108. Kinh Gopaka Moggallàna

(Gopaka Moggallàna sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời Tôn giả Ananda trú ở Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc, khi Thế Tôn thị tịch không bao lâu.

Lúc bấy giờ, Vua Ajatasattu con bà Videhi nước Magadha (Ma-kiệt-đà), vì nghi ngờ Pajjota (Ðăng Quang Vương), nên cho xây kiên cố thành Rajagaha.

Tôn giả Ananda buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Rajagaha để khất thực. Rồi Tôn giả Ananda suy nghĩ: “Nay còn quá sớm để vào Rajagaha khất thực. Vậy ta hãy đi đến Bà-la-môn Gopaka Moggallana và chỗ làm việc của vị này”. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Bà-la-môn Gopaka Moggallana và chỗ làm việc của vị này. Bà-la-môn Gopaka Moggallana thấy Tôn giả Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Ananda:

— Hãy đến, Tôn giả Ananda! Thiện lai, Tôn giả Ananda! Ðã lâu rồi Tôn giả Ananda mới tạo được cơ hội này, tức là đến đây. Tôn giả Ananda hãy ngồi xuống, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.

Tôn giả Ananda ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Còn Bà-la-môn Gopaka Moggallana chọn một chỗ ngồi thấp khác rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Gopaka Moggallana thưa với Tôn giả Ananda:

— Có thể chăng, một Tỷ-kheo thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Tôn giả Gotama, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thành tựu?

— Không thể có một Tỷ-kheo, này Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và nay các đệ tử là những vị sống hành đạo và tùy hành, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau.

Nhưng cuộc nói chuyện giữa Tôn giả Ananda và Bà-la-môn Gopaka Moggallana bị gián đoạn. Bà-la-môn Vassakara, bậc đại thần nước Magadha, đi thị sát các công sự Rajagaha (Vương Xá), đến công trường của Bà-la-môn Gopaka Moggallana, đến chỗ Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassakara, bậc đại thần nước Magadha, thưa với Tôn giả Ananda:

— Ở đây, thưa Tôn giả Ananda, Tôn giả đang ngồi đàm luận câu chuyện gì? Và câu chuyện gì của Tôn giả bị gián đoạn?

— Này Bà-la-môn, ở đây, Bà-la-môn Gopaka Moggallana nói với tôi như sau: “Có thể có chăng, Tôn giả Ananda, một Tỷ-kheo thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Tôn giả Gotama, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thành tựu?” Khi được nói vậy, này Bà-la-môn, tôi nói với Bà-la-môn Gopaka Moggallana như sau: “Này Bà-la-môn, không thể có một vị Tỷ-kheo nào thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và các đệ tử Ngài là những vị sống hành đạo và tùy hành đạo và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau”.

— Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt: “Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này”.

— Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sắp đặt: “Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông sẽ y chỉ vị này”.

— Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: “Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này?”

— Không có một vị Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn, được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: “Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này”.

— Và như vậy là không có chỗ nương tựa, thưa Tôn giả Ananda, như vậy do nhân gì, Quý vị có thể hòa hợp?

— Này Bà-la-môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa. Này Bà-la-môn, chúng tôi có chỗ nương tựa, và Pháp là chỗ nương tựa của chúng tôi.

— Khi được hỏi: “Có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt: “Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này?””, Tôn giả trả lời: “Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sắp đặt: “Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này”. Khi được hỏi: “Có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: “Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, các Ông nay sẽ y chỉ vị này”. Và Tôn giả trả lời: “Không có một vị Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn, được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: “Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này”. Khi được hỏi: “Và như vậy là không có chỗ nương tựa, thưa Tôn giả Ananda, như vậy do nhân gì, Quý vị có thể hòa hợp?” Tôn giả trả lời: “Này Bà-la-môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa. Chúng tôi có chỗ nương tựa, này Bà-la-môn, và Pháp là chỗ nương tựa của chúng tôi”. Nhưng thưa Tôn giả Ananda, ý nghĩa lời nói này cần phải hiểu như thế nào?

— Này Bà-la-môn, Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thi thiết học pháp, đã tuyên bố giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) cho các Tỷ-kheo. Trong những ngày Bố-tát (Uposatha) chúng tôi cận trú ở chung một thôn điền, tất cả chúng tôi hội họp với nhau tại một chỗ; sau khi tụ họp, chúng tôi hỏi những gì đã xảy ra cho mỗi một người. Nếu trong khi hỏi nhau như vậy, có Tỷ-kheo phạm tội, phạm giới, chúng tôi bảo vị ấy làm đúng Pháp, đúng lời dạy. Thật vậy, không phải các Tôn giả xử sự chúng tôi, chính pháp xử sự chúng tôi.

— Thưa Tôn giả Ananda, có Tỷ-kheo nào mà nay Quý vị cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, sau khi cung kính, tôn trọng, Quý vị nương tựa?

— Này Bà-la-môn, có Tỷ-kheo mà nay chúng tôi cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, và sau khi chúng tôi cung kính, tôn trọng, chúng tôi nương tựa.

— Thưa Tôn giả Ananda, khi được hỏi: “Có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt: “Sau khi Ta diệt độ, vị này sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông và các Ông nay sẽ y chỉ vị này?””. Và Tôn giả trả lời: “Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sắp đặt: “Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông”, và chúng tôi nay y chỉ vị này”. Khi được hỏi: “Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận, được một số đông Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: “Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này”, và Tôn giả trả lời: “Không có một Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận, được một số đông Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: “Vị này sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này”. Khi được hỏi: “Có một Tỷ-kheo nào, thưa Tôn giả Ananda, nay quý vị cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy và sau khi cung kính, tôn trọng, quý vị an trú, nương tựa vị ấy?”, và Tôn giả trả lời: “Này Bà-la-môn, có Tỷ-kheo, chúng tôi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy”. Thưa Tôn giả Ananda, ý nghĩa lời nói ấy cần phải hiểu như thế nào?

— Này Bà-la-môn, có mười khả hỷ pháp được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố. Giữa chúng tôi, vị nào có đầy đủ mười pháp này, chúng tôi nay cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường vị ấy; sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy. Thế nào là mười?

Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, sau khi thọ trì, học tập trong các học pháp.

Vị ấy là bậc đa văn, thọ trì những điều đã nghe, cất chứa những điều đã nghe; những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn, nói lên Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy đều được nghe nhiều, được thọ trì, được lời nói làm cho quen thuộc, được ý tư niệm, được chánh kiến khéo ngộ nhập.

Vị ấy biết đủ đối với các vật thực dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.

Vị ấy là người tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú.

Vị ấy thực hiện các loại thần thông sai biệt, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết- già đi trên hư không như chim có cánh; với bàn tay, vị ấy chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến Phạm thiên.

Vị ấy với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, nghe được âm thanh của chư Thiên và loài người, gần cũng như xa.

Sau khi đi sâu vào tâm chúng sanh, tâm loài Người với tâm của mình, vị ấy được biết như sau: Tâm có tham, biết tâm có tham. Tâm không tham, biết tâm không tham. Tâm có sân, biết tâm có sân. Tâm không sân, biết tâm không sân. Tâm có si, biết tâm có si. Tâm không si, biết tâm không si. Tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết tâm tán loạn. Ðại hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải đại hành tâm, biết không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.

Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời… nhớ đến các đời sống quá khứ.

Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.

Với sự đoạn diệt các lậu hoặc, sau khi với thượng trí đã chứng ngộ, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Này Bà-la-môn, mười pháp khả hỷ này đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nói lên giữa chúng tôi. Vị nào có đầy đủ mười pháp này, chúng tôi nay cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy; sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy.

Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Vassakara (Vũ Thế), đại thần nước Magadha, nói với tướng quân Upananda:

— Tướng quân nghĩ thế nào? Nếu là như vậy, này tướng quân, những vị Tôn giả này cung kính những ai đáng cung kính, tôn trọng những ai đáng tôn trọng, lễ bái những ai đáng lễ bái, cúng dường những ai đáng cúng dường; thời chắc chắn những Tôn giả này cung kính những ai đáng cung kính, tôn trọng những ai đáng tôn trọng, lễ bái những ai đáng lễ bái, cúng dường những ai đáng cúng dường. Và nếu những Tôn giả ấy không cung kính, không tôn trọng, không lễ bái, không cúng dường Tỷ-kheo này, thời những Tôn giả ấy cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ai?

Rồi Bà-la-môn Vassakara, vị đại thần nước Magadha, thưa với Tôn giả Ananda:

— Tôn giả Ananda nay trú tại đâu?

— Này Bà-la-môn, tôi trú ở Veluvana (Trúc Lâm).

— Thưa Tôn giả Ananda, có phải Veluvana là một chỗ khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi gió, xa lánh dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh?

— Thật vậy, này Bà-la-môn, Veluvana (Trúc Lâm) là một khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi gió, xa cách dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh, xứng đáng với những vị hộ trì và thủ hộ như Ngài.

— Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda, Veluvana là một chỗ khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi gió, xa lánh dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh, xứng đáng với những người tu Thiền và tánh thiên về Thiền định như quý vị Tôn giả. Và chư vị Tôn giả là những vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định. Thưa Tôn giả Ananda, một thời Tôn giả Gotama ở tại Vesali, Ðại Lâm, ở Kutagarasala (Trùng Các giảng đường). Rồi, thưa Tôn giả Ananda, tôi đi đến Mahavana (Ðại Lâm), Kutagarasala, đến Tôn giả Gotama. Ở đấy, Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện nói về Thiền định luận. Tôn giả Gotama thật là vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định. Và Tôn giả Gotama tán thán tất cả Thiền định.

— Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán thán? Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi sân hận đã được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần hôn trầm thụy miên, bị hôn trầm thụy miên chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi hôn trầm thụy miên đã được khởi lên. Vị ấy lấy hôn trầm thụy miên làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần trạo hối, bị trạo hối chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi trạo hối đã được khởi lên. Vị ấy lấy trạo hối làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần nghi hoặc, bị nghi hoặc chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi nghi hoặc đã được khởi lên. Vị ấy lấy nghi hoặc làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền định như vậy.

Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy tán thán? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, loại Thiền như vậy, Thế Tôn ấy tán thán.

— Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda, Tôn giả Gotama khiển trách Thiền đáng được khiển trách, tán thán Thiền đáng được tán thán. Nay thưa Tôn giả Ananda, chúng tôi phải đi. Chúng tôi có những việc, có nhiều phận sự phải làm.

— Này Bà-la-môn, hãy làm gì Bà-la-môn nghĩ là hợp thời.

Rồi Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha, hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Bà-la-môn Gopaka Moggalana, khi Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha đi không bao lâu, thưa với Tôn giả Ananda:

— Nếu chúng tôi không hỏi Tôn giả Ananda, thời Tôn giả Ananda đã không trả lời.

— Này Bà-la-môn, có phải chúng tôi đã nói với Ông: “Không có một Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn, thành tựu mười pháp ấy một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ, những pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thành tựu. Này Bà-la-môn, vị Thế Tôn ấy là bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và nay các đệ tử Ngài là những vị sống hành đạo và tùy hành đạo, và sẽ thành tựu những pháp ấy về sau”.


Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Gopaka Moggallana Sutta

Moggallana the Guardsman

translated by Bhikkhu Thanissaro

Translator’s note: This discourse presents a picture of life in the early Buddhist community shortly after the Buddha’s passing away. On the one hand, it shows the relationship between the monastic community and the political powers that be: the monks are polite and courteous to political functionaries, but the existence of this discourse shows that they had no qualms about depicting those functionaries as a little dense. On the other hand, it shows that early Buddhist practice had no room for many practices that developed in later Buddhist traditions, such as appointed lineage holders, elected ecclesiastical heads, or the use of mental defilements as a basis for concentration practice.

I have heard that on one occasion Ven. Ananda was staying near Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary, not long after the Blessed One’s total Unbinding.

Now at that time King Ajatasattu Vedehiputta of Magadha, suspicious of King Pajjota, was having Rajagaha fortified.

Then in the early morning, Ven. Ananda, having put on his robes and carrying his bowl and outer robe, went into Rajagaha for alms. The thought occurred to him, “It’s too early to go for alms in Rajagaha. What if I were to go to the brahmin Moggallana the Guardsman at his construction site?” So he went to Moggallana the Guardsman at his construction site. Moggallana the Guardsman saw him coming from afar, and on seeing him said to him, “Come, Master Ananda. Welcome, Master Ananda. It has been a long time since Master Ananda has found the time to come here. Sit down, Master Ananda. Here is a seat made ready for you.”

So Ven. Ananda sat down on the seat made ready. Moggallana the Guardsman, taking a lower seat, sat to one side.

As he was sitting there, he said to Ven. Ananda: “Master Ananda, is there any one monk endowed in each and every way with the qualities with which Master Gotama — worthy and rightly self-awakened — was endowed?”

“No, brahmin, there isn’t any one monk endowed in each and every way with the qualities with which the Blessed One — worthy and rightly self-awakened — was endowed. For the Blessed One was the arouser of the unarisen path, the begetter of the unbegotten path, the expounder of the unexpounded path, the knower of the path, the expert with regard to the path, adept at the path. And now his disciples follow the path and become endowed with it after him.”

And then Ven. Ananda’s discussion with Moggallana the Guardsman was interrupted in mid-course, for the brahmin Vassakara, the Magadhan administrator, on an inspection tour of the construction sites in Rajagaha, went to Ven. Ananda at Moggallana the Guardsman’s construction site. On arrival, he exchanged courteous greetings with Ven. Ananda. After an exchange of friendly greetings and courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. Ananda, “Just now, for what discussion were you sitting together when you were interrupted in mid-course?”

“Just now, brahmin, Moggallana the Guardsman said to me, ‘Master Ananda, is there any one monk endowed in each and every way with the qualities with which Master Gotama — worthy and rightly self-awakened — was endowed?’ And when this was said, I said to him, ‘No, brahmin, there isn’t any one monk endowed in each and every way with the qualities with which the Blessed One — worthy and rightly self-awakened — was endowed. For the Blessed One was the arouser of the unarisen path, the begetter of the unbegotten path, the expounder of the unexpounded path, the knower of the path, the expert with regard to the path, adept at the path. And now his disciples follow the path and become endowed with it after him.’ This was my discussion with the brahmin Moggallana the Guardsman that was interrupted in mid-course when you arrived.”

“Master Ananda, is there any one monk appointed by Master Gotama [with the words], ‘He will be your arbitrator after I am gone,’ to whom you now turn?”

“No, brahmin. There isn’t any one monk appointed by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy and rightly self-awakened — [with the words] ‘He will be your arbitrator after I am gone,’ to whom we now turn.”

“Then is there any one monk authorized by the Sangha and appointed by a large body of elder monks [with the words], ‘He will be our arbitrator after the Blessed One is gone,’ to whom you now turn?”

“No, brahmin. There isn’t any one monk authorized by the Sangha and appointed by a large body of elder monks [with the words] ‘He will be our arbitrator after the Blessed One is gone,’ to whom we now turn.”

“Being thus without an arbitrator, Master Ananda, what is the reason for your concord?”

“It’s not the case, brahmin, that we’re without an arbitrator. We have an arbitrator. The Dhamma is our arbitrator.”

“When asked, ‘Master Ananda, is there any one monk appointed by Master Gotama [with the words], “He will be your arbitrator after I am gone,” to whom you now turn?’ you said, ‘No, brahmin. There isn’t any one monk appointed by the Blessed One…to whom we now turn.’

“When asked, ‘Then is there any one monk authorized by the Sangha…to whom you now turn?’ you said, ‘No, brahmin. There isn’t any one monk authorized by the Sangha…to whom we now turn.’

“When asked, ‘Being thus without an arbitrator, Master Ananda, what is the reason for your concord?’ you said, ‘It’s not the case, brahmin, that we’re without an arbitrator. We have an arbitrator. The Dhamma is our arbitrator.’ Now how is the meaning of what you have said to be understood?”

“Brahmin, there is a training rule laid down by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy and rightly self-awakened — a Patimokkha that has been codified. On the uposatha day, all of us who live dependent on a single township gather together in one place. Having gathered together, we invite the one to whom it falls [to recite the Patimokkha]. If, while he is reciting, a monk remembers an offense or transgression, we deal with him in accordance with the Dhamma, in accordance with what has been instructed. We’re not the ones who deal with that venerable one. Rather, the Dhamma is what deals with us.”

“Is there, Master Ananda, any one monk you now honor, respect, revere, and venerate, on whom — honoring and respecting — you live in dependence?”

“Yes, brahmin, there is a monk we now honor, respect, revere, and venerate, on whom — honoring and respecting — we live in dependence.”

“When asked, ‘Master Ananda, is there any one monk appointed by Master Gotama [with the words], “He will be your arbitrator after I am gone,” to whom you now turn?’ you said, ‘No, brahmin. There isn’t any one monk appointed by the Blessed One…to whom we now turn.’

“When asked, ‘Then is there any one monk authorized by the Sangha…to whom you now turn?’ you said, ‘No, brahmin. There isn’t any one monk authorized by the Sangha…to whom we now turn.’

“When asked, ‘Is there, Master Ananda, any one monk you now honor, respect, revere, and venerate, on whom — honoring and respecting — you live in dependence?’ you said, ‘Yes, brahmin, there is a monk we now honor, respect, revere, and venerate, on whom — honoring and respecting — we live in dependence.’ Now how is the meaning of what you have said to be understood?”

“Brahmin, there are ten inspiring qualities expounded by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy and rightly self-awakened. In whoever among us those ten qualities are found, we now honor, respect, revere, and venerate him; honoring and respecting him, we live in dependence on him. Which ten?

[1] “There is the case where a monk is virtuous. He dwells restrained in accordance with the Patimokkha, consummate in his behavior and sphere of activity. He trains himself, having undertaken the training rules, seeing danger in the slightest faults.

[2] “He has heard much, has retained what he has heard, has stored what he has heard. Whatever teachings are admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end, that — in their meaning and expression — proclaim the holy life entirely perfect and pure: those he has listened to often, retained, discussed, accumulated, examined with his mind, and well-penetrated in terms of his views.

[3] “He is content with robes, alms food, lodgings, and medicinal requisites for curing the sick.

[4] “He attains — whenever he wants, without strain, without difficulty — the four jhanas that are heightened mental states, pleasant abidings in the here-&-now.

[5] “He experiences manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, and mountains as if through space. He dives in and out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting crosslegged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches and strokes even the sun and moon, so mighty and powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds.

[6] “He hears — by means of the divine ear-element, purified and surpassing the human — both kinds of sounds: divine and human, whether near or far.

[7] “He knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion. He discerns a mind with aversion as a mind with aversion, and a mind without aversion as a mind without aversion. He discerns a mind with delusion as a mind with delusion, and a mind without delusion as a mind without delusion. He discerns a restricted mind as a restricted mind, and a scattered mind as a scattered mind. He discerns an enlarged mind as an enlarged mind, and an unenlarged mind as an unenlarged mind. He discerns an excelled mind [one that is not at the most excellent level] as an excelled mind, and an unexcelled mind as an unexcelled mind. He discerns a concentrated mind as a concentrated mind, and an unconcentrated mind as an unconcentrated mind. He discerns a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind.

[8] “He recollects his manifold past lives (lit: previous homes), i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction and expansion, [recollecting], ‘There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.’ Thus he remembers his manifold past lives in their modes and details.

[9] “He sees — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma: ‘These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, and mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, and mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.’ Thus — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — he sees beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma.

[10] “Through the ending of the mental fermentations, he remains in the fermentation-free release of awareness and release of discernment, having known and made them manifest for himself right in the here and now.

“These, brahmin, are the ten inspiring qualities expounded by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy and rightly self-awakened. In whoever among us these ten qualities are found, we now honor, respect, revere, and venerate him; honoring and respecting him, we live in dependence on him.”

When this was said, the brahmin Vassakara, the Magadhan administrator, turned to General Upananda and said, “What do you think, general? Do these venerable ones honor what should be honored, respect what should be respected, revere what should be revered, venerate what should be venerated? Of course they honor what should be honored, respect what should be respected, revere what should be revered, venerate what should be venerated. For if they did not honor, respect, revere, or venerate a person like this, then what sort of person would they honor, respect, revere, and venerate; on what sort of person, honor and respecting, would they live in dependence?”

Then the brahmin Vassakara, the Magadhan administrator, said to Ven. Ananda, “But where are you staying now, Master Ananda?”

“I am now staying at the Bamboo Grove, brahmin.”

“I trust, Master Ananda, that the Bamboo Grove is delightful, quiet, free of noise, with an air of isolation, remote from human beings, and appropriate for retreat.”

“Certainly, brahmin, the Bamboo Grove is delightful, quiet, free of noise, with an air of isolation, remote from human beings, and appropriate for retreat because of guardians and protectors like yourself.”

“Certainly, Master Ananda, the Bamboo Grove is delightful, quiet, free of noise, with an air of isolation, remote from human beings, and appropriate for retreat because of venerable ones who are endowed with mental absorption (jhana), who make mental absorption their habit. You venerable ones are both endowed with mental absorption and make mental absorption your habit.

“Once, Ven. Ananda, Master Gotama was staying near Vesali in the Peaked Roofed Pavilion in the Great Wood. I went to him at the Peaked Roofed Pavilion in the Great Wood, and there he spoke in a variety of ways on mental absorption. Master Gotama was both endowed with mental absorption and made mental absorption his habit. In fact, he praised mental absorption of every sort.”

“It wasn’t the case, brahmin, that the Blessed One praised mental absorption of every sort, nor did he criticize mental absorption of every sort. And what sort of mental absorption did he not praise? There is the case where a certain person dwells with his awareness overcome by sensual passion, obsessed with sensual passion. He does not discern the escape, as it actually is present, from sensual passion once it has arisen. Making that sensual passion the focal point, he absorbs himself with it, besorbs, resorbs, and supersorbs himself with it.

“He dwells with his awareness overcome by ill will…

“He dwells with his awareness overcome by sloth and drowsiness…

“He dwells with his awareness overcome by restlessness and anxiety…

“He dwells with his awareness overcome by uncertainty, obsessed with uncertainty. He does not discern the escape, as it actually is present, from uncertainty once it has arisen. Making that uncertainty the focal point, he absorbs himself with it, besorbs, resorbs, and supersorbs himself with it. This is the sort of mental absorption that the Blessed One did not praise.

“And what sort of mental absorption did he praise? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensual pleasures, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters and remains in the first jhana: rapture and pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought and evaluation. With the stilling of directed thought and evaluation, he enters and remains in the second jhana: rapture and pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought and evaluation — internal assurance. With the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful and fully aware, and physically sensitive of pleasure. He enters and remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, ‘Equanimous and mindful, he has a pleasurable abiding.’ With the abandoning of pleasure and pain — as with the earlier disappearance of elation and distress — he enters and remains in the fourth jhana: purity of equanimity and mindfulness, neither pleasure nor pain. This is the sort of mental absorption that the Blessed One praised.

“It would seem, Ven. Ananda, that Master Gotama criticized the mental absorption that deserves criticism, and praised that which deserves praise.

“Well, now, Master Ananda, I must be going. Many are my duties, many the things I must do.”

“Then do, brahmin, what you think it is now time to do.”

So the brahmin Vassakara, the Magadhan administrator, delighting and rejoicing in what Ven. Ananda had said, got up from his seat and left.

Then, not long after he had left, Moggallana the Guardsman said to Ven. Ananda, “Master Ananda, you still haven’t answered what I asked you.”

“Didn’t I just tell you, brahmin? There isn’t any one monk endowed in each and every way with the qualities with which the Blessed One — worthy and rightly self-awakened — was endowed. For the Blessed One was the arouser of the unarisen path, the begetter of the unbegotten path, the expounder of the unexpounded path, the knower of the path, the expert with regard to the path, adept at the path. And now his disciples follow the path and become endowed with it after him.”

Mục lục Đầu trang

    Xem thêm:

  • Kinh Trung Bộ 152 – Kinh Căn Tu Tập (Indriyabhàvanà sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 72 – Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa (Aggivacchagotta sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 117 – Ðại Kinh Bốn Mươi (Mahàcattàrìsaka sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 135 – Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt (Cùlakammavibhanga sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 10 – Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 32 – Ðại Kinh Rừng Sừng Bò (Mahàgosinga sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 121 – Kinh Tiểu Không (Cùlasunnata sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 4 – Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm (Bhayabherava sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 136 – Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt (Mahàkammavibhanga) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 107 – Kinh Ganaka Moggallàna (Ganakamoggallàna sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 87 – Kinh Ái Sanh (Piyajàtika sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 37 – Tiểu Kinh Ðoạn Tận Ái (Cùlatanhàsankhaya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 44 – Tiểu Kinh Phương Quảng (Cùlavedalla sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 118 – Kinh Nhập Tức, Xuất Tức Niệm (Kinh Quán Niệm Hơi Thở) (Anàpànasati sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 67 – Kinh Càtumà (Càtumà sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 20 – Kinh An Trú Tầm (Vtakkasanthàna sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 7 – Kinh Ví Dụ Tấm Vải (Vatthùpama sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 41 – Kinh Sàleyyaka (Sàleyyaka sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 57 – Kinh Hạnh Con Chó (Kukkuravatika sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ 10 – Kinh Tu Ba (Subha Sutta) - Kinh Tạng