Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật Kinh

Hán dịch: Đường Nghĩa Tịnh

Việt dịch: Thích Đồng Tiến

***

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời đức Bạc-già-phạm cùng với các đại bí-sô nhóm họp tại núi Linh Thứu. Khi ấy, đại trí Xá-lợi-phất, bậc tối thắng trong pháp tướng[1] thương xót thế gian, từ chỗ ngồi đứng dậy, lộ bày vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính thưa Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Nay con muốn thưa hỏi vài điều, xin Ngài rũ lòng xót thương chấp nhận.

Đức Phật bảo:

– Ông cứ hỏi, ta sẽ giải đáp!

Bấy giờ, Xá-lợi Tử liền thuyết kệ thỉnh Thế Tôn:

Đại sư từng thụ kí

Vị lai Phật hạ sinh

Danh hiệu là Từ Thị

Như trước sau kinh nói.

Cúi xin bậc tôn kính

Dùng kệ giảng nói lại

Thần thông, uy đức Phật

Con rất muốn được nghe!

Phật bảo Xá-lợi-phất:

Hãy chí tâm lắng nghe!

Vì ông mà giảng nói

Việc Từ Thị vi lai.

Bấy giờ nước biển lớn

Đã giảm mất ba nghìn

Hai trăm du-thiện-na

Để lộ đường Luân vương

Ngang dọc châu Thiệm-bộ

Mười nghìn du-thiện-na[2].

Hữu tình ở trong đó

Sống đầy khắp các nơi

Cõi nước đều giàu có

Không tội, không tai ách.

Những người nam, người nữ

Do nghiệp thiện mà sinh.

Đất không mọc gai góc

Chỉ sinh cỏ xanh mềm

Đất lún theo bước chân

Như đi trên Đâu-la[3].

Lúa thơm mọc tự nhiên

Mùi vị đều đầy đủ

Các cây trổ y phục

Nhiều màu để trang nghiêm

Cây cao ba câu-xá

Hoa trái rất sum suê.

Nhân dân cõi nước ấy

Đều thọ tám vạn tuổi

Không có những bệnh khổ

Lìa não, thường an lạc

Thân tướng đều đoan nghiêm

Sắc, lực đều viên mãn.

Con người có ba nạn:

Ăn, già yếu, tiểu tiện.

Người nữ năm trăm tuổi

Mới được lập gia đình.

Khi chúng sinh tiểu tiện

Đất nứt ra tiếp nhận.

Khi thọ mạng gần hết

Liền đi đến Thi lâm.

Thành tên Diệu Tràng Tướng

Là kinh đô của Luân vương.

Dài hai mươi do-tuần

Rộng chỉ bảy do-tuần.

Những chúng sinh trong thành

Đều từng trồng diệu nhân.

Thành này rất thù thắng

Người ở đều vui vẻ

Lâu đài và vọng gác

Đều làm bằng bảy báu

Cửa, khóa và cổng chính

Dùng các báu trang hoàng.

Các tường hào bao quanh

Được xây bằng trân bảo

Hoa đẹp nở đầy khắp

Chim quí tụ thành đàn.

Bảy hàng cây đa-la

Được báu vật trang nghiêm

Vây chung quanh tòa thành

Lại giăng lưới treo linh

Gió nhẹ thổi cây báu

Phát ra tiếng vi diệu

Giống như trổi tám âm

Người nghe lòng vui mừng.

Mọi nơi có ao hồ

Hoa nhiều màu che phủ.

Vườn đẹp và rừng cây

Trang nghiêm thành quách này.

Trong nước có Thánh chủ[4]

Tên gọi là Hưởng-khư

Kim luân lãnh bốn châu

Giàu có, uy lực lớn

Vua này nhiều phúc đức

Dũng mãnh, có bốn binh

Thành tựu cả bảy báu

Đầy đủ nghìn người con

Bốn biển đều thanh bình

Không có nạn chiến tranh

Chính pháp thấm quần sinh

Giáo hóa đều bình đẳng.

Vua có bốn kho lớn

Nằm trong cõi nước mình

Mỗi mỗi kho đều có

Trăm vạn ức trân bảo.

Trong nước Yết-lăng-già

Có kho Băng-kiệt-la

Trong nước Mật-hi-la

Có kho Bát-trục-ca

Kho Y-la-bát-la

Nằm trong nước Kiền-đà

Nước Bà-la-nhiếp-kì

Có kho báu Hưởng-khư.

Bốn phục tạng báu này

Đều thuộc vua Hưởng-khư

Do trăm phúc trợ giúp

Quả báo đều thành tựu.

Bà-la-môn Thiện Tịnh

Là đại thần phụ quốc

Bốn minh đều thông hiểu

Đa Văn làm quốc sư

Thông suốt những tạp luận

Giáo hóa có Văn Trì

Giải thích về Thanh minh

Tất cả đều rốt ráo.

Con gái tên Tịnh Diệu

Là phu nhân đại thần

Nổi tiếng lại đoan nghiêm

Người thấy đều vui mừng.

Đại trượng phu Từ Thị

Là bồ-tát hậu thân

Rời cõi trời Tri Túc[5]

Gá vào thai phu nhân

Làm nơi sinh hậu thân

Đã mang thai Đại thánh

Trong thai đủ mười tháng.

Bấy giờ mẹ Từ Thị

Đi đến vườn Diệu hoa

Khi vào trong vườn này

Không ngồi cũng không nằm

Vừa đứng vịn cành cây

Thì sinh Thắng Từ tôn.

Bấy giờ Tối Thắng tôn

Từ hông phải đản sinh

Như mặt trời khỏi mây

Chiếu ánh sáng khắp nơi.

Không nhiễm trước thai mẹ

Như sen vươn khỏi nước.

Ánh sáng chiếu ba cõi

Mọi người đều chiêm ngưỡng.

Khi bồ-tát giáng trần

Đế Thích chủ thiên nhãn

Đích thân ẵm bồ-tát

Mừng gặp Lưỡng Túc tôn.

Lúc bấy giờ bồ-tát

Tự nhiên đi bảy bước

Nơi bàn chân Ngài đặt

Đều mọc hoa sen báu.

Bồ-tát nhìn mười phương

Và bảo chúng trời người:

Đây là thân sau cùng

Ta sẽ chứng Niết-bàn.

Rồng phun nước trong mát

Tắm gội thân Đại Bi

Trời rải hoa quí lạ

Hư không gió nhè nhẹ

Chư thiên cầm lọng trắng

Che mát Đại Từ Tôn

Đều khởi tâm hiếm có

Cùng bảo vệ bồ-tát.

Bảo mẫu ẵm bồ-tát

Thân đủ ba hai tướng

Ánh sáng chiếu khắp nơi

Dâng trao lên Thánh mẫu.

Thị tùng dâng xe đẹp

Trang hoàng bằng trân bảo

Mẹ và con cùng lên

Chư thiên cùng giữ xe

Trổi nghìn âm nhạc hay

Dẫn đường trở về cung.

Từ Thị vào kinh thành

Hoa trời tuôn như mưa.

Ngày Từ Tôn hạ sinh

Các thể nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Sinh con trai trí tuệ.

Thiện Tịnh thấy con mình

Dung mạo rất kì diệu

Đủ ba mươi hai tướng

Nên lòng rất vui mừng

Ông căn cứ tướng pháp

Biết hai tướng chỉ rõ

Tại thế làm Luân vương

Xuất gia thành Chính Giác.

Bồ-tát đã lập chí

Thương xót các chung sinh

Đang bị khổ hiểm nạn

Luân hồi không chỗ dừng.

Ngài phóng ánh sáng vàng

Giọng nói như Phạm âm

Mắt như lá sen xanh

Các căn đều đầy đủ

Thân cao tám mươi trửu[6]

Vai rộng hai mươi trửu

Khuôn mặt bằng nửa vai

Đoan nghiêm như trăng rằm

Bồ-tát giỏi các nghề

Lại khéo dạy mọi người

Trẻ nhỏ đến xin học

Tám mươi bốn nghìn người.

Bấy giờ vua Hưởng-khư

Bảo may cờ bảy báu

Chiều cao bảy mươi tầm[7]

Chiều ngang sáu mươi tầm.

Khi cờ báu may xong

Vua phát tâm đại xả.

Cấp cho Bà-la-môn

Lập đại hội Vô già.

Bấy giờ các Phạm chí

Số lượng đến nghìn người

Cờ báu trong khoảnh khắc

Bị họ giành xé rách.

Bồ-tát thấy việc này

Nghĩ cõi đời là thế

Nhốt trong lồng sinh tử

Muốn cầu lìa khỏi khổ

Tu học đạo tịch diệt

Bỏ tục xin xuất gia.

Trong sinh già bệnh chết

Cứu giúp họ giải thoát.

Khi Từ Tôn phát nguyện

Tám mươi bốn nghìn người

Đều sinh lòng chán lìa

Cùng theo tu Phạm hạnh.

Ngay đêm mới phát tâm

Liền bỏ tục xuất gia.

Đến nửa đêm hôm ấy

Bồ-tát thành Đẳng giác.

Bấy giờ cội bồ-đề

Tên gọi là Long Hoa

Cao bốn na-do-tha

Rất xanh tốt sum suê

Cành lá phủ bốn phía

Che mát sáu Lô-xá[8].

Từ Thị ngồi nơi ấy

Thành tựu Chính đẳng giác

Tối thắng trong loài người

Đầy đủ tám Phạm âm

Nói pháp độ chúng sinh

Giúp họ lìa phiền não

Dứt trừ hết tất cả

Khổ và nơi sinh khổ.

Tu tập tám chính đạo

Lên bờ niết-bàn kia

Lại giảng bốn chân đế

Cho thiện nam, tín nữ,

Nghe được diệu pháp diệu này

Họ chí thành vâng giữ.

Trong vườn cây Diệu hoa

Đại chúng nhóm họp đến

Chu vi trăm do-tuần

Tất cả đều đầy khắp.

Luân vương Hưởng-khư kia

Nghe pháp vi diệu xong

Bỏ hết những trân bảo

Thành tâm muốn xuất gia

Không luyến tiếc cung điện

Mong cầu được xuất li.

Tám mươi bốn nghìn người

Đồng tử Bà-la-môn

Nghe vua bỏ thế gian

Cũng đến cầu xuất gia.

Trưởng giả quản kho tàng

Tên gọi là Thiện Tài

Cùng một nghìn quyến thuộc

Cũng đến xin xuất gia.

Bảo nữ Tì-xá-khư

Và những người tùy tùng

Tám mươi bốn nghìn người

Cũng đến xin xuất gia.

Lại có hơn trăm nghìn

Thiện nam cùng tín nữ

Nghe Phật nói diệu pháp

Cũng đến xin xuất gia.

Thiên Nhân Tôn vô thượng

Thánh chủ đại từ bi

Quán sát tâm chúng hội

Mà diễn nói yếu pháp:

Này các ông nên biết!

Nhờ Thích-ca từ bi

Dạy các ông chính đạo

Mà sinh trong pháp ta.

Hoặc người dâng vòng hoa

Cờ phướn, lọng trang nghiêm

Cúng dường Phật Mâu-ni

Mà sinh trong pháp ta.

Hương Uất kim, Trầm thủy

Bùn thơm tô quét tường

Cúng dường tháp Mâu-ni

Mà sinh trong pháp ta.

Hoặc qui y Tam bảo

Cúng dường, thường gần gũi

Lại tu những thiện hạnh

Mà sinh trong pháp ta.

Hoặc ở trong Phật pháp

Thụ trì các học xứ[9]

Khéo giữ gìn không phạm

Mà sinh vào pháp ta.

Hoặc dâng những thuốc quí

Quần áo và thức ăn

Cúng dường bốn phương tăng

Mà sinh vào pháp ta.

Hoặc vào bốn ngày trai

Và ba tháng thần thông[10]

Thụ trì tám trai giới

Mà sinh vào pháp ta.

Hoặc người dùng ba thông

Thần cảnh trí[11] dạy dỗ

Giáo hóa chúng thanh văn

Giúp họ diệt phiền não.

Hội thuyết pháp đầu tiên

Độ thoát hàng thanh văn

Chín mươi sáu ức người

Xa lìa phiền não chướng.

Hội thuyết pháp thứ hai

Độ thoát hàng thanh văn

Chín mươi bốn ức người

Giúp lìa biển vô minh.

Hội thuyết pháp thứ ba

Độ thoát hàng thanh văn

Chín mươi hai ức người

Khiến tâm khéo điều phục.

Ba lần chuyển pháp luân

Trời người đều thuần tịnh.

Phật dẫn hàng đệ tử

Vào trong thành Diệu Tràng

Khất thực theo thứ lớp.

Đường phố được trang hoàng

Vì cúng dường Đức Phật

Trời rải hoa mạn-đà

Bốn thiên vương, Phạm vương

Và chư thiên cõi khác

Dâng cúng vòng hoa thơm

Phụ tá Đại Bi tôn.

Chư thiên nhiều uy đức

Tung y phục vi diệu

Rực rở khắp thành ấp

Chiêm ngưỡng Đại Y vương

Dùng trân bảo, hương hoa

Rải khắp các đường phố.

Chân bước đi trên đó

Giống đi trên Đâu-la.

Âm nhạc và cờ phướn

Xếp hàng đi hai bên.

Đế Thích và trời người

Ca ngợi Đại Từ tôn

Nam-mô Thiên Thượng Tôn

Nam-mô Sĩ Trung Thắng.

Quí thay! Bạc-già-phạm

Luôn thương xót thế gian.

Có trời uy đức lớn

Hóa làm chúng ma vương

Thành tâm chắp tay lễ

Ca ngợi bậc Đạo sư.

Phạm vương và chư thiên

Cùng quyến thuộc vây quanh.

Phật phát tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Bấy giờ trong thế giới.

Đa phần A-la-hán

Đã dứt nghiệp hữu lậu

Xa lìa khổ phiền não.

Trời, người, rồng, quỉ thần

Càn-thát-bà, tu-la

La-sát và dọa-xoa

Đều vui mừng cúng dường.

Lúc bấy giờ đại chúng

Đoạn chướng, trừ nghi hoặc

Siêu thoát dòng sinh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh.

Khi ấy cả chúng hội

Lìa tham, bỏ của cải

Tâm vô ngã-ngã sở

Khéo tu hạnh thanh tịnh.

Lại nữa, cả đại chúng

Phá hủy lưới tham ái

Viên mãn tâm thiền định

Khéo tu hạnh thanh tịnh.

Từ Thị Thiên Nhân tôn

Thương xót các hữu tình

Sống sáu mươi nghìn tuổi

Nói pháp độ chúng sinh

Đến trăm nghìn ức người

Giúp thoát biển phiền não.

Độ hết người có duyên

Rồi mới vào Niết-bàn.

Từ Thị Đại Bi tôn

Sau khi vào Niết-bàn

Chính pháp trụ thế gian

Cũng sáu mươi nghìn năm.

Nếu người trong pháp ta

Thành tâm mà tin nhận

Khi Từ Thị hạ sinh

Nhất định phụng thờ Ngài.

Là những người thông minh

Nghe ta nói việc này

Tâm không vui mừng sao?

Nguyện gặp Đại Bi tôn.

Nếu người cầu giải thoát

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam bảo

Siêng năng, chớ buông lung.

Thế Tôn nói việc hạ sinh của bồ-tát Từ Thị vào vị lai cho Xá-lợi-phất và đại chúng xong, rồi lại bảo Xá-lợi-phất:

– Nếu có thiện nam, tín nữ nghe pháp này mà thụ trì, đọc tụng, giảng nói, tu hành đúng pháp, dâng cúng hương hoa, biên chép quyển kinh thì vào đời vị lai người này nhất định gặp Từ Thị hạ sinh, trong ba hội đều được cứu thoát.

Nghe Thế Tôn nói kệ xong, Xá-lợi-phất và đại chúng vui mừng, tin nhận, đỉnh lễ vâng làm.

*

Chú thích:

[1] Pháp tướng: Vị tướng trong Phật pháp, các vị cao tăng đức độ.

[2] Du-thiện-na: Do-tuần.

[3] Đâu-la: Gọi đủ là Đâu-la miên, là tơ của cây Đâu-la, giống như tơ liễu, rất mềm và mịn.

[4] Thánh Chủ: Chỉ cho Đức Phật.

[5] Cõi trời Tri Túc: Cõi trời Đâu-suất-đà.

[6] Trữu: Một đơn vị đo chiều dài, bằng hai mươi bốn ngón tay.

[7] Tầm: Một đơn vị đo chiều dài, tương đương tám thước.

[8] Lô-xá: Gọi đủ là Câu-lô-xá, một đơn vị đo chiều dài của Ấn Độ thời xưa. Có rất nhiều thuyết nói về chiều dài của một câu-lô-xá, trong đó có thuyết nói tương đương với 3600 thước Tàu.

[9] Học xứ: Những điều cần phải học, chỉ chung cho giới luật, tức là những giới điều mà tì-kheo, tì-kheo-ni phải tuân thủ, như năm giới, tám giới, mười giới…

[10] Tháng thần thông: Chỉ cho tháng giêng, tháng năm và tháng chín hàng năm là ba tháng trì trai tu thiện nên gọi là tam trường trai nguyệt.

[11] Thần cảnh trí: Gọi đủ Thần cảnh trí chứng thông, một trong sáu món thần thông.

    Xem thêm:

  • Kinh Ca Diếp Tiên Nhơn Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật – Thích Nữ Như Phúc dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Trị Bệnh Hợp Dược - Kinh Tạng
  • Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi Chú Tạng Trung Nhứt Tự Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Năm Giới Tướng Của Ưu Bà Tắc - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ - Kinh Tạng
  • Kinh Đức Từ Thị Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Lược Luận Về Nghĩa An Lạc Tịnh Độ - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 23 – Tứ Sinh - Kinh Tạng
  • Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng - Kinh Tạng
  • Kinh Phật dạy Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 123 – Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp (Acchariya-abbhùtadhamma sutta) - Kinh Tạng
  • Vãng Sanh Tịnh Độ Cảm Hiện Điềm Lành - Kinh Tạng
  • Nghi quỹ Đà-la-ni Tùy Cầu Tức Đắc Thần biến gia trì thành tựu Kim cang đảnh Du-già tối thắng Bí mật thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng