Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương

Khuyết danh,

Bản Việt dịch của Thích Quảng Trí

*

PHẨM THỨ 1

Ta nghe như thế nầy, một thuở nọ đức Phật ở tại nước Xá Vệ rừng cây Kỳ đà, vườn Cấp cô độc cùng vớ 5000 đại A la hán như là Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Dà Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phật, Đại Mục Kiền Liên, A Nâu Lâu Đà, Kiếp Tân Na A Nhã Kiều Trần Như, A Nấn, La Hầu La v.v.… làm Thượng Thủ. Lại có vô lượng Đại Bồ tát, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Văn thù Sư Lợi, Bồ tát Kim Cang Tạng, làm Thượng thủ. Lại có vô lượng chú Thần vương, Tỳ cu chi Thần, A da kiết lợi ba Thần làm Thượng thủ. Lại có vô lượng Kim Cang, Bạt xà la tra ha sa Kim Cang làm Thượng thủ. Lại có Nhật thiên tử, lại có vô lượng Dạ xoa vương. A tra bạt câu làm Thượng thủ. Lại có Nguyệt thiên tử, Tứ đại Thiên vương, Đao Lợi Thiên vương, Thích đề hoàn nhơn, Đại tự tại Thiên, Đại Phạm Thiên, Đầu Xuất Thiên, Thủ đà hội Thiên, Ma hê thủ la Thiên, Công đức Thiên, Tỳ thủ yết ma Thiên, và các quyết thuộc Thiên, Long, Quỉ Thần, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Cưu bàn trà, Bố đơn na v.v… Lại có vô lượng Thiên vương, Long vương, La sát vương v.v… Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di v.v… vô lượng hằng hà sa cu chi na dữu đa Thanh Văn, Bồ tát, trời, người đại chúng trời rồng tám bộ v.v… Trước sau đoanh vây cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán than, dùng các hoa hương tán rãi nơi Phật. Mọi người đều vui vẻ, chắp tay đãnh lễ đi quanh Phật ba vòng rồi lui về một bên nhìn ngắm Như Lai mắt không xa rời, muốn được nghe pháp tối thắng.

Lúc bấy giờ trong thành Vương xá, có Lục sư ngoại đạo thường hành tà kiến. Thứ nhất Phú lan na Ca Diếp. Thứ hai Ma ha tư Ca lợi nổ cu xá lợi tử. Thứ ba là Tán xá y na đê tử. Thứ tư là A chất đa kê du ca ba la. Thứ năm Da cu đa da trí da na. Thứ sáu là Ni càn đạt đa bồ đề tử. Sáu lục sư ngoại đạo như thế dẫn các quyến thuộc đi đến chỗ Phật muốn cùng với Phật tranh luận.

Bấy giờ trong vườn có một cây khô tên là Am mạt la. Phú lấn na Ca Diếp hỏi Đức Phật rằng: Cồ Đàm, ông không đầy đủ Nhất thiết trí, nếu đầy đủ Nhất thiết trí thì cây Am mạt la nầy là sống hay là chết, ông trả lời được không?. Đức Thế Tôn ngồi im không trả lời. Phú lan na Ca Diếp thấy Phật lặng thinh không nói, tay cầm phất trắng lấy nước rãi chung quanh, cây tức sanh ra hoa lá và trái đầy cành, trong chốc lát trái chín đầy cây. Phú lan na sai các đệ tử của mình hái trái đem cho đại chúng.

Lúc đó trong chúng hội có những kẻ phàm phu tâm sanh nghi hoặc khen ngoại đạo nầy có nhiều quái dị, Như Lai làm thinh, nghĩa là Như Lai không có Nhất thiết trí, không bằng ngoại đạo.

Bấy giờ Thế Tôn biết tâm của chúng hội nghi ngờ, liền vào Hỏa quang tam muội từ trên đảnh phóng đại quang minh chiếu khắp ba ngàn đại Thiên thế giới, xong Phật tự kết Phật đảnh ấn triệu thỉnh mười phương chư Phật, Bồ tát đến nơi hư không, vô lượng hằng hà sa chư Phật và Bồ tát đều vân tập. Mười phương chư Phật lại phóng quang minh, thân tuôn nước, lửa, hiện đại thần lực, khiến cho cây kia trở lại khô héo như cũ, cành lá rơi gãy, tất cả bọn ngoại đạo phiền não sầu muộn nắm tay la khóc bỏ chạy khắp nơi.

Bấy giờ chư Thiên ở trên hư không rãi hoa cúng dường, tấu các âm nhạc khen ngợi Thần lực của Phật, đủ Nhất thiết trí, hàng phục ngoại đạo, bốn chúng thảy đều vui vẻ, phát tâm vô thượng bồ đề. Bấy giờ A Nan khắp xem tâm niệm của đại chúng, liền vui vẻ đứng dậy vén áo bên hữu chắp tay hướng về Phật, đảnh lễ chân Phật mà thưa rằng: “Lành thay! Bậc đại sư của trời, người có đầy đủ đại lực kỳ diệu, ngày nay hàng phục ngoại đạo, khiến cho tất cả chúng sanh đều quy y chánh pháp. Bạch Thế Tôn, hàng Thanh Văn chúng con thật là ngu muội, chỉ cầu nghe nhiều, đối với các lậu tâm, không cầu giải thoát, mong Phật xót thương cho chúng con được nhiếp tâm, mong hàng phục. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà rộng nói, khiến cho chúng con được bất thối chuyển, tất cả chúng sanh đều được nghe pháp yếu.”

Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng sức Chánh Biến Tri khen A Nan rằng: “Lành thay! Lành thay! Ong hay vì tất cả trời, người đại chúng thưa hỏi Như Lai về sự nhiếp tâm, hãy lắng tâm mà nghe, lắng tâm mà thọ trì, suy nghĩ cho chín chắn, ta nay sẽ vì ông mà nói. Trước nói nhập vào tam ma địa, nếu có người tu học cầu nhất thiết trí trước phải giữ gìn bốn luật nghi, hiểu cho rõ ràng đầy đủ. Tâm Như Lai tự không sanh ra các tâm tạp loạn, ba cõi bốn loài, các nhân duyên vô lượng, nên cần phải biết pháp mười hai nhân duyên. A Nan! Mười hai nhân duyên nầy có bốn việc nếu không thay đổi tâm, không tham, sắc, thanh, hương, vị, xúc, tất cả ma sự không thể nào phát sanh được. A nan! Nếu có người tu học có nhiều nhân duyên tội lỗi đời trước, ông dạy cho người nầy nhất tâm sám hối, trước diệt trừ nghiệp chướng nơi thân, đối trước Phật, Bồ tát, Thiên long chí thành đảnh lễ, qui mạng mười phương chư Phật thỉnh cầu thương xót, cung kính, khiêm nhường, nhân từ, phát nguyện, hồi hướng, khuyến thỉnh chư Phật ở đời lâu dài, chuyển đại pháp luân, độ chúng trời người, tâm không tán loạn, chuyên chú nhất tâm làm pháp tam muội, ngày đêm tinh tấn, tâm không nhàm mõi cầu quả vị thanh tịnh, Niết bàn thù thắng. Khi gặp dâm nữ, không có tu hành, dùng sức định xa lìa tâm yêu đương, như vậy A Nan, các hữu tình luân hồi nơi lục đạo chìm đắm biển khổi, không tự hay biết vì họ mà nói.”

A Nan lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn con mong Như Lai từ bi vô lượng như biển cả, nay tâm con đã được khai ngộ. Con nay phải tu chứng thành đạo chỉ muốn lúc mạt pháp, người mới tu học học kiến lập Đạo tràng, nương tựa vào pháp nào mà được thoát ly, làm thế nào để kiết giới, để hàng phục chúng ma, khiến cho tất cả Thiên, Long, quỉ thần ủng hộ. Nghi quỉ thanh tịnh của Thế Tôn như thế nào? A Nan dùng kệ mà hỏi rằng:

Chư Phật khó nghĩ bàn

Chư pháp cũng như thế

Người hay tin thọ trì

Nơi thân được phước đức

Thường nói Tu dà đà

An lạc chúng trời người

Nay chúng con nguyện tu

Làm sao mà tạo lập

Chư Phật, Thiên, Long, Thần

Thấnh tịnh các phép tắc

Làm thế nào sám hối

Phá hết các nghiệp chướng

Làm thế nào cúng dường

Dâng cúng các Thánh hiền

Làm sao để qui y

Được Phật thường gia hộ

Làm sao phát nguyện lớn

Tinh tấn và hồi hướng

Làm sao dạy chúng sanh

Ta, người đều lợi ích

Xin Phật đại từ bi

Thương xót hết thảy chúng

Rộng vì chúng con nói

Thọ trì các phương pháp.”

Phật bảo A Nan: “Nếu người đời sau muốn lập đạo tràng, trước nên lấy phân trâu trắng ở núi Tuyết hòa bột chiên đàn làm bột dẽo, nếu không ở gần núi Tuyết, không có loại trâu đó, trâu khác thì bị uế không thể dùng bôi đắp đàn được, tức nơi bình nguyên bỏ lớp đất trên năm thước, lấy đất vàng hòa chiên đàn, trầm thủy, tô hợp, huân giáng, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tàng và kê thiệt hương, dùng mười loại diệu hương nầy làm bột trộn đất làm bùn xoa đàn vuông vức 1 trượng 6 thước, làm cái đàn bát giác, trong đàn đặt một cái hoa sen làm bằng vàng hoặc đồng, cây, trong tâm hoa sen để một cái bát, trong bát đựng đầy nước sương tháng tám, bỏ các loại hoa, cây, lá tùy chỗ mình ở vào trong nước, lấy tám cái kính sạch tròn để xung quanh ngoài cái hoa sen, trong bát để 16 hoa sen, 16 cái lư hương. Ở giữa hoa và lư hương đốt toàn trầm thủy, không cho thấy lửa, lấy sữa trâu trắng để trong 16 cái bát, dùng sữa và đường cát làm bánh, nhủ mể, tô hợp, mật khương, mật nhủ, mật tô, thuần tô, thuần mật và các trái cây đồ ăn đồ uống, bồ đào, thạch mật, các loại đồ ăn ngon ngọt để chung quấnh ngoài 16 cái hoa sen dùng dâng cúng chư Phật và Bồ tát. Mỗi ngày đến giờ ăn hoặc trong nữa đêm lấy nữa thăng mật, bô ba hợp (chung) lấy 1 ít phần đốt trước đàn, lấy nước đâu lâu bà hương nấu nước mà tắm rửa, dùng củi đem cho có lửa bỏ vào trong tô mật khiến bốc khói để cúng Phật và Bồ tát.

Bốn góc phía ngoài treo bốn phan lọng, trong đàn trên bốn bức tường chưng bày hình tượng mười phương chư Phật và bồ tát theo thứ lớp, để Lô Xá Na, Thích Ca, Di Lặc, A Súc, Di Đà các hình tượng biến hóa của Quán Thế Âm và Kim Cấng Tạng ở bên trái, bên phải để Đế Thích, Phạm Vương, Ô sô sắc ma, Tỳ lam bà, Quân trà lợi, Cu tri, Tứ thiên vương, 28 bộ đại quỉ Thần tưóng, các Thiên long, A tu la, A tu la vương, Hỏa Đầu Kim Cang, Tỳ na dạ ca để bốn phía cửa phía trái, phía mặt an trí. Lại dùng tám cái kính sáng che lại mà treo trên hư không. Ơ giữa đàn cũng đặt một cái kính các mặt kính đối nhau khiến cho hình ảnh các loại chiếu xen lẫn nhau. Trong thất thứ nhất, chí thành đảnh lễ mười phương Như Lai, các Đại Bồ tát, A la hán, phát tâm Bồ đề ngày đêm sáu thời tụng chú nhiễu đàn chí tâm hành đạo. Một thời tụng 108 biến. Trong thất thứ nhì chuyên tâm hướng đến phát tâm bồ đề. Thất thứ ba trong 12 thời trì Bát đát ra chú. Thất thứ tư mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện ở trong kính đối chiếu nhau, được Phật xoa đảnh tức ở nơi đạo tràng tu tam ma địa. Người đời sau tu học nên y như vậy mà làm, thân tâm trong sạch như là lưu ly. A Nan nếu có Tỳ kheo thọ giới ở trong hội, nếu có một người không thấnh tịnh thì đạo tràng không thành tựu. Sau 21 ngày ngồi yên lặng chỗ thanh tịnh, trải qua 100 ngày nếu là lợi căn, không rời khỏi tòa, đắc quả Tu đà hoàn, tùy theo thân tâm, quả Thánh không nhất định, tự biết sẽ thành Phật nhất định không nghi. Đạo tràng tạo lập như thế ”.

Bấy giờ mười phương chư Phật khiến các Đại Bồ tát hiến Đại Thần chú, các Kim Cang hiện đại Thần biến nói chú dâng lên, cho đến trời, rồng, quỉ Thần, Dạ xoa đại tướng, chư Tiên cũng hiện Thần biến nói chú dâng lên, và nói chú rằng: “Chú của chúng con có đại oai lực hay phục ác độc”. Như vậy, vô lượng vô biên các chúng đều tụ tập đông đảo và đều nói rằng: “Con muốn nói Thần chú, xin Thế Tôn hứa cho”.

Bấy giờ Đức Thế Tôn yên lặng nhận lời. Thời các Bồ tát, Thiên, Long, Quỉ Thần, ngũ thông Thần Tiên mỗi vị ở nơi trước Phật nói các nhân duyên đời trước được Thần chú, mỗi khi nói chú, các vị đều hiện bổn chú Thần hình đầy nghẹt cả hư không.

Bấy giờ Bồ tát Quán Thế Âm từ chỗ ngồi trong hội mà đứng dậy trịch áo vai phải, đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con trong đời quá khứ nơi chư Phật được đà la ni, nay muốn nói ra, xin Thế Tôn hứa cho.” Bấy giờ Phật bảo Bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông có lòng đại bi muốn nói Thần chú, nay chính đúng lúc.” Tức thời Bồ tát Quán Thế Âm hiện ra La sát đầu ngựa nói Thần chú tên là A da yết lợi bà phóng đại quang minh che lấp tất cả các chú Thần đều bị hàng phục ẩn hết.

Bấy giờ Phật bảo Bồ tát Quán Thế Âm: “Ta có Thần chú tên là Phật đảnh Như Lai phóng quấng ma ha tát đát đa bát ra đô nhiếp Nhất thiết chú vương Kim luân Đế thù la Kim Cang Đạo Tràng đà la ni, rất là tôn trọng lợi ích chúng sanh không gì hơn được, chỉ có Phật truyền cho Phật, các ông nên một lòng thọ trì, sanh lòng hy hữu.”

Bấy giờ A Nan ở trong đại chúng đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: “Từ khi con xuất gia chỉ cậy vào Phật, kiêu mạn chỉ thích đa văn nên chưa chứng quả, cho nên bị tà thuật của Phạm Thiên mê hoặc, đã nhờ Thần chú của Như Lai giúp sức nên thoát được khổ nạn, xin nguyện Thế Tôn thương xót tất cả, rộng vì chúng sanh mà nói Thần chú cùng người bị luân hồi trong hiện đời và tương lai nghe Chú của Phật được đại an lạc.”

Lúc đó đại địa tự nhiên rung động, sông suối sục sôi, mặt trời mất ánh sáng, trên hư không mưa hoa bảy báu, tràn đầy. Chư Thiên rãi hoa cúng dường che khắp mặt đất, trống trời tự kêu, tất cả chư Thiên tấu kỷ nhạc ca vịnh tán thán, khắp hư không gió thơm bốn phía khởi lên. Tất cả Thiên tiên vân tập nhiễu quanh Phật ngàn vạn vòng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua một bên, chắp tay vui vẻ, sanh lòng hy hữu, khen là chưa từng có, nhìn ngắm Tôn nhan mắt không tạm rời. Bấy giờ chư Phật mười phương mỗi vị đều sai một Đại Bồ tát cầm các hương, hoa, phấn báu, lọng báu cùng với hằng hà sa quyến thuộc cũng cầm các hương hoa. Mười phương chư Phật bảo các đại Bồ tát rằng: “Các ông đem hương hoa đến thế giới Ta bà cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, đem lời của ta đến chỗ Đức Phật kia” Các vị Bồ tát thừa Thần lực Phật qua Ta bà thế giới, tới thành Vương xá tại chúng hội, nhiễu Phật ba vòng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua một phía, đem hương hoa rãi trên hư không và nói như thế nầy: “Chư Phật ở thế giới kia sai con đến hỏi thăm Thế Tôn ít bịnh, ít não, đi đứng nhẹ nhàng, muốn nói đại pháp, nay đúng phải thời. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con và tất cả chúng sấnh mà nói.”.

Bấy giờ trong hội tất cả chúng Thanh văn, Bồ tát, Nhôn, Thiên, Long Thần, Bát bộ đều đến làm lễ, khác miệng đồng lời bạch Phật rằng: “Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con mà nói cho, chúng con muốn nghe Như Lai phóng quang Tối Thắng Tự Tại Vương Thần chú.” Bấy giờ Thế Tôn thấy mười phương chư Phật, Bồ tát, Nhơn, Thiên, thỉnh xong liền vào tam muội yên lặng không nói, từ nơi nhục kế phóng ra mười đạo ánh sáng trăm báu chiếu khắp mười phương, nơi các lỗ chân lông đều tỏa ra hương thơm, có bánh xe vàng lớn quay tròn trong ánh sáng, nơi hư không hiện ra trăm ngàn vô lượng hằng hà sa cu chi na dữu đa Kim Cấng Mật tích, các đại Thần vương lực sĩ bưng núi cầm chày, quay mặt trời, hiện đại thần thông, y giáp rực rỡ đeo kiếm, mang đao, gậy, bánh xe, dây, cung, tên, câu, các binh khí, linh, đạt, loa bối, tinh tiết, phan, phướng, tán cái, đầy chật cả hư không. Lại có sấm chớp chấn động, mặt trời mặt trăng mất ánh sáng. Trời Rồng không thể ở trong cung đều bỏ cung mà đến tụ tập. Tất cả ác thú đều mất tâm độc, kéo đến đại hội, quỉ thần ngừng chiến sống ấn ổn với nhau. Đại chúng ngẩng lên nhìn, vừa mừng vừa sợ, đều cầu gia hộ. Lúc bấy giờ Hóa Phật ở trên Vô kiến Đảnh tướng trong luồng ánh sáng, phát ra đại Phạm âm nói lời qui mạng để cảnh tỉnh quần mê.

Nam Mô Nhất Thiết Tam Thế Phật.

Nam Mô Nhất Thiết Chư Bồ Tát.

Nam Mô Thanh Văn Độc Giác Chúng

Nam Mô Nhất Thiết Chư Quỉ Thần

Tất cả hãy nghe ta sai khiến

Nay muốn nói ra đại Thần chú

Tất cả các người nên hoan hỷ

Đảnh lễ cung kính thật hết lòng.

Phật ấn có ba mươi hai, Bồ tát ấn có mười.

Kim Cang ấn có hai mươi , Chư Thiên có bốn mươi.

Nhật, Nguyệt Thiên có mười chín, Quỉ có mười một.

Đà la ni có tám mươi sáu.

Đại Phật Đảnh Đà La Ni Tâm chú

(còn gọi Nhất thiết Phật tâm chú)

– Úm tát bà đát tha yết đa mạn lật đế bát la phạt đế yết đa bà duệ. Úm sa ma điện đô ma ma (tên…) tả tát bà bả bế biều sa tất đế sa ra bả đô mâu chi mâu chi tì mâu chi tì mâu chi giá rị giá rị nễ yết đế bà da ca ra nê bộ địa bộ địa, bộ đa bộ đa da, bột địa lợi bột địa lợi, bột đà lam tát bà đát tha yết đa hiệt lật đà da thọ sắc sĩ tá ha.

– Đại Phật đảnh Đại tâm chú ấn:

Hai ngón giữa để sau hai ngón vô danh, hai ngón cái vịn nhau đầu ngón móc nhau, hai ngón giữa nơi sau lưng hai ngón vô danh đầu dựa nhau, hai ngón vô danh thẳng, hai ngón út quấn hai ngón vô danh, rất là khó nghĩ bàn.

– Đại Phật đảnh phá chư pháp ấn:

Tay phải ngón giữa cong lại để nơi văn dưới của ngón cái, ngón cái trói ngón giữa đứng thẳng, ba ngón kia đứng thẳng.

– Đại Phật đảnh chế Nhất thiết Thần lực bất úy giải pháp ân:

Hai ngón út, giữa, vô danh xoa nhau bên trong, hai ngón cái co lại trong lòng bàn tay, hai ngón trỏ trái đè phải đứng thẳng xoa nhau.

Ba ấn nầy dùng Phật đảnh Tâm chú.

* Nhất thiết Bồ tát chú ấn:

– Úm bạt chiết ra để bạt chiết ra bát ra để sắc sỉ để du đề đát tha yết đa bột đà la địa sắc tra na địa sắc sỉ để sa ha.

– Đại Phật đảnh đại Phẫn nộ ấn:

Hai ngón cái đứng thẳng, hai ngón giữa thẳng đầu dựa nhau, hai ngón trỏ hơi co đầu để nơi tiết trên ngón giữa ở một bên, hai ngón vô danh hai ngón út xoa nhau đầu ló ra ngoài.

– Đại Phật đảnh Phược đại lực quỉ ấn:

Hai ngón cái đứng thẳng, ngón trỏ trái co lại đầu để nơi gốc ngón cái trái, ngón trỏ phải hơi co, các ngón kia đều co vào lòng bàn tay.

Đại Phật đảnh hoán đảnh chú:

(còn gọi Đại Phật đảnh Cam lồ chú)

– Úm mâu nễ mâu nễ phạt lệ a tì tiên dã dương bát lặc bà đát tha yết đa hồng ma ma (tên…) tả tát bà tất địa dã tì sái kê ma ha bạt chiết la ca phạt giá nhiễu la bột lặc nhiễu địa lị để đát tha yết đa cát lợi đạt da địa sắc sĩ đa bạt chiết lệ sa ha.

– Đại Phật đảnh Quán đảnh ấn:

Đứng thẳng hai chân bằng nhau, tay phải hướng lên nơi lá lách, tay trái ngón trỏ, út, vô danh, cái co lại, ngón giữa thẳng ra để nơi mi giấn. Nếu có người làm pháp nầy các tội căn bản đều tiêu diệt. Chú rằng:

– Úm a mật lật đa phạt chiết lê phạ ra phạ ra bát ra phạ tì du đề hàm hàm phấn phấn khuất khuất tá ha.

– Đại Phật đảnh Cam lồ ấn:

Bật ngón giữa phải nơi ngón trỏ áp trên tiết trên ngón cái, ngón cái đè móng ngón áp út. Nếu có người làm pháp ấn chú nầy, tất cả chư Thiên đem Cam lồ rưới trên đảnh người đó, không thể nghĩ bàn.

* Đại Phật đảnh kiết giới chú pháp.

– Úm a mật lật đa tì lô yết nễ yết ra bà duệ khắc ni a yết ra sa ni hàm hàm phấn phấn tá ha.

– Đại Phật đảnh đại tâm ấn:

Hai ngón giữa xoa nhau bên trong, hai ngón út đứng thẳng, hai ngón cái thẳng, hai ngón trỏ áp đầu hai ngón cái..Ấn này hay nhiếp tất cả tâm ấn ở trong chánh pháp, hay nhiếp bốn món tùy tâm. Nếu làm các pháp được tự tại vô ngại, trước kết ấn tụng chú bốn chín biến, sau đó xử dụng.

* Đại Phật đảnh tâm trung tâm chú:

– Úm bạt chiết ra bạt ra bạt ra ấn địa lật da tì du đạt nễ hàm hàm tăng rô giá lệ ca rô giá lệ sa ha.

Nếu kết ấn niệm tất cả chư Phật, chư Phật đều đến trước người đó, được tất cả chú Thần hộ vệ, đại hộ thân vậy, và sai khiến tất cả quỉ thần. Nếu muốn tụng chú, trước tụng Phật tâm trung tâm chú.

– Hộ thân dùng Tiểu Phật đảnh giáp ấn.

Hai tay ngón vô danh ngón út xoa nhau nơi hổ khẩu lòi hai ngón giữa, hai ngón cái, ngón trỏ thẳng đầu áp nơi lưng ngón giữa tiết trên, hai ngón cái vịn hai ngón giữa văn trong ở tiết trên gọi là Đại giáp ấn ở nơi ngực xoa xoa. Nếu muốn làm đàn kết ấn nầy tụng chú kết giới hộ đà, chư Thần đều tụ đến. Nếu không làm pháp nầy, các đại quỉ Thần vương phá sự kết giới, làm pháp không thành. Kết giáp ấn chú 49 biến, đem ấn chà nơi ngực, hai vai rún, đầu gối, tất cả các Kim Cang đều thấy là thân Phật, các ngoại đạo dùng hết Thần lực cũng không thể hại được. Đứng y như trên, chỉ đổi lại ngón cái hai ngón vịn văn ngón giữa gọi là Đại Khế ấn. Nếu có người ác, thú ác, kết ấn nầy tụng chú 49 biến, tám vạn bốn ngàn Kim Cang, trăm ức chư Phật ủng hộ Chú Sư.

– Bách ức chư Phật đồng Tâm ấn.

(Còn gọi Chuyển Pháp Luân ấn)

Hai ngón vô danh, hai ngón út xoa nhau bên trong, hai ngón cái hai ngón giữa thẳng, hai ngón trỏ vịn sau lưng hai ngón giữa tiết trên, kết ấn nầy trăm ức chư Phật, Bồ tát, Kim Cang, Tứ Thiên Vương, Thần quân đều đến hộ niệm, khiến cho chứng được Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả người ác thấy ấn nầy đều sanh lòng từ bi qui thuận. Nếu vướng nạn đao, nạn bịnh, muốn hại người, kết ấn tụng chú 49 biến, ác giặc bị cột trói mê man không biết; không giải không hết. . Ấn nầy rất có đại oai lực.

– Phật đảnh Thân ấn.

Xoa ngược hai ngón vô danh, hai ngón út trong lòng bàn tay, đứng thẳng hai ngón giữa đầu dựa nhau, co đầu hai ngón trỏ áp bên hông hai ngón giữa tiết trên. Đứng thẳng hai ngón cái vịn ở bên tiết giữa hai ngón giữa, đầu ngón qua lại tức nói Phật đảnh Tâm chú :

– Nam mô tát bà nhã da. Úm đa tha yết đô ô sắc ni sa a na bà lô chỉ đá mộ lam địa đế thù la thí ô hồng thập phạt ra thập phạt ra đà ca đà ca tì đà ca tì đà ca, đà ra đà ra tì đà ra tì đà ra, Sân đà Sân đà tần đà tần đà ô hồng phấn phấn tá ha.

* Phá ma Hàng phục ấn chú:

Như Thân ấn, đổi lại hai ngón trỏ đứng thẳng đầu dựa nhau, hai ngón giữa bật nơi tiết trên bên lưng ngón trỏ quay đầu dính nhau, co hai ngón cái nhập vào lòng bàn tay. Đem đ ểtrên đầu, cung kính chí tâm tụng chú:

– Úm thất rị dạ bà hê tá ha.

– Phụng thỉnh Ấn :

Như Thân ấn, đổi lại hai ngón cái trỏ đứng thẳng cách nhau 4 tấc 5, hai ngón cái đứng thẳng cách ngón giữa 8 phân, tụng Phật đảnh Tâm chú đến biến thứ tư, hai ngón trỏ từ từ co lại nhập vào lòng bàn tay, chú 49 biến. Lại kết ấn Hòa nam đảnh lễ, hướng vào trong xả ấn. Phụng thỉnh ấn gọi là Hoa quang ấn.

– Liên hoa Bổng túc ấn:

Hai ngón út thẳng dựa nhau, hai ngón cái dựa nhau, còn các ngón kia đứng thẳng đầu hơi cong như hoa nở, chú 7 biến lại cong hai ngón cái hướng vào lòng bàn tay, đảnh lẽ giải ấn.

* Tọa chú rằng:

– Úm ca ma la xóa ha.

* Tẩy tịnh chú:

– Úm bạt chiết ra ma ni đà lợi hàm hàm phấn phấn.

(Chơn ngôn nầy dùng chú nước tụng 7 biến)

* Nhập Xúc xử chơn ngôn:

– Úm cu rô đà na hồng xá.

(Mỗi khi đi cầu đọc chú 7 biến, đàn chỉ 3 lần)

– Úm thất rị ô hồng phấn sát tá ha.

( Mỗi khi ăn chú 7 biến, trừ Tỳ na dạ ca)

* Tịnh Khẩu chơn ngôn.

– Úm bà đế thiên Thần na la bà dế tra tá ha.

(Trước khi niệm tụng tẩy tịnh niệm 7 biến)

* Tịnh Thân chơn ngôn.,

– Úm phạt chiết la ma ni đạt rị hồng phần tra phần tra tá ha.

Khi đi đến chỗ dơ uế tụng 7 biến như dùng nước thơm tắm rửa, cũng tiêu tội chạm xúc.

– Hộ Thân ấn chú:

Hai ngón trỏ, hai ngón vô danh, hai ngón út, phải đè trái xoa nhau bên trong, hai ngón giữa co đầu áp lưng hai ngón trỏ, hai ngón cái thẳng vịn bên móng hai ngón giữa. Chú rằng:

– Úm cư lộ đà na hổ hồng xước.

Kết ấn nầy tụng chú ba biến Hộ than, khi đi vào chỡ dơ uế, trì đất sạch rữa tay. Khi đi cầu, xỉa răng, súc miệng. Tay phải, ngón trỏ hơi cong, ngoón vô danh ngón út như câu.

– Úm đổ rô cư rô cư rô tá ha.

Kết Ấn nầy chú nước 7 biến súc miệng, giải tất cả Kim Cang quỉ Thần. Hai tay chắp ngược, giận dữ chú 14 biến. Xong chắp thuận, lại chú 7 biến, xong mở gấp ra.

Tứ Thiên Vương chơn ngôn:

– Nam mô lặt đát na thất rị dạ da, na mô chiết đổ rô ma ha xà da tỉ tỉ xử tra cư ma ha xà da tì lô bát sa ma ha xa da, địa lị a thất đổ rô sa đà da sa đà da ha để đàn ha để đàn bột đà bà để bồ đề tát đỏa sa da bát lạt để ca bột đà bà để tô lị da bà để chiên đà ra bà để hê hê để dà không để hổ hổ ma ha bà để hê hê ma ha bà để sa bà chước sô mục xiên bạn đà ni sa ha.

– Kết Giới ấn:

Hai ngón giữa, hai ngón vô danh xoa nhau bên trong, phải đè trái, ngón trỏ trái co lại như câu, ngón trỏ phải đứng thẳng, hai ngón cái vịn nhau.

– Úm chuẩn nễ ni chỉ ca da sa ha.

Đọc một biến dùng ngón cái chạm đất một cái, ba lần như vậy.

– Kết ngoại hỏa viện Hỏa giới ấn:

Tay trái che kín lưng tay phải, hai ngón cái cách nhau 2 tấc.

– Úm a tam ma để hổ hồng sa ha.

Đọc ba lần xoay ấn qua phải ba lần.

– Úm kiết đa rị kiết.

Nếu bị bịnh ghẻ, lác, chú nước 7 biến mà tắm tức lành.

Nếu bị rắn, rít, bò cạp, rồng, hổ, lấng, sư tử, ngựa, heo, chó cắn, chú nước một biến rửa chỗ vết thương tức hết.

Lại nếu bị bùa chú ếm đối tà thuật làm cho bị bệnh, chú 7 hạt giới tử lia nơi bệnh nhân tức biết chỗ bị thư ếm, chú một biến rải nơi đảnh tức trừ.

Lại nếu người bị bịnh quỉ, khiến Tứ Thiên Vương hộ bệnh nhân, chú cành thạch lựu 1 biến đánh nơi hư không, bệnh nhân tức nói tên tuổi của quỉ.

Lại nếu bị bệnh ghẻ nhọt phát ra một ngày, hai ngày, ba ngày chú tro một nắm rãi chung quanh bệnh nhân, tức trừ.

Lại nếu làm các pháp không linh nghiệm. Đều do nghiệp chướng nơi thân, lấy nước chảy về hướng Đông chú 7 biến, rãi nơi đầu tức được linh nghiệm, khiến chú Thần phò giúp. Lại nếu Chú Sư trong thân có chướng nạn, lấy ngưu hoàng 1 phân chú 7 biến xoa nơi đầu tóc tức không bị chướng ngại. Lại nếu bị độc dược, lấy nước muối hoặc tĩnh hoa thủy chú 1 biến, nhỏ lỗ mũi, tức hết. Lại lấy một thăng Tỉnh hoa thủy, chú 7 biến, mặt trời vừa mọc, hướng về mặt trời mà uống, các bệnh đều tiêu trừ. Nước còn dư hướng mặt trời mà rãi, tất cả chúng sanh có bệnh đều tiêu diệt.

Lại chú nước 1 biến đem rải trong nhà, chú bạch giới tử 1 hột chú 1 biến đem chôn trong nhà, tất cả quỉ Thần không dám vào.

Lại có pháp chú nước 1 biến dùng hoán đảnh và rửa mặt, tất cả khẩu thiệt quan sự tiêu diệt, người thấy vui vẻ.

Lại có pháp nếu đi qua sông biển, núi rừng đồng trống chú nước 1 biến mà rãi tức được vô úy.

Lại ở hang núi, trong rừng chỗ yên lặng, đốt hương rãi hoa tụng chú, tất cả chư Phật, Bồ tát, Thiên long, quỉ Thần đều lại hiện thân nói pháp lại, cho các thuốc Thần tiên.

Lại nếu bị bịnh phong, đau đầu, mặt mày nóng lạnh, lấy bơ, mật, lạc chú 1 biến mà xoa tức hết.

Lại nếu có người ác muốn làm hại, mặt trời chưa mọc chí tâm tụng chú 3 biến kêu tên người kia, tất cả khẩu thiệt ác nhơn đều tiêu diệt.

Lại có pháp nếu muốn cầu tiền bạc của người, tụng 7 biến đi tới là được.

Lại ở nơi tịnh thất đốt hương, tụng chú, tất cả Thiên nữ đều hiện thân tấu nhạc trời cúng dường, Chú Sư muốn cần đồ ăn uống cõi trời đều được.

Lại nếu bị người ganh ghét, chú nước 1 biến rảy nơi hai cánh cửa, khiến họ vui vẻ.

Lại chỗ giao dịch buôn bán, chú lông công 1 biến, đem theo tức được đại lợi ích.

Lại nếu có người bị chết qua ba ngày chú 21 biến lại chú nhánh thạch lựu đánh 7 cái nơi đầu họ, sẽ sống lại.

Lại nếu có người bị quỉ đánh chết, chú nước 1 biến rửa mặt họ, tức sống lại.

Lại nếu ở trong tháp, tịnh thất, lấy đất sạch hòa chiên đàn đắp đàn vuông ba bậc lớn nhỏ tùy ý, tán rãi các hoa nơi đàn, lấy 1 bình lưu ly đựng đầy đề hồ, lại lấy 7 hạt Xá lợi để trong bình đem an nơi đàn. Chú Sư ngồi ở phía Tây đàn, chí tâm đốt hương, rãi hoa, tụng chú không quá 7 biến, Xá lợi tức phóng ánh sáng chiếu thân Chú Sư, Chú Sư chí thành đảnh lễ phát nguyện lấy đề hồ tự uống, tất cả chướng nạn đều tiêu trừ. Lại lấy Xá lợi đem cột nơi mão đội nơi đầu, tất cả chư Phật, Bồ tát, Thiên long, quỉ thần ngày đêm ủng hộ không có xa rời, tất cả chúng sanh đều xem như Phật cung kính cúng dường.

A Nan! Pháp nầy không thể nghĩ bàn, phước đức công năng, khiến chúng sanh không có tai nạn, quả báo đầy đủ.

Lại nếu gặp ác thú muốn ăn thịt, tụng chú mà chỉ, tức qui phục không dậy được và được giải thoát.

Lại nữa hắc nguyệt đêm 29, hướng nơi đồng trống, đốt hương tụng chú tức được quỉ Tỳ xá dà lại đảnh lễ hoặc đem của báu cúng dường, muốn sai khiến hỏi các việc thiện ác đều biết.

A Nan! Nay ta vì người nói Đại ấn Đà la ni mẫu hay phá các nghiệp ác: Hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp hai ngón trỏ nơi giữa văn tiết giữa, còn các ngón kia chắp lại tụng chú, đây gọi là Phật đảnh Quang đà la ni ấn.

A Nan! Lại lấy ngón cái tay phải áp móng ngón giữa, các ngón kia thẳng, đây là Như Lai Thiện Tập đà la ni ấn. Lại tay phải, ngón cái đè móng hia ngón út và vô dấnh, các ngón kia thẳng, đây gọi là Sắc Ngữ ấn: Như Lai thường dùng ấn nầy giáo hóa Thiên, Nhơn, A tu la v.v…

Phật bảo A Nan: “Sau khi ta diệt độ, nếu có người ngày ngày tụng chú nầy 7 biến, tức tiêu tất cả cực đại trọng tội, được đại thiện nguyện, vô lượng công đức. Nếu như có người dùng của báu trong tứ thiên hạ bố thí ba la mật công đức nầy trăm ngàn vạn ức không bằng người sáng chiều trước tượng Phật chí tâm tụng trì chú nầy 7 biến công đức, phước lực hơn trên trăm phần, cho đến tính đếm thí dụ cũng không thể được. Chú nầy hay khiến người trì tụng mau chứng Bồ đề, mười phương Như Lai đều khen ngợi. Ơ nơi đời sau thành Phật không sai, hào quang nơi thân chiếu khắp các cõi Phật.

A Nan! Nơi nào có được chú nầy, trời rồng vui vẻ, mưa gió thuận thời, lúa thóc được mùa, nhân dân an lạc, lại hay trấn các sao ác, các biến quái, tai họa đều không khởi, không bị điên cuồng, cột trói đánh đập mà chết, đêm ngủ không có ác mộng.

A Nan! Thế giới Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn sao ác làm các điều quái dị, có 28 sao ác lớn cầm đầu, lại có tám sao ác lớn làm chủ, biến ra các hình xuất hiện nơi đời, sinh ra các loại tai dị, nếu có chú nầy thảy đều tiêu diệt. Nếu người hay thọ trì được đại an lạc, trong 12 do tuần thành kiết giới địa, các điều không tốt đều không dám vào, vì thế Như Lai nói bí mật vô thượng đà la ni nầy trụ nơi Thủ Lăng Nghiêm tam muội không nói hết được. Nơi cõi Diêm phù đề làm nơi y chỉ, như nghèo được của báu, bệnh được thuốc hay là thầy của tất cả, là đường lớn đi đến Bồ đề, không có chướng ngại, tất cả quỉ đói, chúng sanh được giàu có, ngục tù cùm trói đều được giải thoát.

A Nan! Giả sử có người tâm tán loạn không được tam ma địa, chỉ nhớ trì chú nầy, tất cả Bồ tát Kim Cang, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên, Nhơn, Long Thần Bát Bộ cũng thường lại giúp đỡ huống là phát tâm bồ đề quyết định không bị sanh vào cõi Dạ xoa, La sát, A tu la, Ngạ quỉ, Súc sanh v.v… có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, có chân, không chân, rắn, rít, bò cạp, các loài cử động hàm linh, các ác đạo như vậy chỉ nghe qua tai một lần không còn bị lạc vào. Nếu hay xưng tụng, chép viết giải nói đeo mang cúng dường, đời đời không sanh vào hạng bần cùng hạ tiện, sanh ra chốn nào đều nhớ túc mạng giàu có đầy đủ, đời sau sanh lên Thiên cung, cho đến có thể khiến người phá giới được lại giới căn thanh tịnh, không tinh tấn được tinh tấn, không trí huệ được trí huệ, không sạch sẽ, trai giới đều được trang nghiêm đầy đủ.

Thiện nam tử! Khi chưa trì chú, sau khi được trì, tất cả các tội phá giới dầu nặng hay nhẹ một thời đều tiêu, dầu có ăn uống rượu thịt ngũ tân các thứ bật tịnh cũng khiến Kim Cang, chư Phật, Bồ tát, Thiên Tiên, quỉ thần bát bộ cũng không cho là lỗi, dầu có mặc quần áo không sạch sẽ, đi đứng ngồi nằm chỗ bất tịnh cũng thành như chỗ thanh tịnh, dầu không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành đạo, chỉ tụng chú nầy, công đức cũng như vào đạo tràng hành đạo không khác.

* Hoán Nhất Thiết Bồ tát chú:

– Úm bà thận nhược bà đa sa ha.

Chắp tay để nơi tâm hồ quì, ngón giữa trái co lại áp trên lưng ngón giữa phải tại tiết giữa, hai ngón cái hướng trước các ngón kia chắp lại. Nếu Chú Sư chưa lập đàn tùy thời kết ấn trước Phật chú 7 biến, đốt hương đảnh lễ tụng chú tức diệt 80 kiếp trọng tội.

ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI PHÓNG QUANG

TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH

PHẨM THỨ NHÌ

Khi Phật nói chú và ấn pháp xong, bảo các Bồ tát rằng: “Tất cả chư Thiên quỉ Thần hãy hồ quì chắp tay” và dạy rằng: “Các ông hôm nay hãy nghe theo lời ta mà ủng hộ khiến chúng sấnh được an lạc.”

* Hoán Bồ tát Bất Không Quyến sách ấn chú.

– Úm y hê y hê tát để da bà đa duệ sa ha.

Hai ngón út xoa nhau, hai ngón cái nhập vào lòng bàn tay, các ngón kia mở ra chú 7 biến. Nếu lập đàn, trước kết ấn nầy, mỗi ngày tụng chú cúng dường Bồ tát, trừ các tội phá giới.

* Bồ tát Hoán Mã Minh ấn chú.

Kêu Mã Minh Bồ tát thời ngó mặt trời, miệng ngậm nước mà phun, tụng chú.

– Úm tát bà tì da phẩn lưu phẩn lưu đầu đậu đầu đậu đầu đậu đầu đậu đốt lực đốt lực đốt lực đốt lực sa ha.

Hai tay mười ngón xoa nhau, chắp lại để nơi tâm, chú 7 biến, đảnh lễ Bồ tát. Nếu cầu thông minh, mỗi ngày kết ấn cúng dường Bồ tát, tiêu trừ nghiệp ngu si.

* Hoán Quán Thế Âm Bồ tát ấn chú.

– Úm tát bà tát đỏa tì da ha tì da ha sa ha.

Chắp cổ tay lại, mười ngón cách nhau 3 tấc như hoa sen nở. Nếu mỗi ngày kết ấn cúng dường Bồ tát, tiêu trừ số 8 ở vạn kiếp sanh tử trọng tội.

*Hoán Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ấn chú.

– Úm mạn thù thất lợi da bà đa duệ sa ha.

Hai tay ngón vô danh co trong lòng bàn tay, hai ngón giữa đứng thẳng, hai ngón cái hướng trước cách 1 tất qua lại.

Nếu mỗi ngày kết ấn cúng dường Bồ tát, tiêu ngàn ngàn kiếp tội nặng.

– Hoán Bồ tát Long Thọ ấn chú.

– Úm tát bà khư đề bà sa ha.

Tay trái ngửa để đến cổ tay phải, tay phải để lên tay trái, hai tay đâu lưng nhau như miệng rắn. Nếu bị rồng rắn độc cắn, kết ấn hướng đó tức trừ.

* Hoán Bồ tát Thiên Thủ Thiên Nhãn ấn chú.

– Úm phiến ni a bà duệ sa ha.

Hai tay ngón giữa xoa nhau, hai ngón vô danh câu nhau trong lòng bàn tay, hai ngón cái hơi co, hai ngón trỏ trái đè phải xoa nhau, hai ngón út xoa nhau, chắp tay lại. Nếu mỗi ngày kết ấn cúng dường, tiêu tội trong ngàn kiếp. Nếu làm pháp, kết ấn nầy thỉnh Bồ tát.

* Hoán Bồ tát Hư Không Tạng ấn chú.

– Úm tát bà đa tì da chu lưư chu lưu sa ha.

Tay trái năm ngón hơi co để trong lòng tay phải, năm ngón đứng thẳng. Nếu mỗi ngày kết ấn nầy cúng dường Bồ tát, tiêu 21 kiếp sấnh tử tội.

* Hoán Bồ tát Địa Tạng ấn chú.

– Úm rô ha rô ha rô ha sá ha.

Lấy tay phải từ ngón giữa trở xuống co trong lòng bàn tay, hai ngón kia đứng thẳng. Tay trái năm ngón nắm chặt lại hai cổ tay giáp nhau. Nếu mỗi ngày kết ấn cúng dường Bồ tát, diệt ngàn kiếp tội.

* Hoán Bồ tát Nhật Tạng ấn chú.

– Úm tát bà ba da duệ sá ha.

Hai tay chắp lại, mười ngón xoa nhau để nơi tâm, kết ấn nầy cúng dường Bồ tát, diệt ngàn kiếp tội.

* Hoán Bồ tát Long Tiên ấn chú.

– Úm bà đề da bà đa duệ sa ha.

Hai tay ngón giữa xoa nhau tại lòng bàn tay, hai ngón vô danh xoa nhau, hai ngón út móc nhau, hai ngón cái đứng dựa nhau, hai ngón trỏ vịn nhau. Nếu kết ấn cúng dường Bồ tát, tiêu ngàn kiếp tội.

ĐẠI PHẬT ĐẢNH PHÓNG QUANG

TẤT ĐÁT ĐA CHƯ KIM CANG

PHẨM THỨ BA

* Hoán Kim Cang Tạng Vương Kim Cang Quân chú ấn.

– Thất lị trí phược xá la bà ni bà la đà ma ha phì địa da la xả bà la đạn đa la ma chiến trà phì địa dã la xá y hê y hê bán ca bán thi ca lan.

Nếu làm pháp an trí xong, nhiễu đàn ba vòng, rung lưỡi cho ra tiếng, tất cả Kim Cang đều y chỗ đứng, tất cả quỉ Thần không dám đi vào.

* Hoán Kim Cang Vương Câu Thi chú ấn.

– Úm phược xá ra ương cu thi bà đa duệ sa ha.

Xoa ngược hai ngón vô danh, hai ngón út trong lòng bàn tay, hai ngón giữa đứng thẳng đầu dựa nhau, hai ngón trỏ bất tại lưng hai ngón giữa nơi tiết thứ ba, đầu dựa nhau, hai ngón cái đứng thẳng dựa ngón giữa chắp tay lại, ngón cái qua lại.

* Hoán Tra ha Bà Kim Cang chú.

– Úm phược xá ra tra ha bà ma ma y hê y hê sá ha.

Hai ngón giữa bật tại ngón vô danh đầu dựa nhau, hai ngón út mở đầu đứng thẳng cách 1 phân, hai ngón cái đè ngón vô danh ở văn thứ hai, chắp tay lại, ngón trỏ co đầu dựa nhau, đầu ngón qua lại.

* Hoán Tồi Toái Kim Cang ấn chú.

– Úm phược xá ra phược xá lợi ni cô trí ni bát đà đà giá bát đà dà đà đá hồng phấn tra sa ha.

Hai ngón út bật nơi lưng hai ngón vô danh, hai ngón vô danh dựa đầu hai ngón cái, co đầu để vào tiết hai ngón giữa, ngón trỏ qua lại.

* Hoán Kim Cang Thương yết La chú.

– Úm phược xá ra đích thương ca la ha da ha da na bát na bát đà phấn tra đà tra đà.

Xoa ngược hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út trái đè phải, hai ngón vô danh nơi sau lưng hai ngón giữa, hai ngón giữa đứng thẳng đầu dựa nhau, ngón trỏ câu ngón vô danh, hai ngón cái vịn đầu hai ngón giữa, hai ngón cái đầu dựa bằng nhau để trên đầu, mặt làm vẽ giận dữ.

* Hoán Kim Cang Mả Đầu ấn chú.

– Úm ba la tì tất đa phệ xá la ni phệ phệ chi sa ha.

Chú vào hạt cải trắng đốt nơi đàn, hai tay ngón giữa trở xuống xoa nhau bên ngoài, đè mạnh nơi lưng bàn tay, chắp tay lại, hai ngón trỏ đứng thẳng cách nhau 5 phân. Hai ngón cái dính nhau co 1 lóng không cho dính ngón trỏ, đầu ngón qua lại.

* Hoán Kim Cang Ni Lam Bà ấn chú.

– Úm phệ xá ra dược xoa da ra xá hồng hồng phấn tra sa ha.

Tay trái ngón giữa trở xuống các ngón co lại trong lòng bàn tay, tay phải cũng vậy hai ngón trỏ dựa nhau, hai ngón cái qua lại.

* Hoán Kim Cang Ô Sô Sa Ma ấn chú.:

– Úm tất đà thất chiên trà phạ xá ra, cu rô mãn đà mãn đà hồng hồng phấn tra phấn tra.

Tay trái chống nạnh, bốn ngón hướng trước, tay phải nắm lại, ngón trỏ đứng thẳng, làm ấn khắc quỉ.

* Hoán Kim Cang Hỏa Đầu ấn chú.

– Úm phược xá ra bà ni đà ha đà ha hồng hồng hồng phấn.

Hai tay ngửa lên, hai ngón cái co áp tiết trên hai ngón trỏ, hai ngón cái qua lại.

* Hoán Kim Cang Đồng Nữ ấn chú.

– Hồng hồng phược xá rị nị bà đa duệ sa ha.

Hai tay đâu lưng phải đè trái, mỗi ngày kết ấn trừ khẩu thiệt.

* Hoán Kim Cang Liên tỏa ấn chú.

– Hồng hồng phệ xá ra ha na ha na mãn đà ha mãn đà ha tra.

Mười ngón hướng vô trong níu nhau, nếu che ấn gọi là Nội ấn, nếu kết ấn, tất cả quỉ đều tự bỏ đi.

* Hoán Kim Cang Tô Tất Địa ấn chú.

– Úm tô tất địa già ra già ra sa ha.

Hai ngón vô dAnh, út xoa ngược trong bàn tay, hai ngón giữa đứng thẳng, hai ngón trỏ đầu hơi co dựa nhau, hai ngón trỏ để nơi lưng hai ngón giữa nơi tiết thứ ba, không cho dính đầu. Hai ngón cái vịn tiết nhì hai ngón giữa, đầu ngón qua lại.

ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI PHÓNG QUANG

TÁT ĐÁT ĐA CHƯ THIÊN

PHẨM THỨ TƯ

* Hoán Thiên Vương Tối Thắng ấn chú.

– Úm kiện ni ca la xá phấn.

Đứng dậy, hai chân cách nhau một thước, các ngón bằng nhau, hai tay ngón giữa co tiết giữa trong lòng bàn tay, hai ngón cái đè lên, hai ngón trỏ, hai ngón vô danh, hai ngón út dựa lưng hơi cách nhau, chắp cổ tay lại. Để nơi trán, chỗ tiết dưới ngón cái. Nếu kết ấn nầy các ác ma sợ sệt bỏ đi, dùng ấn nhiễu đàn.

* Hoán Thiên Chúng Đế Thích ấn chú.

– Úm thất lị địa phì duệ ấn đà ra hồng phấn.

Hai ngón vô danh xoa tại lòng bàn tay, hai ngón cái đè nơi hai ngón giữa tiết giữa, hai ngón trỏ cách nhau 3 tấc, hai ngón út đầu dựa nhau hai đầu qua lại. Nếu kết ấn nầy cúng dường Đế Thích mau tiêu tội.

* Hoán Thiên Vương Đông Phương ấn chú.

– Úm đề bà ra tra bà đa duệ sa ha.

Hai tay nắm lại thành quyền, hai ngón cái đứng thẳng, tay phải đặt lên tay trái. Nếu làm pháp dùng ấn nầy kết giới, Thiên Vương tức lại.

* Hoán Thiên Vương Nam Phương ấn chú.

– Úm tì rô trạch ca phì địa duệ sa ha.

Như Thiên Vương Đông Phương ấn, chỉ đổi tay phải, ngón giữa đứng thẳng, ngón cái co vào lòng bàn tay. Nếu kết ấn làm pháp, Thiên Vương tức lại.

* Hoán Thiên Vương Tây Phương ấn chú.

– Úm tì rô bát xoa phì địa dã bà đa duệ sa ha.

Như Thiên Vương Nam Phương ấn, chỉ mở ngón cái ra như miệng cọp, ngón cái qua lại. Nếu làm pháp thời kêu gọi rồng.

* Hoán Thiên Vương Tỳ Sa Môn ấn chú.

– Úm tỳ sa môn na bà đa duệ sa ha.

Như Thiên Vương Tây Phương ấn, co ngón trỏ vào nắm thành quyền, ngón cái qua lại. Nếu làm pháp muốn triệu Thần Dạ xoa, trước kêu Thiên Vương Tỳ Sa Môn cúng dường, sau đó mới triệu, đều dùng ấn nầy. Sau đó để ấn nơi gối.

* Hoán Thiên Tỳ nữu ấn chú.

– Hồng phệ đà bà duệ phì phì địa da bà đa duệ sa ha.

Năm ngón trái nắm năm ngón phải, ngón cái phải qua lại, làm pháp triệu thỉnh vào trong giới đàn.

* Hoán Thiên Tỳ Thủ Yết Ma ấn chú.

– Hồng phệ rô tra ca bà đa duệ sa ha.

Tay phải kết ấn Như Lai sắc ấn triệu sáu vị Trời, ngón cái vịn ngón vô danh nơi móng và ngón út ngón giữa, trỏ đứng thẳng qua lại. Nếu làm pháp thì vị Trời nầy cầm đao.

* Hoán Phạm Thiên ấn chú.

– Hồng tỳ rô đề bà đa duệ sa ha.

Ấn như trên, kết ấn triệu vị Trời nầy cúng dường giữ hương hoa.

* Hoán Thiên Diêm Ma ấn chú.

– Hồng phì địa diêm ma da bà đa duệ sa ha.

Ấn như trên, kết ấn kêu vị Trời nầy hộ y.

* Hoán Thiên Đẩu Xuất ấn chú.

– Úm nhận khải phìa địa duệ sa ha.

Ấn như trên, kết ấn kêu vị Trời nầy hộ hoa.

* Hoán Thiên Công đức ấn chú.

– Úm thất rị da đa phì địa duệ sa ha.

Ấn như trên, kết ấn kêu vị Trời nầy cầu phước.

* Hoán Thiên Đại Biện tài ấn chú.

– Hồng hồng phì mạt lị bà cư lợi bà đa duệ sa ha.

Chắp tay hai ngón giữa xoa nhau trong lòng bàn tay qua lại. Nếu kết ấn cúng dường vị Trời nầy, được lợi khẩu biện tài nhiều trí tuệ, triệu vào trong đàn.

* Hoán Thiên Quỉ Tử mẫu ấn chú.

– Úm bà bà ha rị để bà da bà đa duệ sa ha.

Dùng Biện tài Thiên ấn, chỉ đổi hai ngón giữa, đứng thẳng hai ngón vô danh xoa trong lòng bàn tay, hai ngón út hơi xoa hai ngón cái qua lại. Nếu tắm rửa thời chú nước mà tắm.

ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI TÍN TRIỆU

NHẤT THIẾT TIỂU THIÊN ẤN CHÚ PHÁP

PHẨM THỨ NĂM

Triệu hết thảy Tiểu Thiên chú pháp. Tay phải ngón giữa đứng thẳng, các ngón nắm lại thành quyền, tay trái cũng vậy, chắp cổ tay lại cách ngực 8 tấc, ngón giữa phải cong lại áp tiết giữa ngón giữa trái, qua lại không được gấp.

* Hoán Nhất thiết Tinh Thiên chú.

– Hồng tha ha phạm bà đa duệ sa ha.

* Hoán Nhất thiết Nhật Thiên chú.

– Hồng đà ra mạt để bà đa duệ sa ha.

* Hoán Nhất thiết Nguyệt Thiên chú.

– Hồng tô ma để bà đa duệ sa ha.

* Hoán nhất thiết Thủy Thiên chú.

– Hồng ô đà ca để bà đa duệ sa ha.

* Hoán Nhất thiết Hỏa Thiên chú.

– Hồng a ca ni bà đa duệ sa ha.

Tất cả đều dùng Như Lai Tín ấn, tụng chú cho nhiều.

Như Lai đảnh ấn, triệu nhất thế quỉ Thần, phẩm. Như Tín ấn, chỉ ngón trỏ như xoa ngón giữa, phải đè trái, đầu ngón qua lại, ngón giữa đứng yên.

* Triệu A tu la quân chúng ấn chú.

– Úm a tu ra bộ đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết A tu vương ấn chú.

– Tỳ ma chất đa a tu ra bà da duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Long vương chú.

– Úm chu bà nan đà bà da duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Dạ xoa chúng ấn chú.

– Úm điễm bà ra dạ xoa bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết La sát quân chú.

– Úm thập bà la sát bà sa ha.

* Triệu Nhất thiết Càn thát bà quân chú.

– Úm tát quân càn địa phạ bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Đại hắc thiên quân chú.

– Úm ma ha ca la hồng hồng sa ha.

* Triệu Nhất thiết Khẩn na la vương quân chúng chú.

– Úm tát bà Khẩn na la bà đa duệ sa ha.

– Triệu Nhất thiết Ma hô lạc dà chú.

– Úm tát bá ma hô lạc dà bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Ca lầu la chú.

– Úm tát bà ca lầu la bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Nữ Dạ xoa chú.

– Úm tát bà tì lam bà bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Nữ quân La sát chú.

– Úm tát bà địa duệ ca bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Long nữ quân chú.

– Úm bà đề đề đa phì đại da sa ha.

* Triệu Nhất thiết Mộc thần chú.

– Úm tì thất chi bà đa duệ sa ha.

* Triệu Nhất thiết Hoa quả thần chú.

– Úm phệ bà tì chi đa duệ sa ha.

Tất cả các quỉ thần trên, nếu tác pháp thì mời mà cúng dường làm đồ chúng. Trước

kết Như Lai đảnh ấn mà sai khiến, đều y theo.

NHƯ LAI KHẨU ẤN

TRIỆU NHẤT THIẾT DẠ XOA TƯỜNG QUÂN

PHẨM THỨ SÁU

Hai tay ngón út xoa nhau nhập vào lòng bàn tay, hai ngón vô danh, hai ngón giữa dựa nhau đứng thẳng, ngón trỏ mở ra cách 1 nấc 5, hai ngón cái áp vào tiết hai ngón giữa, ngón cái qua lại, kết ấn triệu Tướng quân lại hộ đàn.

Triệu Tán Chi Đại Tướng chú.

– Úm tán chi ca tì da ha tì da ha bà đa duệ sa ha.

Triệu A tra bà câu Đại tướng chú.

– Úm đa luật đa bột luật bà ra bột luật giả cát mê sa ha.

Triệu Ma ni bạt đà chú.

– Úm ma ni bạt đà ra bà da duệ sa ha.

Triệu Cưu bàn trà Vương chú.

– Úm cưu bàn trà bà đa duệ sa ha.

Triệu Giá văn trà chú.

– Úm hộ rô hộ rô giá văn trà sa ha.

Triệu Ni mật lợi chú.

– Úm nhi mật lợi bà đa duệ sa ha.

Triệu Na tra cu phạt ra Thiên vương chú.

– Úm na tra cưu bạt ra kha kha kha kha hồng bà đa duệ sa ha.

Lúc bấy giờ Đại Tự Đại Thiên Vương đem các quyến thuộc đến chỗ Phật mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, con nay cũng muốn hộ đàn pháp khiến cho người làm pháp mau được thành tựu đại nghiệm, con đem ấn chú dâng lên Thế Tôn, xin nguyện nạp thọ.”

– Hồng phì rô trì hồng ma duệ sa ha.

Bạch Thế Tôn, Thần chú của con tất cả quỉ Thần không dám xúc phạm, không bị các việc quan, các oan gia tự nhiên hoà giải. Nếu muốn vào đàn làm pháp kêu gọi con, chỉ trong một niệm, con liền đến nơi đó gia hộ.

Ấn: hai ngón vô danh dựa nhau đứng thẳng, hai ngón út, ngón giữa, ngón trỏ xoa nhau trong lòng bàn tay, chắp cổ tay lại, hướng về trước.

* Hoán Tam Thập Tam Thiên ấn chú.

– Úm bà Tôn đà rị đàn na đà nhã bà ra bà ra đa nễ sa ha.

Chắp cổ tay lại, hai ngón trỏ xoa ngược trong lòng bàn tay, áp hai ngón giữa ở một bên ngón cái qua lại. Nếu làm pháp, thời trước kết ấn nầy ấn dưới đất, xong sau đó mới kết đàn. Nếu người mỗi sáng, trưa kêu tất cả Thiên thí thực cúng dường, khiến được giàu có lớn, tiền của tự tới.

Lúc bấy giờ Phật bảo đại chúng: “ Nên biết sau khi ta diệt độ, y pháp của ta lập đàn cúng dường chư Thiên, Bồ tát, mười phương chư Phật.”

Phật dạy: “ Nếu muốn làm đàn Phật đảnh trước phải chọn đất, đốt hương cáo khắp mười phương chư Phật, chư đại Bồ tát, Thiên Long quỉ thần xong, lại đốt trầm thuỷ hương bày đồ ăn uống cúng dường, trước phải dùng các địa khế ( ấn chú nơi đất để lập đàn ) mãn ba ngày, sau đó đào bỏ các vật uế ác, mượn đất làm đàn như hoa sen 12 cánh không lòi rể gốc, dùng phấn trắng rãi khắp, dùng hương cúng dường, tụng Đại Phật đảnh 21 biến, mỗi ngày khi mặt trời chưa mọc tụng 7 biến, lạy 4 lạy.”

Phật dạy: “ Ba ngày xong, đào đất lấy đất sạch chú 108 biến, xong rây đất, hoà bột thơm tô đắp, nhờ người đắp cũng được, phải nhịn ăn, miệng tụng chú, tay cầm đất, nếu đất khô có thể dùng nước hương mà trộn đắp vuông vức xong, dùng lụa vuông tám thước chú 21 biến, vẽ Phật đảnh che trên đàn Phật đảnh khế, dùng hai hoa sen không có gốc, vẽ một vị trời như hình Bồ tát, tay phải cầm phất trắng, tay trái cầm như ý châu, một chân đạp lên hoa, áo trên màu trắng, đầu đội mảo trời. Mâm hương, mâm hoa, che Phật đảnh trong ba ngày, mới vẽ Thiên Khế, cũng ở trên lụa như trước, vẽ mười hai hoa sen, dùng màu trắng, trên hoa vẽ mây năm màu. Ở trong mây vẽ Kim Cang tám tay, mỗi tay cầm đao, gậy v.v… đang đi trong mây, xung quanh có lửa Kim Cang cháy rực rỡ, từ tai lên tới đầu đeo vòng vàng xuyến vàng, trước mặt có mây đùn lên. Hoa có mười hai cánh, mỗi cánh vẽ ba ngày xong, tức lấy làm áo, trên lụa gọi là Kiết khế, còn gọi là Tập khế. Khế nầy là mười hai hoa sen không có gốc, mỗi hoa vẽ một vị Thần như mặt Phật đảnh, có tám tay bốn chân, ngồi trên hoa sen, tay cầm gậy báu, hai tay trước kết Triệu tín ấn tức Như Lai Tín ấn, trương tại đàn một ngày một đêm, tụng chú nhiễu đàn thỉnh Thiên long, quỉ thần, sau đó mới thỉnh Bồ tát, Phật.

    Xem thêm:

  • Đại luân Kim Cang Tổng Trì đà-ra-ni kinh - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Nghi quỹ Đà-la-ni Tùy Cầu Tức Đắc Thần biến gia trì thành tựu Kim cang đảnh Du-già tối thắng Bí mật thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Tâm Phật - Kinh Tạng
  • Pháp Nghi Quỹ Tôn Thắng Phật Đỉnh Tu Du Già - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Câu Lợi Già La Đại Long Thắng Phục Ngoại Đạo - Kinh Tạng
  • Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Kinh Tạng
  • Kinh Bí Mật Bát Danh Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Bồ Tát Đại Thánh Diệu Cát Tường Dạy Trừ Tai Giáo Linh Pháp Luân - Kinh Tạng
  • Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Thích Huyền Tôn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Thích Thiện Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Nguyên Thuận dịch (1) - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đồng Tử Tô Bà Hô Thưa Hỏi - Kinh Tạng