1
2

Kinh Phát Giác Tịnh Tâm

Tùy Xà Na Quật Đa dịch

Bản Việt dịch của Thích Nguyên Xuân

***

QUYỂN THƯỢNG

Vào một lúc nọ, đức Bà Già Bà du hoá trong vườn Nai, chỗ các tiên cư trú, thuộc thành Ba La Nại, cùng với đại chúng Tỳ kheo gồm một ngàn vị, lại có chúng Bồ tát năm trăm vị-trong đó có nhiều vị, các căn chưa thành thục, có vị ít thiện căn nhiều nghiệp chướng.

Bấy giờ, ở trong chúng Bồ tát ấy, lại có các Bồ tát rất thích việc đời, ưa đàm thoại, ưa ngủ nghỉ, ưa các việc lặt vặt, ưa hý luận, ưa nhiễm trước, các thứ nghiệp văn từ tán loạn không hợp với việc hành thiền, đối với các việc thiện thì lười biếng uể oải, phá hạnh tinh tấn quên mất chánh niệm, thường hành hạnh tán loạn mà không hay biết.

Khi ấy trong chúng có một vị đại Bồ tát ngồi trong hội ấy tên là Di Lặc biết các Bồ tát trong húng kia có hạnh như vậy rồi, liền nghĩ thế này: “Các Bồ tát này làm tổn giảm đạo phần, nay ta cần cảnh tỉnh các Bồ tát này khiến họ nhớ lại đạo ý đã phát khởi”. Bấy giờ, đại Bồ tát Di Lặc nghĩ như thế rồi, vào buổi chiều từ thiền định xuất, đi đến chỗ các vị Bồ tát; sau khi đến an ủi dẫn dụ làm cho họ vui vẻ khiến họ mong muốn nghe pháp, nhân đó ngài bảo các Bồ tát ấy:

Này các trưởng lão! Trong phần Bồ Đề các vị không bị tổn giảm chứ? Sau khi Bồ tát Di Lặc hỏi như vậy, các Bồ tát kia nói với Bồ tát Di Lặc:

Trưởng lão Di Lặc! Đạo phần của chúng tôi chỉ có tổn giảm chứ không có tăng trưởng. Vì sao? Vì chúng tôi có nhiều tâm nghi ngờ là chúng tôi sẽ được thành Phật hay không được thành Phật? Chúng tôi sẽ rơi vào pháp đọa lạc hay không rơi vào pháp đọa lạc? Đối với các thiện căn có phát sanh hay không phát sanh? Sanh ác tâm đó rồi chúng tôi trụ vào tướng đó.

Sau khi họ nói như vậy, Bồ tát Di Lặc mới bảo chúng Bồ tát ấy:

Các vị trưởng lão! Nay chúng ta có thể cùng nhau đến chỗ Phật Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Đức Thế Tôn ấy hiểu biết tất cả, giải thoát không ngại, đầy đủ tri kiến, khéo biết tâm hành của tất cả chúng sanh. Ngài xét theo tâm hành của các ông mà nói pháp.

Lúc đó, chúng sáu mươi vị Bồ tát kia cùng Bồ tát Di Lặc đi đến chỗ Phật. Sau khi họ đến, năm vóc đầu mặt lễ sát chân Phật rồi, chưa kịp đứng dậy, đã khóc than thảm thiết nước mắt như mưa. Bồ tát Di Lặc đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên.

Khi ấy, Thế Tôn bảo các Bồ tát:

Các thiện nam tử! Các ông nên đứng dậy, đừng khóc, đừng than, chớ sanh sầu não! Các ông ở đời quá khứ tạo nghiệp chướng này: Thuở ấy, các ông vui mừng hớn hở chửi bới mạ nhục phá hoại người khác, không tin nghiệp báo, không thể phân biệt sự trói buộc của nghiệp chướng, không hợp với điều thiện.

Bấy giờ, sáu mươi Bồ tát kia để bày vai hữu gối phải quỳ sát đất hướng về Phật chắp tay bạch rằng:

Hay thay! Thế Tôn! Xin Ngài phân biệt nói nghiệp chướng của chúng con để chúng con tự tịnh hoá tâm mình không còn tạo tác nữa.

Khi ấy, các Bồ tát kia nói như vậy rồi, Phật mới bảo các Bồ tát ấy:

Các thiện nam tử! Vào thời quá khứ các ông xuất gia học đạo trong giáo pháp của Như Lai Câu Lưu Tôn; đã xuất gia rồi, ở trong cấm giới đối với cấm giới thì phóng túng; ở trong đa văn đối với đa văn cũng phóng túng; đối với công đức Đầu Đà đều bị tổn giảm. Thời ấy, có hai Tỳ kheo pháp sư, vì lợi dưỡng danh tiếng, các ông đối với họ vu khống pháp dâm dục, đối với nhà thí chủ thân hữu của họ thì ganh ghét xan tham; đối với đàn việt thân hữu của hai pháp sư các ông lại phá hoại ly tán, nói hai lưỡi hủy nhục, khiến họ sanh nghi ngờ, không sanh lòng tin, thiếu lòng tin; nói việc chẳng lành. Khi ấy, những chúng sanh tâm sanh kính tín tuỳ thuận hai pháp sư thì các ông làm cho bọn họ đoạn các căn lành, tạo các chướng ngại. Các ông vì nghiệp chướng này nên trong sáu mươi hai trăm ngàn năm đọa trong địa ngục A Tỳ; lại trong bốn vạn năm đọa trong địa ngục Hoặt; lại ở trong hai vạn năm đọa địa ngục Hắc Thằng; lại ở trong tám trăm ngàn năm đọa vào địa ngục Nhiệt; lại sau khi bỏ thọ mạng ở nơi ấy được trở lại thân người, trong năm trăm đời sống trong mù tối. Vì nghiệp chướng này nên sanh ở chỗ nào đều bị tăm tối ngu si, quên mất bổn tâm, căn lành bế tắc, oai lực sút kém, mọi người xa lánh, thường bị khinh khi, bị người ghét bỏ hủy nhục chê bai, thường sanh nơi biên địa nghèo hèn dòng họ thấp kém, ít lợi dưỡng ít danh tiếng không được người khác cung kính cúng dường cũng không tôn trọng; mọi người chán ghét không ưa. Từ nơi đây các ông bỏ thân mạng rồi, sau đó năm trăm năm, khi chánh pháp diệt, trở lại sanh trong dòng họ thấp hèn nơi đất nước con người ác, bần cùng hạ tiện bị người chê bai, quên mất bổn tâm không thích căn lành, thường có chướng ngại, tuy tạm gặp ánh sáng nhưng lại bị mù lòa. Các ông ở đó sau năm trăm năm, tất cả nghiệp chướng mới diệt hết, sau được sanh ở thế giới cực lạc của Phật A Di Đà. Khi ấy, các ông được Như Lai phương ấy thọ ký A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Khi ấy, sáu mươi người hành Bồ tát thừa, nghe rồi ứa nước mắt, sợ hãi rỡn tóc gáy chắp tay hướng về Phật bạch rằng:

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ trước đến nay đối với người hành Bồ tát thừa, nếu sanh tâm sân nhuế lỗi lầm và lại tự tạo nghiệp chướng khác thì ngày nay ở trước Thế Tôn chúng con đều xin sám hối. Bạch Thế Tôn! Chúng con nay ở trước Như Lai phát thệ nguyện chân thật.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau nếu đối với người hành Bồ tát thừa phạm tội mà phát giác nói ra tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau nếu đối với người hành Bồ tát thừa mà sanh ngã mạn nói việc xấu của họ, hoặc đúng hoặc sai tức là chúng con lừa dối Như Lai. Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau nếu đối với người hành Bồ tát thừa bỡn cợt, bêu xấu, khinh mạn thì tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay về sau nếu thấy người hành Bồ tát thừa hoặc tại gia hoặc xuất gia thọ hưởng quả báo ngủ dục giàu sang vui sướng mà sanh lòng bất tín, chấp vào tội lỗi của họ không sanh tâm cung kính không xem như bậc thầy tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu đối với người thân, hoặc kẻ ăn xin có nhân duyên với người hành Bồ tát thừa mà chúng con bức xúc thân tâm họ tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau đối với người hành Bồ tát thừa mà chúng con nói lời không hay và mắng chửi tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, ngày ba thời và đêm ba thời, chúng con không lễ bái tất cả người tu Bồ tát thừa tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau vì để giữ gìn điều này mà chúng con không xả bỏ thân mạng tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau nếu đối với hàng Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa mà chúng con sanh ý niệm hơn họ, tự đại chê họ tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau trong khi du hành, nếu chúng con không sanh tâm thấp hèn như Chiên Đà La, như loài chó, không tu tập như vậy tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, nếu chúng con tự khen mình chê người tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau nếu chúng con sợ hãi chỗ sân hận, đấu tranh nhưng không rời chỗ ấy cách một trăm do tuần ví như gió thổi tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, đối với người trì giới chúng con tưởng nhớ tôn kính, hoặc người đa văn hoặc vị có công đức đầu đà và người tỉnh sự cùng các công đức khác mà chúng con không khen ngợi, tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau nếu chúng con không che dấu công đức và bày cái xấu của mình tức là chúng con lừa dối Như Lai.

Khi ấy, Thế Tôn khen ngợi sáu mươi vị hành Bồ tát thừa ấy:

Lành thay! Lành thay! Này các thiện nam tử! các ông khéo nói các thệ nguyện này, có thể tự mình tỉnh thức khéo phát nguyện ấy! Các ông an trụ như thế sẽ dứt hết tất cả nghiệp chướng và đắc thiện căn thanh tịnh.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo đại Bồ tát Di Lặc:

Này Di lặc! Bồ tát nào muốn tịnh hoá nghiệp chướng thì nên phát nguyện này.

Khi ấy, đại Bồ tát Di Lặc lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Như có những thiện nam tử… hộ trì nguyện này được viên mãn bất thối chuyển chăng?

Phật bảo Di Lặc:

Có những Bồ tát hành trì nguyện này, và thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, thà bỏ thân mạng chứ không để khiếm khuyết, cũng không thối lui xả bỏ hạnh này.

Bấy giờ, Bồ tát Di Lặc lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Những người hành Bồ tát thừa phải đủ bao nhiêu pháp để năm trăm năm sau khi chánh pháp diệt không bị tổn hại mà được giải thoát?

Phật bảo Di Lặc:

Họ phải đủ bốn pháp thì năm trăm năm sau khi chánh pháp diệt mới không bị tổn hại mà được giải thoát.

Bốn pháp đó là gì?

Đó là không tìm lỗi của người; đối với người thuộc hàng Bồ tát thừa phạm tội cũng không phát giác; đối với bè bạn thí chủ không sanh tâm tham tiếc, xả bỏ lời nói ác. Di Lặc! Đó là những người hành Bồ tát thừa đầy đủ bốn pháp, năm trăm năm sau vào thời vị lai sẽ không bị tổn hại mà được giải thoát.

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa ấy nên đọc kệ rằng:

Lỗi kẻ khác chớ nhìn sai lệch

Đừng bảo rằng người khác đúng sai

Buông bỏ hết các lời thô ác

Sống thanh bần, chớ bám nhà ai.

Lại có bốn pháp mà năm trăm năm sau khi chánh pháp diệt, hàng Tỳ kheo băng hoại những người hành Bồ tát thừa không bị tổn hại mà được giải thoát. Bốn pháp đó là gì? Đó là không giao thiệp với mọi người nên rời bỏ họ, xa lìa đám đông, thường tu nơi thanh vắng; điều phục thân mình thích hợp với những điều này. Di Lặc! Những người hành Bồ tát thừa đầy đủ bốn pháp ấy thì ở trong năm trăm năm sau, khi chánh pháp diệt tự thân họ không bị tổn hại, an ổn giải thoát.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ:

Xa lìa ồn náo sống viễn ly

Tỳ kheo không pháp chớ gần gũi

Tu nơi thanh vắng Phật khen ngợi

Nhờ không tham lợi được Niết Bàn.

Vì thế, Di Lặc Bồ tát ở năm trăm năm sau muốn mình không bị tổn hại, được giải thoát tất cả nghiệp chướng, muốn được thoát khỏi những việc ấy thì chớ gần nơi ồn ào, nên ở chỗ vườn rừng yên tịnh, xa lìa đừng giao du với mọi người, thường cảnh tỉnh mình chớ tìm lỗi người, ưa thích yên tỉnh sống tương ứng với trí tuệ độ, đối với các chúng sanh khởi lòng từ mẫn, thuyết pháp cho họ chẳng cần báo ân.

Khi ấy Thế Tôn bảo Bồ tát Di Lặc:

Thiện nam tử! Thí pháp mà chẳng cầu quả báo, chẳng đắm lợi dưỡng và danh tiếng, chỉ vì người thuyết pháp thì có hai mươi công đức. Hai mươi công đức đó là gì? Đó là được nhớ nghĩ chân chánh cảnh giới tốt đẹp, được ý chân chánh tốt đẹp, được ý chí mạnh mẽ, được nhiều trí tuệ, giác ngộ trí tuệ độ xuất thế, sẽ được thiểu dục, sẽ dập tắt sân hận, sẽ diệt ngu si, tất cả các ác ma không tìm được chỗ sơ hở, chư Phật hộ niệm, phi nhơn bảo vệ, chư thiên giúp sức, tất cả oan gia không thể gây hại, thân thích không bị người phá hoại, lời nói ai cũng tin, được vô sở uý, đi đến đâu luôn thường vui vẻ, người trí thường khen ngợi, hành pháp thí thường được người nhớ.

Này Di Lặc! Đó là hai mươi công đức của người nói pháp không cầu quả báo, xả bỏ lợi dướng và danh tiếng, không mong cầu y phục, ăn uống, lấy lợi ích làm đầu, thường hành pháp thí.

Lại nữa, Di Lặc! Bồ tát khi bố thí pháp cho người không đắm trước lợi dưỡng và danh tiếng lấy sự lợi ích làm đầu thì có hai mươi công đức? Đó là chưa phát sanh biện tài thì khiến cho phát sanh, đã phát sanh thì không mất, được Đà-la-ni, sẽ được mật động, không dùng nhiều sức mà vẫn làm lợi ích khắp quần sanh, dùng ít công sức mà làm nhiều lợi ích, chúng sanh gần gũi cúng dường tôn trọng, thường được cúng dường, sẽ được thân mật, khẩu mật, ý mật, vượt ngoài nẻo ác và các sự sợ hãi, khi mạng chung lòng được hân hoan, nói như chánh pháp, có khả năng hàng phục luận cứ của người khác, đủ đại oai đức, thánh nhơn còn kính ngưỡng huống hồ người phàm, các căn thành tựu không thể so sánh, thân tâm cụ túc, đắc pháp chỉ quán, có thể làm việc khó làm, tinh tấn không giảm sút; giữ gìn chánh pháp mau chóng vượt qua địa vị bất thối chuyển; an trụ tuỳ ý trong tất cả hạnh.

Này Di Lặc! Ông quán sát sau năm trăm năm trong đời vị lai có bao nhiêu người vô trí ở Bồ tát thừa, khi hành pháp thí cầu quả báo vui vẻ, chẳng phải không mong cầu? Họ sanh tâm đó mà nói pháp cho người. Vì để thêm nhiều người thân và sự cầu xin nên hành pháp thí, lại khởi niệm như vầy: làm sao khiến người xuất gia và tại gia sanh lòng tin thanh tịnh để cúng dường cho ta những thứ cần dùng như: y phục, thứ ăn uống, ngọa cụ, thuốc men… Vì nhân duyên này nên nói pháp cho người.

Này Di Lặc! Ví như thây rắn, thây chó, thây người chết hôi hám nhơ uế thối rửa bất tịnh mọi người nhờm gớm lánh xa. Cũng như vậy, này Di Lặc! Ở đời vị lai các pháp sư chỉ cầu quả bảo mà thuyết pháp cho người. Nếu không có tài lợi thì chán nản đau khổ, uể oải bỏ đi: chúng ta không được lợi, thí pháp như thế chẳng có lợi nhuận; đã không cho ta y phục, thức ăn uống, ngọa cụ thì chuyện gì ta phải chịu khổ. Họ nghĩ như thế. Người ấy vì xem trọng việc cúng dường, phụng sự cho bản thân mình để nuôi người hầu và chúng đệ tử, mà không vì pháp, hoàn toàn chẳng làm việc lợi ích cho người mà miệng dối trá tỏ ra như là dạy dỗ hướng dẫn mọi người: “Ta có từ bi như pháp nhiếp chúng, không vì tài lợi chỉ vì lợi ích, nên đến thành ấp thôn xóm, vương cung để giáo hoá thành thục chúng sanh. Tuy họ nói lời như thế nhưng trong lòng chỉ vì các thứ y phục, ăn uống, ngọa cụ, thuốc men…

Này Di Lặc! Ta không cho rằng người cầu tài vật ấy thí pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì phàm người mong cầu báo đáp thì thí pháp không bình đẳng.

Di Lặc! Ta không cho rằng người mong cầu báo đáp ấy giáo hoá thành thục chúng sanh. Vì sao? Vì người nào tự mình chưa thành thục mà có thể thành thục người khác thì điều đó không có.

Di Lặc! Ta không cho rằng người coi trọng việc thừa sự ái, cung dưỡng thân, thâu nhận các đồ vật mà vì lợi ích của người khác. Vì sao? Vì người thừa sự ấy chỉ làm cho thân mình vui sướng chứ không thể nhiếp chúng kiến lập sự tu hành.

Di Lặc! Ta không cho rằng người dối trá xưng mình thiện mà ở nơi thanh vắng.

Di Lặc! Ta không cho rằng người phước mỏng là người sống hạnh thiểu dục.

Di Lặc! Ta không cho rằng người chỉ tìm cầu thức ăn ngon là người sống hạnh khất thực.

Di Lặc! Ta không cho rằng người thiếu lợi dưỡng là người sống hạnh tri túc. Ta không cho rằng người tìm cầu y phục đẹp là người trì giữ y phấn tảo. Ta không cho rằng người không biết đạo tục mà ở một mình là người không sống tạp hạnh. Ta không cho rằng người giỏi nịnh hót quanh co là người gặp Phật ra đời. Ta không cho rằng người tìm sở đoản của kẻ khác có thể hiệp với chánh pháp. Ta không cho rằng người nhiều sân hận là người trì giới thanh tịnh. Ta không cho rằng người ngã mạng cống cao là người đa văn. Ta không cho rằng người bạn tốt là bậc thầy trì luật. Ta không cho rằng người oai nghi không trong sạch là người khéo nói pháp cung kính. Ta không cho rằng người nói thêu dệt đùa giỡn là bậc thầy khéo giảng pháp. Ta không cho rằng người nhiễm trước gia nghiệp là đạo sư phạm hạnh thanh tịnh. Ta không cho rằng người bố thí để cầu phước là người không mong báo đáp. Ta không cho rằng người cầu báo ân là khéo nhiếp sự. Ta không cho rằng cầu lợi dưỡng danh tiếng là người nội tâm thanh tịnh. Ta không cho rằng người bất tín nhiều phân biệt là người xuất gia. Ta không cho rằng người hay tin theo lời dạy của người khác là người khéo trì giới. Ta không cho rằng người không tôn trọng (phép) là người (thích) nghe pháp. Ta không cho rằng chấp vào kinh điển chú thuật ở đời là người ưa thích pháp. Ta không cho rằng người không tin “pháp không” mà được giải thoát. Ta không cho rằng người nhiễm trước là người tu hành thanh tịnh. Ta không cho rằng người nhiễm trước hạnh là người mãn bồ đề phần. Ta không cho rằng người trụ sở đắc là người chứng trí. Ta không cho rằng người yếu hèn là người viên mãn nhẫn nhục. Ta không cho rằng người không bị người xúc phạm là người mặc giáp nhẫn nhục. Ta không cho rằng người bản tánh ít phiền não là người giới thanh tịnh. Ta không cho rằng người nói nhiều là người làm theo lời dạy. Ta không cho rằng người thích nói là người nhất tâm. Ta không cho rằng người ưa tạo dựng thế nghiệp là người không làm (chánh) pháp tổn giảm. Ta không cho rằng người trong tâm thanh tịnh sẽ đọa nẻo ác. Ta không cho rằng người làm theo trí là làm bậy. Ta không cho rằng người làm tương ứng với phương tiện là nịnh hót quanh co. Ta không cho rằng người không cầu danh lợi là người vọng ngữ. Ta không cho rằng người không lý luận là phỉ báng pháp. Ta không cho rằng người thích hộ trì chánh pháp là người tiếc thân mạng. Ta không cho rằng người có tánh sợ hãi là người phát khởi tinh tấn.

Di Lặc! Các loại tội lỗi nịnh hót quanh co điên đảo tham lam như vậy… Ở đời vị lai sau năm trăm năm hàng Bồ tát thừa rơi vào ác hạnh này nên khéo gìn giữ!

Bấy giờ đại Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Chỉ có sáu mươi Bồ tát này ở đời vị lai năm trăm năm sau có các nghiệp chướng hay còn có các Bồ tát khác nữa?

Phật bảo: Di Lặc! Năm trăm năm sau cũng có các Bồ tát khác bị nghiệp chướng trói buộc. Trong đó cũng có người đoạn hết nghiệp chướng hoặc có người làm tăng trưởng nghiệp chướng.

Lại nữa Di Lặc! Vào thời ấy, trong năm trăm Bồ tát này sẽ có hai mươi Bồ tát có ít nghiệp chướng, nghiệp chướng vi tế. Sau năm trăm năm ở đời vị lai họ sẽ sanh ở thôn xóm thành ấp đất nước hiểm nạn, trong dòng họ đại phú hào, thông minh nhiều trí khéo biết phương tiện, tâm ý nhu thuận có nhiều ảnh hưởng, lợi ích rộng lớn, đoan chánh dễ mến, biện tài khéo léo che dấu đức độ, an trụ hạnh công đức đầu đà, đã ở trong vô số ức kiếp A Tăng Kỳ, tu tập Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, hộ trì chánh pháp, xã bỏ thân mạng, ở chỗ thanh vắng, xa lìa làng xóm, không cầu danh lợi, thường ưa tin cần nhập vào dòng đời, giỏi về ngôn luận, thông đạt sách đời, nghe ít hiểu nhiều, khéo biết pháp quán, đắc đủ biện tài, khéo hay phân biệt tuỳ theo câu hỏi mà đáp với nghĩa lý, đắc biện tài vô ngại, còn đắc vô tận đà la ni. Khi giảng pháp cho bốn bộ chúng, nhờ oai thần lực của Phật, sự hộ trì của Phật nên đối với những kinh mà Như Lai nói như: Tu Đa La, Kỳ Dạ, Thọ Ký, Già Đà, Ưu Đà Na, Ni Đà Na, A Ba Đà Na, Y Đế Việt Đa Già, Xà Đa Ca, Tỳ Phật Lược, A Phù Đà Đạt Ma, Ưu Ba Đề Xá, có thể tự giảng giải.

Di Lặc! Bấy giờ, hai mươi Bồ tát khéo phương tiện ở bên Hòa Thượng A Xà Lê lãnh thọ pháp bổn này với vô lượng trăm ngàn câu kinh đều có thể tụng trì giải nói, nhờ tụng bổn pháp này mà các thiện nam tử ấy đối với các biện tài tâm không nghi ngờ, nhiếp thọ an trụ.

Lại nữa, Di Lặc! Trong thời ấy cũng có Bồ tát không có phương tiện hoặc làm người thế tục hoặc người xuất gia, đối với người hộ trì chánh pháp, người dạy hành pháp, người có hạnh chân thật, các pháp sư đó nói giáo pháp, họ đều không thọ trì mà còn khinh khi cười nhạo: “Các ông tự đặt ra pháp này, những câu pháp này chẳng phải Như Lai nói. Các ông tự ý nhóm hợp sáng tác trau chuốt văn từ này làm thêm phiền phức. Chúng tôi đối với pháp này không sanh kính trọng, không sanh ý tưởng tin ưa, khó gặp.

Di Lặc! Vào thời gian ấy, có nhiều chúng sanh phỉ báng pháp này, phá hoại pháp này, không thọ trì pháp này; xem giống như trò đùa giỡn của chú bé láu lĩnh đối với bạn đồng hành. Cho rằng: Các Tỳ kheo ấy không nương vào khế kinh, không nương vào tỳ ni để giảng pháp; và nói với mọi người các người chớ sanh tâm kính tin hy hữu, đây chẳng phải là chánh pháp.

Di Lặc! Bọn họ là người ngu si, không biết rằng tất cả lời nói thiện, hiện có là đều do Như Lai nói ra-Bọn người ấy bị ma kiềm chế, nên phỉ báng pháp của các pháp sư giảng thuyết, họ sẽ tạo nhơn duyên của nghiệp hủy báng pháp, vì tạo nhơn duyên của nghiệp hủy báng pháp nên họ sẽ đọa vào đường ác. Cho nên Di Lặc! Bồ tát muốn hộ trì chánh pháp thì phải tạo phương tiện che đức độ của mình, đối với các hàng chúng sanh có Hạnh cần phải hộ trì, chớ để họ sanh tưởng chướng ngại.

Khi ấy, đại Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

Hy hữu thay, Thế Tôn Bà Già Bà! hàng Bồ tát trong thời ấy không có trí tuệ mà không cầu biện tài, đối với pháp của người khác không tin tưởng thì đối với ai để cầu sanh thiện căn và đà la ni để tự bảo hộ? Nếu không như thế thì khi ở bên pháp sư trì pháp họ khởi (tâm) hủy báng, phát sanh ô uế. Bạch Thế Tôn! Ví như có người khát muốn uống nước đến suối hoặc ao hoặc hồ hoặc giếng, chưa uống nước mà trước hết ném phân vào, ném phân rồi mới muốn uống nước, nghe mùi hôi hám, kinh tởm không uống nhưng không cho là mình làm ô uế mà lại đỗ lỗi cho nước tạo ra sự dơ bẩn ấy. Cũng như thế, bạch Thế Tôn! Hạng người ngu si ấy luôn luôn mong cầu pháp, muốn rõ pháp hạnh, nhưng trước hết đối với pháp của người thì tìm chỗ sơ hở, rồi trở lại nghe pháp chê bai pháp sư và lời giảng của pháp sư, như người ngu si kia chê suối ao, hồ, giếng… là dơ bẩn. Tỳ kheo trì pháp nên biết như vầy: Nếu người nào có thể nói pháp như thế thì nên biết đều là sức oai thần của Phật.

Như vậy, Thế Tôn! Khoảng năm trăm năm sau, có Bồ tát vô trí làm hoen ố pháp ấy và Tỳ kheo trì pháp, rồi ở bên vị ấy muốn uống pháp vị. Họ không tự biết đó là tội lỗi của mình mà còn khinh chê các pháp sư, trước mặt mọi người nói lỗi của pháp sư, khởi sự nhiễm ô tìm lỗi của người, phát sanh nhàm chán rồi muốn lìa bỏ.

Khi ấy, Thế Tôn khen ngợi Bồ tát Di Lặc:

Lành thay! Lành thay! Này Di Lặc! Ông nói như vậy hay lắm! Nếu người hay tìm kiếm lỗi của người thì nên biết bản thân mình chưa lìa tất cả tội lỗi.

Di Lặc! Có bốn nhân duyên mà chư Phật đã nói tất cả biện tài phải biết như thế. Di Lặc! Lại có bốn nhân duyên nên biết bốn biện tài tức là tất cả điều chư Phật Như Lai đã nói, chê bai những điều mà tất cả chư Phật Như Lai không chấp nhận.

Này Di Lặc! Nên biết bốn nhân duyên gì mà chư Phật đã nói.

Này Di Lặc! Biện tài ấy nghĩa trọn vẹn chẳng phải nghĩa không trọn vẹn; đầy đủ pháp chẳng phải không đầy đủ pháp; đoạn hết phiền não không tăng trưởng phiền não; nói công đức Niết bàn, chỉ bày tội lỗi sanh tử. Di Lặc! Đó là Tứ biện mà chư Phật đã nói nên biết như vậy!

Di Lặc! Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cùng tương ứng hoà hợp với Tứ Biện Tài này thì có thể biện thuyết. Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn nào gần gũi người ấy thì nên tưởng như Phật, như giáo sư, để nghe pháp nghĩa… Vì sao? Này Di Lặc! Vì người ấy có nói điều gì thì đều là điều Như Lai đã nói. Nên biết như vậy!

Di Lặc! Nếu có người phỉ báng Tứ Biện này cho là chẳng phải Phật nói, không sanh tâm tôn trọng cung kính, lại còn ganh ghét người tức là họ phỉ báng biện tài của tất cả chư Phật Như Lai đã nói, phỉ báng pháp rồi còn tạo thêm nghiệp phá hoại pháp; tạo nghiệp diệt pháp rồi, thì đọa vào nẻo ác. Vì vậy, Di Lặc! Thiện nam tử nào có tín tâm, muốn được xa lìa nghiệp chướng phá hoại pháp thì không thể vì ghét người mà ghét pháp; không thể vì không thích người mà đối với pháp kia không sanh tâm ưa thích gần gũi.

Thế nào là biện thuyết bị chư Phật chê bai không chấp nhận?

Này Di Lặc! Có loại biện thuyết không có lợi ích, không nương vào pháp chơn thật, tăng trưởng phiền não không hết phiền não, tăng trưởng sanh tử, không khen ngợi công đức lợi ích của Niết bàn.

Di Lặc! Biện thuyết này bị tất cả chư Phật quở trách và tất cả chư Phật không chấp nhận.

Bấy giờ Bồ tát Di lặc bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu có biện thuyết làm tăng trưởng sanh tử chẳng phải biện tài của Phật thì làm sao Thế Tôn nói về các phiền não làm lợi ích cho các Bồ tát, lại còn khen ngợi việc lưu chuyển trong sanh tử để viên mãn Bồ đề phần? Thế Tôn biện tài như vậy lẽ nào chẳng phải Như Lai nói?

Phật bảo Di Lặc:

Ý ông nghĩ sao? Vì phiền não này làm viên mãn Bồ đề phần làm lợi ích cho các Bồ tát nên mới nói ra; lại khen ngợi sự lưu chuyển trong sanh tử. Như vậy, việc này là hợp với nghĩa hay không hợp với nghĩa, hợp với pháp hay không hợp với pháp?

Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói xác quyết rằng hợp với nghĩa với pháp thì lời nói này là lời nói chân chánh.

Phật bảo Di Lặc:

Vì nghĩa đó ông nên biết, tất cả lời chư Phật nói đều là biện tài của Phật. Nên biết như vậy. Nếu có người nói các phiền não viên mãn Bồ đề phần, nói vì lợi ích cho các Bồ tát khen ngợi sự lưu chuyển sanh tử là làm lợi ích cho các Bồ tát. Vì sao vậy? Này Di Lặc! Vì Bồ tát nên biết như thật phiền não ấy. Bồ tát này không phạm tội do phiền não này vì đối với nghĩa được tự tại, đối với pháp cũng được tự tại. Đó là các Bồ tát phương tiện thiện xảo; địa vị ấy chẳng phải là địa vị của hàng Thanh văn Bích Chi Phật.

Này Di Lặc! nếu phiền não không có lợi ích không phải nhân duyên làm viên mãn Bồ đề phần, chẳng phải là nhân của thiện căn thì đối với nó Bồ tát không cần phải tiếc thân mạng (?) cũng không được nương theo phiền não ấy. Vì sao vậy? Này Di Lặc! Vì Bồ tát đắc trí lực có sự phan duyên đặc biệt, thấy phiền não liên kết với hữu vi.

Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa lý Phật nói là: nếu có Bồ tát không muốn tạo nghiệp chướng, muốn đoạn sạch nghiệp chướng, không khuyết không tổn, muốn giải thoát thì vị ấy ở đời vị lai cần phải tin hạnh Bồ tát, cần phải tư duy, chớ tìm lỗi người, thường cầu việc công đức, cầu điều chân chánh.

Phật bảo:

Đúng vậy! Đúng vậy! Này Di Lặc! Bồ tát ấy ở đời sau cần phải tư duy đối với hạnh Bồ tát, nên biết phương tiện. Vì sao vậy? Vì có trí phương tiện mới hành Bồ tát, mà phương tiện thiện xảo khó có thể biết được.

Này Di Lặc! Ví như bậc Tu Đà hoàn ở trong hạnh phàm phu mà hiện địa vị Tu Đà Hoàn, thì có hoạn đặc biệt khác với phàm phu. Tội lỗi của dục sân hận si mê của các phàm phu làm họ sẽ đọa đường ác, còn tội lỗi của các Thánh Thanh văn thì không làm vị ấy đọa đường ác. Như thế nên nhận biết.

Này Di Lặc! Cũng như vậy. Vì bậc trí hạnh Bồ tát chưa thể diệt hết tập khí nhiễm ô. Họ có địa vị khác nhau và người mới hành Bồ tát có địa vị khác nhau. Vì sao? Vì tâm vị ấy không trụ vào các sử, còn các phàm phu nhiễm trước các sử? Vì ngu si nên phàm phu không thể biết việc giải thoát.

Di Lặc! Bậc trí hạnh Bồ tát tuy có trọng tội nhưng nhờ sức trí tuệ nên diệt hết như tro, cũng không do đó mà đọa đường ác.

Di Lặc! Ví như đám lửa cháy mà ném cây củi lớn vào; cứ thế ném nhiều củi vào trong lửa thì đám lửa ấy càng cháy to không thể tắt. Cũng như vậy, này Di Lặc! Khi lửa trí của bậc trí hạnh Bồ tát bùng cháy mà đem hữu vi phiền não ném vào trong lửa trí thì như thế lửa trí càng cháy mạnh mà không thể tắt được đó là nhờ sức trí tuệ. Do vậy, ông nên biết, các hạnh của các Bồ tát trí hạnh ấy khó biết.

Khi ấy, Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Người mới hành Bồ tát vì chưa đắc trí lực, bỏ nhà xuất gia thì cần phải xa lìa những pháp gì? Và nên gần gũi những pháp gì? Nếu Bồ tát gần gũi pháp ấy thì trí lực chưa sanh khiến sanh, đã sanh khiến phát triển không giảm?

Phật bảo Di Lặc!

Người mới hành Bồ tát bỏ nhà xuất gia, chưa đắc trí lực, tuy bỏ của cải, làm việc cúng dường nhưng cần phải quán họa hoạn của lợi dưỡng danh tiếng, phải mau chóng bỏ lời bàn tán của thế gian, phải quán hoạ hoạn của lời bàn tán thế gian; nên bỏ việc thích nói nhiều, quán hoạ hoạn của việc nói nhiều; nên bỏ việc thích ngủ nghỉ, quán hoạ hoạn của việc ngủ nghỉ; nên bỏ việc ưa tạo tác các nghề nghiệp, quán hoạ hoạn của các nghề nghiệp thế gian; nên bỏ việc ưa đùa giỡn, quán hoạ hoạn của việc ưa đùa giỡn. Sau khi Bồ tát bỏ lợi dưỡng danh tiếng, cần phải tu theo hạnh thiểu dục tri túc, cần phải gần người thiểu dục tri túc; bỏ lời bàn tán của thế gian rồi, cần phải gần gũi người thích sống một mình; bỏ việc nói nhiều rồi, cần phải quán nghĩa chân thật; bỏ việc ngủ nghỉ rồi, đầu đêm cuối đêm phải thường tỉnh giác; bỏ việc tạo nghề nghiệp rồi, cần phải gần gũi pháp xuất thế gian; bỏ việc vui đùa rồi, cần phải tu tập Lạc vô chúng sanh từ.

Này Di Lặc! Người mới hành Bồ tát bỏ nhà xuất gia chưa đắc trí lực, thì cần phải xa lìa các pháp như vậy và gần gũi các pháp như vậy.

Di Lặc! Người mới hành Bồ tát, bỏ nhà xuất gia, chưa đạt đến trí lực, khi chưa bỏ lợi dưỡng và danh tiếng, khi chưa gần gũi (nhân hạnh) thiểu dục tri túc, nếu chưa sanh trí lực có thể khiến cho sanh đã sanh có thể khiến cho phát triển thì không có điều đó; chưa lìa lời bàn tán của thế gian, chưa gần gũi người sống một mình, không rời bỏ sự ưa ngủ nghỉ, đầu đêm cuối đêm không gần sự tỉnh giác mà ưa tạo tác sự nghiệp thì trong thời gian ấy không thể tu tập pháp xuất thế gian; không bỏ sự vui đùa, không gần gũi với tưởng Vô chúng sanh từ mà chưa sanh trí lực khiến cho sanh, đã sanh khiến cho phát triển thì không có điều đó.

Này Di Lặc! Cho nên nếu có Bồ tát muốn sanh trí lực thì Bồ tát nên bỏ các pháp cần phải bỏ, nên tu tập các pháp cần phải tu tập. Vì sao vậy? Di Lặc! Vì trí tuệ từ đó mà phát sanh, không có nhân ấy trí không thể sanh, nhân mà không hoà hợp thì không thể dễ dàng sanh được. Khi ấy, Bồ tát Di Lặc bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Bồ tát phải quán tội lỗi của lợi dưỡng và danh tiếng như thế nào? Các tội lỗi của lợi dưỡng và danh tiếng là những gì? Khi Bồ tát quán thì vui với hạnh tri túc mà không hối tiếc.

Phật bảo Di Lặc: Trong khi quán lợi dưỡng Bồ tát không cho sanh tham muốn quán như vầy: Vì lợi dưỡng nên sanh tâm tham làm hại đến hạnh của mình, tâm sanh các họa cần phải quán lợi dưỡng làm phát sanh ngu si, ngã mạn; nên quán lợi dưỡng làm phát sanh ganh ghét; nên quán lợi dưỡng làm phát sanh yêu huyễn, thành tựu vị ái dục; nên quán lợi dưỡng làm phát sanh nịnh hót quanh co, nên quán lợi dưỡng làm xa lìa tứ thánh chủng, nên quán lợi dưỡng làm mất hết tàm quí mà tất cả chư Phật không chấp nhận; nên quán lợi dưỡng làm phát sanh ngã mạn cống cao, ở gần bậc tôn quí mà không sanh ái kính, bị tất cả mọi người lãng quên; nên quán lợi dưỡng là trợ lực của bọn ma, chỉ là nền tảng của sự phóng dật; nên quán lợi dưỡng bẻ gãy các căn lành giống như mưa đá; nên quán lợi dưỡng nhiều nhơ bẩn; nên quán lợi dưỡng làm mất bạn bè tri thức; nên quán lợi dưỡng hay sanh thương ghét và sầu não; nên quán lợi dưỡng làm mất chánh niệm, nhiều nhiễm ô; nên quán lợi dưỡng làm cho bạch pháp suy kém khiếm khuyết chánh cần; nên quán lợi dưỡng là chướng ngại không gì bằng, làm không đắc được các thần thông; nên quán lợi dưỡng phát sanh sự dối trá, nói toàn việc bất thiện; nên quán lợi dưỡng có nhiều phân biệt suy lường, tạo nghiệp; nên quán lợi dưỡng làm xa lìa các niềm vui, đánh mất thiền định; nên quán lợi dưỡng giống như dâm nữ làm xa lìa trí tuệ tịch tịnh; nên quán lợi dưỡng làm đọa vào các ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… như Đề Bà Đạt Đa, Ưu Đà La Ca Văn Hạnh (?). Di Lặc! Bồ tát cần phải quán sát lợi dưỡng như vậy. Đã quán sát lợi dưỡng thì khi quán sát bằng lòng với thiểu dục không còn sự hối tiếc. Vì sao vậy? Này Di Lặc! Bồ tát thiểu dục không có các hoạ hoạn như vậy, sẽ là pháp khí của chư Phật, không tuỳ thuộc sự khinh mạn của người tại gia và xuất gia, thường không sợ hãi, được lòng tin thanh tịnh, đối với tất cả đường ác đều không sợ hãi, không bị hàng phục, xa lìa tất cả vị ái, lìa các cảnh ma, sẽ được giải thoát, được tất cả chư Phật khen ngợi, được trời người mến mộ, không nhiễm trước các thiền định, ai gần gũi sẽ sanh hoan hỷ, lìa dua nịnh quanh co, sẽ không còn phóng dật; quán các hoạ hoạn của năm dục, y như lời nói ra không thay đổi, thường trụ quán phạm hạnh của dòng tộc chư thánh. Di Lặc! Bồ tát trí tuệ quán các công đức như vậy, cần phải xa lìa lợi dưỡng danh tiếng, chánh tâm trụ vào tri túc, phải trừ hết tất cả tham dục. Phật nói xong Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bồ tát quán hoạ hoạn của lời nói thế gian như thế nào? Và thế nào là các hoạ hoạn của lời nói của thế gian mà sau khi quán rồi, Bồ tát ưa sống một mình không hối tiếc?

Phật bảo Di Lặc:

Lời nói của thế gian có hai mươi hoạ hoạn cần phải quán sát, khi Bồ tát quán thì thích sống một mình. Hai mươi hoạ hoạn đó là gì? Đó là không hộ hạnh của thân, không hộ hạnh của miệng, không hộ hạnh của ý, nên có nhiều hạnh dục, nhiều sân hận nhiều ngu si, đối với việc thế gian thì có nhiều lời bàn luận, nhưng đối với việc xuất thế gian thì tiếc lời, gần gũi pháp bất kính, xa lìa chánh pháp, ma được thuận tiện, sẽ hành phóng dật, khiến theo sự phóng dật, có nhiều phân biệt giảm quán đa văn, sẽ không đắc chỉ và quán, sẽ mau chóng trở thành phi phạm hạnh; lòng tin đối với Phật pháp tăng bị giảm sút. Này Di Lặc! Đó là hai mươi hoạ hoạn của lời nói thế gian. Bồ tát nào sau khi quán như vậy thì thích sống một mình mà không biết mệt mỏi.

Khi ấy, Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên đọc kệ:

Bỏ giới xa lìa chốn tịch tịnh

Ưa thích nói việc của thế gian

Người ấy tạp nhiễm rồi phá giới

Lại có các hoạ hoạn như vầy:

Vui đùa cười giỡn và phân biệt

Người nói chuyện thế gian như vậy

Thường có tạp hạnh không kiểm thúc

Phát ra lời gần gũi thế gian

Kẻ ngu ở đời ưa pháp trí

Không trí bàn luận thêm tổn hại

Tăng trưởng phóng dật, nhiều phân biệt

Nếu nói lời gần gũi thế gian

Thì sẽ không tăng trưởng đa văn

Lời nói không hợp sanh vui thích

Thường làm tổn hại các thiền định

Ngồi một mình tâm nghĩ thế gian

Nghĩ đến thế gian sao có định!

Không đắc tịch định không chánh quán

Nên không có phạm hạnh thù thắng

Nếu nói lời gần gũi thế gian

Dù gần bên Phật không kính trọng

Cũng không ngưỡng mộ bậc thánh Tăng

Lìa bỏ pháp tối thượng tối thắng

Để thân cận lời nói thế gian.

Xưa Ta xả thân số muôn ngàn

Vì cầu duyên vô thượng Bồ Đề

Chưa từng nhàm chán nghe chánh pháp

Xả bỏ mọi thứ không màng đến

Không thích nam nữ và thế thiếp

Ta xưa bỏ ngôi và củi cải

Chỉ vì bài kệ có bốn câu.

Bậc trí tại sao không nghe pháp?

Mọi thứ mọi nơi nên xả bỏ

Cũng không hoà hợp lời ô nhiễm

Đối với thắng pháp không ưa thích

Người ấy trăm kiếp khó thành tựu

Muốn giải thoát, tu tập công đức

Chớ hỏi người tạo dựng thế gian

Không vì tự lợi không Niết bàn

Nếu có người hỏi giúp cơm áo

Đó là việc tốt đáng khen ngợi

Hoặc gặp Tỳ kheo nói: mời đến

Thiết lập toà ngồi mời ông ngồi!

Mỗi mỗi nên nói về pháp sự

Thân người khó được mà đã được

Ông làm thêm lớn bạch pháp chăng?

Trong các thiền định và đọc tụng

Tỳ kheo cần phải hỏi như vậy!

Sau khi Như Lai vào Niết bàn

Giáo pháp ắt sẽ bị phá hoại

Có các Tỳ kheo không oai nghi

Ưa ở trong chúng bỏ thanh vắng

Lợi dưỡng tiền tài và y phục

Ngày đêm thường cùng nhau bàn luận

Ngủ mê bất động ở trong mộng

Thấy việc cày ruộng và cấy lúa

Những thứ phàm phu biết cả rồi

Sẽ sanh vào trong ba nẻo ác.

Thường sanh hoan hỷ tâm phấn khởi

Nên ở rừng cây như tê giác

Ở nơi thanh vắng cầu an vui

Lúc ấy chớ nhìn lỗi của người:

Cho Ta hơn hết đứng đầu chúng

Chớ nên sanh tâm niệm như thế

Đó là gốc kiêu mạn, phóng dật.

Tỳ kheo như thế chớ khinh chê

Lần lượt ở trong giáo pháp này

Đâu thể nhất thời liền giải thoát

Tuy thấy Tỳ kheo phá cấm giới

Chỉ cần tin chư Phật Pháp Tăng

Chớ tìm kiếm lỗi lầm của họ

Đây chính là tạo nhân giải thoát.

Khó nhiếp các dục và sân hận

Trong sự tự tại chớ phóng dật

Huân tập các pháp chưa đến lúc

Chớ vì phá giới mà bỏ họ

Dừng tâm tin cần không tinh tấn

Đây đúng là người không tiến bộ.

Siêng tu không nhìn lỗi của người

Tư duy chánh đạo nên thoát khổ

Cho nên Tỳ kheo mong cầu đức

Cần phải xả bỏ lời phi pháp

Tinh cần hoan hỷ thích thú rồi

Ví như Tê giác nơi thanh vắng.

    Xem thêm:

  • Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Nhật Tử Vương Sở Vấn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tôn Giả Hộ Quốc Hỏi Về Đại Thừa - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 50 - Kinh Tạng
  • Bồ Tát Giới Bổn Tiên Yếu - Kinh Tạng
  • Kinh Vua Ðại Chánh Cú - Kinh Tạng
  • Kinh Mục Kiền Liên Hỏi Năm Trăm Tội Khinh Trọng Trong Giới Luật - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 14 – Khuyến Khích Tu Tập - Kinh Tạng
  • Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung – Thích Đức Niệm dịch - Kinh Tạng
  • Truyện Các Vị Tăng Thần Dị - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Lâm Niết Bàn Ký Pháp Trụ - Kinh Tạng
  • Những Kinh Do Tăng Già La Sát Tập Thành - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Nói Về Lễ Tắm Phật Sau Khi Đức Phật Đã Nhập Diệt - Kinh Tạng
  • Kinh Lời Dạy Cuối Cùng (Kinh Di Giáo) - Kinh Tạng
  • Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Lai Biến Đổi - Kinh Tạng
  • Kinh Ma Ni La Đản - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 21 Đến Phẩm 30 - Kinh Tạng