền đảnh lễ dưới chân Phật, thưa:

-Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Thật là điều chưa từng có, trí tuệ của Đức Như Lai là không thể cùng tận, bản tánh thanh tịnh, công đức nguyện lực của Bồ-tát Minh Võng cũng vậy, Bồ-tát ấy đã phóng ra ánh sáng khiên cho ngần ấy chúng sinh hiện bày các thân tướng oai nghiêm.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Minh Võng:

-Này Thiện nam! Ông hãy thâu lại ánh sáng rực rỡ đã hiện bày. Ông đã thực hành Phật sự, đã kiến lập rất nhiều nhân duyên khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Minh Võng liền thâu lại ánh sáng. Ngay lúc ấy, tất cả oai nghi, hình thức của chúng hội đều trở lại như cũ, chỉ có Đức Như Lai vẫn an tọa một mình trên tòa Sư tử.

Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Bốn vị Bồ-tát này từ trú xứ nào đến đây?

Bốn vị Bồ-tát đáp:

-Chúng tôi từ phương dưới, ở thế giới của Đức Phật khác đến.

Lại hỏi:

-Thế giới ấy tên là gì?

Bốn vị Bồ-tát đáp:

-Thế giới ấy tên là Chúng bảo phổ hiện.

Lại hỏi:

-Đức Thế Tôn Chí Chân tôn hiệu là gì, hiện đang thuyết pháp chăng?

Bốn vị Bồ-tát đáp:

-Tôn hiệu của Đức Như Lai là Nhất Bảo Cái, hiện nay đang giảng nói chánh pháp.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Thế giới ấy cách đây bao xa?

Bốn vị Bồ-tát đáp:

-Đức Thế Tôn biết rõ về khoảng cách ấy.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Do nhân duyên gì mà các Nhân Giả đến đây?

Bốn vị Bồ-tát đáp:

-Chúng tôi ở cõi Phật nơi phương dưới, thấy Bồ-tát Minh Võng phóng ánh sáng đến và nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Năng Nhân cùng Bồ-tát Minh Võng nên muốn đến cõi này để được gần gũi Đức Thế Tôn, lễ bái, cúng dường và muốn được yết kiến Bồ-tát Minh Võng.

Trưởng lão Đại Ca-diếp lại bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thế giới Chúng Bảo Phổ Hiện của Đức Phật Nhất Bảo Cái cách cõi này bao xa?

Đức Phật bảo Trưởng lão Đại Ca-diếp:

-Về phương dưới, cách đây ba mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Chúng bảo phổ hiện, là nơi an trụ của Đức Phật Nhất Bảo Cái, bốn vị Bồ-tát này đến từ cõi ấy.

Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Từ cõi ấy đến cõi này mất bao lâu?

Đức Phật dạy:

-Trong khoảng một niệm liền đến cõi này.

Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thật khó sánh kịp với Bậc Đại Thánh, Bồ-tát Đại sĩ đã phóng ra ánh sáng, thần thông của các bậc Thánh thật cao vời, ánh sáng của Bồ-tát Minh Võng chiếu xa lìa không có giới hạn, khiến cho bốn vị Bồ-tát này lập tức đến đây. Những ai thấy được thần thông, oai lực và trí tuệ đã biến hiện như thế tất đều phát nguyện kiến lập Đại thừa.

Đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Ca-diếp:

-Đúng như lời ông nói, nẻo đường hành hóa của hàng Bồ-tát thật không thể lường xét, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể sánh kịp.

***

Phẩm 6: THƯA HỎI

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp nói với Bồ-tát Minh Võng:

-Thưa Đại sĩ! Do nhân duyên gì mà Đại sĩ thị hiện ánh sáng khiến cho khắp chúng hội đều có thân tướng như vàng ròng, oai nghiêm, sáng rỡ giống như Đức Như Lai?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Tôn giả nên thưa hỏi Đức Thế Tôn, Ngài sẽ vì Tôn giả mà giảng nói rõ.

Trưởng lão Đại Ca-diếp liền thưa hỏi Bậc Đại Thánh.

Đức Phật bảo Trưởng lão Đại Ca-diếp:

-Khi Bồ-tát Minh Võng thành Phật, thân tướng của tất cả chư vị nơi chúng hội sẽ như vàng ròng đều được an lạc, dốc lòng tin và đạt được các thông tuệ, không có tên Thanh văn, Duyên giác mà chỉ toàn là chúng Bồ-tát, Đại sĩ.

Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thê Tôn! Khi Bồ-tát Minh Võng hóa sinh ở cõi Phật kia, liền được thành Phật chăng?

Đức Thế Tôn đáp:

-Này Ca-diếp! Đúng như lời Tôn giả nói, Bồ-tát Minh Võng liền được thành Phật.

Khi ấy, bốn vạn bốn ngàn người đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện sinh về cõi nước ấy, họ đồng thanh thưa:

-Lúc Bồ-tát Minh Võng thành Phật, chúng con nguyện sẽ sinh vào cõi nước của Đức Phật ấy.

Trưởng lão Đại Ca-diếp lại bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Sau bao nhiêu kiếp nữa, Bồ-tát Minh Võng sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Đức Phật bảo Trưởng lão Đại Ca-diếp:

-Ông hãy hỏi Bồ-tát Minh Võng, Bồ-tát ấy sẽ nói cho ông biết là bao lâu nữa sẽ thành Phật.

Trưởng lão Đại Ca-diếp hỏi Bồ-tát Minh Võng:

-Thưa Đại sĩ! Bao lâu nữa thì Đại sĩ sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Thưa Tôn giả Ca-diếp! Nếu có ai hỏi người do nhà ảo thuật hóa ra, bao lâu nữa sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì người ấy đáp thế nào?

Tôn giả Ca-diếp nói:

-Thưa Đại sĩ! Người do nhà ảo thuật hóa ra là hư giả, không thật có, nên không thể trả lời được.

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Đúng vậy! Tất cả các pháp giống như huyễn hóa, tự nhiên mà thành, thì sao Tôn giả lại hỏi tôi bao lâu nữa sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tôn giả Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Ví như người do nhà ảo thuật biến hóa ra là tịch tĩnh, không thể phân biệt, không có tưởng niệm, cũng không có ngôn từ. Đại sĩ đối với các pháp cũng vậy chăng? Nếu như thế thì sao có thể dẫn dắt và tạo lợi ích cho chúng sinh?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Đạo là thật tướng thì người cũng là thật tướng, nếu người là thật tướng thì huyễn cũng là thật tướng, huyễn là thật tướng thì chúng sinh cũng là thật tướng, chúng sinh là thật tướng thì các pháp cũng là thật tướng.

Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Do biết như vậy nên không thể quán xét là lợi ích hay không lợi ích, chẳng phải có lợi hay chẳng phải không lợi, không có sự vượt qua cũng chẳng phải không có sự vượt qua.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Đại sĩ không dẫn dắt chúng sinh trụ nơi Phật đạo chăng?

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Đạo của Như Lai có trụ nơi tướng không?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Không có trụ.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Do đó, tôi không kiến lập Phật đạo cho chúng sinh, cũng chẳng khiến họ trụ vào quả vị Thanh văn, Duyên giác.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Vậy Đại sĩ kiến lập điều gì?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Như không có nguồn gốc để kiến lập, thì chỗ kiến lập của tôi cũng vậy.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Như không có nguồn gốc thì không thể kiến lập cũng chẳng có thoái lui chăng?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Đúng vậy! Do Như không có nguồn gốc thì không thể kiến lập, cũng chẳng thoái lui. Phật đạo không có nguồn gốc nên cũng lại như vậy, kiến lập nơi không chỗ kiến lập. Do đó, tôi nói các pháp không thể kiến lập, cũng không hề thoái chuyển.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Nếu nói không kiến lập, không thoái lui thì làm thế nào để giáo hóa chúng sinh?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Người nào cho là có sự thấu đạt, có chí nguyện và sự vi diệu thì không thể giáo hóa chúng sinh đối với các pháp cho là có thể thoái chuyển thì cũng không thể giáo hóa.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Đại sĩ không cứu giúp chúng sinh thoát khỏi sinh tử chăng?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Tôi không thủ đắc sinh tử, cũng không có đối tượng để nhận biết, huống nữa là cứu giúp chúng sinh.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Đại sĩ không giáo hóa tất cả chúng sinh lần lượt đạt đến Niết-bàn chăng?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Tôi không thủ đắc Niết-bàn cũng không có đối tượng để nhận thức thì lấy gì để giáo hóa chúng sinh?

Tôn giả Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Giả sử chúng sinh hoàn toàn không đạt được diệt độ thì sao lại giáo hóa, dẫn dắt cho vô số người tu hành Phật đạo? Những chúng sinh ấy không cầu được diệt độ chăng?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Bồ-tát nào cho là có sinh tử và Niết-bàn vì tưởng của chúng sinh mà nói có người thực hành Phật đạo, thì đó không gọi là Bồ-tát, chẳng phải là người cầu Phật đạo.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Đại sĩ thực hành như thế nào?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Tôi không hành theo sinh tử, không hành theo diệt độ, cũng không theo tưởng của chúng sinh.

Thưa Tôn giả Ca-diếp! Vừa rồi Tôn giả hỏi tôi thực hành như thế nào, sự thực hành mà Đức Như Lai đã chỉ dạy thế nào thì tôi thực hành như vậy.

Trưởng lão Ca-diếp nói:

-Đức Như Lai chỉ dạy là không có chỗ thực hành.

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Tất cả các tướng của chúng sinh cũng vậy, không nên cho là có chỗ thực hành.

Trưởng lão Ca-diếp hỏi:

-Thưa Đại sĩ! Quán xét hành tướng nơi chúng sinh cũng như vậy chăng? Sao chúng sinh lại hành theo tham, sân, si mà Đức Như Lai giáo hóa họ không hề bị nhiễm ô, không bị trói buộc, cũng chẳng quên mất?

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Thưa Trưởng lão! Nếu muốn hỏi về tướng thì Trưởng lão hãy trả lời tôi theo sự hiểu biết của mình.

Thưa Trưởng lão! Trưởng lão có tham, sân, si không?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Không có.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Có thể diệt trừ tham, sân, si được chăng?

Tôn giả Ca-diếp đáp:

-Không thể được.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Nếu Trưởng lão không có tham, sân, si cũng không thể diệt trừ tham, sân, si vậy thì tham, sân, si ấy ở đâu?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Thưa Đại sĩ! Phàm phu do si mê nên ở trong điên đảo, tư tưởng và ý niệm luôn mong cầu, đối với những điều ứng hợp hoặc chẳng ứng hợp đều làm theo tham, sân, si. Còn các bậc Hiền thánh thì biết rõ các pháp là điên đảo, nên không làm theo tư tưởng và ý niệm, không điều gì mà chẳng ứng hợp, lại cũng chẳng làm theo tham, sân, si.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Thưa Tôn giả! Ý Tôn giả thế nào? Các pháp do điên đảo mà sinh, đó là nhận biết tận cùng chăng? Là có sinh hay chẳng sinh ra?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Thưa Đại sĩ! Các pháp không sinh cũng chẳng phải không sinh.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Đúng vậy! Thưa Tôn giả Ca-diếp! Ý Tôn giả thế nào? Các pháp không sinh cũng chẳng thật có, như vậy các pháp có đối tượng được sinh chăng?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Các pháp là không có đối tượng được sinh.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Đúng vậy! Thưa Tôn giả Ca-diếp! Các pháp là không sinh muốn khiến cho chúng sinh khởi thì chúng sinh ra từ đâu?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Không phải vậy.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Vì mong cầu sinh ra nên các pháp nương vào tham, sân, si mà phát khởi chăng?

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Không phải vậy.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Do đó, làm gì có tham, sân, si để chúng sinh lệ thuộc, đắm nhiễm rồi phát sinh phiền não.

Trưởng lão Ca-diếp đáp:

-Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Đại sĩ! Tất cả các pháp vốn là thanh tịnh, không hề có tham, sân, si.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Do vậy, tôi mới nói tất cả các pháp đều như huyễn hóa, là thật tướng của Như Lai.

Lúc giảng nói pháp này, có bốn vạn bốn ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn nhu thuận.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Những ai tận mắt được thấy Bồ-tát Minh Võng thì không bị đọa vào đường ác, các ma và quyến thuộc của chúng không thể làm hại. Người nào được nghe Bồ-tát Minh Võng thuyết pháp thì đó là hàng Bồ-tát, vĩnh viễn không rơi vào cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác, vì người ấy đã tiếp nhận được sự giảng dạy của Bồ-tát Minh Võng.

Đức Phật liền khen ngợi công đức nơi cõi nước của Bồ-tát Minh Võng. Ngài bảo Tôn giả Ca-diếp:

-Tất cả cõi nước của chư Phật mà Bồ-tát Minh Võng đã đến, Bồ-tát ấy đều giáo hóa, cứu độ vô số chúng sinh. Này Tôn giả Ca-diếp! Ông đã thấy ánh sáng của Bồ-tát Minh Võng chưa?

Tôn giả Ca-diếp đáp:

-Bạch Thế Tôn, con đã thấy!

Đức Thế Tôn bảo:

-Giả sử số lượng hạt cải chứa đầy trong tam thiên đại thiên thế giới, còn có thể biết được là bao nhiêu, nhưng sự giáo hóa của Bồ-tát Minh Võng khiến cho chúng sinh an trụ vào Phật đạo thì không thể lường xét được.

Tôn giả Ca-diếp nên biết! Chúng sinh nào nhìn thấy ánh sáng của Bồ-tát Minh Võng thì đạt được lợi ích như thế, huống nữa là Bồ-tát ấy dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói chánh pháp.

Lại nữa, này Ca-diếp! Hãy lắng nghe, ta sẽ giảng nói về cõi nước đặc thù, gọi là xứ sở đủ công đức trang nghiêm, thanh tịnh của Bồ-tát Minh Võng. Trải qua sáu trăm bảy mươi vạn a-tăng-kỳ kiếp, Bồ-tát Minh Võng sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Minh Biến Động Quang Vương, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tổn, cõi nước tên là Đẳng tập thù thắng. Khi vừa đến đạo tràng, Bồ-tát ấy liền được thành Phật. Trong cõi nước của Đức Phật đó, không có các thứ ma và cảnh giới của ma, tất cả đều cầu đạt đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Cõi nước ấy, đất toàn bằng gỗ quý chiên-đàn, bằng phẳng như bàn tay, thân tướng của chúng sinh đều đẹp đẽ, đất đai an ổn, phì nhiêu. Cõi Phật đó do tất cả các loại báu làm thành, không có các sự uế tạp của cát, đá, gai góc; không có các tai họa như cõi ác, khổ đau, cũng không có tám nạn và những nơi không an ổn. Ở đấy lại có rất nhiều hoa sen báu, tỏa hương ngào ngạt gồm đủ màu sắc hiện bày nơi cảnh giới rộng lớn, bốn phía không có hạn lượng. Đức Như Lai Phổ Minh Biến Động Quang Vương có vô lượng chúng Bồ-tát. Thánh chúng ấy nương vào pháp của Phật mà tu hành, gồm đủ oai thần biến hóa, dùng ánh sáng để trang nghiêm, đạt được kho tàng tổng trì, biện tài vô ngại, đầy đủ trí tuệ, oai đức thần thông lớn, hàng phục các ma nghĩ đến điều gì cũng luôn biết hổ thẹn, tinh tấn tu hành theo bậc Thánh, dùng trí tuệ để giáo hóa.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

-Lại nữa, cõi Phật ấy không có người nữ, tất cả hàng Bồ-tát đều từ hoa sen hóa sinh, tự nhiên lớn lên, dùng thiền định làm thức ăn, nhà cửa, nơi chốn kinh hành, giường chiếu, cung điện, ao tắm, vườn rừng và tất cả tài sản đều giống như ở cõi trời. Đức Như Lai Phổ Minh Biến Động Quang Vương không dùng văn tự để giảng nói chánh pháp, hàng Bồ-tát chỉ nhờ ánh sáng của Đức Phật chiếu vào thân thì liền đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

Ánh sáng ấy làm tiêu sạch hết các thứ nhơ uế của tham, sân, si, soi tỏa đến các cõi Phật khác, khiến mọi chúng sinh ở những cõi ấy tiêu trừ hết các trần cấu nơi sắc dục, không còn tỳ vết đều thuận theo chánh pháp.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

-Trong ánh sáng của Đức Phật ấy tự nhiên diễn nói về ba mươi hai pháp môn. Những gì là ba mươi hai pháp môn?

1. Các pháp là không nên tất cả sự nhận thức đều thanh tịnh.

2. Các pháp là vô tướng nên xa lìa mọi tưởng và niệm.

3. Các pháp là vô nguyện nên vượt qua ba cõi.

4. Các pháp là không tham dục vì bản tánh thanh tịnh, vắng lặng.

5. Các pháp là không sân nên diệt trừ hết các tướng.

6. Các pháp là không si nên xa lìa hết tối tăm.

7. Các pháp là không đến nên không có sự sinh khởi.

8. Các pháp là sẽ đến nên thuận theo sự quán xét.

9. Các pháp là không trụ nên kiến lập nơi thật tướng.

10. Các pháp là hoàn toàn giải thoát nên không có quá khứ, vị lai, hiện tại.

11. Các pháp là không sai khác nên chính là thật tướng.

12. Các pháp là không sinh nên chẳng có báo ứng.

13. Các pháp là không dẫn đến quả báo nên không có chỗ sinh ra.

14. Các pháp là không tạo tác vì do nơi các hành mà dấy khởi.

15. Các pháp là không hình tướng, vì nương theo suy nghĩ mà có.

16. Các pháp là không dung mạo nên xa lìa các đối tượng phát sinh.

17. Các pháp là chắc thật nên biết rõ là chân thật.

18. Các pháp là chân thật nên đều bình đẳng.

19. Các pháp là không có người nên không thể nắm bắt được người.

20. Các pháp là không thọ mạng nên rốt ráo chân thật.

21. Các pháp là ngu muội nên không thể truyền trao.

22. Các pháp là xả bỏ nên diệt trừ hết các kết sử.

23. Các pháp là không đắm nhiễm, nên chẳng bị phiền não thiêu đốt.

24. Các pháp là không nhơ uế vì bản tánh thanh tịnh, không ô nhiễm.

25. Các pháp là nhất tướng vì cõi chân vốn tịch tĩnh.

26. Các pháp là vắng lặng vì cùng định bình đẳng.

27. Các pháp là trụ nơi nguồn gốc vì do duyên mà phát khởi.

28. Các pháp là không có gốc tạo tác nên không thể duyên dựa, hủy hoại.

29. Các pháp là an trụ nơi pháp tánh nên hội nhập khắp tất cả.

30. Các pháp là không duyên dựa, nên không cùng lầm lẫn.

31. Các pháp là giác ngộ nên hiện ra như thật.

32. Các pháp là vô vi nên không có các đối tượng.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

-Ánh sáng của Như Lai Phổ Minh Biến Động Quang Vương phát ra các âm thanh như vậy. Ánh sáng ấy chiếu đến các Bồ-tát khiến họ thực hiện các Phật sự. Cõi nước của Đức Phật ấy không có các việc ma nên cũng không bị trở ngại, bỏ phế.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

-Lại nữa, Đức Như Lai ấy thọ mạng không có giới hạn.

Bấy giờ, Hiền giả Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Có người nào muốn sinh về cõi nước ấy thì nên làm thanh tịnh cảnh giới của Phật như Bồ-tát Minh Võng đã làm khiến cho người ấy liền được đầy đủ tất cả các công đức.

Đức Phật dạy:

-Đúng như lời ông nói! Bồ-tát Minh Võng đã hiện bày đầy đủ chí nguyện thanh tịnh nơi trăm ngàn ức chư Như Lai không thể tính kể.

Lúc ấy, Phạm thiên Trì Tâm hỏi Bồ-tát Minh Võng:

-Nay Nhân giả đã được Như Lai thọ ký rồi chăng?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Này Phạm thiên! Tất cả chúng sinh đều được thọ ký từ Đức Như Lai.

Phạm thiên thưa:

-Làm thế nào để được Phật thọ ký?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Tùy theo sự tạo tác của mỗi người mà nhận lấy quả báo, cũng nhờ đó mà được thọ ký.

Phạm thiên hỏi:

-Do nhân gì mà được thọ ký, cũng như vì sao Nhân giả được thọ ký?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Này Phạm thiên! Chỗ gọi là duyên, tức thân không tạo tác, miệng không phát ra ngôn từ, ý không thể nhận thức, như vậy có tạo ra tội, phước chăng?

Phạm thiên đáp:

-Không thể tạo ra.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Phật đạo ấy có hành tướng không?

Phạm thiên đáp:

-Không có! Đạo không có hình tướng cũng không phân biệt. Đạo không có tên gọi nên cũng chẳng có hành tướng.

Bồ-tát Minh Võng hỏi:

-Nếu không có sự tạo tác thì có thể khiến cho đạo phát khởi hình tướng để chứng đắc chăng?

Phạm thiên đáp:

-Không thể được.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Do vậy, Phạm thiên nên biết! Nếu không có tạo tác thì không có quả báo, không có hành tướng, cũng không có tánh của hành tướng, đó chính là đạo. Người đạt được đạo này cũng như được thọ ký, không thể dùng hình tướng mà thọ ký được.

Phạm thiên hỏi:

-Thưa Nhân giả! Không thực hành sáu pháp Ba-la-mật, mà được thọ ký ư?

Bồ-tát Minh Võng đáp:

-Như thế, này Phạm thiên! Thực hành sáu pháp Ba-la-mật, sau đó mới được thọ ký.

Lại nữa, hàng Thánh hiền phải xa lìa tất cả phiền não, đó gọi là Bố thí ba-la-mật. Không dấy khởi, cũng chẳng tạo tác, đó là Trì giới ba-la-mật. Chịu đựng được tất cả, gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Luôn vắng lặng an nhiên gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Thuận theo Như mà an trụ gọi là Thiền định ba-la-mật. Hiểu rõ về hết thảy gọi là Trí tuệ ba-la-mật.

Này Phạm thiên! Bồ-tát nào tu hành theo sáu pháp Ba-la-mật này thì người ấy có hiện bày hành tướng không?

Phạm thiên đáp:

-Không có hiện bày hành tướng. Vì sao? Nếu người thực hành cho là mình có thực hành và có đối tượng để thực hành thì không gọi là thực hành. Người nào không có đối tượng để thực hành thì đấy mới đích thực là hành hóa.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Do vậy, này Phạm thiên! Đúng như lời ông nói, không có đối tượng để thực hành chính là thực hành Phật đạo.

Lại nữa, như lời ông hỏi, tôi đã được thọ ký thành Phật chăng? Nếu pháp tánh không có nguồn gốc, người nào thấy pháp tánh không có nguồn gốc thì được thọ ký nên việc thọ ký của tôi cũng vậy.

Phạm thiên thưa:

-Thưa Nhân giả! Pháp tánh không có nguồn gốc, nên tất cả pháp tánh không thể thọ ký.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Tướng của sự thọ ký cũng vậy, giống như chỗ không có nguồn gốc và pháp tánh đều là bình đẳng, không sai khác.

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Hàng Bồ-tát hành hóa thế nào để được thọ ký thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Đức Phật bảo:

-Này Phạm thiên! Nẻo hành hóa của Bồ-tát là không hành theo pháp sinh, diệt, không hành theo thiện ác, không hành theo thế gian cũng chẳng theo xuất thế gian, không làm theo pháp có tội hay có phước, không làm theo điều lỗi lầm hay chẳng phải không lỗi lầm, không hành theo hữu lậu cũng chẳng phải vô lậu, không làm theo hữu vi cũng chẳng phải vô vi, không làm theo hữu cũng chẳng phải xa lìa hữu, không tu hành tinh tấn cũng chẳng phải xa lìa tinh tấn, không đoạn trừ cũng chẳng phải không đoạn trừ, không làm theo sinh tử cũng chẳng phải diệt độ, không hành theo sự thấy cũng chẳng có đối tượng nghe, không làm theo ý niệm cũng chẳng có đối tượng nhận biết, không hành bố thí cũng không bỏn sẻn, không giữ gìn giới cấm cũng chẳng sài phạm, không hành nhẫn nhục cũng chẳng phải không nhẫn nhục, không hành tinh tấn cũng không biếng nhác, không tu tập thiền định cũng không có đối tượng để thiền định, cũng không có đối tượng để thiền định, không hành trí tuệ cũng chẳng phải không có trí tuệ, không có chứng đắc cũng không có đôi tượng để hội nhập.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Bồ-tát nào thực hành như vậy thì Như Lai sẽ thọ ký thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Này Phạm thiên! Ông nên ứng hợp với Như mà thực hành. Người nào có sự thực hành là có đôi tượng tạo tác, hoặc tu hành Phật đạo nên khởi tưởng, hoặc chẳng khởi tưởng để tu hành Phật đạo, cho đến có sự tạo tác hay chẳng có tạo tác để tu hành Phật đạo, hoặc có sự buông lung hay không buông lung, có phiền não hoặc không còn phiền não, người thực hành đạo như vậy thì chẳng phải là thực hành Phật đạo. Do đó, Phạm thiên nên biết! Không nên quán xét như thế nếu vượt qua tất cả các đối tượng được tạo tác thì Bồ-tát ấy được thọ ký.

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là thọ ký và được thọ ký?

Đức Phật bảo:

-Tất cả các pháp xa lìa hai tướng gọi là thọ ký, đối với tất cả các pháp mà không tạo tác hai tướng, gọi là thọ ký, đối với các đối tượng đã phát khởi mà bình đẳng với các sắc tướng gọi là thọ ký, thân, miệng, ý thanh tịnh, an nhiên gọi là thọ ký.

Đức Phật bảo:

-Này Phạm thiên! Như Lai nhớ lại nơi kiếp quá khứ, bấy giờ có kiếp tên là Hỷ kiến. Trong kiếp ấy ta đã cúng dường bảy mươi hai ức Đức Phật, nhưng ta không được chư Như Lai thọ ký.

Lại nữa, có kiếp tên là Thiện hóa, ở trong kiếp ấy, ta lại cúng dường thêm hai mươi hai ức Đức Phật, nhưng vẫn không được thọ ký.

Lại nữa, có kiếp tên là Phạm thán, trong kiếp ấy ta lại cúng dường một vạn tám ngàn Đức Phật, vẫn không được thọ ký.

Lại nữa, có kiếp tên là Hân lạc, trong kiếp ấy, ta lại cúng dường thêm ba trăm hai mươi vạn Đức Phật, nhưng vẫn không được chư Như Lai thọ ký. Trong kiếp quá khứ về sau, lại có kiếp tên là Đại diễn, trong kiếp ấy, có tám trăm bốn mươi vạn Đức Phật ra đời, ta lại cúng dường tất cả chư Như Lai dùng đủ loại phẩm vật tùy lúc để dâng cúng, nhưng ta vẫn không được chư Như Lai thọ ký.

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Lại nữa, trong kiếp quá khứ, ta đã giảng nói về danh hiệu của chư Như Lai. Từ xưa, ta đã cúng dường rất nhiều chư Phật và ở nơi chư Phật ấy tu hành thanh tịnh, bố thí tất cả, có phẩm vật gì đều cúng dường hết, giữ gìn giới luật trọn vẹn, luôn nhẫn nhục, thực hành Từ bi, xa lìa phiền não, ân cần tinh tấn, thọ trì theo hết thảy những điều đã nghe, nhất tâm định ý thực hành thiền định, tịch tĩnh cũng giảng nói, thưa hỏi về trí tuệ, nhưng ta vẫn không được chư Như Lai thọ ký. Vì sao? Vì còn có đối tượng tạo tác và có sự lệ thuộc.

Phạm thiên nên biết! Phải vượt qua tất cả sự tạo tác, đây mới gọi là Bồ-tát được thọ ký. Về sau, khi gặp Như Lai Định Quang, ta liền đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Đức Như Lai Định Quang thọ ký cho ta: “Vào đời vị lai, ông sẽ được thành Phật, hiệu là Năng Nhân, đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Lúc ấy, ta mới vượt khỏi tất cả các sự tạo tác, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì xả bỏ tất cả các tưởng gọi là Bố thí ba-la-mật. Diệt trừ hết các duyên gọi là Trì giới ba-la-mật. Nhẫn chịu đối với các cõi gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Đối với tất cả hành đều tịch tĩnh gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Ở nơi hết thảy các niệm đều không dấy khởi gọi là Thiền định ba-la-mật. Biết rõ về bản tánh của pháp Nhẫn vô sinh là thanh tịnh gọi là Trí tuệ ba-la-mật.

Lúc gặp Đức Như Lai Định Quang, ta liền đạt đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Từ khi mới phát tâm đến nay, ta đã bố thí tất cả những gì có thể bố thí, nhưng chỉ công đức cúng dường năm cành hoa sen đã nhiều gấp trăm gấp ngàn lần, gấp vạn ức lần, hơn cả ức vạn lần, không thể so sánh, không thể ví dụ. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi đầy đủ công hạnh bố thí, giữ gìn giới câm, đối với các pháp luôn nhẫn nhục, nhu hòa, biết hổ thẹn, chịu đựng, tinh tấn ân cần, tu hành không hề mệt mỏi, luôn thiền định tịch tĩnh không đắm nhiễm. Từ khi mới phát tâm, ta luôn quan sát trí tuệ, không buông lung, kể cả Trí tuệ ba-la-mật và các Ba-la-mật khác. Ta đã tu tập nhiều gấp trăm, ngàn lần, gấp vạn ức lần, hơn cả ức vạn lần không thể so sánh, không thể ví dụ. Do vậy, Phạm thiên nên biết! Lúc ấy ta liền được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.

Phạm thiên thưa:

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật?

Đức Phật bảo Phạm thiên:

-Không nhớ nghĩ đến bố thí, không vướng mắc vào trì giới, không suy nghĩ về nhẫn nhục, không nắm giữ tinh tấn, không trụ vào thiền định, biết trí tuệ là không hai. Đấy gọi là đầy đủ sáu pháp Ba- la-mật.

Phạm thiên lại hỏi:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật thì có thể đầy đủ thêm những gì?

Đức Thế Tôn đáp:

-Nếu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật thì sẽ đạt đầy đủ các thông tuệ.

Phạm thiên thưa:

-Bạch Thế Tôn! Nếu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật thì làm thế nào để đầy đủ các thông tuệ.

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Nếu bố thí bình đẳng thì các thông tuệ bình đẳng, nhờ trì giới bình đẳng nên các thông tuệ bình đẳng, nếu nhẫn nhục bình đẳng thì các thông tuệ bình đẳng, nếu tinh tấn bình đẳng thì các thông tuệ bình đẳng, khi thiền định bình đẳng nên các thông tuệ bình đẳng, trí tuệ bình đẳng thì các thông tuệ cũng bình đẳng, nhờ có thể bình đẳng như vậy nên các pháp đều bình đẳng, liền được bình đẳng đôi với các thông tuệ.

Lại nữa, này Phạm thiên! Nhớ nghĩ đầy đủ về bố thí thì đầy đủ các thông tuệ, nhớ nghĩ về trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ đầy đủ thì các thông tuệ được đầy đủ, xa lìa ý niệm về các thông tuệ thì gọi là đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, cũng đầy đủ các thông tuệ. Như vậy, này Phạm thiên! Nếu có thể thực hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật thì đạt đầy đủ các thông tuệ.

Phạm thiên lại thưa:

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là đầy đủ các thông tuệ?

Đức Thế Tôn đáp:

-Nếu mắt không chấp vào sắc, tai không chấp vào tiếng, mũi không chấp nơi hương, miệng không chấp vào vị, thân không chấp vào xúc chạm, ý không nắm giữ các pháp. Các pháp không ở trong, chẳng ở ngoài, không có nguyên do, chẳng có đối tượng để nắm giữ, cũng chẳng tự nhớ nghĩ thì đạt đầy đủ hết thảy các thông tuệ, như vậy gọi là đầy đủ các thông tuệ. Nên mắt không chấp vào sắc, tai đối với thanh, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc và ý đối với pháp đều không còn chấp thủ. Do đó, trí tuệ của Như Lai không chướng ngại, sự thấy cũng không có giới hạn, đạt được các thông tuệ nhưng đối với chúng cũng không chấp giữ. Vì sao? Nếu muốn thành tựu các thông tuệ thì không nên dụng công mà cũng chẳng có sự dụng công, do không có sự dụng công nên gọi là hiển bày, do hiển bày các hành bình đẳng nên đối với các thông tuệ không có sự chấp giữ.

Này Phạm thiên! Ví như tất cả cấc pháp đều nương vào hư không, mà hư không chẳng có chỗ nương tựa. Biết rõ tất cả các pháp là như vậy, lại mong cầu nương vào các thông tuệ để đạt được mà các thông tuệ cũng chẳng có nơi để nương tựa, mong cầu.

Phạm thiên bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Các thông tuệ ấy gọi là gì? Sao lại gọi là các thông tuệ?

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Các thông tuệ chỉ là giả danh mà thôi, biết rõ tất cả các hành là không có đối tượng để chấp giữ, không phải là pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác, gọi là các thông tuệ. Trừ bỏ tất cả các ý niệm gọi là các thông tuệ. Biết rõ về các nơi hướng đến gọi là các thông tuệ. Trí tuệ không có giới hạn, hiểu rõ mọi tạo tác của chúng sinh, gọi là các thông tuệ. Nhận biết về tất cả, tùy thời để thuận theo điều đã học, không tu tập theo trí tuệ của hàng Duyên giác, không có điều gì mà chẳng thông đạt, thị hiện giáo hóa đúng lúc gọi là các thông tuệ. Tùy theo bệnh của chúng sinh để bình đẳng chữa trị đúng lúc gọi là các thông tuệ. Diệt trừ các loại bệnh gọi là các thông tuệ. Phá bỏ hết các thứ chướng ngại, các gốc rễ nương tựa, đắm nhiễm gọi là các thông tuệ. Luôn trụ trong thiền định, gọi là các thông tuệ. Thông đạt về tất cả các pháp, không còn nghi ngờ, gọi là các thông tuệ. Hoàn toàn thấu suốt khắp nơi, không điều gì mà không biết, khai mở trí tuệ thế gian và xuất thế gian, phân biệt rõ ràng, giảng nói trọn vẹn, thông suốt tất cả gọi là các thông tuệ. Này Phạm thiên! Đó gọi là các thông tuệ.

Bấy giờ, Phạm thiên Tri Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thật là chưa từng có, tâm của chư Phật, Thế Tôn nhận nơi trí tuệ mà hiển bày, nhưng tâm ấy vốn thanh tịnh. Như Lai hiểu rõ tường tận mọi tạo tác của tâm chúng sinh.

Bạch Thế Tôn! Không có thiện nam, thiện nữ nào được nghe các thông tuệ này mà chẳng phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến đạt được vô lượng công đức thù thắng.

Bấy giờ, Bồ-tát Minh Võng bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát mong cầu công đức mà phát tâm Bồ-đề thì người ấy không phải là mến mộ Phật đạo, cũng chẳng phải là kiến lập Đại thừa. Vì sao? Vì tất cả các pháp không có công đức, cũng chẳng có sự đối đãi.

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Đấy chẳng phải là công đức của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Người nào không có sự duyên dựa mới gọi là kiến lập Phật đạo. Chỉ vì lòng Từ bi nhằm diệt trừ khổ não, hoạn nạn cho chúng sinh, tự mình nhẫn nhục, khổ nhọc nhưng không hề nhàm chán, do tâm vô lượng nên không sợ khởi đầu hay kết thúc, không quên mất lời Phật dạy, hộ trì chánh pháp, cung kính đối với các bậc Thánh, dùng pháp lành để diệt trừ pháp ác, đem các pháp môn giải thoát để cứu độ muôn loài, chữa trị các loại bệnh khiến diệt trừ tận gốc, cứu giúp hết thảy chúng sinh khiến họ được sinh vào cõi lành giúp đỡ tất cả, chẳng nghĩ đến yêu, ghét, không đắm nhiễm pháp thế gian, thoát khỏi hoạn nạn sinh tử, đạt đến vô vi, an ổn.

Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Lại nữa, các Bồ-tát không nên nghi ngờ, không vì sự tạo tác của chúng sinh mà mong cầu, cũng chẳng có đôi tượng để nghi ngờ.

Bạch Thế Tôn! Hàng Bồ-tát không bị khổ, vui chi phối.

Thưa Đấng Thiên Trung Thiên! Thế nào là chủng tánh thanh tịnh của Bồ-tát?

Đức Thế Tôn dạy:

-Nếu Bồ-tát sinh vào dòng dõi Chuyển luân thánh vương, sinh vào cõi trời Đế Thích hay Phạm thiên và bất cứ nơi chốn nào đều chẳng phải là chủng tánh thanh tịnh. Bồ-tát nên tạo lập đầy đủ cội gốc của công đức, phát khởi nguồn gốc nơi pháp lành cho chúng sinh. Đó gọi là chủng tánh thanh tịnh của Bồ-tát.

Lại nữa, nếu ở trong loài súc sinh thì cũng xa lìa các kiến chấp, đầy đủ tâm Từ, Bi, Hỷ, xả, bình đẳng cùng pháp lạc, tâm ý không còn nhơ uế. Đó gọi là chủng tánh thanh tịnh của Bồ-tát. Bố thí là chủng tánh thanh tịnh vì không bỏn sẻn. Trì giới là chủng tánh thanh tịnh vì không bị phiền não thiêu đốt. Nhẫn nhục là chủng tánh thanh tịnh vì xa lìa sân hận. Tinh tân là chủng tánh thanh tịnh vì không hề biếng nhác. Thiền định là chủng tánh thanh tịnh vì luôn nhất tâm định tĩnh Trí tuệ là chủng tánh thanh tịnh vì không bị tối tăm che lấp. Đây gọi là Bồ-tát trừ bỏ các nhơ uế, không bỏ tâm Bồ-đề, chính là chủng tánh thanh tịnh của Bồ-tát vì không ưa thích thừa Thanh văn, Duyên giác.

***

Phẩm 7: ĐÀM LUẬN

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Sao Bồ-tát Phổ Thủ ngồi im lặng trong chúng hội, không giảng nói cũng chẳng bàn luận?

Đức Phật bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

-Bồ-tát có thể vì chúng hội mà thuyết pháp không? Nếu có điều gì chưa rõ thì hãy thưa hỏi.

Bồ-tát Phổ Thủ bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Có thể nương theo ý nghĩa của pháp mà đạt được Chánh giác không? Pháp ấy có thể giảng nói chăng?

Đức Phật dạy:

-Này Phổ Thủ! Pháp là không thể giảng nói được.

Bồ-tát Phổ Thủ thưa:

-Bạch Thế Tôn! Pháp có ngôn từ, có thể tư duy và giảng nói được không?

Đức Phật dạy:

-Pháp không có ngôn từ, không thể tư duy, cũng chẳng thể giảng nói được.

Bồ-tát Phổ Thủ thưa:

-Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp không có ngôn từ, không thể tư duy cũng chẳng luận bàn thì không thể giảng nói.

Phạm thiên Trì Tâm thưa với Bồ-tát Phổ Thủ:

-Chẳng phải Nhân giả đã giảng nói chánh pháp cho chúng sinh sao?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Có thể giảng nói về pháp tánh, phân biệt làm hai chăng?

Phạm thiên đáp:

-Không thể được.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Pháp tánh ấy có thể hội nhập vào tất cả các pháp chăng?

Phạm thiên đáp:

-Đúng vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Này Phạm thiên! Nếu như vậy thì pháp tánh vốn không hai, nhưng pháp tánh lại bao trùm tất cả các pháp, thế thì sao lại giảng nói pháp cho chúng sinh?

Phạm thiên hỏi:

-Người nào có thuyết pháp tức là còn chấp vào ngã, ngã sở, sao lại nói là không có hai tướng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Nếu có sự chứng đắc thì có thể giảng nói, hoặc có người nghe chăng?

Phạm thiên hỏi:

-Đức Như Lai đã chẳng giảng nói chánh pháp đó sao?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Đức Như Lai tuy có giảng nói nhưng không có hai tướng. Vì sao? Vì Như Lai là không hai, không tạo tác hai tướng.

Phạm thiên hỏi:

-Nếu các pháp không có hai tướng thì ai tạo ra hai tướng ấy?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Chúng sinh nương vào danh mà chấp là có ngã và ngã sở, hàng phàm phu do mê mờ nên tạo ra hai tướng. Thật sự hai tướng ấy hoàn toàn chẳng khác, cho đến tạo ra vô số nhưng vẫn không khác, vì các pháp là chân thật nên không có hai tướng, cũng không thể tạo ra hai tướng.

Phạm thiên hỏi:

-Làm thế nào để biết pháp là không hai?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Nếu có thể biết thì gọi là có hai tướng, người nào có thể biết pháp là khổng hai thì người ấy hiểu được giáo pháp. Đức Như Lai tuy giảng nói có pháp chân thật, nhưng Như Lai không có đối tượng để thuyết pháp. Vì sao? Vì các pháp không có văn tự.

Phạm thiên hỏi:

-Đức Như Lai thuyết pháp có nơi hướng đến chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Hướng đến nơi không có đối tượng để hướng đến, mới gọi là sự thuyết pháp của Đức Như Lai.

Phạm thiên hỏi:

-Đức Như Lai thuyết pháp lẽ nào không hướng đến Niết-bàn chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Niết-bàn mà có xứ sở đi đến sao?

Phạm thiên thưa:

-Như vậy là Niết-bàn không có xứ sở đi, đến?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đúng vậy, Như Lai thuyết pháp hướng đến nơi không có đối tượng để hướng đến.

Phạm thiên thưa:

-Ai có thể nghe pháp này?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người có tâm bình đẳng.

Phạm thiên thưa:

-Thế nào là tâm bình đẳng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Không có sự giáo hóa cũng chẳng có đôi tượng được nghe. Phạm thiên hỏi:

-Ai có thể nghe pháp của Như Lai giảng nói?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đối với pháp tánh thì chẳng có đôi tượng nghe.

Phạm thiên hỏi:

-Nên nương vào điều gì để hiểu rõ pháp ấy?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người có thể biết rõ nhưng không tranh luận.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Tỳ-kheo ưa tranh luận?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người cho là điều ấy ứng hợp với Như hay chẳng ứng hợp với Như, thì gọi là tranh luận. Điều ấy có nhân duyên hoặc không có nhân duyên, gọi là tranh luận. Đây là phiền não, là trói buộc, gọi là tranh luận. Pháp ấy là tốt, là xấu, gọi là tranh luận. Người hay giữ giới, phá giới gọi là tranh luận. Đây là giữ gìn hoặc xả bỏ, gọi là tranh luận. Cho là có sự chứng đắc, có thời gian gọi là tranh luận.

Lại nữa, này Phạm thiên! Cho là có tên gọi, không có tên gọi, hoặc khởi lên các pháp khác đều gọi là tranh luận. Đức Như Lai thuyết pháp không có tranh luận, không có phiền não, không làm gì khác, không có các lý lẽ để tranh luận thì gọi là Sa-môn. Sa-môn là không tham dục, bình đẳng đối với các hình sắc.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Tỳ-kheo hành trì theo lời Phật dạy?

Bồ-tát Phổ Thu đáp:

-Này Phạm thiên! Giả sử chịu các sự xua đuổi để được nghe giáo hóa mà vẫn không cho là bị hoạn nạn, gọi là thuận theo lời Phật dạy mà không hề buông lung. Không vướng mắc vào hai tuệ là thuận theo lời Phật dạy. Nếu mong cầu được hội nhập, không bị mê hoặc là thuận theo lời Phật dạy. Không tranh luận về chí nguyện là thuận theo lời Phật dạy. Hộ trì chánh pháp là thuận theo lời Phật dạy. Không hủy hoại chánh pháp là thuận theo lời Phật dạy.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Tỳ-kheo hộ trì chánh pháp?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu giữ gìn khắp tất cả, không hủy hoại, gọi là hộ trì chánh pháp, không trái với pháp tánh là hộ trì chánh pháp.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Tỳ-kheo gần gũi Đức Như Lai, thuận theo giáo pháp để thực hành chân chánh?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu Tỳ-kheo đối với các pháp mà không thây có xa hoặc gần, cũng chẳng có đối tượng để thấy, đó gọi là Tỳ-kheo gần gũi với Đức Như Lai, cung kính thuận theo giáo pháp, gọi là thứ lớp thực hành.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Tỳ-kheo hầu cận Đức Phật?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Nếu thân của Tỳ-kheo không tạo tác, cũng chẳng có đối tượng được tạo tác không ngôn từ, cũng chẳng có ý niệm, gọi là cúng dường, hầu cận Đức Phật.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là cúng dường Như Lai?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Không phải cúng dường y phục, thức ăn mà nên cung kính, thuận theo Đức Phật.

Phạm thiên hỏi:

-Ai có thể thấy Đức Như Lai?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Là người không chấp vào nhục nhãn, không chấp vào Thiên nhãn, không chấp vào Tuệ nhãn, cũng không thấy có đối tượng nào để chấp.

Phạm thiên hỏi:

-Ai có thể thấy pháp?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người nào không đoạn diệt pháp duyên khởi thì thấy pháp. Phạm thiên hỏi:

-Ai có thể thấy pháp duyên khởi?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người không dấy khỏi bình đẳng. Nếu bình đẳng không dấy khởi thì không có sự sinh khởi Phạm thiên hỏi:

-Ai đạt được thần thông?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người không dấy khởi các lậu cũng chẳng có đối tượng để diệt trừ.

Phạm thiên hỏi:

-Ai có thể theo học với Như Lai?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người không tạo tác, không dấy khởi cũng chẳng xả bỏ.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là đạt được bình đẵng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đối với ba cõi đều chẳng có đôi tượng đạt đến.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là khéo léo giáo hóa?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đối với các pháp hiện có không còn lệ thuộc. Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là an lạc?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người không chấp vào ngã và ngã sở.

Phạm thiên hỏi:

-Ai là người đạt được giải thoát?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Không bị các kết sử trói buộc.

Phạm thiên hỏi:

-Ai là người được độ?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Không có nơi sinh tử, cũng chẳng được diệt độ.

Phạm thiên hỏi:

-Tỳ-kheo dứt sạch các lậu là dứt sạch điều gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Đối với các chỗ tận mà không thấy có đối tượng để dứt sạch, người biết các lậu là không có nguồn gốc, biết rõ như vậy gọi là dứt sạch các lậu.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là lời nói chân thật, dứt bặt các ngôn từ?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người có thể phân biệt, nhận biết rõ các điều khó.

Phạm thiên hỏi:

-Ai là người chứng đạo?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Hàng phàm phu chứng đạo thì không nghĩ là đạt đến. Đối với pháp Hiền thánh cũng không có nơi hướng đến, nên hiểu rõ tường tận tất cả pháp.

Phạm thiên hỏi:

-Ai có thể thấy Thánh đế?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Thánh đế là không thể thấy. Vì sao? Vì người nào cho là có thấy đều là hư vọng, nên không có sự quan sát gọi là thấy Thánh đế.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là quan sát để thấy Thánh đế?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đối với tất cả sự thấy mà không có đối tượng để thấy thì gọi là thấy Thánh đế.

Phạm thiên hỏi:

-Nên cầu Thánh đế ở đâu?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nên cầu trong bốn thứ điên đảo.

Phạm thiên hỏi:

-Tại sao nói như vậy?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Bốn thứ điên đảo là suy xét tận nguồn gốc của chúng nhưng hoàn toàn không có thường, không có lạc, cũng không có ngã và ngã sở; không có sự tịnh và pháp chân thật vô thường ấy chính là chẳng phải thường, vô lạc ấy chính là chẳng phải lạc, vô ngã ấy chính là chẳng phải ngã, vô không ấy chính là chẳng phải không.

Lại nữa, này Phạm thiên! Đối với tất cả các pháp là không có lạc, là mong cầu Thánh đế. Người nào cầu Thánh đế thì không thấy có khổ, không đoạn tập, không chứng diệt, cũng không tu tập đạo.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là tu tập đạo?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Không nghĩ đến tạo tác cũng chẳng phải là không tạo tác, xa lìa hai tướng là đạo hay chẳng phải đạo để cầu đạo, không thủ đắc đối với tất cả pháp, đấy mới gọi là đạo. Nếu đối với đạo mà không dấy khởi cũng chẳng phải không dấy khởi, không có sự đoạn trừ cũng chẳng phải khổng đoạn trừ, không sinh tử cũng không diệt độ. Vì sao? Vì không dấy khởi cũng chẳng phải không có sự dấy khởi. Đó gọi là đạo của bậc Hiền thánh.

Bấy giờ, con của Phạm chí Đại Tánh tên là Phổ Hạnh thưa Bồ- tát Phổ Thủ:

-Thế nào là Ưu-bà-tắc quy y Phật, quy Pháp, quy y Tăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu Ưu-bà-tắc không dấy khởi hai kiến chấp thì Ưu-bà-tắc ấy quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Vị ấy không chấp vào ngã, không chấp vào người khác, không chấp vào Phật cũng không chấp nơi chính mình, không chấp vào Pháp cũng không chấp nơi chính mình, không chấp vào Tăng cũng không chấp nơi chính mình, không khởi các kiến chấp thì Ưu-bà-tắc ấy đã quy y Phật, quy Pháp và quy y Tăng.

Nếu Ưu-bà-tắc không dùng sắc để cầu thấy Phật, cũng không dùng thọ, tưởng, hành, thức để cầu thấy Phật, không tạo tác cũng chẳng mong đạt được quả vị Phật, đó gọi là quy y Phật.

Nếu đối với các pháp không phân biệt, không cho là giống nhau cũng không có sự so sánh, đó gọi là quy y Pháp.

Nếu đối với các pháp hữu vi mà không có sự lệ thuộc, không mong cầu đạt được an lạc đối với pháp hữu vi, cũng chẳng mong cầu an lạc đối với pháp vô vi, đó gọi là quy y Tăng.

Nếu Ưu-bà-tắc không chấp nơi Phật, không chấp vào Pháp và Tăng thì gọi là quy y Phật, Pháp, Tăng.

Bồ-tát Phổ Hạnh hỏi:

-Nếu Bồ-tát cầu Phật đạo là cầu điều gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đó là cầu nơi hư không. Vì sao? Vì đạo bình đẳng như hư không.

Bồ-tát Phổ Hạnh hỏi:

-Thế nào là Bồ-tát cầu Phật đạo?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu Bồ-tát đối với tất cả sự mong cầu mà chẳng thấy có đối tượng để mong cầu, biết rõ về các pháp, do biết rõ các pháp nên hiểu rõ về chúng sinh, đó gọi là Bồ-tát cầu Phật đạo.

Bồ-tát Phổ Hạnh lại bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát được gọi là Bồ-tát?

Đức Phật dạy:

-Này Thiện nam! Nếu Bồ-tát thấy chúng sinh tà kiến mà phát tâm Từ bi, khiến họ có được chánh kiến, dẫn dắt chúng sinh hội nhập vào đạo chân chánh thì Bồ-tát ấy được gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy không an trụ cũng chẳng phải không an trụ, chỉ vì chúng sinh mà phát nguyện, vì vô lượng chúng sinh bị rơi vào tà kiến nên tạo lập chí nguyện.

Do đó, này Thiện nam! Bồ-tát vì chúng sinh bị rơi vào tà kiến mà phát tâm Từ bi, tạo lập chí nguyện nơi đạo, cho nên gọi là Bồ- tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Đạo Ý bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn nói về việc làm thế nào để được gọi là Bồ-tát?

Đức Phật bảo:

-Nếu ông muốn nói thì hãy tùy ý.

Bồ-tát Đạo Ý bạch Phật:

-Ví như người nam, người nữ trong thế gian tinh tấn giữ tám giới trong một ngày một đêm, không hủy phạm cũng chẳng thiếu sót.

Thưa Bậc Đại Thánh! Như vậy vị ấy thực hành hạnh Bồ-tát từ khi mới phát tâm chưa thành Phật, luôn giữ gìn tám giới, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Kiên Ý nói:

-Nếu Bồ-tát tâm kiên cố, thực hành lòng từ đầy đủ thì đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Độ Nhân nói:

-Ví như thuyền, như cầu có đưa người qua sông nhưng không hề thấy khổ nhọc, cũng chẳng phân biệt, người tu hành có tâm như ví dụ này thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Khí Ác nói:

-Nếu Bồ-tát kiến lập được các cõi Phật thì có thể diệt trừ sạch tất cả các điều ác, đấy gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Quan Thế Âm nói:

-Nếu chúng sinh được thấy Bồ-tát thì sẽ lập chí nguyện hướng đến Phật đạo, chỉ quan sát về danh hiệu của Bồ-tát thì liền được giải thoát, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Đắc Đại Thế nói:

-Người nào bước đi làm chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới cõi Phật và tất cả cung điện của ma thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Hoạn Yểm nói:

-Giả sử trong hằng hà sa kiếp, ngày đêm ân cần tinh tấn, hoặc tu tập liên tục trong nửa tháng, một tháng, mười hai tháng, mười năm hoặc một ngàn năm, ức trăm ngàn năm mới có Đức Phật ra đời. Hoặc lại cúng dường chư Như Lai nhiều như số cát sông Hằng, tu hành thanh tịnh, sau đó mới được thọ ký, lại vì chúng sinh mà phát tâm đại Bi, kiến lập Phật đạo, không hề nhớ nghĩ, không buông lung, tâm không nghi ngờ, cũng chẳng biếng nhác, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Đạo Sư nói:

-Nếu vì những chúng sinh rơi vào đường tà mà phát tâm đại Bi khiến họ an trụ trong chánh đạo, không buông lung cũng chẳng mong cầu, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Đại Sơn nói:

-Người nào đối với các pháp mà bình đẳng như núi lớn không phân biệt thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Câu Tiêu nói:

-Người nào không thấy có sự diệt trừ tất cả phiền não thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Dũng Tâm nói:

-Nếu dùng tâm suy nghĩ về tất cả các pháp mà phát khởi tâm nhẫn nhục, không hề tăng giảm, thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Dục Sư Tử Biến nói:

-Người nào không âu lo, không sợ hãi, đem pháp vi diệu để giáo hóa ngoại đạo thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Vô Niệm nói:

-Nếu dùng tâm để hội nhập tâm, không có suy nghĩ, cũng chẳng phải không suy nghĩ thì gọi là Bồ-tát.

Thiên tử Thiện Nhuận nói:

-Nếu sinh ra trong các cung điện của cõi trời mà không bị đắm nhiễm, cũng không chấp vào pháp lìa tham dục thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Thành Ngôn nói:

-Nếu luôn nói lời thành thật, lời nói của người ấy hợp với như và chân lý cũng chẳng phải không hợp với chân lý thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Ái Kính nói:

-Nếu thấy tất cả hình sắc đều là hình sắc của Phật thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Thường Thảm nói:

-Nếu thấy chúng sinh bị rơi vào nẻo luân hồi, đối với tất cả các niềm vui, vị ấy không vui mừng, chỉ nghĩ: “Ta sẽ cứu giúp tất cả chúng sinh”. Đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Mạc Năng Đương nói:

-Bạch Thế Tôn! Người nào không bị ma tham dục quấy phá thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Thường Tiếu Hỷ Căn nói:

-Người nào vui thích vô lượng, các căn hoan hỷ, viên mãn hạnh nguyện của mình, việc làm đã xong thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Hoại Chư Nghi Võng nói:

-Người nào không xa lìa tâm ý, cũng chẳng nghi ngờ đối với tất cả các pháp thì gọi là Bồ-tát.

Đồng nữ Sư Tử nói:

-Người nào không thấy có pháp của nữ, không có pháp của nam, có thể thị hiện vô số thân tướng để giáo hóa chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Bảo Nữ nói:

-Người nào không ưa thích châu háu, chỉ ưa thích ba ngôi báu là Phật, Pháp và Tăng thì gọi là Bồ-tát.

Ưu-bà-tắc Ly Ưu Thí nói:

-Nếu không điên đảo, cũng chẳng mê lầm, Bồ-tát đối với đạo và tất cả các pháp mà không có thủ đắc, không sinh khởi cũng chẳng diệt trừ thì gọi là Bồ-tát.

Trưởng giả Hiền Hộ nói:

-Nếu Bồ-tát giả dùng danh hiệu để dẫn dắt chúng sinh đạt đến Phật đạo, thì gọi là Bồ-tát.

Đồng nữ Bảo Nguyệt nói:

-Nếu luôn tôn trọng, tu tập phạm hạnh, bố thí bình đẳng, không phân biệt cũng không tham dục, huống nữa là mong cầu của cải giàu có, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Hương Hoa nói:

-Như chư Thiên cõi trời Đao-lợi dùng hương giới để xông ướp thân mình, Bồ-tát không tỏa ra hương khác mà chỉ dùng hương pháp của giới cấm, nên gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Tạo Lạc nói:

-Người nào không ưa thích các pháp khác, chỉ mong đạt được ba pháp là cúng dường Phật, giảng nói kinh pháp và giáo hóa chúng sinh, thì gọi là Bồ-tát.

Phạm thiên Trì Tâm nói:

-Giả sử Bồ-tát không mong cầu các pháp, cũng không mong muốn kinh điển của chư Phật, chỉ nương theo hào quang mà được giác ngộ, thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Từ Thị nói:

-Nếu chúng sinh nào nhìn thấy Bồ-tát thì chúng sinh ấy liền thực hành Tam-muội về lòng Từ, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Nếu Bồ-tát giảng nói về tất cả các pháp nhưng không có đối tượng để giảng nói, không khởi tưởng về pháp, cũng chẳng nhớ nghĩ đến các pháp, đó gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Minh Võng nói:

-Giả sử hào quang hiện có của Bồ-tát có thể diệt trừ hết các phiền não, tham dục, thì gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Phổ Hoa nói:

-Nếu thấy chư Như Lai khắp mười phương cõi Phật như rừng hoa thì gọi là Bồ-tát.

Như vậy, hàng Bồ-tát mỗi vị đều nêu bày theo ý nguyện của mình.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hạnh:

-Nếu Bồ-tát vì các chúng sinh mà nhận chịu các thứ khổ não nhưng không hề quên mất nguồn gốc của tất cả công đức, cũng không bỏ chúng sinh, đó gọi là Bồ-tát.

***

Phẩm 8: LUẬN TỊCH

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm hỏi Bồ-tát Phổ Hạnh:

-Thưa Nhân giả! Nhân giả dùng hạnh gì để thực hành?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Hạnh của tôi là đối với tất cả pháp hữu vi đều chẳng vướng mắc và luôn thuận theo hạnh của chúng sinh.

Phạm thiên hỏi:

-Tất cả chúng sinh đều vướng mắc vào pháp hữu vi, vậy hạnh của chúng sinh là gì?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Là thuận theo sự hành hóa của chư Như Lai.

Phạm thiên hỏi:

-Chư Như Lai dùng hạnh gì để hành hóa?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Chư Phật dùng “tất cả đều không” để làm hạnh.

Phạm thiên hỏi:

-Tất cả các hạnh của hàng phàm phu giống với hạnh của chư Như Lai chăng? Nếu như vậy thì thế nào là cảnh giới của chư Phật? Bồ-tát Phổ Hạnh lại hỏi:

-Nhân giả muốn làm cho hư không có sự sai khác chăng?

Phạm thiên đáp:

-Không phải vậy.

Bồ-tát Phổ Hạnh hỏi:

-Đức Như Lai không giảng nói các pháp là không sao?

Phạm thiên đáp:

-Đúng vậy.

Bồ-tát Phổ Hạnh nói:

-Do đó, tất cả các pháp không có sai biệt.

Lại nữa, các hạnh ấy cũng chẳng có tướng. Phạm thiên nên biệt! Như Lai không giảng nói các pháp có sự sai khác.

Lúc này, Phạm thiên Trì Tâm hỏi Bồ-tát Phổ Thủ:

-Đã giảng nói về hành, vậy hành là gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Thực hành bốn phạm hạnh gọi là hạnh.

Này Phạm thiên! Người thực hành bốn phạm hạnh, không những chỉ ở nơi tịch tĩnh mà ở bất cứ chôn nào cũng luôn tu tập bốn phạm hạnh, khi đầy đủ các hạnh mới gọi là ở nơi tịch tĩnh.

Này Phạm thiên! Nếu ở nơi yên tịnh hoặc ở chôn hoang vắng mà luôn đầy đủ bốn phạm hạnh, đó gọi là “Hành nơi tịch tĩnh”. Nếu ở những nơi chôn giảng đường, lầu son, gác tía, giường vàng, chiếu ngọc đủ loại mà không tu theo bổn phạm hạnh thì không gọi là “hành nơi tịch tĩnh”, cũng không thể biết rõ nơi đạt đến của hành.

Phạm thiên hỏi:

-Dùng những hành gì tạo nên trí tuệ để thấy rõ các hạnh?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu biết được hành là không thì không thấy có ngã.

Phạm thiên hỏi:

-Người nào không thấy có ngã là có trí tuệ chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đúng vậy, này Phạm thiên! Người nào không thấy có ngã thì đạt được trí tuệ.

Này Phạm thiên! Như có vị vua sáng suốt thì quân thân cũng có trí tuệ, được vua luôn tôn trọng. Cũng vậy người nào không chấp ngã thì có trí tuệ thanh tịnh.

Phạm thiên hỏi:

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Pháp không có ngã và ngã sở. Những ai biết được như vậy là biết đầy đủ về ngã, người ấy gọi là thấy được ngã.

Phạm thiên hỏi:

-Như điều Nhân giả nói, nếu tôi quán xét về nghĩa ấy mà không thấy có ngã thì được thấy Phật. Vì sao? Vì thật tánh của ngã và ngã sở cũng là thật tánh của Phật.

Thưa Nhân giả! Thế nào là thấy Như Lai?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Xa lìa sự thấy về ngã và ngã sở. Vì sao? Vì người nào không thấy có ngã tức là thấy pháp, ai thấy pháp tức là thấy Phật.

Phạm thiên hỏi:

-Nhờ vô ngã làm nhân duyên nên được thành tựu về bình đẳng chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Giả sử thành tựu các pháp hữu vi thì đấy có thể gọi là đạt được bình đẳng.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là thành tựu về bình đẳng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Không đoạn trừ, cũng chẳng chứng đắc. Người nào thực hành như vậy thì đạt được bình đẳng.

Phạm thiên hỏi:

-Người có Tuệ nhãn là thấy những gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Người có Tuệ nhãn thì không có đối tượng để thấy. Người có Tuệ nhãn không thấy hữu vi cũng chẳng thấy vô vi. Vì sao? Vì còn phân biệt là còn hữu vi. Người nào không còn phân biệt mới gọi là có Tuệ nhãn, thông đạt rõ ràng như vậy thì vượt qua sự nhận biết của mắt. Do đó, Tuệ nhãn là không có đối tượng để thấy.

Phạm thiên hỏi:

-Duyên theo ngã và ngã sở mà thành tựu bình đẳng thì Tỳ-kheo ấy có chứng quả không?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Người không có tâm bình đẳng thì có thể chứng quả chăng? Không thể được. Vì người có tâm bình đẳng nếu có tu tập thì cũng không được chứng quả, mà phải xa lìa tưởng và niệm mới chứng quả. Nếu người kiêu mạn, không có tâm bình đẳng, hoặc kiêu mạn hay không kiêu mạn đều không thể chứng đắc.

Phạm thiên hỏi:

-Chứng đắc pháp gì mới gọi là chứng đạo?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Pháp ấy không sinh khởi, hiện tại không sinh, vị lai cũng chẳng sinh, biết rõ các pháp như vậy gọi là chứng đạo. Tôi giảng nói về chứng đạo là ý nghĩa này.

Phạm thiên hỏi:

-Nếu pháp sinh khởi như vậy thì chứng đắc điều gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Chứng đắc như vậy thì không sinh, mới gọi là sinh khởi, vượt qua tất cả kiến chấp về các hành, đó gọi là bình đẳng.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là bình đẳng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Ngã, ngã sở và diệt độ là bình đẳng, không hai, đó gọi là bình đẳng. Bình đẳng là không lệ thuộc, đó gọi là bình đẳng. Giảng nói bình đẳng, gọi là bình đẳng. Lợi ích hay không lợi ích, nghĩa hay chẳng phải nghĩa, đó gọi là bình đẳng. Dứt trừ hết tất cả suy nghĩ, gọi là bình đẳng.

Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Phổ Thủ:

-Lành thay, lành thay! Thật đúng như lời ông nói.

Khi Bồ-tát Phổ Thủ thuyết giảng về pháp này, có bảy ngàn Tỳ-kheo dứt sạch các lậu hoặc, tâm đạt giải thoát, hai vạn hai ngàn Tỳ-kheo xa lìa mọi phiền não, được pháp nhẫn thanh tịnh, một vạn Tỳ-kheo đoạn trừ ái dục, hai trăm chư Thiên và loài người phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, năm trăm Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Phổ Thủ đã thực hành các Phật sự.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Này Phạm thiên! Đức Phật không xuất hiện thì làm gì có pháp. Nếu không có pháp thì có nơi chôn không?

Phạm thiên nói:

-Chẳng phải Đức Thế Tôn đ ã giáo hóa cho vô lượng chúng sinh đạt được diệt độ sao? Chẳng phải Nhân giả cũng đã tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh sao?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Không có chúng sinh nhưng lại cho là có chăng?

Phạm thiên đáp:

-Thưa không.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Này Phạm thiên! Ông muốn cho nhiều chúng sinh được thành tựu chăng?

Phạm thiên đáp:

-Không phải vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Này Phạm thiên! Ông cho là Đức Như Lai hành hóa vô ngại, nếu ai không còn chấp thủ thì khiến cho họ chứng đắc chăng?

Phạm thiên đáp:

-Không phải vậy.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Những chúng sinh nào được Đức Như Lai giáo hóa mà đạt giải thoát.

Phạm thiên đáp:

-Như lời Nhân giả vừa nói, các pháp là không phát khởi, không sinh tử, không diệt độ, cũng chẳng bị lệ thuộc.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Đúng vậy, này Phạm thiên! Đức Như Lai Chí Chân không vướng mắc nơi sinh tử, cũng chẳng thủ đắc về diệt độ.

Lại nữa, này Phạm thiên! Đức Thế Tôn giáo hóa là muôn hàng Thanh văn được giải thoát, nhưng hàng đệ tử của Ngài không vướng mắc nơi sinh tử, cũng chẳng phải thủ đắc về diệt độ, mới chính là diệt độ.

Này Phạm thiên! Cho là diệt độ tức chỉ nói theo thế tục, là tên gọi giả tạm, gọi là sinh tử cũng vậy, không có đầu tiên, không có cuối cùng, chẳng có luân hồi, cũng chẳng có diệt độ.

Phạm thiến hỏi:

-Ai có thể tin pháp này?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Người đối với các pháp không còn tham đắm.

Phạm thiên hỏi:

-Nếu người có sự lệ thuộc thì tham đắm điều gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Người có sự lệ thuộc là tham đắm vào hư vọng.

Này Phạm thiên! Nếu cho là chân thật thì chẳng phải tăng thượng mạn. Đối với điều này, người ấy cũng chẳng ưa thích, huống nữa là lệ thuộc, chấp vào khổng sao? Do thấy là chân thật nên không hề tham đắm, do không tham đắm nên không sinh tử, do không sinh tử nên chẳng xa lìa sinh tử, chẳng xa lìa sinh tử mới chính là diệt độ.

Phạm thiên hỏi:

-Người được diệt độ là cầu diệt độ điều gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Này Phạm thiên! Người được diệt độ thì gọi là chuyển các nhân của tướng, sự vận hành của thức và của tuệ đều vắng lặng, không có nguyên do cũng không có xứ sở. Người nào không còn thấy xứ sỏ thì gọi là được diệt độ. Hành không còn xứ sở thì được diệt độ hoàn toàn. Đây chính là chứng đạo, không có sự sinh khởi thì gọi là bốn Thánh đế. Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hạnh nói với Bồ-tát Phổ Thủ:

-Những lời Đại sĩ vừa giảng nói đều là chân thật chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Thưa Nhân giả! Tất cả những lời nói đó đều là chân thật.

Bồ-tát Phổ Hạnh hỏi:

-Như lời Đại sĩ nói, tiếng vọng và hình ảnh hư vọng đều chân thật chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đúng là chân thật. Vì sao? Vì những lời nói ấy đều không có xứ sở, không có sự kiến lập, đã được tự tại gọi là chân thật. Tất cả những lời nói này đều là chân thật. Lời nói của chư Thiên, loài người và Như Lai Chí Chân cũng vậy, tất cả các lời nói khác cũng không sai biệt, không khác nhau. Vì sao? Vì tất cả lời nói đều là lời nói của Như Lai, tất cả chư Như Lai không có sự hành hóa, cũng không có sự tiến tới hay thoái lui, nên lời nói và sự giáo hóa của các Ngài đều dùng lời nói chân thật. Do đó, tất cả lời nói đều là văn tự bình đẳng. Nhờ văn tự bình đẳng nên có thể bình đẳng đối với văn tự, có thể bình đẳng đôi với tất cả văn tự, nên được tự tại và được tự tại đôi với tất cả ngôn từ để hành hóa rộng rãi.

Bồ-tát Phổ Hạnh hỏi:

-Đức Như Lai lẽ nào không phân biệt ngôn ngữ của Hiền thánh là ngôn ngữ không phải của bậc Hiền thánh sao?

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Nhân giả cho là các bậc Hiền thánh dùng văn tự để giáo hóa mà cũng không dùng văn tự để giáo hóa chăng?

-Đúng vậy!

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Văn tự của Hiền thánh và văn tự không phải của Hiền thánh có phân biệt chăng?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Không phân biệt.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

Phân biệt thì gọi là Hiền thánh, dứt bặt mọi ngôn từ. Bậc Hiền thánh không dùng văn tự để giảng nói, vì không có tướng về người và cũng không có tướng về pháp. Giống như tiết tấu của âm nhạc và tiếng trống, do nhân duyên nên có âm thanh nên cũng chẳng có sự phân biệt. Bậc Hiền thánh cũng vậy, do thị hiện có sự giảng nói mà có ngôn từ, nhưng không hề chấp thủ.

Bồ-tát Phổ Hạnh hỏi:

-Đức Phật dạy: “Nếu hội họp lại chư vị nên làm hai việc: bàn luận chánh pháp hoặc im lặng như bậc Thánh.”

Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Thế nào là luận bàn chánh pháp? Thế nào là im lặng như bậc Thánh?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu không tranh luận về Phật, không trái với kinh pháp, không làm tán loạn chúng Tăng thì gọi là giảng nói chánh pháp. Nếu tư duy về pháp thì nên lập chí nguyện nơi Phật, không đắm nhiễm theo sắc dục, vì pháp là không tạo tác, không hình tướng, đó gọi là im lặng như bậc Thánh.

Lại nữa, thưa Đại sĩ! Người nào siêng năng tu tập về bốn Niệm xứ, thông hiểu rõ ràng thì gọi là luận bàn chánh pháp. Tâm không nhớ nghĩ đối với tất cả pháp, đó gọi là im lặng như bậc Thánh.

Thưa Đại sĩ! Người nào siêng năng giảng nói rõ ràng về bốn Chánh cần thì gọi là luận bàn chánh pháp. Khi luận bàn chánh pháp hoặc đối với bình đẳng đều không cho là có bình đẳng, cũng chẳng tạo tác, đó gọi là im lặng như bậc Thánh. Nếu tu tập hoặc giảng nói về bôn Như ý túc thì gọi là luận bàn chánh pháp. Nếu không chấp vào thân, không chấp vào lời nói, không chấp vào tâm thì gọi là im lặng như bậc Thánh. Tu tập và giảng nói về năm Căn, năm Lực thì gọi là luận bàn chánh pháp.

Lại nữa, nếu không có sự giảng nói tức không thể tin vào chánh pháp thì không có Hiền thánh, cũng không thể lựa chọn các pháp. Người nào chuyên cần, nhất tâm thì được kiến lập nơi chánh pháp, thành tựu giải thoát căn bản, đối với các pháp đều có niềm tin, hiểu rõ tất cả những pháp đã giảng nói, thực hành theo trí tuệ, đó gọi là giải thoát như Hiền thánh.

Tu tập theo bảy Giác chi mà bậc Thánh đã giảng nói thì gọi là luận bàn chánh pháp. Xét về sắc dục không thấy có cao, thấp, thực hành như vậy gọi là im lặng như bậc Thánh. Tinh tấn tu tập theo tám Thánh đạo thì gọi là luận bàn chánh pháp. Nếu thấy được nơi sinh ra của chủng tánh, ví như thuyền bè, không chấp vào pháp cũng không chấp vào phi pháp, gọi là im lặng như bậc Thánh.

Thưa Đại sĩ! Người nào hiểu rõ ý nghĩa của ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì gọi là luận bàn chánh pháp. Giả sử thân chứng được pháp này thì cũng không xa lìa thân, thấy các pháp cũng không xa lìa pháp. Nếu thấy mà không thấy có nguồn gốc hoặc không chấp vào hai tướng thì không thấy có hai tướng. Như vậy, mọi nhận thức hiện tiền và nhận thức về trí tuệ đều không chấp vào chỗ nhận thức. Người nào không chấp mới gọi là im lặng như bậc Thánh.

Lại nữa, thưa Đại sĩ! Người nào giảng nói rõ ràng về không có ngã giống nhau, không có ngã sỏ giống nhau, không có pháp giống nhau, đấy gọi là luận bàn chánh pháp. Nếu không đạt được các pháp mà bỏ tất cả lời dạy cùng văn tự về giáo pháp thì phải đoạn trừ tâm kiêu mạn ấy, mới phát khỏi sự vắng lặng, tâm của vị ấy tịch tĩnh hoàn toàn đối với các hành, đó gọi là im lặng như bậc Thánh.

Lại nữa, thưa Đại sĩ! Nếu biết rõ tất cả căn cơ định tĩnh hay tán loạn của chúng sinh để giáo hóa họ, nhưng tâm mình vẫn luôn kiên cố không hề tán loạn, gọi là im lặng như bậc Thánh.

Bồ-tát Phổ Hạnh nói với Bồ-tát Phổ Thủ:

-Như tôi suy xét về lời Nhân giả đã giảng nói thì tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác không thuyết pháp cũng không im lặng như bậc Thánh. Vì sao? Vì những vị ấy không thể hiểu rõ về căn tánh của chúng sinh, cũng không có được sự bình đẳng rốt ráo.

Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Người nào thuyết pháp với tâm bình đẳng? Những ai thuận theo chánh pháp, an trụ trong sự im lặng như bậc Thánh? Nên biết, chỉ có Đức Như Lai là bình đẳng, chỉ có chư Phật, Thế Tôn mới có thể hiểu rõ về căn tánh của tất cả chúng sinh nhưng vẫn luôn trụ trong thiền định.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

-Thật đúng như lời Bồ-tát Phổ Hạnh nói, chỉ có chư Phật, Thế Tôn mới có thể hiểu rõ.

Lúc ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Con đích thân theo Đức Thế Tôn và được nghe Ngài dạy bảo các Tỳ-kheo: “Nếu các vị tập hợp thì nên làm hai việc: một là luận bàn kinh điển; hai là im lặng như bậc Thánh.” Giả sử hàng Thanh văn không thể thực hành theo thì sao Đức Như Lai lại bảo các Tỳ-kheo nên phân biệt, giảng nói về kinh điển, hoặc không như vậy thì im lặng như bậc Thánh?

Đức Phật bảo:

-Này Tu-bồ-đề! Theo ý Tôn giả thì sao? Hàng Thanh văn không thể lãnh hội chánh pháp mà có thể giảng nói chánh pháp hoặc im lặng như bậc Thánh không?

Tôn giả Tu-bồ-đễ đáp:

-Bạch Thế Tôn, không thể được!

Do vậy, này Tu-bồ-đề! Nên biết tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác không thuyết pháp cũng không im lặng như bậc Thánh.

Bồ-tát Phổ Thủ nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:

-Thưa Trưởng lão! Trưởng lão có biết Đức Như Lai đã hiểu rõ về căn tánh của chúng sinh có tám vạn bổn ngàn hạnh nên Ngài vì họ mà phân biệt, giảng nói chánh pháp. Đối với chúng sinh như thế Trưởng lão có thể dùng trí tuệ để quan sát và giảng nói pháp không?

Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:

-Không thể được.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Trưởng lão có được Tam-muội định ý tên là “Quán xét tâm của chúng sinh”, khi an trụ vào định này liền có thể quan sát, biết được tâm của chúng sinh, tâm mình và tâm người khác không hề chướng ngại chăng?

Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Đức Như Lai nói chúng sinh có tám vạn bốn ngàn hạnh, tùy theo hạnh của họ mà Như Lai phân biệt giảng nói, hiểu rõ để cho thuốc, nhưng vẫn an trú trong Tam-muội chánh thọ, không hề lay động, biết khắp hết thảy tâm của chúng sinh. Vì thế, thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Nên biết hàng Thanh văn, Duyên giác không thể sánh kịp.

Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Có người nặng về dâm dục, nhờ nương vào pháp không mà được giải thoát, Đức Như Lai biết rõ điều ấy, nếu không nương vào pháp không thì không thể giải thoát.

Hoặc có người nhiều sân hận nhờ thực hành pháp quán xét lỗi lầm nên được giải thoát khỏi sân hận, không phải nhờ vào pháp quán Từ bi, Đức Như Lai biết rõ điều ấy.

Hoặc có người ngu si, nhờ vào sự khen ngợi mà được giải thoát, chẳng phải dựa nơi thuyết giảng giáo pháp, Đức Như Lai biết rõ điều ấy.

Hoặc có người làm theo tham, sân, si, không nhờ vào sự quán xét mà được giải thoát, không nhờ nơi quán Từ bi, không nương vào sân hận, không nhờ vào sự khen ngợi, cũng không nương vào sự thuyết giảng chánh pháp mà được giải thoát.

Đức Như Lai tùy theo căn cơ nơi từng người mà thuyết pháp thích ứng, khiến họ nương vào đó mà được giải thoát, Đức Như Lai biết rõ điều ấy.

Do vậy, thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Nên biết, Đức Như Lai thiền định hay giảng nói chánh pháp đều gọi là im lặng như bậc Thánh.

Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với Bồ-tát Phổ Thủ:

-Hàng Duyên giác không thể giảng nói chánh pháp, như vậy cũng không thể im lặng như bậc Thánh, chỉ có Bồ-tát đạt đầy đủ pháp này mới có thể giảng nói và im lặng như bậc Thánh chăng?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đức Như Lai thông đạt những điều ấy.

Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề:

-Có Tam-muội tên là “Nhập nhất thiết âm” để điều phục tâm tán loạn, Bồ-tát thực hành Tam-muội chánh định này thì đạt đầy đủ các công đức và các hạnh.

Lúc này, Bồ-tát Phổ Thủ hỏi Bồ-tát Phổ Hạnh:

-Thưa Đại sĩ! Chúng sinh có tám vạn bốn ngàn hạnh, nên giảng nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, đó gọi là giảng nói kinh pháp. Diệt trừ tất cả các tưởng, đạt được định diệt tận, thì gọi là im lặng như bậc Thánh.

Thưa Đại sĩ! Trải qua một kiếp hay hơn một kiếp, Đức Phật phân biệt, giảng nói về ý nghĩa của pháp này, đây gọi là im lặng như bậc Thánh chăng?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hạnh:

-Này Thiện nam! về thời quá khứ với vô số kiếp không thể tính kể, không có giới hạn cũng chẳng thể suy lường, khi ấy có Đức Phật hiệu là Như Lai Phổ Quang xuất hiện ở đời, kiếp tên là Danh văn, nước tên là Ái kiến. Cõi nước của Đức Phật ấy giàu có, an ổn, thực phẩm dồi dào, không có hoạn nạn, hàng trời, người đông đúc, an lạc.

Thế giới của Đức Như Lai Phổ Quang do tất cả các loại báu trộn lẫn làm đất, xông các loại gỗ thơm, dùng đủ loại hoa sen báu, mềm mại, đẹp đẽ giống như y phục hảo hạng để trang nghiêm. Quốc độ Ái kiến ấy có bốn trăm ức bốn cõi thiên hạ, mỗi một cõi thiên hạ rộng ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, mỗi một thành rộng bốn mươi vạn dặm đều được trang hoàng tự nhiên bằng châu báu. Mỗi một thành lớn có hai mươi quận, mỗi quận chia thành nhiều huyện ấp, xóm làng; mỗi một thành lớn đều có một người đứng đầu, thống lĩnh vô lượng trăm ngàn người dân.

Lại nữa, mọi người dân đều thấy được những sự tốt đẹp như vậy, nên họ rất vui thích và khởi tâm cung kính, tất cả đều đạt được định của Tam-muội niệm Phật. Do đó, cõi nước của Đức Phật kia có tên là Ái kiến. Nếu hàng Bồ-tát từ cõi nước của chư Phật khác đến thì cũng có được mọi thứ diệu lạc mà các cõi nước khác không thể sánh bằng.

Đức Như Lai Phổ Quang dùng giáo pháp nơi ba thừa để giảng nói cho hàng Thanh văn, cũng lại giải thích rõ về nghĩa lý. Ngài dạy: “Các ông nên thực hành hai việc: hoặc giảng nỏi giáo pháp, hoặc im lặng như bậc Thánh.”

Ở phương Đông, nơi cõi nước của Đức Như Lai Y Vương có hai vị Bồ-tát tên là Dục Tận và Trì Ý, hai vị này cùng đi đến chỗ Đức Như Lai Phổ Quang, cung kính đảnh lễ, đi quanh theo phía bên phải ba vòng rồi chắp tay an trụ. Quốc độ của Đức Phật Y Vương tên là Thanh Tịnh vì luôn giảng nói rộng khắp về Tam-muội, do chỉ hành hóa một việc ấy nên cõi nước gọi là thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát đạt được định này thì đoạn trừ tất cả các tưởng và phiền não, liền được ánh sáng về pháp của Phật. Do đó, cõi nước ấy có tên là Thanh tịnh.

Các pháp quá khứ thảy đều thanh tịnh, các pháp vị lai thảy đều thanh tịnh, các pháp hiện tại cũng đều thanh tịnh, đây gọi là hai loại thanh tịnh. Vì sao gọi là thanh tịnh? Nghĩa là thanh tịnh chân thật. Thanh tịnh chân thật không có đối tượng được sinh khởi, cũng chẳng thanh tịnh, thanh tịnh như vậy gọi là bản tánh thanh tịnh. Thanh tịnh như thế là thanh tịnh nơi tất cả các pháp.

Thế nào là bản tánh các pháp thường thanh tịnh? Nghĩa là, không vốn là thanh tịnh, nên lìa bỏ tất cả các pháp, vì tất cả đều là hư vọng. Vô tướng vốn là thanh tịnh, nên đoạn trừ sạch các tưởng chấp nơi tất cả các pháp, diệt trừ hết các tà niệm. Vô nguyện vốn là thanh tịnh nên, tất cả các pháp vốn không tạo tác, không có đối tượng được mong cầu, hoàn toàn rốt ráo, thật tánh vắng lặng nên vốn thanh tịnh. Đó gọi là bản tánh các pháp là thanh tịnh sáng rỡ, thanh tịnh vi diệu. Do sinh tử thanh tịnh nên bản tánh của Niết-bàn cũng thanh tịnh, do Niết-bàn thanh tịnh nến bản tánh của tất cả các pháp cũng thanh tịnh. Đây gọi là bản tánh thanh tịnh, sự sáng suốt của tâm cũng vậy.

Này Thiện nam! Ví như hư không không có xứ sở, không có mong cầu. Nếu tánh có thể đối trị tất cả phiền não nên tâm vốn thanh tịnh không có xứ sở, cũng không có mong cầu, như vậy mới có thể đoạn trừ tất cả các thứ phiền não, tham dục.

Này Thiện nam! Bản tánh của tâm là thanh tịnh, là sáng suốt, cũng giông như hư không, chẳng bị mây mù, khói bụi ngăn che, không thể bị hủy hoại, cũng không bị cấu nhiễm. Vì bản tánh của hư không là thanh tịnh, nên không bị cấu nhiễm, hoàn toàn rốt ráo như vậy nên gọi là hư không. Giả sử tư duy ứng hợp với Như thì hàng phàm phu tuy có phát sinh phiền não, nhưng bản tánh của tâm là thanh tịnh nên không thể bị cấu nhiễm, do không thể bị cấu nhiễm nên gọi là thanh tịnh hoàn toàn, do không bị cấu nhiễm nên gọi là bản tánh thanh tịnh, là giải thoát.

Này Thiện nam! Đó gọi là hội nhập vào cõi nước thanh tịnh. Khi ấy, nghe Đức Thế Tôn Y Vương giảng nói về pháp Tam-muội này xong, các vị Bồ-tát liền đạt được ánh sáng vi diệu của pháp.

Bấy giờ, hai vị Bồ-tát Dục Tận và Trì Ý thưa với Đức Như Lai Phổ Quang:

-Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe Đức Thế Tôn Y Vương giảng nói và đã hội nhập vào tất cả những pháp ấy. Vậy nên dùng phương tiện gì để tu hành?

Đức Phật Phổ Quang bảo Bồ-tát Dục Tận và Trì Ý:

-Này Thiện nam! Các vị nên thực hành hai hạnh. Những gì là hai? Đó là hạnh phân biệt giảng nói chánh pháp và hạnh im lặng như bậc Thánh.

Lại nữa, này Thiện nam! Khi nghe Đức Thế Tôn dạy xong, hai vị Bồ-tát ấy liền đảnh lễ nơi chân Phật, nhiễu quanh theo phía bên phải ba vòng rồi lui ra. Chư vị liền đến nơi khác, hóa ra lầu đài để ở và quan sát tu tập.

Lúc ấy, có vị Phạm thiên tên Thiện Quang, cùng bảy vạn hai ngàn chư Thiên đến chỗ hai vị Bồ-tát, cung kính đảnh lễ nơi chân, diện kiến xong, thưa:

-Thưa chư vị Đại sĩ! Đức Như Lai Phổ Quang đã dạy: Khi các Tỳ-kheo nhóm họp để giảng nói kinh pháp thì nên thực hành hai việc: hoặc phân biệt giảng nói chánh pháp, hoặc im lặng như bậc Thánh, mà không có đôi tượng để nhớ nghĩ.”

Thưa chư vị Đại sĩ! Thế nào là giảng nói chánh pháp? Thế nào là im lặng như bậc Thánh?

Hai vị Bồ-tát nói với Phạm thiên Thiện Quang:

-Này chư vị Phạm thiên! Các ông hãy lắng nghe. Chúng tôi chỉ trả lời sơ lược về điều các ông thưa hỏi, vì chỉ có mắt của Như Lai thì mới thấy rõ và chỉ có Ngài mới phân biệt giảng nói rốt ráo mà thôi.

Này Thiện nam! Vì chúng hội kia nên hai vị Bồ-tát đã giảng nói rõ ràng về ý nghĩa của hai câu trên.

Khi ấy, bảy vạn hai ngàn chư Thiên đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được pháp Nhẫn vô sinh, Phạm thiên Thiện Quang chứng đắc Tam-muội Phổ Minh.

Này Phạm thiên! Hai vị Bồ-tát ấy dùng biện tài vô ngại để giải đáp những câu hỏi của chư Thiên, không hề dừng nghỉ. Tuy giảng nói chánh pháp nhưng chư vị vẫn im lặng như bậc Thánh, tức là diễn nói chánh pháp. Trong bảy vạn sáu ngàn năm, hai vị Bồ-tát ấy giảng giải về ý nghĩa nơi hai câu trên cho chư Thiên lãnh hội, nhưng ý nghĩa cùng tận của một câu họ còn không hiểu hết, huống nữa là cả hai câu.

Lúc ấy, Đức Như Lai Phổ Quang an trụ giữa hư không nói như vầy:

-Này Thiện nam! Chớ nên đối với ngôn thuyết mà tranh luận. Hãy lắng nghe ta nói thí dụ về các ngôn thuyết. Ví như tiếng vang nương vào tiếng kêu mà phát ra, nếu thuận theo tiếng vang thì biết được tiếng kêu. Người nào có tài biện luận là có sự phân biệt, thực hành theo vô tận thì không thể rốt ráo, vì ý niệm của ta phát khởi trong khoảnh khắc, nhưng trong một kiếp hay hơn một kiếp nếu các ông có hỏi, đáp về nghĩa lý hoặc dùng tài biện luận của bậc Thánh để khen ngợi cũng không thể hoàn tất, không đạt được chỗ cùng tận.

Này chư vị! Không thể suy xét cùng tận về trí tuệ biện tài mà hãy yên lặng.

Đức Phật lại dạy:

-Im lặng, tịch tĩnh là không có văn tự, không có pháp để giảng nói, lại chẳng phải vì lợi dưỡng, như những lợi ích của sự cúng dường. Chỉ vì biết rõ tâm của chúng sinh nên tùy nghi giảng nói để cứu độ họ.

Nghe Đức Như Lai giảng nói như thế, hai vị Bồ-tát liền im lặng.

-Này Thiện nam! Trong khoảng một niệm, hàng Bồ-tát có thể khen ngợi, giảng nói bằng biện tài đã giảng nói trong trăm ngàn kiếp.

Này Bồ-tát Phổ Hạnh! Phạm thiên Thiện Quang và hai vị Bồ-tát kia đều hội nhập vào quá vị của mình. Xét về thuở xa xưa đó, những vị ấy đâu phải là ai khác. Vì sao? Vì Bồ-tát Dục Tận lúc ấy nay là Bồ-tát Phổ Thủ, Bồ-tát Trì Ý nay chính là ông, Phạm thiên Thiện Quang nay chính là Phạm thiên Trì Tâm.

***

Phẩm 9: LỰC HÀNH

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hạnh bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thật là điều chưa từng có.

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Oai đức của chư Như Lai thật cao vời. Chúng sinh nào muốn đạt được lợi ích như vậy thì phải duyên theo tinh tấn, dốc lòng tu tập. Những ai biếng nhác, tuy gặp hàng trăm ngàn ức Đức Phật cũng khổng thể thực hành được.

Bạch Thế Tôn! Người nào muốn chứng đắc đạo quả thì phải siêng năng tinh tấn.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi Bồ-tát Phổ Hạnh:

-Thưa Nhân giả! Nhân giả có biết, Bồ-tát tu hành thế nào mới gọi là tinh tấn?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Nếu Bồ-tát tu hành được chứng đạo, dứt mọi nẻo tưởng niệm, không hề biếng trễ thì gọi là tinh tấn.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Thế nào là tu hành tinh tấn để chứng đạo, cũng không có đối tượng được tưởng niệm?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Nếu đối với các pháp không có sự phân biệt thì hành giả được chứng đạo, là không còn đối tượng được tưởng niệm.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Thế nào là đạt được đạo quả mà không có đôi tượng để tưởng niệm?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Nếu đối với các pháp thực hành mà thấy tất cả đều bình đẳng thì gọi là chứng đạo, cũng chẳng có đối tượng để suy niệm.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Có thể thấy được hạnh bình đẳng không?

Bồ-tát Phổ Hạnh đáp:

-Không thể thấy được, nếu bình đẳng mà có thể thấy thì rơi vào sáu mươi hai thứ kiến chấp, chẳng phải là bình đẳng.

Phạm thiên Trì Tâm nói với Bồ-tát Phổ Thủ:

-Người nào đối với bình đẳng mà không thấy các pháp thì gọi là bình đẳng.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Này Phạm thiên! Thế nào là không thấy?

Phạm thiên đáp:

-Diệt trừ hai tướng nên chẳng thấy. Không có đối tượng để thấy thì gọi là thấy rõ về bình đẳng.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Ở cõi Phạm thiên có thấy bình đẳng không? Những gì là thấy?

Phạm thiên đáp:

-Những ai thấy được Chân như của sắc là không nguồn gốc, không tạo tác, không sai biệt, như vậy thì gọi là thấy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có nguồn gốc đều bình đẳng, không sai biệt.

Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Nếu thấy năm ấm không có nguồn gốc, chỉ là thị hiện đối với thế gian, thì gọi là thấy bình đẳng.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Ở cõi Phạm thiên thực hành những; hạnh gì?

Phạm thiên đáp:

-Diệt tận đối với các tướng, đó là thực hành. Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Đó là thực hành theo thế tục.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Nếu các tướng diệt tận là tâm tưởng của thế gian thì sao lại thực hành theo chỗ diệt tận đối với tâm tưởng ấy?

Phạm thiên đáp:

-Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Tướng thế gian là không thể diệt tận. Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Thế nào là phân biệt, thực hành theo các tướng là thực hành theo thế gian?

Phạm thiên đáp:

-Tướng diệt tận hoàn toàn thì không có đối tượng để diệt tận. Tướng diệt tận là không thể diệt tận.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Này Phạm thiên! Đức Như Lai Chí Chân đã chẳng nói rằng tướng diệt tận của các pháp là pháp hữu vi sao?

Phạm thiên đáp:

-Tướng diệt tận của các pháp là chưa từng diệt tận, nến Đức Như Lai đã giảng nói: “Tướng diệt tận của các pháp là pháp hữu vi. ”

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Này Phạm thiên! Thế nào gọi là pháp hữu vi?

Phạm thiên đáp:

-Tướng diệt tận của các pháp gọi là pháp hữu vi.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Này Phạm thiên! Làm thế nào để kiến lập pháp hữu vi?

Phạm thiến đáp:

-Trụ vào nẻo thật tánh của vô vi thì gọi là hữu vi.

Hỏi:

-Các pháp hữu vi và vô vi này có gì sai khác?

Đáp:

-Các pháp hữu vi và vô vi này, nếu nói theo pháp thế gian thì có sai khác. Thế gian cho rằng, đây chính là hữu vi, đây là vô vi. Nhưng thật tướng của pháp hữu vi và pháp vô vi thì không hề sai khác, vì các pháp vốn không có dị biệt.

-Thế nào gọi là pháp?

Đáp:

-Không có sự sai khác, đó gọi là pháp.

-Thế nào là ngôn thuyết?

Đáp:

-Có đối tượng để giao phó, có đối tượng để giảng nói, đó gọi là ngôn thuyết. Vì sao? Vì tất cả ngôn thuyết đều là tướng bình đẳng, do sự phân biệt của Như Lai là bình đẳng. Có đối tượng để giảng nói cũng không sai khác, đó gọi là ngôn thuyết.

Lại nữa, thưa Bồ-tát Phổ Thủ, tất cả đối tượng được giảng nói là không có đôi tượng để giảng nói. Đó gọi là không có đối tượng để chứng đắc, vì pháp của Phật là giác ngộ bình đẳng, nên không có đối tượng để chứng đắc, cũng chẳng có đối tượng để giảng nói, thực hành.

Bồ-tát Phổ Thủ hỏi:

-Thế nào là giác ngộ bình đẳng mà chư Phật đã tư duy và thực hành?

Phạm thiên đáp:

-Không thực hành theo sắc, không thực hành theo các tướng và không thực hành theo pháp.

-Tướng khó có thể nắm bắt nên vượt trên các pháp mà tư duy và thực hành sao?

Đáp:

-Không phải vậy, tướng ấy là các pháp không có nguồn gốc, không chân thật cũng chẳng sai khác. Đây là tư duy và thực hành của Như Lai. Thực hành như vậy là không có đối tượng để thực hành, không có nguồn gốc, không có đối tượng được thuyết giảng cũng chẳng bị lỗi lầm.

-Này Phạm thiên! Đức Như Lai thành tựu sự giác ngộ bình đẳng như thế nào?

Đáp:

-Thưa Bồ-tát Phổ Thủ! Đức Như Lai hiểu rõ tất cả các pháp vốn là thanh tịnh, thật tánh không có nguồn gốc nên thành tựu sự giác ngộ bình đẳng. Do đó, danh hiệu của Ngài là Bình Đẳng Chánh Giác.

***

Phẩm 10: CHÍ NGUYỆN ĐẠI THỪA

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hạnh bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Bồ-tát lập chí nguyện nơi Đại thừa thì nên quán xét điều gì?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Chí nguyện cầu Phật đạo

Chưa từng chấp giữ sắc

Đạo cũng giống như sắc

Đây là tâm cầu đạo.

Sắc và đạo chẳng khác

Thực hành cũng như vậy

Không hủy bỏ sở nguyện

Là đạo tuệ đệ nhất.

Chẳng hoại là nghĩa đạo

Đạo là nghĩa vô ngã

Người tu đệ nhất nghĩa

Là chí nguyện cầu đạo.

Đối với ấm, giới, nhập

Mà cầu được Phật đạo

Hiểu điều này chẳng khác

Đạo và giác bình đẳng.

Nếu không chấp các pháp

Không thấy thượng, trung, hạ

Cũng không hề xả bỏ

Đây chính là cầu đạo.

Chánh pháp hoặc phi pháp

Không phân biệt là hai

Chẳng thủ đắc hai pháp

Đây chính là cầ u đạo.

Hữu vi tức hai pháp

Vô vi tức không hai

Xa lìa mọi phân biệt

Đây chính là cầu đạo.

Nếu vượt trên phàm phu

An trụ nơi tịch tĩnh

Chưa chứng quả Hiền thánh

Không nhiễm đấm thế gian.

Quán xét hết thảy pháp

Ở đời như hoa sen

Tu theo các diệu hạnh

Đây chính là cầu đạo.

Luôn ở trong thế gian

Mà tạo tác, hành hóa

Người đời bị trói buộc

Sáng suốt thì giải thoát

Không sợ hãi sinh tử

Bồ-tát chí mạnh mẽ

Chẳng sợ, luôn kiên cố

Tu hành theo Phật đạo.

Giả sử hiểu rõ hết

Phân biệt về pháp giới

Nơi pháp cùng phi pháp

Đều không hề vướng mắc.

Không chọn lựa các pháp

Chuyên tu hành Phật đạo

Chưa từng bị đọa lạc

Đạo ấy không hình tướng.

Các pháp cũng không tướng

Ví như nơi hư không

Không tướng, chẳng không tướng

Người trì không khởi niệm.

Dùng phương tiện thiện xảo

Để thực hành giải thoát

Khiến hết cả chúng sinh

Được đầy đủ chí nguyện.

Thường hộ trì chánh pháp

Kiến lập nơi bình đẳng

Đây gọi là chánh pháp

An trụ, không khởi niệm.

Tuy chư Phật xuất hiện

Hoặc là chẳng xuất hiện

Luôn trụ nơi chánh pháp

Là hộ trì kinh điển.

Tất cả pháp hiện tại

Chánh pháp hay phi pháp

Có giảng nói cũng vậy

Vì chẳng có nguồn gốc.

Tu theo đạo vi diệu

Không rõ việc của ma

Đối với pháp cũng vậy

Không chấp giữ giáo pháp.

Chí nguyện nơi Phật đạo

Nếu lầm theo kiêu mạn

Là không có trí tuệ

Giảng nói không kết quả.

Tuệ chư Phật vô lượng

Không đắm nhiễm các pháp

Chẳng đối tượng duyên dựa

Đây là đạo giải thoát.

Bố thí, chí hướng đạo

Ưa thích cho hết thảy

Hàng phục tất cả hữu

Không chấp giữ Phật đạo.

Pháp là rất khó cho

Cũng rất khó nhận được

Các pháp khác cũng vậy

Không có tướng cho, nhận.

Đạt giải thoát hoàn toàn

Hiểu rõ hết mọi pháp

Tu tập trải tình thương

Không rơi vào kiến chấp.

Chấp ngã và ngã sở

Hai điều ấy vốn không

Không có tầm ngã mạn

Không tham tiếc sở hữu.

Tất cả đều bố thí

Đều hồi hướng Phật đạo

Bố thí và Bồ-đề

Không chấp hai tướng ấy.

Cũng không chấp trì giới

Luôn an trụ chánh đạo

Không suy nghĩ, cho rằng

Ta giữ gìn giới cấm.

Không tạo tác, phát sinh

Bậc Thánh thông đạt giới

Vì vậy giới thanh tịnh

Rỗng lặng tựa hư không.

Thân như ảnh trong gương

Lời nói như tiếng vọng

Biết rõ tâm như huyễn

Trì giới không ngã mạn.

Đây là theo lời Phật

Ưa thích cảnh tịch nhiên

Diệt trừ mọi điều ác

Được giải thoắt, thanh tịnh.

Đều được gọi giới cấm

Là không phá, không giữ

Thấy rõ về pháp tánh

Đây là giới vô lậu.

Nhẫn nhục ba-lã-mật

Chịu được các điều ác

Đối tất cả chúng sinh

Tâm luôn xem bình đẳng.

Như pháp không nơi chốn

Không nương tựa hư không

Không thấy bị mắng nhiếc

Cũng chẳng được cung kính.

Thân bị chặt từng đoạn

Tâm vẫn không dao động

Tâm không có chốn trụ

Cũng chẳng ở trong, ngoài.

Quán dao nhọn, oán thù

Đều do bốn đại thành

Không bao giờ làm ác

Tâm nhẫn nhục như đất

Thông đạt được như vậy

Mới gọi là nhẫn nhục

Giúp cho mọi chúng sinh

Không khởi tâm sân hận.

Khuyên họ thích Đại thừa

Tinh tấn không sợ hãi

Vận hành của tâm ý

Không bao giờ chấp giữ.

Đầu mối của sinh tử

Không thể nào biết được

Nguyện dù vì một người

Cũng mặc giáp Đại thừa.

Các pháp chưa từng sinh

Thì làm sì có diệt

Chỉ bằng sức điên đảo

Không thể rõ “bản tế”

Dù có được Thiên nhãn

Pháp tánh vẫn khó bàn

Hiểu biết rõ như vậy

Không khởi cũng không diệt

Chúng sinh không biết được

Các pháp và phi pháp

Bồ-tất luôn tinh tấn

Khiến họ lìa điên đảo.

Chư Phật không chấp giữ

Hoàn toàn không phân biệt

Người tinh tấn riêng khác

Luôn mặc giáp đại nguyện.

Quán xét tất cả pháp

Như huyễn, như dợn nắng

Quán những gì bền chắc

Cũng đều như hư không.

Từ hư giả phân biệt

Nương tựa chẳng lợi ích

Vì vậy nói bình đẳng

Khiến đạt đến Niết-bần.

Theo nghĩa tinh tấn ấy

Tư hành không chướng ngại

Hành, sở hành đều bỏ

Tu tinh tấn tố thượng.

Đạo vốn là tịch tĩnh

Tu tập nơi nghĩa không

Chớ tin theo hư dối

Luôn lo sợ sinh tử.

Dũng mãnh, thích tịch tĩnh

Rõ vực thẳm vô thường

Bậc trí ưa thiền định

Thần thông Ba-la-mật.

Chốn vắng vẻ, thanh tịnh

Tầm an trụ bình đẳng

Oai nghi dứt tưởng niệm

Tâm ý thường định tĩnh.

Pháp vốn tịnh, bình đẳng

Tịch tĩnh lìa các lậu

Tin ưu nẻo giải thoát

Nơi các độ luôn định.

Tâm bình đẳng dạy người

Khiến an trụ trong đó

Không trái với hạnh ấy

Mới gọi là bình đẳng.

Không có tâm kiến chấp

Tâm đạo tỏa khắp nơi

Giáo hóa mọi chúng sinh

Nên gọi là bình đẳng.

Thường nhớ nghĩ chư Phật

Như Lai tức Pháp thân

Không chấp thủ các sắc

Nên gọi la bình đẳng.

Luôn nhớ tu kinh điển

Hoặc pháp hoặc phi pháp

Tâm cũng đều nhớ nghĩ

Nên gọi là bình đẳng.

Tâm nhớ nghĩ Thánh chúng

Tăng chúng là vô vi

Lìa số lượng, vô số

Thông đạt nơi thiền định.

Thấy hết thảy chúng sinh

Nơi mười phương cõi Phật

Mắt cũng không chấp sắc

Không có tưởng và hành.

Hoặc nghe tất cả Phật

Diễn nói các kinh pháp

Âm thanh đã lãnh hội

Cũng không có hai tướng.

Trong một tâm thấy biết

Tâm tất cả chúng sinh

Tâm người khác, tâm mình

Cũng không hề phân biệt.

Nhớ các đời quá khứ

Ức vạn hằng hà sa

Cũng không có trước sau

Nhớ biết đều như thế.

Đến được ngàn ức cõi

Hiện thần thông vô cùng

Hiểu rõ được mọi điều

Ba nghiệp không loạn động.

Phân biệt nơi các pháp

Biện luận hay bậc nhất

Giảng nói ngàn ức kiếp

Không bỏ mất pháp tánh.

Trí tuệ ba-la-mật

Phương tiện rõ năm ấm

Tu hành không dừng nghỉ

Vì người giảng kinh pháp.

Thấu đạt pháp nhân duyên

Dứt trừ mọi phân biệt

Biết rõ các phiền não

Cũng chính là thanh tịnh.

Tin nhân duyên giải thoát

Không khởi các kiến chấp

Hiểu mọi việc như vậy

Các pháp không hình tướng.

Được nhìn thấy thân Phật

Nhập nơi pháp quán không

Thấy diệt độ hoàn toàn

Tất cả không thủ đắc.

Biết tuệ vốn thanh tịnh

Suy nghĩ nơi lưới đời

Nhằm lìa bỏ tối tăm

Nên tu tập đạo hạnh.

Đây chính là Đại thừa

Tuệ Phật khó nghĩ bàn

Vỗ về các chúng sinh

Khuyên dạy thừa vô thượng.

Trong tất cả các thừa

Đại thừa là tối thượng

Như vậy, một thừa ấy

Bao gồm tất cả thừa.

Nên hết thảy mọi người

Đều không thể suy lường

Pháp Đại thừa của ta

Cứu độ khắp muôn loài.

Người phát nguyện Đại thừa

Cũng giống như hư không

Chưa từng có tham dục

Đối chúng sinh không chấp.

Hư không, không giới hạn

Không sắc, không thể thấy

Đại thừa cũng như vậy

Vô hạn lượng, vô lậu.

Giả sử mọi chúng sinh

Đều nương học thừa ấy

Nơi thọ nhận cũng thế

Thừa ấy là thù thắng.

Ví nơi trăm ngàn kiếp

Tu tập theo thừa này

Khen ngợi công đức ấy

Cũng không thể cùng tận.

Được từ bỏ, vô ngại

Sáng suốt, đạt tự tại

Người giữ gìn, đọc tụng

Kinh điển tôn quý này.

Không bị đọa đường ác

Sau chắc đạt an ổn

Nơi cõi trời, cõi người

Kính kinh này cũng vậy.

Ta thọ ký cho ông

Tất thành tựu Phật đạo

Nếu được nghe kinh này

Sẽ hết mọi sợ hãi.

Được ở trong chánh pháp

Kiến lập kinh điển ấy

Vận chuyển bánh xe pháp

Trụ kinh này cũng vậy.

Tư duy về tất cả

Trong các kiếp sinh tử

Luôn gần Bậc Chánh Giác

Trì kinh này cũng vậy.

Người thọ trì kinh ấy

Sức dũng mãnh vô cùng

Hàng phục mọi quần ma

Tinh tấn, đạt trí tuệ.

Như Đức Phật Định Quang

Thọ ký đạt pháp nhẫn

Người cung kính kinh này

Cũng được ta thọ ký.

Tuy Phật không ở đời

Dẫn dắt, độ thế gian

Người giảng nói kinh nầy

Vẫn hành hóa Phật sự.

Lúc Đức Phật nói kệ xong, chúng hội hiểu rõ về ý nghĩa của những lời dạy ấy, thì có mười ngàn vị Thiên tử phát tâm cầu đạo quả Chánh chân vô thượng, hai ngàn Bồ-tát đạt pháp Nhẫn vô sinh, một ngàn Tỳ-kheo diệt hết các lậu, tâm được giải thoát, ba vạn hai ngàn người dứt sạch các phiền não, đạt Pháp nhãn thanh tịnh.

***

Phẩm 11: HÀNH ĐẠO

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Thủ bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con được hiểu rõ ý nghĩa nơi lời dạy của bậc Đại thánh, nếu người nào có chí nguyện cầu Phật đạo thì đó là sự mong cầu tà kiến. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân nơi tà kiến mà mong đạt đến Phật đạo. Vì muốn có chỗ chứng đắc nên phát nguyện thì đó là phương tiện đưa đến tà kiến. Vì sao?

Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Vì đạo không trụ ở cõi Dục, không trụ nơi cõi sắc, không trụ nơi cõi Vô sắc, vì đạo là không có chỗ trụ nên không có sự phát nguyện. Ví như có người cho sắt vào lửa để nung, muôn lửa nung đỏ sắt nhưng không được đụng tay vào lửa. Vì sao? Vì nếu đụng vào thì tay sẽ bị bỏng. Lửa tự nó không thể thiêu được, chỉ có người chạm vào mới bị lửa thiêu bỏng. Người có chí nguyện cầu Phật đạo cũng giông như người cầm lửa mà tự làm cho bỏng tay vậy.

Bạch Thế Tôn! Đạo không có đối tượng để mong cầu, đã vượt qua đối đãi hai bên và không có nơi chốn để hướng đến. Ví như có người mong cầu có được hư không, muốn đi đứng trong hư không nhưng không thể thực hiện được.

Bồ-tát Phổ Thủ lại thưa:

-Bạch Thế Tôn! Không thể đi đứng trong hư không, người có chí nguyện mong đạt đạo cũng giống như hư không. Đạo không có chỗ trụ nên đạo luôn vượt qua hai bên. Bồ-tát cần dứt bỏ tưởng chấp về hai bên thì mới có thể kiến lập chí nguyện về đạo. Còn nếu Bồ-tát khởi tưởng chấp có hai bên mà cầu Phật đạo, nhớ nghĩ đến Phật đạo từ đầu đến cuối thì cũng là niệm về tà kiến. Người chấp chỗ nhớ nghĩ về đạo, về diệt độ thì chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải là người hành đạo.

Khi ấy, Phạm thiên Trì Tâm hỏi Bồ-tát Phổ Thủ:

-Bồ-tát thực hành như thế nào mới là thực hành ứng hợp với đạo?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Nếu Bồ-tát tu tập tất cả các pháp mà hoàn toàn không thấy có đối tượng được thực hành, đó là Bồ-tát tôn sùng đạo hạnh, vượt thoát trên tất cả các pháp hành.

Này Phạm thiên! Đó mới là Bồ-tát thực hành với lòng tôn sùng và hướng đến đạo.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Bồ-tát vượt thoát trên cảnh giới của các hạnh và tu tập theo đạo hạnh?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Tu hạnh xa lìa tất cả mọi chấp giữ về các tưởng, lại đặt để mắt, tai, mũi, thân, miệng và ý thích hợp. Hành hóa như thế mới là vượt thoát trên mọi nẻo thực hành.

Phạm thiên hỏi:

-Sự vượt thoát ấy là thế nào?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Bình đẳng đối với các thừa gọi là vượt thoát. Tất cả các pháp bình đẳng chính là đạo.

Phạm thiên hỏi:

-Phương tiện để thực hành nhằm an trụ nơi đạo là gì?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Cũng chính là đạo ấy.

Phạm thiên lại hỏi:

-Đạo ấy là gì?

-Đó là đạo không có quá khứ, hiện tại và vị lai. Cho nên, Bồ-tát làm thanh tịnh cả ba đời để an trú trong Phật đạo. Giả sử quá khứ, vị lai cũng như hiện tại, các ý khởi lên đều không có niệm thực hành, an trú như vậy tức không có chỗ trụ mà ở khắp nơi. Người an trú như thế tức đạt được các thông tuệ.

Phạm thiên Trì Tâm hỏi:

-Thế nào gọi là các thông tuệ?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Thông đạt tất cả nhưng không cho đó là trí. Vì thế gọi là các thông tuệ.

Lại hỏi:

-Thế nào gọi là tuệ?

Đáp:

-Tuệ là không sai biệt, không có ý niệm khác nhau.

Lại nữa mọi sở hữu của chúng sinh cũng chẳng có gì khác biệt.

-Chúng sinh là gì?

Đáp:

-Chúng sinh là hoàn toàn thanh tịnh. Vì vậy gọi là sự thanh tịnh căn bản. Cho nên chúng sinh cũng bình đẳng, không sai khác. Giả sử có niệm khác nhau về đạo, cho rằng chúng sinh là không đồng thì điều ấy là không thuận theo đạo. Đạo là như vậy, chúng sinh cũng thế, không có gì sai khác nên không được cho là có sai khác.

Lại nữa, ngã và ngã sở cũng là đạo bình đẳng nên cũng không có gì khác biệt. Vì sao? Vì chúng sinh khổng có ngã cũng chẳng có thân nên cũng không có gì sai khác. Tất cả các pháp cũng như vậy.

Phạm thiên Trì Tâm lại hỏi:

-Lời dạy của Như Lai là hoàn toàn chân thật, Ngài đã phân biệt giảng nói về các pháp như thế nào?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Đức Như Lai chưa bao giờ phân biệt, giảng nói về các pháp. Vì sao? Vì Như Lai không hề thủ đắc đối với các pháp, huống hồ là phân biệt.

Phạm thiên hỏi:

-Đức Như Lai chẳng phải đã hiện bày, giảng dạy các pháp, nào là pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp thế gian, pháp xuất thế gian… đó sao?

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Theo ý ông thì sao? Ở đây có thể phân biệt được hành động của thân và lời dạy hay không?

-Thưa không thể được.

Bồ-tát Phổ Thủ lại hỏi:

-Như vậy, thân có sinh khởi giống diệt tận hay không?

-Thưa không.

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Như vậy, này Phạm thiên! Có thể nói, lời dạy về pháp cũng giống như hư không. Không có lời dạy cũng thế. Nếu các pháp có thể dạy được đi nữa thì cũng là pháp không sinh, không diệt. Không có lời dạy mới chính là lời dạy về pháp. Nếu như không có pháp, cũng không có lời dạy thì ở đay cũng không có ngôn thuyết. Vì sao? Vì các lời dạy về pháp và các lời dạy khác cũng đều như nhau. Vì thế gọi là không có lời dạy. Chỗ an trú của Như Lai tức là không có chỗ an trú. Vì không có chỗ an trú nên gọi là không có nguồn gốc.

***

Phẩm 12: KHEN NGỢI

Bấy giờ, trời Tứ Thiên vương, trời Đế Thích và trời Phạm Nhẫn Tích đều có mặt trong chúng hội, liền dùng các thứ hoa trời tung rải lên trên chỗ Đức Phật để cúng dường.

Cung kính cúng dường xong, chư vị thưa:

-Bạch Thê Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào được nghe Bồ-tát Phổ Thủ giảng nói kinh pháp mà hoan hỷ, tin nhận thì những người ấy có thể hàng phục được các ma và ngoại đạo. Vì sao? Vì họ đã lìa bỏ tất cả các tưởng về kiến chấp.

Giả sử người nào được nghe thuyết giảng về pháp vi diệu này mà không kinh, không sợ, cũng chẳng lo âu, thì người ấy đã kiến lập niềm tin vững chắc nơi chư Phật. Nếu pháp này lưu truyền đến đâu thì ở đó có Đức Như Lai. Nếu nơi nào đang nghe pháp này thì nên biết nơi ấy chính là đang chuyển pháp luân. Nếu ở các cõi nước, xóm làng, thôn ấp, thành đô, nơi ở, chốn kinh hành nào có lưu truyền kinh này thì những nơi ấy không bị ma quấy nhiễu, không bị mê hoặc cũng chẳng bị tham chấp, vì từ xa xưa chắc chắn đã tạo nguyện lành. Người nào được nghe danh hiệu của kinh ấy mà không cầu diệt độ, không làm theo việc ma, thì có thể thọ trì kinh này.

Bạch Thế Tôn! Nhờ kinh điển ấy, chúng con đã đạt được ánh sáng của chánh pháp. Đối với lời giảng nói của Đức Như Lai, Bồ-tát Phổ Thủ và Phạm thiên, chúng con đều dốc lòng tin, không hề chống trái. Nếu gặp vị Pháp sư nào, chúng con sẽ xem như gặp Đức Thế Tôn, luôn theo vị ấy để nghe nhận chánh pháp và phụng sự. Thiện nam này luôn được chư Thiên ủng hộ. Giả sử người nào kính nhận kinh điển này mà biên chép, đọc tụng, thọ trì thì vô số trăm ngàn chư Thiên đều đến trong chúng hội ấy để nghe, nhận chánh pháp.

***

Phẩm 13: KHEN NGỢI CÔNG ĐỨC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi trời Đế Thích, Phạm thiên và đại chúng:

-Lành thay, lành thay! Như lời các ông nói, giả sử công đức đem bảy báu đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, so với công đức của người chỉ một lần được nghe kinh pháp này thì công đức sau nhiều hơn công đức kia.

Đức Phật lại dạy:

-Giả sử công đức dùng châu báu đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc công đức đem bảy báu nhiều như số cát sông Hằng để bố thí, so với công đức của người được nghe kinh pháp này lần thứ hai thì công đức này cũng nhiều hơn.

Này các thiện nam, thiện nữ! Người nào được nghe kinh này mà mong cầu lợi dưỡng, sắc đẹp, hoặc mong được tài sản, quyến thuộc, làm chủ các pháp, sinh lên cõi trời, hoặc mong được giàu có ở thế gian, hoặc để dứt trừ các pháp tà thuật, ngoại đạo, hoặc cầu tiếng khen, học rộng, hiểu nhiều, lại mong được tự tại, được tuệ kiên cố, gặp bạn lành, hoặc mong đạt được trí thông đạt tam đạt, muốn có tất cả các pháp lành công đức, hoặc muốn dùng giác ý để dẫn dắt chúng sinh khiến họ không còn hoạn nạn, đau khổ, hoặc cầu pháp vô vi… thì thiện nam, thiện nữ ấy nên lãnh hội, thọ trì, đọc tụng, vì người khác mà giảng nói kinh này. Như Lai chưa bao giờ thấy người chí tâm cung kính tu tập theo kinh này mà không được lợi ích.

Hôm nay, Như Lai ân cần giao phó lại cho các ông. Người nào được nghe kinh này từ các bậc Thầy, hoặc Hòa thượng mà thọ trì thì Như Lai không thấy có sự cúng dường nào nơi tất cả thế gian có thể báo đáp được ân đức của những vị ấy được. Vì sao? Vì pháp đó vượt khỏi thế gian nên không thể dùng sự cúng dường của thế gian mà báo đáp đủ. Pháp ấy vượt trên thế gian nên sự cúng dường của thế gian là không thể so sánh. Pháp ấy đối với thế gian không bị cấu nhiễm, nhưng pháp thế gian là không thanh tịnh, chẳng phải pháp vi diệu nên không thể dùng pháp thế gian để cúng dường mà báo đáp đủ. Tất cả sự báo đáp mà có chỗ ứng hợp đều nương vào kinh điển này, không thể có việc khác.

Sự báo đáp như vậy là thế nào? Nghĩa là vượt trên mọi sự mong cầu, không có đối tượng để thực hành, đấy gọi là thực hành. Nếu ai cung kính Pháp sư thì người ấy đã báo ân hoàn toàn thanh tịnh. Nếu ở những nơi đô thị, xóm làng mà có đầy đủ những vật dụng sinh hoạt, được nhiều phước đức thì nên biết, chư vị ấy đã kính giữ giáo pháp của Như Lai, tu tạp theo lời Phật dạy thì được giải thoát, dựng cờ chánh pháp để phá trừ tối tăm.

Chư vị luôn dũng mãnh chống cự khiến đối phương phải hàng phục, là bậc Sư tử vì không hề kinh sợ, gọi là bậc Tôn quý ở đời vì tự điều phục tâm, là vị thần tiên vì lời nói thành thật, vượt trên tất cả các tà kiến, ngoại đạo là vị thầy thuốc trị lành tất cả các bệnh, vì không sợ hãi hoạn nạn nên giáng nói pháp vi diệu.

Chư vị xả bỏ tất cả phiền não nên giữ giới thanh tịnh, tịch tĩnh, an nhiên, đạt được Niết-bàn vì xa lìa ngã, ngã sỏ, không có kiến chấp về thân, là bậc luôn tinh tấn đạt đến vô vi, trong vô số kiếp không hề chán nản, ưa thích thiền định, hoàn toàn nhất tâm là bậc đại trí tuệ vì có thể hiểu rõ về tất cả các chương, câu. Vì thông đạt và hiện bày ý nghĩa về các tuệ nên gọi là bậc có oai đức lớn, có vô số trăm ngàn phước đức không thể lường xét, các tướng tốt tự trang nghiêm, trí tuệ không thể cùng tận.

Là bậc có oai đức lớn, che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đối với mười diệu lực luôn giữ gìn diệu lực cốt yếu.

Là bậc tạo nên mây lớn, xiển dương tiếng sấm pháp, tuôn xuống mưa pháp lớn để diệt trừ tất cả phiền não cho chúng sinh.

Là bậc đạt được pháp vô vi, diệt độ bậc nhất, xa lìa sinh tử, trừ sạch sự lo sợ, làm bậc có ánh sáng rực rỡ chiếu đến các nơi tối tăm, sợ hãi, vì những người sợ hãi lưới ma mà cứu giúp khiến họ được tự tại.

Là bậc cứu độ cho tất cá chúng sinh trụ nơi đạo tràng của Phật, đạt được Pháp nhãn, thấy rõ các pháp không có nguồn gốc, thông đạt pháp không, kiến lập lòng Bi lớn, an trú nơi lòng từ không giới hạn, gần gũi với tất cả chúng sinh, không theo các pháp nhỏ, hướng đến Đại thừa, trừ bỏ hết các điên đảo, đạt được bình đẳng, vượt trên danh tự và tất cả đức hiệu. Là bậc kiến lập đạo tràng, hàng phục quân ma, được tự tại trong cảnh giới của các ma, triệu tập chư Hiền thánh để chuyển pháp luân.

Đức Phật dạy:

-Giả sử trong một kiếp hay hơn một kiếp, nếu có giảng nói, khen ngợi về sự hành hóa của các Bồ-tát ấy cũng không thể rốt ráo cùng tận, vì công đức của chư vị cao vời như vậy, chỉ có Như Lai gồm đủ các thứ biện tài mới có thể khen ngợi công đức của người kính giữ kinh này.

***

Phẩm 14: ĐẲNG HẠNH

Bấy giờ, trong chúng hội có vị Thiên tử tên là Hiện Bất Thoái Chuyển bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là kính giữ chánh pháp, tôn trọng kinh điển?

Đức Phật dạy:

-Này Thiên tử! Muốn biết thế nào là kính giữ chánh pháp, tôn trọng kinh điển thì nên kính thuận các pháp, đó gọi là kính giữ, tôn trọng. Nếu kính thuận theo tất cá các pháp thì gọi là thực hành chánh pháp. Vì sao? Nếu kính thuận theo các pháp thì không thực hành các pháp cũng chẳng phải là không thực hành, vì có đối tượng để hành hóa là chẳng có đối tượng để hành hóa, đây gọi là tu tập chánh pháp.

Nếu không tu theo các nguồn gốc về căn lành, phước đức, cũng chẳng phải là không tu căn lành, đó gọi là tu tập chánh pháp. Pháp ấy không có hữu lậu cũng chẳng phải vô lậu, không có tội cũng chẳng phải không có tội, không phải thế gian cũng chẳng phải xuất thế gian, không có hình tướng cũng chẳng phải là không có hình tướng, không có sinh tử cũng chẳng cổ diệt độ, không có đối tượng thực hành cũng chẳng phải là không thực hành, đó gọi là tu tập chánh pháp.

Nếu có thể tu hành nơi tất cả các pháp thì gọi là tu tập chánh pháp. Không có tưởng về pháp mà thực hành pháp, đó gọi là tu tập chánh pháp. Nếu nghĩ rằng ta đang thực hành pháp này thì chẳng phải là thực hành. Người nào lãnh thọ các pháp mà xả bỏ tất cả các pháp thì gọi là người thực hành chánh pháp. Những ai ở nơi đối tượng thực hành mà không thấy có đối tượng thực hành các pháp, thì gọi là tu tập chánh pháp.

Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Người nào đối với pháp này mà không thực hành chân chánh thì người ấy chẳng phải là kính giữ, tôn trọng và không thuận theo chánh pháp. Vì sao? Vì thực hành chân chánh là không bị luân hồi, chẳng lưu chuyển trong đường sinh tử.

Thế nào là thực hành? Là an trụ nơi nẻo bình đẳng mới gọi là thực hành.

Bạch Đấng Đại Thánh! Thực hành bình đẳng thì không có pháp tà. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều bình đẳng, không hề sai khác.

Phạm thiên Trì Tâm hỏi Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển:

-Thưa Thiên tử! Thiên tử có thực hành theo hạnh này không?

Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển đáp:

-Thưa Phạm thiên! Tôi sẽ thực hành. Giả sử Đức Thế Tôn giảng nói có hai nẻo, nhưng thực hành theo hai nẻo ấy là có đối tượng để thực hành. Nếu có đối tượng để thực hành là chẳng phải thực hành.

Lại nữa, thưa Phạm thiên! Tôi đã lìa bỏ hai nẻo để thực hành các pháp, đối với sự thực hành theo các pháp cũng vậy, sự tôn trọng các pháp cũng như đối tượng được tu hành cũng thế, đó là tu tập chánh pháp.

Phạm thiên hỏi:

-Thưa Thiên tử! Thiên tử chưa từng thấy cõi Phật này sao?

Thiên tử đáp:

-Tôi chưa từng thấy cõi Phật này.

Phạm thiên hỏi:

-Nếu không khởi tưởng đối với cõi Phật ấy thì không có điều ứng hợp nào mà chẳng ứng hợp, nơi đối tượng được thấy cũng chẳng có đối tượng để thấy chăng?

Thiên tử đáp:

-Thưa Phạm thiên! Nay tôi không khởi tưởng cũng chẳng phải là không khỏi tưởng, không có điều ứng hợp nào mà chẳng ứng hợp tôi đã từng thấy cũng là chưa từng thấy.

Phạm thiên hỏi:

-Thưa Thiên tử! Thiên tử đã thấy được điều gì?

Thiên tử đáp:

-Tôi chưa từng thấy các bậc Hiền thánh và tất cả hàng phàm phu thoát khỏi các cõi ác cũng chẳng thấy được giải thoát.

Thưa Phạm thiên! Như vậy, người nào đạt được bình đẳng thì được giải thoát, gọi là chánh kiến, thấy điều chưa từng thấy, không có danh tự cũng không có nơi hướng đến, mắt không khác thức, cho đến tai, mũi, miệng, thân và ý cũng chẳníí khác thức. Nếu thấy được Như là không có nguồn gốc thì mắt là Như, ngã và ngã sở cũng vậy. Do thấy không có nguồn gốc nên chẳng có đối tượng được thấy, đấy gọi là sự thấy bình đẳng.

***

Phẩm 15: THỌ KÝ THIÊN TỬ HIỆN BẤT THOÁI CHUYỂN

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Ví như ở nơi nào có ngọc báu thì mọi người ở nơi ấy đều thấy được ánh sáng của nó.

Bạch Thế Tôn! Các bậc Chánh sĩ thực hành đầy đủ các pháp không thể nghĩ bàn cũng như vậy. Bất cứ ở đâu, chư vị cũng đều được tự tại, dùng ánh sáng quý báu của pháp để chiếu soi đầy đủ, ngay khi tu tập liền đạt được bản tế, luôn dùng biện tài tự tại để diễn nói pháp. Chư vị tự tại đối với các pháp nên không có đối tượng duyên dựa, không chấp vào ngã và ngã sở.

Chư vị được biện tài vô ngại nên không thể bị hỏi vặn cũng chẳng điên đảo, luôn được tự tại.

Người biện tài vô ngại nên thanh tịnh đối với quá khứ, không thủ đắc ở vị lai, cũng chẳng thấy có hiện tại.

Người biện tài vô ngại khiến cho người chưa từng có lòng tin phát khởi lòng tin, người chưa được giải thoát liền được giải thoát.

Người biện tài vô ngại phá trừ các kiêu mạn, giáo hóa cho những người ngã mạn, khiến họ trừ sạch tâm ấy.

Người biện tài vô ngại thì các ma không thể quấy phá, làm cho người nghe pháp tỉnh thức, thoát khỏi những việc của ma.

Người biện tài vô ngại khuyến khích cho người chưa phát khởi các pháp lành được sinh khởi, người đã sinh khởi pháp lành khiến được tăng trưởng, không hề bỏ mất nếu có các phiền não thì khiến họ đoạn trừ sạch, phiền não chưa sinh khởi khiến không sinh khởi.

Người biện tài vô ngại làm cho hàng Bồ-tát chưa mặc áo giáp oai đức khiến được mặc, người đã mặc thì không hề thoái lui.

Người biện tài vô ngại không đoạn trừ chánh pháp mà luôn hộ trì chánh pháp.

Người nào được biện tài như vậy thì có thể hàng phục tất cả ngoại đạo. Vì sao? Vì các loài thú nhỏ không thể chịu nổi tiếng gầm của sư tử, thấy sư tử thì không dám bước tới huống nữa là dám vào hang hoặc ở dưới gốc cây.

Bạch Thê Tôn! Cũng vậy, tất cả các hàng ngoại đạo không thể chịu nổi tiếng gầm của bậc Sư tử vô thượng.

Bấy giờ, Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển hỏi trời Đế Thích:

-Thưa Nhân giả Câu-dực! Vừa rồi Nhân giả nói về tiếng gầm ấy, vậy thế nào là tiếng gầm của Sư tử?

Trời Đế Thích đáp:

-Nếu đối với các pháp mà không chấp giữ cũng chẳng có ngôn thuyết, đây gọi là tiếng gầm của sư tử, Vì không có đối tượng duyên dựa nên gọi là tịch tĩnh. Nếu có sự chấp giữ để thực hành theo tịch tĩnh thì không phải là tiếng gầm của sư tử, mà là tiếng kêu của loài cáo, vì còn chấp vào nẻo bình đẳng và có đôi tượng được thuyết pháp.

Này Thiên tử! Thiên tử nên nói lại, thế nào là tiếng gầm của sư tử?

Thiên tử đáp:

-Thưa Nhân giả Câu-dực! Nếu không tham chấp đối với Đức Như Lai, cũng chẳng có ngôn thuyết, huống nữa là các pháp khác, đó gọi là giảng pháp như tiếng gầm của sư tử. Thực hành theo lời dạy bình đẳng, gọi là tiếng gầm của sư tử. Giảng nói về nhất phẩm gọi là tiếng gầm của sư tử. Nghe những điều đã giảng nói mà không sợ hãi, gọi là tiếng gầm của sư tử. Nếu giảng nói kinh pháp mà không thấy có sinh khởi, hoại diệt, cũng chẳng chấp vào thật tánh, gọi là tiếng gầm của sư tử. Nếu ở trong phiền não mà không bị trói buộc, không có hòa hợp cũng chẳng tan hoại, người thuyết pháp như vậy gọi là tiếng gầm của sư tử.

Gọi là tiếng gầm của sư tử vì luôn chuyên chú, không chấp có người, chẳng có ngã và ngã sở, tất cả các pháp chỉ là tạm nêu bày. Gọi là tiếng gầm của sư tử vì dùng nhất tâm để xiển dương pháp không. Gọi là tiếng gầm của sư tử vì miệng thường giảng nói chánh pháp. Gọi là tiếng gầm của sư tử vì diệt trừ sạch tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến họ sẽ thành tựu quả vị Phật và giảng nói giáo pháp. Gọi là tiếng gầm của sư tử vì đối với các tài sản luôn thanh tịnh hoàn toàn, thường biết đủ và khen ngợi giáo pháp. Gọi là tiếng gầm của sư tử vì luôn ở trụ xứ vắng lặng, không chọn lựa các pháp hành.

Bậc dẫn đầu về cội nguồn của hạnh bố thí gọi là tiếng gầm của sư tử. Không xả bỏ giới cấm là tiếng gầm của sư tử. Bình đẳng đối với kẻ oán người thân là tiếng gầm của sư tử. Giảng nói không hề chọn lựa, không thấy có xa, gần gọi là tiếng gầm của sư tử. Đoạn trừ các phiền não là tiếng gầm của sư tử. Bình đẳng dùng trí tuệ quan sát là tiếng gầm của sư tử.

Khi Thiên tử thuyết giảng về tiếng gầm của sư tử, thì cả tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách, trăm ngàn nhạc cụ không tấu mà tự kêu, ánh sáng lớn ấy chiếu khắp cả thế gian và cung điện của chư Thiên, trăm ngàn chư Thiên và loài người cùng thưa:

-Chúng con đã được nghe Thiên tử giảng pháp nói về tiếng gầm của sư tử, như ở cõi Diêm-phù-đề lại thấy chuyển pháp luân.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền mỉm cười. Theo pháp của chư Phật thì lúc Ngài mỉm cười, có vô số hào quang đủ màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tía, hồng… từ nơi kim khẩu phát ra, chiếu soi khắp vô lương thế giới của chư Phật không thể tính kể, trên thì đến tận cõi trời Phạm thiên, che khuất ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, trở lại nhiễu quanh thân Đức Phật ba vòng, rồi thu tướng ấy vào đỉnh đầu. Phạm thiên Trì Tâm liền đứng dậy, chắp tay hướng về Phật dùng kệ khen ngợi:

Bậc thông tuệ thù thắng

Biết rõ khắp các cõi

Phân biệt, thông đạt hết

Hành chúng sinh ba đời.

Tùy theo tâm tín kính

Dùng tuệ giải thoát họ

Tâm Ngài vượt mọi loài

Thọ ký khắp tất cả.

Chẳng phải là quả vị

Hàng Thanh văn, Duyên giác

Tuệ Phật là như vậy

Vô lượng, không giới hạn.

Hiểu rõ tâm chúng sinh

Nên giảng nói pháp gì

Để giải thoát cho họ

Bậc thù thắng khó sánh.

Tùy ý thường an lạc

Khéo léo trừ cấu uế

Hào quang Ngài phóng ra

Che nhật nguyệt cõi trời.

Soi đến núi Thiết vi

Ứ vạn núi Tu-di

Xin Ngài giảng nói nghĩa

Nhân duyên việc mỉm cười.

Bậc Năng Nhân tịch tĩnh

Trừ sạch mọi giận dữ

Từ bi quán sát khắp

Chư Thiên và thế gian.

Chiêm ngưỡng Ngài không chán

Thảy đều được an lạc

Xin giảng nhân mỉm cười

Hiểu rõ hết ý nghĩa.

Lựa chọn, quán các pháp

Tự tại như hư không

Mây, mù, điện, dợn nắng

Giả tạm như bọt, huyễn.

Thấy tất cả như mộng

Và như trăng đáy nước

Lành thay Ngài giảng nói

Nhân duyên gì mỉm cười?

Trừ hết thảy kiến chấp

Bậc Năng Nhân hiểu không

Các thông tuệ, trừ uế

Luôn lìa tưởng chấp giữ.

Chẳng có ba nẻo nguyện

Trụ thiền định, bình đẳng

Vì sao phóng hào quang

Xin thương phân biệt nói.

Chẳng văn tự; ngôn từ

Không chấp vào âm thanh

An trụ giảng nói kinh

Không thích pháp chúng sinh.

Hiểu rõ cả chúng hội

Khiến họ được tuệ Phật

Biết thần thông, căn, lực

Bậc tối thắng khéo giảng.

Phật là Bậc Y Vương

Trừ sạch tất cả khổ

Dũng mãnh đạt an lạc

Cứu chúng sinh buông lung.

Thoát khỏi mọi trói buộc

Khiến họ đều quy ỵ

Xin Đấng Thần Tôn giảng

Nhân hào quang, mỉm cười?

Đức Phật bảo Phạm thiên Trì Tâm:

-Ông thấy Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển chăng?

Phạm thiên Trì Tâm đáp:

-Bạch Thế Tôn, con đã thấy!

Đức Phật dạy:

-Này Phạm thiên! Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển này trong ba mươi hai a-tăng-kỳ kiếp không thể lường xét nữa sẽ được thành Phật, hiệu là Tu-di Đăng Vương đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, quốc độ tên là Thiện hóa, kiếp tên Tịnh thán. Cõi Phật đó dùng hai loại báu là lưu ly xanh biếc và vàng kim cương làm đất, toàn là chúng Bồ-tát, hàng phục hết các thứ ma oán; nhà cửa, y phục, thức ăn đều giống như cõi trời thứ sáu là Tha hóa tự tại. Đức Như Lai ấy luôn ân cần giáo hóa chúng sinh.

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm nói với Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển:

-Thưa Nhân giả! Hôm nay, Đức Như Lai đã thọ ký cho Nhân giả.

Thiên tử nói:

-Đức Như Lai đã thọ ký cho tôi, giống với Như không có nguồn gốc thì việc thọ ký và pháp tánh cũng không có nguồn gốc, việc thọ ký cho tôi cũng vậy.

Phạm thiên nói:

-Do Như cùng với pháp tánh không có nguồn gốc nên không có sự thọ ký.

Thiên tử nói:

-Như không có nguồn gốc, pháp tánh cũng không có nguồn gốc, nếu cho là có thọ ký thì không thể có việc ấy, tất cả hàng Bồ-tát cũng vậy.

Phạm thiên hỏi:

-Nhân giả không an trụ nơi quả vị Chánh giác, tu phạm hạnh, phân biệt, hiểu rõ giống như Đức Phật đã thọ ký chăng?

Thiên tử đáp:

-Thưa Phạm thiên! Nếu không có đối tượng được tu tập, bình đẳng đối với tất cả, mới gọi là tu tập phạm hạnh.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là không có đối tượng được tu tập mới là tu phạm hạnh?

Thiên tử đáp:

-Những ai không tu tập nơi cõi Dục, cõi sắc và cõi Vô sắc thì những người ấy chính là tu phạm hạnh.

Lại nữa, thưa Phạm thiên! Không trụ nơi đối tượng được tu tập, không trụ vào ngã, không tu tập theo nhân, không tu tập theo tuổi thọ cũng không tu tập nơi mạng sống, đấy gọi là tu phạm hạnh. Nói tóm lại, nếu đối với các pháp mà không tu tập theo các pháp, đấy gọi là tu hành phạm hạnh.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là tu hành phạm hạnh?

Thiên tử đáp:

-Không trụ nơi nẻo nhị biên gọi là tu hành phạm hạnh.

Phạm thiên hỏi:

-Không trụ vào nẻo nhị biên thì kiến lập điều gì?

Thiên tử đáp:

-Không trụ vào nẻo nhị biên là kiến lập tất cả các pháp. Vì sao? Vì sự tu hành của bậc Hiền thánh mà không có đối tượng kiến lập thì được giải thoát.

Phạm thiên hỏi:

-Làm thế nào để tu đạo?

Phạm thiên đáp:

-Tu đạo là không chấp vào sự thực hành, cũng không bỏ sự thực hành, không thực hành các pháp cũng chẳng xa lìa các pháp, đó gọi là tu đạo, tinh tấn thuận hợp với Như.

Phạm thiên hỏi:

-Dùng những hạnh gì để tu đạo?

Phạm thiên đáp:

-Không thấy, không nghe, không nhớ, không biết, không giáo hóa, không thủ đắc, không chứng quả, đối với tất cả các pháp đều không thấy có đối tượng được thực hành, đó gọi là tu đạo.

Phạm thiên hỏi:

-Thế nào là Bồ-tát tinh tấn vững mạnh?

Thiên tử đáp:

-Nếu Bồ-tát không thấy có một pháp để thực hành, cũng không thấy có nhiều pháp để thực hành, đó gọi là Bồ-tát tinh tấn vững mạnh, mặc áo giáp giới đức, đối với pháp tánh không hề hủy hoại, đã không hủy hoại nên cũng chẳng gần gũi, không xa lìa các pháp, cũng không chống trái, không thấy có phiền não, cũng không có kết sử. Đó gọi là Bồ-tát thực hành tinh tấn bậc nhất, đối với tất cả các pháp không thấy có cao, thấp mà luôn tu hành tinh tấn.

Thưa Phạm thiên! Không duyên theo thân, không duyên theo miệng, không duyên theo tâm, đó là thực hành tinh tấn bậc nhất.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển:

-Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói.

Đức Phật lại bảo Phạm thiên Trì Tâm:

-Này Phạm thiên! Như lời Thiên tử vừa nói, Bồ-tát không thực hành nơi thân, không thực hành nơi miệng, không thực hành nơi tâm, đó là thực hành tinh tấn bậc nhất.

Này Phạm thiên! Nhớ lại thuở xưa, về thời quá khứ cách đây nhiều kiếp, Như Lai đối với tất cả các đức hạnh đều hoàn toàn tịch tĩnh, siêng tu tinh tấn, cung kính cúng dường, ở nơi vắng vẻ để học rộng nghe nhiều, thực hành Từ bi đối với tất cả chúng sinh, dù đã tu theo tất cả các hạnh, tinh tấn khổ nhọc nhưng Như Lai vẫn không được thọ ký thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì lúc nào cũng chấp nơi thân, miệng, ý.

Này Phạm thiên! Tu hành tinh tấn theo các hình sắc như vậy thì đầy đủ các hạnh này. Như lời Thiên tử vừa nói, về đời sau, Như Lai mới được Đức Phật Định Quang thọ ký: “Đời sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Năng Nhân gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thê Tôn.” Vì thế, này Phạm thiên! Giả sử Bồ-tát muốn mau được thọ ký thì nên tu hành tinh tấn như vậy, nhận biết các pháp mà không có đối tượng được thực hành.

Phạm thiên thưa:

-Bạch Thế Tôn! Thế nào là không có đối tượng được thực hành?

Đức Thế Tôn đáp:

-Bình đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng gọi là tinh tấn.

Phạm thiên thưa:

-Thế nào là bình đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng mà gọi là tinh tấn?

Đức Thế Tôn đáp:

-Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không trụ, những gì diệt tận thì không phát sinh trở lại. Giả sử đạt được tướng không sinh khởi thì trụ như vậy gọi là thường, là không có chỗ trụ. Pháp ấy là chánh pháp đều bình đẳng nên không sinh khởi, vì không sinh khởi nên không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu không có quá khứ, vị lai, hiện tại thì vốn thanh tịnh, không sinh khởi.

Này Phạm thiên! Đó là bình đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng, gọi là tinh tấn. Như vậy, Bồ-tát muốn mau được thọ ký thì phải đạt được pháp nhẫn, đầy đủ các hạnh.

Này Phạm thiên! Nếu Bồ-tát đối với tất cả các pháp mà không thấy có đối tượng được tu tập thì gọi là bố thí, không chấp giữ tất cả các pháp gọi là trì giới, không nhớ nghĩ về tất cả các pháp gọi là nhẫn nhục, đối với các pháp không có đối tượng được duyên dựa gọi là tinh tấn, bình đẳng đối với tất cả các pháp gọi là thiền định, đối với tất cả các pháp không khởi tưởng gọi là trí tuệ. Đây gọi là không tăng thêm cũng không giảm bớt, không tạo tác cũng chẳng phải tạo tác, thường thực hành bố thí nhưng không mong cầu, hành trì giới cấm nhưng không chấp giữ, tu theo nhẫn nhục nhưng trong ngoài đều thanh tịnh, thực hành tinh tấn mà thành tựu trọn vẹn, nhất tâm thiền định hoàn toàn không vướng mắc, tôn dùng trí tuệ nhưng không khởi tưởng.

Bồ-tát thực hành đầy đủ các hạnh nhẫn nhục như vậy, tuy thực hành, thị hiện khắp tất cả các hạnh nhưng không hề chấp giữ, do không chấp giữ nên bình đẵng đối với pháp thế gian, được lợi không vui mừng, không lợi ích, cũng chẳng lo lắng, nếu gặp những sự bàn luận, chê bai, khen ngợi, hoan hỷ, khổ đau… đều khổng lay động, không tăng, không giảm, không thích, không lo, vì đã vượt trên pháp hữu vi của thế gian. Vì không còn khổ đau, không phiền não cũng không khiếp sợ, không nhớ nghĩ cũng chẳng phải không nhớ nghĩ nên không có hai tướng, xa lìa các duyên nên đạt được pháp bất nhị, vì chúng sinh bị rơi vào hai kiến chấp nên khởi tâm đại Bi, dấy khởi tâm của mình để giáo hóa họ.

Này Phạm thiên! Đó là tinh tấn bậc nhất, vì đạt được nhẫn vô ngã nên đối với chúng sinh mà khởi tâm đại Bi, dù ở nơi nào cũng đều dẫn dắt, cứu giúp họ.

Khi Đức Phật thuyết giảng về hạnh tinh tấn này, tám ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh, Đức Phật thọ ký cho chư vị sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều đồng một danh hiệu là Kiên Cường Tinh Tấn, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, mỗi vị đều ở nơi mỗi cõi Phật khác nhau.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Ví như các đại Long vương, khi muốn tuôn mưa thì mưa xuống biển cả. Các Bồ-tát này cũng vậy, Đấng Thiên Trung Thiên giống như biển cả, hiện ra hình tượng này để tuôn mưa pháp lớn. Các Đại Bồ-tát cũng như biển cả, tâm của chư vị cũng như vậy, dùng tánh chân thật để tuôn mưa chánh pháp.

Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp:

-Như lời Tôn giả nói, các đại Long vương này không phải vì tham tiếc mà không rưới mưa xuống cõi Diêm-phù-đề, mà do đất ở cõi ấy không thể chịu nổi những trận mưa lớn như vậy.

Này Tôn giả Ca-diếp! Những vị đại Long vương này khi tuôn mưa xuống thiên hạ thì những cõi nước, thành ấp, núi non, khe suối… ở cõi Diêm-phù-đề đều bị cuốn sạch như cuốn trôi những chiếc lá cây. Do đó, những vị đại Long vương không tuôn cơn mưa lớn xuống cối Diêm-phù-đề.

Này Tôn giả Ca-diếp! Các Bồ-tát ấy không vì tham tiếc mưa pháp mà không tuôn mưa pháp khiến cho tất cả chúng sinh được thấm nhuần.

Lại nữa, này Tôn giả Ca-diếp! Nếu chúng sinh có đủ khả năng để lãnh thọ Phật pháp thì các Bồ-tát sẽ biết rõ tâm ý của họ, sẽ rưới tuôn mưa pháp như tâm chúng sinh đang suy nghĩ, vì tâm của chư vị như biển cả.

Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như khi các Long vương trút các trận mưa dữ dội xuống thì biển cá đều chứa hết mà không cho là đủ, cũng chẳng tràn đầy. Các bậc Bồ-tát ấy cũng vậy. Nếu trong một kiếp hoặc trăm ngàn kiếp được nghe thuyết giảng về pháp này, lại đối với các pháp không đều tăng, không giảm, cũng chẳng cho là đủ.

Này Tôn giả Ca-diếp! Lại như biển cả, do các dòng sông khắp nơi đổ về, nhưng đều có một vị mặn như muối. Các Bồ-tát này cũng vậy, dù nghe vô số âm thanh, diễn nói những giáo pháp khác nhau nhưng khi nghe pháp, chư vị đều hiểu rõ tất cả đều quy về một nghĩa, đó là vị “giải thoát”, là vị “không”.

Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như trong biển cả, luôn trong sạch, không nhơ uế, dù có chứa bất cứ dòng nước nào cũng chẳng cấu bẩn. Các Bồ-tát này cũng như vậy, chư vị luôn thanh tịnh, không cấu uế, không có các sự nhơ uế như: kết sử, biếng nhác, sân hận… Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như biển cả sâu thẳm không đáy, khó có thể biết được giới hạn. Các Bồ-tát này cũng như vậy, hiểu rõ về trí tuệ thâm diệu của bậc Thánh, tâm hội nhập vào pháp sâu xa uyên áo khó có thể lường xét, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể sánh bằng.

Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như trong biển cả chứa vô lượng vô sô nước không thể lường tính. Các Bồ-tát này cũng vậy, chứa nhóm, gieo trồng các pháp Trí tuệ ba-la-mật không có giới hạn, nên dụ cho biển cả, chư vị đầy đủ các sắc tướng như vậy, nên gọi là Bồ-tát.

Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như trong biển cả chứa nhóm vô lượng các loại báu. Các Bồ-tát này cũng vậy, dùng vô lượng pháp để giáo hóa, nên vô số pháp báu tự nhiên tràn đầy.

Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả có ba loại báu: báu chân thân, báu thanh thủy, báu tài nghiệp. Các Bồ-tát này cũng vậy, khi giảng nói kinh pháp đều theo căn cơ và sự ứng hợp của chúng sinh nhằm khiến họ được giải thoát, hoặc đạt được thừa Thanh văn, thừa Duyên giác, hay Đại thừa.

Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả, các dòng nước lớn nhỏ đều đổ vào thì dần dần trở thành sâu rộng. Các Bồ-tát này cũng vậy, chí nguyện nơi các thông tuệ, thực hành các thông tuệ, dần dần thành tựu đạo quả của bậc Thánh.

Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả, không chứa thây chết, các bậc Chánh sĩ này cũng vậy, không chấp nhận tâm Thanh văn, Duyên giác, cũng không cùng chí hướng với chư vị ấy, không chấp nhận tâm tham lam, ganh ghét, phá giới, kết sử, biếng nhác, sân hận; không chấp nhận tâm tán loạn và trí ác, không dung chứa ngã và ngã sở, nhân, thọ mạng và kiến chấp.

Này Tôn giả Ca-diếp! Nếu gặp vào thời kỳ tai nạn thiêu đốt thì các dòng sông, sông lớn, ao hồ… đều khô cạn trước, sau đó biển cả mới bị khô cạn.

Này Tôn giả Ca-diếp! Bồ-tát lưu truyền chánh pháp đến khắp các cõi cũng vậy, trước dùng hạnh bố thí để tu tập chánh pháp, sau đó mới ban khắp sự giác ngộ đến các biển tâm, rồi chánh pháp lại trở về nơi các bậc Chánh sĩ.

Lại nữa, này Tôn giả Ca-diếp! Các bậc Chánh sĩ ấy thà mất thân mạng chứ không xả bỏ chánh pháp. Tôn giả cho rằng các bậc Chánh sĩ này bỏ mất chánh pháp chăng? Chớ nghĩ như vậy. Như trong biển lớn có ngọc như ý tên là Kim cang, là sự tích tập của các thứ báu, khi lửa nổi lên bảy ngày, trên lên tới cõi Phạm thiên thiêu hết các châu báu, cùng các cõi Phật trong tam thiên đại thiên thê giới, kể cả các phương khác cũng đều bị cháy rụi.

Này Tôn giả Ca-diếp! Ngọc báu như ý kia đi đến thế giới khác mà bị thiêu hủy thì không có điều ấy.

Này Tôn giả Ca-diếp! Các Bồ-tát ấy cũng vậy, khi tất cả các pháp diệt tận, thì bảy loại pháp xuất hiện, các Bồ-tát là chánh pháp cho thế gian nương tựa, lại có thể dời đến cõi Phật ở phương khác. Những gì là bảy? Đó là học thuyết ngoại đạo, gần gũi bạn ác, rơi vào tà kiến, luôn phá hoại nhau, hành theo các kiến chấp, hủy hoại các cội gốc công đức, không thể chứng đắc đạo. Đó là bảy loại pháp xuất hiện. Đối với bảy pháp này, các Bồ-tát đều biết rõ, thấy chúng sinh ở các cõi Phật khác không rời chư Phật, thường được giác ngộ, thích nghe kinh điển, chư vị liền giáo hóa cho họ, gieo trồng cội gốc công đức.

Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như vô số loài chúng sinh nương vào biển cả và ở trong ấy. Các Bồ-tát cũng vậy, vô số chúng sinh đều đến trong chúng hội để nương tựa nơi chư vị ấy, hết thảy đều ở và trở về ba nẻo. Những gì la ba? Đó là, được sinh lên cõi trời, ở cõi người giàu có và đạt được diệt độ.

Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả, các loài rồng, A-tu-la đều tự tại, các Bồ-tát ấy cũng thế, hàng phục tất cả các ma.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Giới hạn của biển cả còn có thể lường xét được, còn các vị Bồ-tát này thì không thể lường xét được.

Đức Phật bảo:

-Này Tôn giả Ca-diếp! Nếu muôn biết số bụi trần trong tam thiên đại thiên thế giới thì còn có thể biết được, nhưng các hạnh chân thật và nơi hướng đến của các Bồ-tát này thì không thể biết.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ví như biển cả

Dung nạp hết thảy

Tất cả dòng nước

Nhưng vẫn không đầy,

Người cầu chánh pháp

Cũng lại như vậy

Ưa thích chánh pháp

Không cho là đủ.

Giống như biển cả

Vô lượng dòng nước

Thảy đều đổ về

Biển đều chứa hết,

Bồ-tát thông đạt

Cũng lại như vậy

Không nương trí tuệ

Mà cho là đủ.

Biển cả không nhơ

Không ngập, ô nhiễm

Các dòng nước sạch

Cũng đều đổ về,

Hành giả tu tập

Cũng lại như vậy

Không nhận phiền não

Và các nhơ uế.

Giống như biển cả

Không thể lường xét

Rộng lớn không bờ

Chẳng thể biết được,

Biển đức trí tuệ

Cũng lại như vậy

Cứu giúp chúng sinh

Không thể tính kể.

Ở trong biển cả

Có vô số dòng

Hàng vạn con sông

Hợp làm một vị,

Vô số hạng người

Đồng đến nghe pháp

Đều về một thừa

Nghĩa lý kinh điển

Chẳng phải một loại

Nên gọi là biển.

Trước khi kiến lập

Thành biển cả đức

Không hề sợ hãi

Chí nguyện như vậy

Trùm khắp chúng sinh

ấy khởi tâm đạo.

Ví như biển cả

Tích chứa các báu

Dù ở chỗ nào

Cũng không vướng mắc,

Các chúng Bồ-tát

Như chứa châu báu

Nhờ đó phát sinh

Thành ba loại báu.

Giống như sông, biển

Có ba loại báu

Như sông, biển ấy

Cũng không phân biệt,

Bậc Thánh thông tuệ

Thuyết pháp như vậy

Cũng dùng ba thừa

Dẫn dắt chúng sinh.

Giống như biển cả

Dẫn thành rộng lớn

Các dòng đổ về

Đều được trần đầy,

Các chúng Bồ-tát

Đạt các thông tuệ

Độ khắp chúng sinh

Siêng năng tu hành.

Giống như biển cả

Không chứa thây chết

Pháp như biển ấy

Cũng lại như thế,

Bồ-tát lập chí

Cầu đạo cũng vậy

Không chấp nhân ngã

Cũng chẳng thuận dòng.

Giống như trong biển

Phát sinh các báu

Đều là quý báu

Ở nơi vững chắc,

Khi kiếp thiêu khởi

Không thể đốt cháy

Liền được đem đến

Nơi cõi Phật khác.

Lúc chánh pháp diệt

Cũng lại như vậy

Người luôn tinh tấn

Giữ gìn chánh pháp,

Nhờ quan sát thấy

Không thể giữ gìn

Lập tức đem đến

Cõi Phật phương khác.

Sông, suối, ao hồ

Thảy đều khô cạn

Sau đó nước biển

Mới dần cạn khô,

Lúc kiếp thiêu khởi

Cũng lại như vậy

Đại thiên thế giới

Đều bị hủy hoại.

Chúng sinh phàm phu

Ở trong cõi nước

Giả sử chánh pháp

Đều đả diệt hết,

Những người dũng mãnh

Giữ pháp cũng vậy

Xã bỏ thân mạng

Không hề tham tiếc.

Do biết chánh pháp

Sẽ bị tiêu diệt

Giác ngộ hiện tại

Hoặc sau diệt độ,

Những người chí nguyện

Thanh tịnh như vậy

Là kiến lập pháp

Vô số chúng sinh,

Đều nên tu theo

Nương nhờ nơi biển

Chẳng phải một loại

Làm được điều ấy,

Bậc đại danh xưng

Chí nguyện như vậy

Đến khắp chúng sinh

Đều được giải thoát.

Còn có giới hạn

Phân biệt biết rõ

Đối với cõi Phật

Và các biển cả,

Sự hành hóa ấy

Không thể biết được

Các chúng Duyên giác

Và hàng Thanh văn

Không ai sánh bằng

Huống lại hơn hẳn

Hạnh các Bồ-tát

Tinh tấn vững mạnh.

Tâm chư vị ấy

Phải nên đảnh lễ

Sẽ được thành Phật

Giáo hóa chúng sinh.

Chư vị là báu

Giống như biển cả

Hãy nên cúng dường

Luôn lã ruộng phước,

Chính là đất tốt

Y vương tối thượng

Trị lành hết thảy

Mọi thứ bệnh tật.

Lại vì cứu giúp

Quay về giải thoát

Đem đèn đuốc sáng

Hiển hiện chiếu soi

Thế gian tăm tối

Được mắt sáng tỏ

Người có mắt ấy

Mau được cam lồ.

Làm vị đế vương

Thường gọi vua pháp

Đây là vua trời

Tạo nhiều lợi ích,

Cũng là vua Phạm

Tư duy bốn Thiền

Liền vận chuyển được

Bánh xe chánh pháp.

Đây là Đạo sư

Mở bày đường lớn

Nơi chốn tranh cãi

Hiện rõ lối đi,

Là bậc dũng mãnh

Hàng phục tất cả

Trừ hết phiền não

Làm tịnh cõi nước.

Tu pháp thanh tịnh

Như ánh trăng rằm

Phóng ánh sáng khắp

Như mặt trời mọc.

Trí tuệ vượt bậc

Như núi Tu-di

Ở trong ba cõi

Rưới mưa cam lộ.

Chư vị khó sánh

Giống như sư tử

Tâm ấy nhu hòa

Giống như voi hiền,

Hoặc như đại địa

Chở các núi non

Hàng phục tất cả

Luận thuyết ngoại đạo.

Hạnh thường thanh khiết

Ví dụ như nước

Uy, sáng khó lường

Vị ấy như lửa

Không hề chướng ngại

Cũng giống như gió

Xa lìa biếng nhác

Lại giống như đất

Trừ hết kiêu mạn

Nhổ sạch sân hận.

Ví như cây thuốc

Không hề phân biệt

Giới tịnh, không chấp

Giống như hoa sen

Không hề nương tựa

Tám pháp ở đời.

Hành hóa ví như

Hoa Ưu-bát-la

Vô số ức kiếp

Âm thanh khó đạt,

Đối bậc Tôn kính

Thường hay báo ân

Theo lời Phật dạy

Không lìa chánh pháp.

Chí nguyện kiên cố

Cố lòng Từ bi

Tâm từ vững chắc

Hỷ xả siêu tuyệt,

Cứu giúp chúng sinh

Đối với năm dục

Khéo biết duyên hợp

Tài sản quý báu

Thường đem bố thí

Giữ gìn giới cấm

Rất là thù thắng

Không ai sánh bằng.

Dùng lực nhẫn nhục

Giữ tâm dũng mãnh

Đạt đến tinh tấn

Thường không mệt mỏi,

Đủ các thiền định

Thần thông, trí tuệ

Đi đến vô lượng

Vô số cõi Phật

Được gặp chư Phật

Và nghe kinh điển

Như điều đã nghe

Mà tu tập theo.

Thảy đều thông đạt

Hạnh của chúng sinh

Tùy sự ứng hợp

Lòng tín, các căn,

An ổn, chân thật

Dùng phương tiện khéo

Vì các ngoại đạo

Hiển bày ánh sáng

Khiến họ thông đạt

Hết thảy các pháp

An nhiên, hòa đồng

Phân biệt báo ứng.

Thảy đều hiểu rõ

Nhân duyên pháp luật

Lìa ngã, ngã sở

Thường trụ bình đẳng,

Liền quán xét theo

Như pháp thích hợp

Chư vị đã từng

Xuất gia tu học.

Quá khứ thường gặp

Tất cả các pháp

Nhờ trụ nơi pháp

Mà rõ pháp giới,

Biết rõ thông tuệ

Chẳng có hình tướng

Có thể dấy khởi

Lòng thương thù thắng

Để cứu giúp khắp

Chúng sinh siêng năng

Tu tập giải thoát

Lại chấp vào pháp

Có ngã, ngã sở

Mà khởi vọng tưởng

Làm theo ngu si

Tà kiến, buông lung

Tu hành như vậy

Là pháp hư giả.

Chư vị giảng nói

Trừ hết kiến chấp

Vô thường là thường

Không, cho là thật,

Lấy khổ làm vui

Không thân chấp có

Phàm phu như vậy

Chấp giữ điên đảo,

Không phân biệt được

Giới hạn sinh tử

Nếu biết chánh lý

Trừ nguồn điên đảo.

Biết là không người

Không thọ, không mạng

Có thể tịnh tu

Theo hạnh bình đẳng

Hiểu rõ vô thường

Khổ không, vô ngã.

Ca-diếp Bậc ấy

Tiếng khen công đức

Từ nơi các cõi

Vang đến khắp chốn

Vô lượng người nghe

Tuệ không giới hạn

Có thể tu hành

Bồ-tát cũng vậy

Giả sử biến khắp

Ba ngàn thế giới

Thảy đều kính ngưỡng

Kiến lập Bồ-tát

Cúng dường La-hán

Gấp bội số ấy

Cũng không sánh bằng

Ta cũng kiến lập

Chí nguyện Bồ-tát

Hết thảy các bậc

Chánh giác quá khứ

Vị lai cũng vậy

Và ngay hiện tại

Thánh tôn mười phương

Thảy đều lập chí

Muốn được thành Phật.

***

Phẩm 16: KIẾN LẬP PHÁP

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm nói với Bồ-tát Phổ Thủ:

-Cúi xin Nhân giả thỉnh Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, kiến lập, lưu truyền kinh này trong đời năm trược, mạt pháp.

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Ý ông nghĩ sao? Đức Như Lai đã chẳng tuyên nói pháp này đó sao? Ông muốn Đức Như Lai kiến lập pháp sao?

Phạm thiên đáp:

-Thưa không!

Bồ-tát Phổ Thủ nói:

-Này Phạm thiên! Tất cả các pháp là không thể kiến lập, không thể nhớ nghĩ cũng chẳng có ngôn thuyết, cho nên không thể lưu truyền cũng không thể giữ gìn. Người nào muốn kiến lập kinh điển này tức là muốn tạo lập hư không. Nếu Bồ-tát muốn hội nhập vào kinh điển này thì chẳng phải là thuận theo pháp. Bồ-tát thể nhập vào tất cả kinh điển thì không còn tranh luận.

Lại nữa, đối với chúng hội, Bồ-tát chỉ tạm mượn danh dự mà thôi. Người giảng nói kinh pháp phải nên như vậy, chẳng phải vì nghe nhận kinh điển. Vì sao? Vì không có đối tượng để nghe mới chính là nghe nhận kinh điển.

Phạm thiên hỏi:

-Thưa Nhân giả! Thế nào gọi là không có đối tượng để nghe mới chính là nghe nhận kinh điển?

Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

-Mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không có đối tượng để nghe mới chính là nghe kinh. Người nào các căn nhiễm ô thì không gọi là nghe, nếu trụ chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp thì người nghe kinh như vậy gọi là hư vọng.

Bấy giờ, trong chúng hội có các Thiên tử, ba vạn hai ngàn Tỳ-kheo, năm trăm Tỳ-kheo-ni, ba trăm Ưu-bà-tắc, tám trăm ưu- bà-di… tất cả đều được nghe Bồ-tát Phổ Thủ thuyết pháp. Ngay lúc ấy, hết thảy đều chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, cùng nói kệ khen ngợi:

Nhân giả Phổ Thủ

Đúng như lời ấy

Không đối tượng nghe

Mới chính nghe kinh.

Phạm thiên Trì Tâm hỏi các Bồ-tát vừa chứng đắc pháp nhẫn:

-Thưa chư vị! Chư vị đã chẳng được nghe kinh này rồi sao?

-Thưa Phạm thiên! Chúng tôi đã nghe nhưng không có đối tượng để nghe.

Lại hỏi:

-Chư Hiền giả làm thế nào mà hiểu rõ kinh điển ấy?

Đáp:

-Nếu không thấy có đối tượng nhận biết thì biết tất cả.

Lại hỏi:

-Chư Hiền giả làm thế nào để đạt được pháp nhẫn?

Đáp:

-Là kiến lập tất cả các pháp.

Hỏi:

-Do nhân duyên gì để được hội nhập vào các pháp?

-Không có đối tượng đạt đến thì được hội nhập vào các pháp.

Hỏi:

-Hiện tại, chư Hiền giả thấy rõ các pháp không?

-Thưa Phạm thiên! Đối với tất cả các pháp trong hiện tại, thân mình, chúng sinh và chí nguyện vốn đều thanh tịnh.

Lúc ấy, trong chúng hội có một Thiên tử tên là Ly cấu Anh nói với Phạm thiên Trì Tâm:

-Thưa Phạm thiên! Nếu lãnh hội kinh pháp này thì được Đức Như Lai thọ ký không?

Phạm thiên đáp:

-Chắc chắn sẽ được thọ ký và chứng quả Vô thượng Bồ-đề.

Thiên tử nói:

-Vì sao? Vì kinh này không diệt mất quả báo, tích chứa pháp công đức của hết thảy chúng sinh, hàng phục các ma và oán thù. Kinh điển này xa lìa hết thảy sự tranh luận về tham dục, giáo hóa tất cả khiến được hoan hỷ. Người nào tin ưa kinh điển này, tâm luôn vui mừng, nghe nhận, thọ trì thì đạt được sự bình đẳng rốt ráo của bậc Hiền thánh. Nếu thọ trì kinh điển này thì được chư Phật gia hộ. Nếu chư Thiên, loài người, A-tu-la chuyên nhớ nghĩ đến kinh ấy thì đạt được quả vị không thoái chuyển, không bị các thứ xấu ác phá hoại.

Lại nữa, nếu vì kinh ấy mà đến đạo tràng, bố thí, tu tập theo pháp Phật thì chấm dứt hẳn sự ít học, vận chuyển bánh xe chánh pháp.

Lại nữa, kinh pháp này khiến dứt hẳn nghi ngờ, đạt đến đạo của bậc Hiền thánh. Nhờ nghe kinh điển này nên đạt được giải thoát. Thọ trì kinh điển này là nhằm thành tựu đạo quả. Giảng nói kinh điển này là đồng với phước đức. Khéo giữ gìn kinh điển này là thích thuận theo pháp. Nhờ kinh điển này nên được an ổn, đạt được diệt độ. Không hủy hoại kinh điển nên phá trừ ma quân, ngoại đạo. Hiểu rõ kinh điển này nên là Bậc Chúng Hựu Vô Trước. Hoan hỷ với kinh điển ấy, nên thông đạt các pháp. Vui mừng đối với kinh điển ấy thì đạt được trí tuệ thông suốt. Kinh điển ấy giúp cho người thọ trì đạt được âm thanh trí tuệ, diệt trừ tất cả kiến chấp là nơi quay về.

Kinh điển ấy dẫn dắt đến nẻo trí tuệ, phá tan ngu si.

Kinh điển ấy có thể khéo ứng hợp, vì thuận theo sự thể nhập.

Kinh điển ấy khiến thành tựu rốt ráo về thứ lớp ngôn từ khéo léo.

Kinh điển ấy làm cho mọi người hiểu rõ nghĩa lý, giảng nói bậc nhất, không bỏ nghĩa lý của kinh, đạt được trí tuệ bậc Thánh.

Kinh điển ấy chính là kho tàng, ban phát hết thảy mà không hề phiền não, cứu giúp khắp chúng sinh, đem đến cho họ thức ăn bình đẳng, khiến họ tu theo tâm Từ, ưa thích thiền định, luôn tinh tấn, trừ mọi biếng nhác, nương vào thiền định để cứu giúp chúng sinh tán loạn, dùng ánh sáng rực rỡ chiếu đến các thứ trí tà.

Phạm thiên nên biết! Người nào thọ trì kinh điển ấy thì được hết thảy chư Phật che chở.

Khi Thiên tử giảng nói về công đức của kinh này xong, thì cả tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động. Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên tử:

-Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói.

Bấy giờ, Phạm thiên Trì Tâm bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thuở xưa, vị Thiên tử này đã từng được nghe kinh điển ấy và đã được chư Phật thọ ký rồi chăng?

Đức Phật dạy:

-Thiên tử ấy đã được nghe kinh này từ sáu mươi bốn ức chư Phật. Thiên tử Ly cấu Anh đó trải qua bốn mươi vạn kiếp nữa sẽ thành Phật, hiệu là Bảo Hiểm Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Bảo tích. Trong khoảng thời gian ấy có chư Phật xuất hiện, Thiên tử ấy đều cúng dường, lại được nghe kinh điển này.

Phạm thiên nên biết! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà… nghe kinh điển này thì đạt được pháp nhẫn và được sinh về cõi nước Bảo hiểm của Đức Phật kia, ở thế giới Bảo tích.

Khi ấy, Thiên tử Ly cấu Anh bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Nay, con không mong cầu đạo quả xa vời, cũng không phát nguyện nơi đạo. Con không ưa thích quả vị Phật, không nương tựa, không muốn chứng đạo cũng không nhớ nghĩ đến thì sao Đức Thế Tôn lại thọ ký cho con?

Đức Phật dạy:

-Thiên tử nên biết! Như đem cỏ, cây, cành nhánh, hoa lá ném vào trong lửa rồi nói: “Đừng đốt cháy chúng!” mà khiến cho lửa không thể đốt cháy thì điều đó không thể có. Vì chẳng phải do lời nói của người ấy mà lửa không thể đốt cháy.

Cũng vậy, này Thiên tử! Nếu Bồ-tát không ưa thích đạo, không nương tựa, cũng chẳng kiến lập chí nguyện, không lập nguyện đối với tất cả chư Phật thì vị ấy được thọ ký.

Này Thiên tử! Nếu Bồ-tát không ưa thích đạo, không có đối tượng nương tựa, không có đối tượng để kiến lập, không có đối tượng mong cầu cũng chẳng thủ đắc, thì Bồ-tát ấy mới được Như Lai thọ ký sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, trong chúng hội có năm trăm Bồ-tát cùng bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Chúng con không kiến lập nơi đạo, không có chí nguyện, cũng chẳng thủ đắc, không vui mừng cũng chẳng nương tựa, không có đối tượng nhớ nghĩ, cũng chẳng chấp vào sự nhớ nghĩ.

Khi ấy, các Bồ-tát nương vào thần lực của Phật, liền nhìn khắp trong hư không, thấy tám vạn bốn ngàn Đức Phật ở phương trên thọ ký cho chư vị ấy sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Các Bồ-tát bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Thật là điều chưa từng có, sự thuyết pháp của Như Lai thật là hoàn hảo. Những ai đối với đạo pháp mà không có đối tượng để ưa thích, không có sự nương tựa, cũng chẳng kiến lập, không có chí nguyện cũng chẳng thủ đắc mới được Như Lai thọ ký.

Bạch Thế Tôn! Hôm nay, chúng con được tám vạn bốn ngàn chư Phật ở cõi nước phương trên thọ ký sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

***

Phẩm 17: CHƯ THIÊN KHEN NGỢI

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Thủ bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đức Như Lai hộ niệm pháp này, khiến vào đời năm trược về sau, kinh ấy sẽ được lưu truyền khắp thiên hạ ở cõi Diêm-phù-đề, khiến cho tất cả đều được mặc áo giáp công đức lớn, dùng ba phẩm để nghe pháp. Nếu thiện nam, thiện nữ nào khởi lên nhân duyên nơi ma, nhưng không theo lời sai khiến của ma thì người ấy không thể bị ma và quyến thuộc của chúng làm hại, vì có thể thọ trì kinh điển cốt yếu này nên không thoái chuyển đối với đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Đức Phật bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

-Hãy khéo tư duy về kinh điển ấy, thì kinh đó sẽ được tồn tại lâu dài, lại được các hàng trời, rồng, quỷ thần, Càn-thát-bà ủng hộ. Lại có thần chú tên là Tuyển Trạch, ta sẽ giảng nói rõ về ý nghĩa của thần chú này. Nhờ thần chú ấy nên các Pháp sư, thiện nam, thiện nữ đều được chư Thiên, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Chiên-đà-la, Ma-hầu-la-già hộ trì. Nếu chư vị ấy đang đi trên đường, ở chỗ vắng, ở trong nhà, hoặc ở trong phòng mà kinh hành tư duy, hoặc ở trong chúng hội thuận theo nghĩa lý mà quan sát, thì các vị thần sẽ hộ trì làm tăng thêm biện tài, tùy theo phương tiện, uy lực và sự dũng mãnh mà ủng hộ, khiến chư vị vượt qua các nạn oán thù, trộm cướp… Nhờ vậy, chư vị ấy mới kinh hành tịch tĩnh, nằm ngồi đều an ổn.

Này Bồ-tát Phổ Thủ! Thần chú ấy như vầy:

-Ưu đầu lê, đầu đầu lê, mạt tri, già tri, di ly thế ly thế, lệ di lệ hầu lâu, hầu lâu âm, hầu lưu y bạt tri, vu bạt tri, khưu khưu ly khư la kỳ, a na đề, yết đề sơ vãng chí, ma ế lệ ma na di ma nhĩ, bão hiền đề, tát phi lâu, cách phi sa yết đề, tân đầu lệ, nam mô Phật-đàn già lật đề, nam mô đàm mật kệ, nam mô tăng phi ế đa thiện bạt phiến đà, tát phi ba phi, di đa la di phù đề thọ, tát già ni đà la, bạt la ma na ba thế đa, lê di ba, thế đa a trí thiền đề, tát đà phù đà, ca la ha, nam mô Phật-đà tất thiền đề mạn đà bát.

Phật nói chú này xong, bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

-Đây là văn tự của thần chú. Bồ-tát nào tu hành theo kinh điển ấy thì sẽ được an ổn và được hộ trì, không bị quấy nhiễu và loạn tâm, luôn thực hành thanh tịnh theo thứ lớp, luôn biết đủ, nằm ngồi yên lặng, ưa thích tịch tĩnh, không thích ồn ào, thân tâm thanh tịnh, hành theo Từ bi, dùng pháp làm niềm vui, kinh ấy chân lý, không bị phá hoại, thường ở chỗ vắng lặng, siêng năng giảng nói pháp, luôn tư duy về ý nghĩa của đạo, bỏ hết ý niệm phi nghĩa, lấy sự yên ổn làm niềm vui, đem sự hiểu biết của mình giảng nói cho người khác, tu tập theo pháp môn từ đầu đến cuối, tâm bình đẳng đối với kẻ oán người thân, bỏ hết nhớ nghĩ, không tiếc thân mạng, quán xét hết thảy các nghiệp, hành hóa đầy đủ, thích giữ gìn giới cấm, siêng tu lực nhẫn nhục, không nói lời thô, dung mạo tươi vui, hiền hòa, thân sắc đẹp đẽ, luôn thưa hỏi, cung kính mọi người, trừ bỏ ganh ghét, ưa thích dịu dàng, ở nơi an ổn. Ông đã thành tựu hạnh nguyện này. Thiện nam và Pháp sư nào đọc tụng thần chú ấy thì đời hiện tại được mười Lực. Những gì là mười?

1. Đạt được diệu lực nơi tâm không bao giờ quên mất.

2. Đạt được diệu lực của ý, hiểu rõ các ý niệm.

3. Đạt được năng lực thể nhập vào kinh điển, hiểu rõ tất cả.

4. Đạt được năng lực kiên cố, hành hóa trong sinh tử.

5. Đạt được năng lực của sự hổ thẹn, hộ trì tất cả mọi người.

6. Đạt được năng lực hiểu biết rộng, đầy đủ trí tuệ.

7. Đạt được năng lực của pháp Đà-la-ni, thông suốt hết những điều được nghe.

8. Đạt được năng lực biện tài, được chư Phật ủng hộ.

9. Đạt được diệu lực của pháp sâu xa, đạt được năm thần thông.

10. Thành tựu diệu lực của pháp Nhẫn vô sinh, đầy đủ các thông tuệ.

Này Bồ-tát Phổ Thủ! Pháp sư nào an trú, đọc tụng, hành trì theo pháp ấy thì sẽ đạt được mười năng lực này.

Khi Đức Phật giảng nói về diệu lực của thần chú này, bốn vị Thiên vương vô cùng kinh sợ, cùng với vô số trăm ngàn quyến thuộc, quỷ thần vây quanh, đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ nơi chân, thưa:

-Bạch Thế Tôn! Chúng con cùng quyến thuộc sẽ vâng theo lời Phật dạy, ủng hộ, lưu truyền kinh ấy. Nếu thiện nam, thiện nữ hoặc Pháp sư nào có giảng nói, thực hành, thọ trì, đọc tụng pháp ấy thì chúng con cùng quyến thuộc sẽ đến nơi đó để hộ trì, khiến chư vị luôn được thanh tịnh. Nếu ở thành ấp, cõi nước, đô thị có người tại gia hoặc xuất gia nào tu hành theo kinh này thì chúng con cùng quyến thuộc sẽ đến cúng dường, phụng sự, khiến chư vị ấy đều được an ổn, không bị nguy hiểm, mọi sự dò xét đều không thể được. Nếu kinh điển này được lưu truyền đến đâu thì chúng con sẽ bảo vệ cách bốn mươi dặm, chúng Trời, Rồng, Thần, Cưu-bàn-trà… và hết thảy quyến thuộc của họ đều không thể làm hại.

Bấy giờ, Đại thiên vương Duy-lâu-lặc-xoa Hộ Oán nói bài kệ:

Con và các quyến thuộc

Các con và thân tộc

Có thể đảm nhận được

Việc cúng dường kinh này.

Khi ấy, Đại thiên vương Duy-lâu-bác (Vô Oán) nói bài kệ:

Con là Pháp vương tử

Dùng pháp dạy cho người

Cúng dường các Phật tử

Tu hành theo tâm đạo.

Đại thiên vương Đề-đầu-lại (Kiên Quận) nói bài kệ:

Con sẽ luôn hộ trì

Khắp tất cả mười phương

Những ai trì kinh này

Phật Chánh giác đã nói.

Đại thiên vương Duy-sa-mạn (Tức Ý) nói bài kệ:

Nếu kiến lập tâm đạo

Cúng dường người tu học

Cúng dường cho chúng sinh

Không mong được báo đáp.

Bấy giờ, thái tử Đế Nhan, con của Đại thiên vương Tức Ý, cầm lọng bảy báu che trên Đức Như Lai, rồi nói bài kệ:

Nay con sẽ thọ trì

Kinh điển của Như Lai

Cũng vì người khác nói

Chí nguyện con như thế.

Thế Tôn biết tâm con

Hiểu hạnh nghiệp đời trước

Tâm con đã kiến lập

Cho đến khi thành Phật.

Dâng lọng lên Như Lai

Mong diện kiến tôn nhan

Nguyện con được giống như

Tướng Ngài – vô kiến đảnh.

Chiêm ngưỡng Bậc Chánh Giác

Thế Tôn rủ lòng thương

Mắt thanh tịnh quán xét

Mắt từ nhìn chúng sinh.

Thế Tôn thọ ký con

Có trí tuệ vượt bờ

Sau khi mạng chung rồi

Sẽ sinh trời Đâu-suất

Từ Đầu-suất hạ sinh

Gặp Đức Phật Di-lặc

Trong khoảng hai vạn năm

Luôn cúng dường chư Phật

Sau khi xuất gia rồi

Tu các hạnh thanh tịnh

Liền thất khắp chư Phật

Trong tất cả Hiền kiếp.

Cúng dường hết thảy Phật

Siêng năng tu phạm hạnh

Trải sáu mươi ức kiếp

Sẽ thành Bậc Chánh Giác.

Tôn hiệu là Bảo Cái

Cõi Phật tên Trang Nghiêm

Toàn là chúng Bồ-tát

Luôn luôn giảng diệu pháp.

Thọ mạng trọn một kiếp

Sau khi Phật diệt độ

Chánh pháp trụ nửa kiếp

Vì thương tưởng chúng sinh.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng với vô số trăm ngàn chư Thiên quyến thuộc vây quanh, bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Con sẽ ủng hộ vị Pháp sư này. Những ai thọ trì kinh điển này thì con sẽ cung dường, phụng sự thuận theo ý của vị ấy. Những ai đọc tụng, giảng nói kinh này thì con sẽ đến để thưa hỏi, lãnh thọ giáo pháp và giúp cho Pháp sơ có uy lực mạnh mẽ, biện tài theo thứ lớp, giảng nói trôi chảy, không có các chướng ngại và không hề quên sót.

Khi ấy, thái tử Địch Hoặc, con của Thiên vương Thích Đề-hoàn Nhân, cầm chuỗi ngọc bảy báu đến cúng dường Đức Như Lai và nói kệ:

Thế Tôn! Con thấy rõ

Sự hành hóa của Ngài

Con cũng sẽ tu theo

Chí nguyện cầu tuệ Phật.

Hành hóa ở đời trước

Bố thí không mong cầu

Con sẽ học hạnh này

Bố thí mọi sở hữu.

Cũng thọ trì kinh ấy

Từ nơi đấng Pháp vương

Giảng thuyết khắp tất cả

Để báo ân Đạo sư.

Những ai muốn giải thoát

Cùng tu theo kinh này

Con sẽ dâng thực phẩm

Vì hộ trì Phật đạo.

Hàng Thanh văn không thể

Hộ trí kinh pháp này

Con sẽ hộ chánh pháp

Lưu truyền ở đời sau.

Thế Tôn an ủi con

Đoạn nghi của chư Thiên

Còn khoảng bao lâu nữa

Con được thành Chánh giác?

Phật đạt các thông tuệ

Liền thọ ký cho con:

Sau sẽ dược thành Phật

Giống Như Lai hiện nay.

Hành hóa ức ngàm kiếp

Hoặc hơn trăm ức kiếp

Làm ánh sáng cho đời

Hiệu là Tuệ Thành Tựu.

Bấy giờ, trời Phạm Nhẫn bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Con sẽ xả thiền định, đi đến nơi những thiện nam, thiện nữ nào có thể thuyết pháp để lắng nghe. Những ai giảng nói kinh này thì đều thu phụ được chư Thiên như Đế Thích, Phạm thiên…, con sẽ xin cúng dường phụng sự. Thiện nam này sẽ được chư Thiên và loài người cùng quy kính, cúng dường. Khi ấy, trời Phạm Nhẫn nói bài kệ:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Cùng nam, nữ cư sĩ

Nếu thọ trì kinh này

Tất sẽ cứu giúp đời.

Người tu theo kinh này

Hoặc khen ngợi, tôn kính

Con sẽ vì người ấy

Giảng nói về kinh này.

Trải tòa hoa cao vút

Lên đến trời Phạm thiên

Ngồi ở trên tòa ấy

Giảng kinh pháp cho họ.

Người nào giảng nói kinh

Nên khen ngợi: Lành thay!

Nếu người ở đời sau

Thọ trì kinh điển ấy.

Giả sử ức cõi nước

Chìm nhập trong biển lửa

Cũng nên đến chỗ ấy

Cầu xin nghe kinh này.

Chứa báu như Tu-di

Để cúng dường vị ấy

Mong được nghe kinh này

Nghiêm tịnh ngàn cõi Phật.

***

Phẩm 18: CHÚC LỤY

Bấy giờ, Đức Thế Tôn phát ra ánh sáng nơi đảnh đầu, thị hiện thần thông khiến ma Ba-tuần cùng các binh chúng đều đến chỗ Phật, thưa:

-Bạch Thế Tôn! Con và quyến thuộc ở trước Đức Như Lai xin phát nguyện: “Bất cứ chỗ nào có lưu truyền kinh này, hoặc có Pháp sư nào giảng nói kinh điển này ở pháp hội, chúng con sẽ phát nguyện bảo hộ, khiến chư vị giảng nổi luôn thông suốt, không gặp phải nguy hiểm, bị hại”.

Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng vàng ròng chiếu khắp cõi Phật, rồi bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

-Như Lai sẽ kiến lập và hộ trì cho người giảng nói kinh pháp này, nhằm khiến chánh pháp được lưu truyền khắp thiên hạ nơi cõi Diêm-phù-đề, không bị hủy diệt.

Lúc này, chư vị trong chúng hội dùng tất cả loại hoa, tất cả hương thơm tung rải lên chỗ Đức Phật, thưa:

-Bạch Thế Tôn! Xin Đức Thế Tôn khiến cho kinh này được trụ lâu ở cõi Diêm-phù-đề và được giảng thuyết, lưu truyền khắp nơi.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

-Tôn giả nên thọ trì kinh này.

Tôn giả A-nan đáp:

-Bạch Thế Tôn! Con xin thọ trì.

Đức Phật dạy:

-Này A-nan! Kinh này được lưu truyền lên đến cõi trời. Ông nên thọ trì, rồi giảng nói rõ ràng cho chúng hội.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Nếu thọ trì, đọc tụng và giảng nói kinh này cho người khác thì phước đức đạt được như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Giả sử dùng bảy báu đầy khắp hư không để bố thí, so với việc dùng văn chương, câu cú đã giảng nói ở trong kinh này để cúng dường Như Lai Chí Chân và hết thảy Thánh chúng, thì phước đức của phần sau nhiều hơn. Nếu lại có người thọ trì kinh điển này, biên chép trên thẻ tre, trên lụa để cúng dường thì hiện tại, người ấy được mười kho tàng công đức. Những gì là mười?

1. Thấy được tạng Phật vì đạt được Thiên nhãn.

2. Nghe được tạng pháp vì đạt được Thiên nhĩ.

3. Gặp được tạng Thánh chúng vì không hề thoái chuyển.

4. Được tạng báu vô tận của Bồ-tát và Hiền thánh vì có được bàn tay báu.

5. Được tạng sắc tượng vì đầy đủ tướng tốt.

6. Được tạng quyến thuộc vì quyến thuộc không thể tan lìa.

7. Được tạng chưa từng nghe vì được các pháp Đà-la-ni, có tạng nhớ nghĩ vì đạt được biện tài.

8. Được tạng không sợ hãi vì thâu tóm hết các luận thuyết ngoại đạo.

9. Có tạng công đức vì cứu giúp chúng sinh.

10. Đạt tạng trí tuệ bậc Thánh vì thấu tỏ được tất cả pháp của chư Phật.

Khi Đức Phật thuyết giảng kinh này, có bảy mươi hai ức chư Thiên đạt được pháp nhẫn, vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề, vô số chúng sinh dứt sạch mọi thứ lậu hoặc, được giải thoát.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì và thọ trì như thế nào?

Đức Phật dạy:

-Kinh này tên là Đẳng Ngự Chư Pháp, nên theo đó mà thọ trì. Lại gọi là Trang Nghiêm Phật Pháp, lại gọi là Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn, Phổ Thủ Sở Sướng, nên theo đó mà phụng trì.

Khi Đức Phật giảng nói như vậy, Bồ-tát Phổ Thủ, Phạm thiên Trì Tâm, Bồ-tát Phổ Hạnh, Hiền giả Đại Ca-diếp, Hiền giả A-nan, chư Thiên, loài người, A-tu-la… nghe lời Phật dạy đều vô cùng hoan hỷ.

    Xem thêm:

  • Kinh Phật Thuyết Ha Điêu A Na Hàm - Kinh Tạng
  • Kinh Phạm Thiên Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Tôn Giả Hộ Quốc Hỏi Về Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Phật Nói Kinh Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Hỏi Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Vấn Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ - Kinh Tạng
  • Bài Kệ Ca Ngợi Đức Phật A Di Đà - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Hộ Mạng Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Giáo Hóa Phạm Chí A Bạt - Kinh Tạng
  • Pháp Thức Thực Hành Tâm Chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi - Kinh Tạng
  • Kinh Chú Đà La Ni Kim Cang Bí Mật Thiện Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Sư Tử Trang Nghiêm Vương Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Lí Thú Lục Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Trưởng Giả Nữ Yêm Đề Giá Sư Tử Hống Liễu Nghĩa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán - Kinh Tạng
  • Kinh Mạn Thù Thất Lợi So Sánh Công Đức Tràng Hạt - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Kim Cang Bí Mật Thiện Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Những Điều Trái Nghịch Của Ma - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Tiêu Trừ Hết Thảy Chướng Nạn Thiểm Điện Tùy Cầu Như Ý - Kinh Tạng