1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 7

Phẩm 13: Minh Chú Ly Nhiễm

Khi ấy đức Thế tôn bảo trưởng lão Xá lợi tử, có một pháp tên là minh chú Ly nhiễm. Đó là pháp bồ tát tu. Bồ tát quá khứ đã thọ trì pháp ấy. Pháp ấy là mẹ của bồ tát. Đức Thế tôn nói như vậy rồi, trưởng lão Xá lợi tử thưa, bạch đức Thế tôn, minh chú là chữ nghĩa gì? Bạch đức Thế tôn, minh chú thì phi vị trí, phi siêu vị trí. Trưởng lão Xá lợi tử nói như vậy rồi, đức Thế tôn bảo, lành thay trưởng lão Xá lợi tử, nay trưởng lão đã đi đến đại thừa, đã tin hiểu đại thừa, đã tôn trọng đại thừa. Đúng như trưởng lão nói, minh chú thì phi vị trí phi siêu vị trí, phi pháp môn phi siêu pháp môn, phi quá khứ phi vị lai phi hiện tại, phi sự thể phi siêu sự thể, phi tương quan phi siêu tương quan, phi chuyển biến phi siêu chuyển biến, không có gì là sinh, không có gì là diệt. Thế nhưng vì lợi ích cho bồ tát mà Như lai nói. Bằng cách do năng lực, đường chính, lý thể, sức mạnh (64) , do bốn mặt như vậy mà Như lai lập ra minh chú, và rằng đó là thành quả của chư vị Như lai, giới điều của chư vị Như lai, sở học của chư vị Như lai, bí mật của chư vị Như lai, sinh xứ của chư vị Như lai, nên mệnh danh là minh chú Ly nhiễm, pháp tối nhiệm mầu. Đức Thế tôn nói như vậy rồi, trưởng lão Xá lợi tử thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho con về minh chú ấy. Bồ tát đứng vững nơi minh chú ấy thì không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Thành tựu chánh nguyện, được sự ly nhiễm, tự tánh hùng biện, đạt được hiếm có, an trú thánh đạo, tất cả toàn là do được có minh chú Ly nhiễm. Đức Thế tôn dạy trưởng lão Xá lợi tử, lành thay, đúng như vậy, đúng như trưởng lão nói. Nếu bồ tát nào chứng đắc minh chú Ly nhiễm thì không khác gì Như lai. Ai hiến cúng vị bồ tát ấy thì trưởng lão hãy nhận thức rằng đó là hiến cúng Như lai. Trưởng lão Xá lợi tử, ngoài bồ tát ra, những người khác nếu nghe được minh chú này, thọ trì, đọc tụng, và sinh ra tin hiểu, thì cũng nên cung kính hiến cúng như đối với Như lai. Bởi vì nhờ nhân tố này mà được đạo quả tối thượng. Bấy giờ đức Thế tôn liền tuyên thuyết cho đại hội về minh chú Ly nhiễm: Tát da tha, sa đa ra ni, a pa đa ra ni, su săm pra tít thi ta, su na ma, su pra tít thi ta, vi ja da ba la, sát da, pra ti sin ja, su rô ha, sin ja na ma ti, u pa đa ni, a ba na ma ni, a bi sích ni, a biv da ka ra, sú ba pa ti, su ni sí ta, ba hum, gun ja, a bi pa đa, soa ha. (Tadyatha sandharani apadharani susampratisthita sunama supratisthita vijayabala satya pratisinja suroha sinjanamati upadhani ubanamani abhisigni abhivyakara subhapati sunisita bahum gunja abhipada svaha).

Đức Thế tôn bảo trưởng lão Xá lợi tử, câu minh chú Ly nhiễm này bồ tát nào khéo léo an trú và chính xác thọ trì thì phải nhận thức rằng bồ tát ấy một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp đã phát chánh nguyện không có cùng tận, thân thể đã không bị thương tổn vì khí giới, vì độc tố, vì nước lửa, vì mãnh thú. Tại sao, trưởng lão Xá lợi tử, vì minh chú Ly nhiễm là mẹ sinh chư vị Như lai quá khứ, mẹ sinh chư vị Như lai vị lai, mẹ sinh chư vị Như lai hiện tại. Trưởng lão Xá lợi tử, nếu có người nào, trong mười vô số kiếp, đem bảy loại quí báu chất đầy đại thiên thế giới mà phụng hiến chư vị Như lai, lại đem y phục ẩm thực thượng hạng và tinh tế mà hiến cúng với nhiều dạng thức và trải qua vô số kiếp; mặt khác, nếu có người nào thọ trì đến nỗi chỉ một chữ của minh chú Ly nhiễm mà thôi, mà cái phước phát sinh từ sự thọ trì ấy cũng bội phần nhiều hơn người kia, tại sao, vì Xá lợi tử, minh chú Ly nhiễm là pháp cực kỳ sâu xa, là mẹ sinh chư vị Như lai.

Bấy giờ trưởng lão Xá lợi tử, cùng cả đại hội, nghe được minh chú Ly nhiễm thì ai cũng đại hoan hỷ, cùng nhau phát nguyện thọ trì.

Phẩm 14: Ngọc Báu Như Ý

Bấy giờ, ở trong đại hội, đức Thế tôn bảo tôn giả A nan đà, rằng các người nên biết có một minh chú danh hiệu minh chú Như ý, làm rời xa mọi sự tai ách, lại ngăn chận những thứ sấm sét dữ dội, và được tuyên thuyết bởi chư vị Như lai quá khứ. Và nay, trong kinh này, Như lai cũng tuyên thuyết minh chú này cho đại hội. Minh chú này làm đại lợi ích cho nhân loại chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ cho tất cả yên vui. Bấy giờ đại hội cùng với tôn giả A nan đà nghe lời đức Thế tôn nói như vậy, ai cũng chí thành chiêm ngưỡng Ngài để lắng nghe minh chú Như ý. Đức Thế tôn nói, đại hội hãy lắng nghe. Hướng đông vị trí này có chúa sấm sét tên A ga ta, hướng nam vị trí này có chúa sấm sét tên Sa tát ru, hướng tây vị trí này có chúa sấm sét tên Chu ta ba, hướng bắc vị trí này có chúa sấm sét tên Su ta ma ni (65) . Thiện nam hay thiện nữ nào nghe được tên những chúa sấm sét này, và biết vị trí của họ, thì người ấy hết mọi sợ hãi và tai họa. Nơi chỗ ở mà viết tên của họ thì chỗ ở ấy không còn phải sợ sấm sét, không tai ách và chướng nạn, không cả chết phi thời, chết oan uổng. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú Như ý: Tát da tha, ni mi ni, ni mi ni, ni min đa ri, tri lô ka, lô ka ni, tri su ra pa ni, rát sa, rát sa, soa ha; cầu nguyện cho con và chỗ ở này rời xa sự sợ hãi, sự khổ não, sự sấm sét, sự uổng tử. (Tadyatha nimini nimini nimindhari triloka lokani trisurapani raksa raksa svaha).

Bấy giờ đại bồ tát Quan tự tại (66) ở trong đại hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, nay con cũng đối trước đức Thế tôn tuyên thuyết vắn tắt về minh chú Như ý. Minh chú này làm đại lợi ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ cho tất cả yên vui. Minh chú này có uy lực cực lớn, cầu gì cũng như ý. Đại bồ tát Quan tự tại liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, ga tê, vi ga tê, ni ga tê, prát da tha kê, pra ti mi trê, sút đê, mút tê, vi ma lê, pra ba soa rê, ăn đa rê, păn đa rê, suê tê, Păn đa ra va si ni, Ha ri, Kăn ta ri, Ka pi li, Pin ga lát si, Đa đi mu khi, rát sa, rát sa, soa ha; cầu nguyện cho con và chỗ này rời xa mọi nỗi sợ hãi, đau khổ, cho đến uổng tử; cầu nguyện cho con đừng thấy những sự tội ác, thường được đại bồ tát Quan tự tại hộ trì cho con bằng ánh sáng đại bi của Ngài. (Tadyatha gate vigate nigate pratyarthake pratimitre sudhe mukte vimale prabhasvare andare pandare svete Pandaravasini Hari Kantari Kapili Pingalaksi Dadhimukhi raksa raksa svaha).

Bấy giờ bồ tát bí mật chủ Chấp kim cang cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, nay con cũng xin nói minh chú danh hiệu Không gì hơn. Minh chú này cũng làm đại lợi ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ cho tất cả. Minh chú này cũng có uy lực cực lớn, cầu gì cũng như ý cả. Bồ tát bí mật chủ Chấp kim cang liền tuyên thuyết minh chú Không gì hơn: Tát da tha, mu ni, mu ni, mu ni nê, ha rê, ma ti, ma ti, su ma ti, ma ha ma ti, ha, ha, ha, ha, ma ba, i na si thi tê, pa pa, va jrắt pa ni, a hăn, chi ri, cha, soa ha. (Tadyatha muni muni munine hare mati mati sumati mahamati ha ha ha ha mabha inasthite papa vajrapani aham ciri ca svaha).

Bạch đức Thế tôn, minh chú của con đây gọi là sự hộ vệ không gì hơn. Nam tử hay nữ nhân nào nhất tâm thọ trì, sao chép, đọc tụng, ghi nhớ không quên, thì cả ngày liền đêm con thường hộ vệ người ấy, rời xa mọi sự sợ hãi cho đến uổng tử.

Bấy giờ Phạn vương chủ thế giới hệ Sách ha cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, con cũng có minh chú nhiệm mầu, làm đại lợi ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ cho tất cả. Minh chú này cũng có uy lực cực lớn, cầu gì cũng như ý cả. Phạn vương liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, hi li, mi li, đi li, soa ha, Brắt ma pu rê, Brắt ma ma ni, Brắt ma gar bê, pút pa săm si thi rê, soa ha. (Tadyatha hili mili dhili svaha Brahmapure Brahmamani Brahmagarbhe puspasamsthire svaha).

Bạch đức Thế tôn, minh chú của con đây danh hiệu là Phạn vương đối trị, hộ vệ tất cả những ai thọ trì, làm cho họ xa rời lo buồn, ác nghiệp, cho đến uổng tử.

Bấy giờ Đế thích, chủ chư thiên Đao lợi, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức thế tôn, con cũng có minh chú tên Va ja xá ni. Đó là minh chú rất sáng chói, trừ được mọi sự sợ hãi cho đến uổng tử, cứu khổ cho vui, lợi ích chư thiên nhân loại. Đế thích liền tuyên thuyết minh chú Va ja xá ni: Tát da tha, vi ni, va ri ni, van đa ma đăn đê, ma ni nê ti ni, Gau ri, Chăn đa li, Ma tăn gi, Pút ka si, sa ra pra ba, hi na mát da, ta ma, út ta ra ni, ma ha ra ni, đa ra ni ku, chắt ra va kê, sá va ri, sá va ri, soa ha. (Tadyatha vini varini vandhamadande maninetini Gauri Candali Matangi Pukkasi saraprabha hinamatya tama uttarani maharani dharaniku cakravake savari savari svaha).

Bấy giờ Đa văn thiên vương, Trì quốc thiên vương, Tăng trưởng thiên vương, Quảng mục thiên vương, bốn thiên vương ấy cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, ở đây chúng con cũng có minh chú tên là Ban cho chúng sinh sự không sợ hãi. Minh chú này thường hộ vệ mọi sự đau khổ, làm cho yên vui, tăng thêm thọ lượng, không mọi tai họa, cho đến uổng tử cũng không còn. Bốn thiên vương liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, pút pê, su pút pê, đu ma, pa ri ha rê, a ry da pa ri sá sít đê, săn ti ni, mút tê, măm găn dê, si tu tê, sít đa vi tê, soa ha. (Tadyatha puspe supuspe duma parihare aryaparisasidhe santini mukte mamgalye stute sidhavite svaha).

Bấy giờ lại có các đại long vương, như long vương Ma na si, long vương Điện quang, long vương hồ Vô nhiệt, long vương Điện thiệt, long vương Diệu quang, cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cũng có minh chú Như ý, ngăn được điện khí dữ dằng, loại trừ sợ hãi, làm đại lợi ích cho nhân loại và chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ tất cả, có uy lực cực lớn, cầu gì cũng thỏa, cho đến uổng tử cũng xa lánh cả, những loại độc tố đều bị vô hiệu, gieo độc sâu cổ, thư ếm chú thuật, mọi sự không tốt lành đều bị loại trừ. Chúng con xin đem minh chú này hiến lên đức Thế tôn, xin đức Thế tôn thương chúng con mà từ bi nạp thọ, để cho chúng con bỏ được quả báo loài rồng, vĩnh viễn loại trừ tham lẫn, sự tham lẫn mà do tính xấu ấy chúng con đã phải chịu lấy khổ sở. Chúng con nguyện [nhờ sự phụng hiến minh chú lên đức Thế tôn mà] trừ bỏ được hạt giống tham lẫn. Các vị long vương liền tuyên thuyết minh chú: Tát da tha, a cha lê, a ma lê, ăm ri tê, át sa, dê, a ba dê, pun da, par dáp tê, sar va pa pa pra sá ma ni dê, soa ha, a li dê, pan đu, su par ni dê, soa ha. (Tadyatha acale amale amrte aksa ye abhaye punya paryapte sarvapapaprasamanye svaha aliye pandu suparniye svaha).

Bạch đức Thế tôn, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào miệng nói minh chú này, hoặc sao chép ra, thọ trì đọc tụng, tôn kính hiến cúng, thì không bao giờ bị sấm sét, mọi sự sợ hãi, đau khổ, lo buồn, cho đến uổng tử cũng được rời xa, thuốc độc, sâu cổ, quỉ mị, trù ếm, hay cọp beo, sư tử, rắn độc, muỗi mòng, không gì hại được.

Bấy giờ đức Thế tôn phổ cáo đại hội, lành thay, những minh chú [mà các người tuyên thuyết] đều có sức lớn, chúng sinh cầu gì cũng được thỏa mãn. Có lợi ích lớn lao như vậy, trừ ra không chí tâm. Đại hội các người đừng có nghi hoặc. Cả đại hội, lúc ấy, nghe đức Thế tôn huấn dụ, ai cũng hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận.

Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ

Vào lúc bấy giờ, ở trong đại hội, Đại biện tài thiên nữ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, có vị pháp sư nào giảng nói kinh Ánh sáng hoàng kim này thì con sẽ tăng thêm trí tuệ cho vị ấy, làm cho vị ấy toàn hảo sự hùng biện đầy nghiêm chỉnh và thuyết phục. Vị pháp sư ấy nếu quên mất văn chữ nào trong kinh Ánh sáng hoàng kim thì con làm cho nhớ lại, khéo léo mở mắt và thức tỉnh cho người. Con lại cho vị ấy minh chú để vị ấy được sự tổng trì thông suốt. Lại nữa, kinh Ánh sáng hoàng kim này được thường xuyên thọ trì bởi những người đã gieo trồng thiện căn nơi hàng trăm hàng ngàn chư vị Thế tôn, nên quảng bá trong đại lục Thiểm bộ mà không ẩn mất mau chóng, giúp cho những ai lắng nghe kinh này thì được sự hùng biện lanh lợi khó nghĩ khó bàn; được đại trí vô tận, khéo hiểu các loại luận thuyết và kyՠthuật; được mau thoát sinh tử, đạt đến vô thượng bồ đề; và hiện tại thì được tăng thêm thọ lượng, đời sống đầy đủ. Bạch đức Thế tôn, con sẽ nói cho vị pháp sư thọ trì quảng bá kinh này, và những ai ưa thích lắng nghe kinh này, về cách tắm rửa nước thuốc, để những người ấy nếu có tai biến sao dữ, nếu lúc mới sinh có sự xung khắc với ngôi sao sở thuộc, nếu có cái khổ của những bịnh truyền nhiễm, của chiến tranh, của ác mộng, ác thần, sâu cổ, quỉ mị, ác chú, quỉ khởi thi, có những điều dữ như vậy làm chướng nạn thì được loại trừ cả. Cách ấy là những người có trí hãy tắm rửa như thế này. Hãy dùng ba mươi hai loại hương dược (67) sau đây, cân lượng bằng nhau:

(1) xương bồ,

(2) ngưu hoàng,

(3) mục túc hương,

(4) xạ hương,

(5) hùng hoàng,

(6) hợp hôn thọ,

(7) bạch cập,

(8) khung cùng,

(9) câu kỷ căn,

(10) tùng chi,

(11) quế bì,

(12) hương phụ tử,

(13) trầm hương,

(14) chiên đàn,

(15) linh lăng hương,

(16) đinh tử,

(17) uất kim,

(18) bà luật cao,

(19) vi hương,

(20) trúc hoàng,

(21) tế đậu khấu,

(22) cam tùng,

(23) hoắc hương,

(24) mao căn hương,

(25) sất chi,

(26) ngải nạp,

(27) an tức hương,

(28) giới tử,

(29) mã cân,

(30) long hoa tu,

(31) bạch giao,

(32) thanh mộc

Lấy ngày sao Bố sái (68) mà giã, rây lấy bột, và chú nguyện bằng một trăm lẻ tám biến minh chú này: Tát da tha, su kri ti, kri ti, kri ti, ka ma ta lê, jăn ka ra ti, u ka ra ti, in dra ja li ni, sát a ran tê, va cha chi lê, a ban ti, ka si kê na, ku đu, ku đu, kha ka vi lê, ka pi lê, ka pi lê, ka pi la ma ti, si la ma ti, săn đi đu ra ma ti, pa ba, ka, bam chi lê, Si rê, Si lê, sa ti dát thi tê, soa ha. (Tadyatha sukrti krti krti kamatale jankarati ukarati indrajanili sakarante vacacile abanti kasikena kudu kudu khakavile kapile kapile kapilamati silamati sandhiduramati paba ka bhamcile Sire Sile satyasthite svaha).

(1) Khi muốn đúng cách

tắm rửa theo phép,

thì làm đàn tràng

vuông tám khuỷu tay,

nơi chỗ tĩnh lặng

và phải yên ổn,

tại đó chú tâm

vào điều nguyện cầu.

(2) Đàn ấy phải dùng

ngưu phấn (69) tráng nền,

phía trên rải khắp

bông hoa nhiều màu.

Rồi dùng khí mãnh

bạc vàng tinh khiết

đựng đầy mĩ vị

hay sữa hoặc mật.

(3) Bốn phía đàn tràng

hay là bốn cửa,

hãy đặt bốn người

giữ gìn đúng phép.

Nhờ bốn đồng tử (70)

phục sức trang nghiêm,

mỗi người một góc

tay bưng bình nước.

(4) Thế rồi thường xuyên

đốt an tức hương,

và nhạc ngũ âm (71)

không hề ngớt tiếng

Phan lọng nghiêm chỉnh,

lại treo lụa màu,

trang hoàng bốn phía

của đàn tràng ấy.

(5) Ở trong đàn tràng

thì đặt gương sáng,

dao sắc kèm tên

mỗi loại bốn cái.

Chính giữa đàn tràng

vùi cái bồn lớn,

với ván xoi lỗ

đặt ở phía trên.

(6) Đem bột hương dược

hòa với nước nóng,

và cũng đặt để

ở trong đàn tràng.

Thiết trí như vậy

xong xuôi cả rồi,

sau đó tụng chú

kiết giới đàn tràng.

Minh chú kiết giới đàn tràng như vầy: Tát da tha, ăn ra kê, na da nê, hi lê, mi lê, gi lê, ki ki lê, soa ha (Tadyatha anrake nayane hile mile gile kikite svaha).

(7) Kiết giới như vậy

cho đàn tràng rồi,

sau đó mới vào

nơi trong đàn tràng,

chú nguyện nước [bình]

hai mươi mốt biến,

rồi rưới khắp cả

bốn phía đàn ấy.

(8) Kế đó chú nguyện

nước nóng hương dược

cho đủ số lượng

một trăm tám biến,

rồi bốn phía đàn

dùng màn mà che,

và rồi tắm rửa

cho cả thân thể.

Minh chú chú nguyện cho nước [bình] và nước nóng hương dược như vầy: Tát da tha, su ga ti, vi ga ti, vi ga cha, va đê, soa ha. (Tadyatha sugati vigati vigaca vade svaha).

Tắm rửa rồi, nước nóng tắm rửa ấy [đã chảy xuống bồn lớn], và những cúng phẩm hiến cúng trong đàn tràng, đều đem bỏ trong sông trong hồ. Ngoài ra thì thu dọn lại. Tắm rửa rồi mới mặc đồ sạch. Khi ra đàn tràng mà vào tịnh thất, thì vị thầy chú nguyện phải dạy cho người ấy cách phát đại nguyện nhắm vào sự diệt ác tu thiện, vào sự phát đại bi tâm đối với chúng sinh. Chính do yếu tố phát đại nguyện này mà được bao phước báo tùy tâm. Đại biện tài thiên nữ lại nói chỉnh cú sau đây.

(9) Những người khổ sở

vì các thứ bịnh,

điều trị đủ cách

mà không lành được,

thì hãy tắm rửa

đúng cách như trên,

cọng thêm đọc tụng

bản kinh vua này.

(10) Ngày đêm ý niệm

không hề tán loạn,

chuyên tâm thiết tha

và rất tin tưởng,

thì bao bịnh hoạn

được tiêu tan cả,

lại hết nghèo khó

có đủ tài sản.

(11) Tinh tú bốn hướng

cùng với nhật nguyệt

thần lực hộ vệ

cho được nhiều tuổi,

cát tường yên ổn

phước đức tăng thêm,

tai biến ách nạn

đều loại trừ cả.

Sau khi [phát đại nguyện], hãy tụng minh chú hộ trì thân thể sau đây, hai mươi mốt biến: Tát da tha, săm mê, vi săm mê, soa ha; su ga tê, vi ga tê, soa ha. Vi ga ta, va ti, soa ha; Sà ga ra săm bút đa da, soa ha; si kăn đa, ma ta da, soa ha; ni la kăn ta da, soa ha; a pa ra ji ta, via da da, soa ha; hi ma van ta da, soa ha; a ni mi la vát ta da, soa ha; nam mô, ba ga va tê, Brắt, ma ni, soa ha; nam mô, Sa rát va ti, ma ha, đev dê, soa ha; sít dăn tu, măm, măn tra pa đa, soa ha; đa ra ta, va chi tô, Brắt ma nu, ma nô ra, soa ha. (Tadyatha samme visamme svaha; sugate vigate svaha. Vigata vati svaha; Sagarasambudhaya svaha; skanda mataya svaha; nilakantaya svaha; aparajita viryaya svaha; himavantaya svaha; animilavaktaya svaha; namo bhagavate Brah mani svaha; namo Sarasvati maha devye svaha; siddyantu mam mantrapada svaha ; dharata vacito Brahmanu manora svaha).

Đại biện tài thiên nữ nói về cách tắm, về đàn tràng, và về minh chú rồi, bước tới lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong bốn bộ đệ tử đức Thế tôn có ai thọ trì đọc tụng sao chép lưu hành bản kinh vua nhiệm mầu này và tu hành đúng như kinh dạy, thì ở thành thị, thôn xóm, đồng nội, núi rừng, trú xứ tăng ni, bất cứ ở đâu con cũng vì họ mà đem tùy thuộc, tấu thiên nhạc, cùng đến chỗ ấy mà hộ vệ, loại trừ bịnh khổ, sao sa, quái tượng, truyền nhiễm, chinh chiến, tù đày, ác mộng, ác thần, cổ đạo, thuật ếm, những chướng nạn như vậy đều bị trấn áp mà ích lợi cho người trì kinh. Chúng con lại giúp cho bốn đệ tử đức Thế tôn, và những người lắng nghe kinh này, ai cũng mau chóng vượt qua biển cả sinh tử, không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề.

Bấy giờ đức Thế tôn nghe Đại biện tài thiên nữ trình bày như vậy thì khen rằng, lành thay thiên nữ, thiên nữ có thể lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh, bằng cách nói về minh chú, về nước thơm và đàn tràng như vậy. Phước báo của thiên nữ thật khó nghĩ thấu. Thiên nữ nên hộ trì bản kinh vua tối thượng, đừng để mai một mà được lưu hành mãi. Đại biện tài thiên nữ, lúc ấy, lạy ngang chân đức Thế tôn rồi trở về chỗ cũ.

Bấy giờ vị Bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, vâng theo uy lực của đức Thế tôn, đứng trước đại hội mà tán dương Đại biện tài thiên nữ.

(12) Biện tài thiên nữ

thông minh tinh tiến,

người trời hiến cúng

đáng nên tiếp nhận,

danh vang thế giới

tràn khắp mọi nơi,

ban cho ước nguyện

của bao chúng sinh.

(13) Trên đỉnh núi cao

nơi rất siêu việt,

lợp tranh làm phòng

mà ở trong đó,

bện những cỏ mềm

mà làm áo mặc,

bất cứ ở đâu

thường kiễng một chân.

(14) Vậy mà chư thiên

thường đến tụ tập

cùng nhau một lòng

tán dương thỉnh cầu.

Kính xin thiên nữ

bậc đại hùng biện,

hãy cho mọi người

lời tiếng vi diệu.

Đại biện tài thiên nữ liền chấp nhận thỉnh cầu mà tuyên thuyết minh chú sau đây: Tát da tha, mi ri, chi ô rê, a va tê, a va jê va ti, hin gu lê, min gu lê, pin ga lê va ti, ăn khu sa, ma ri chi dê, sặm ma ti, vi sặm ma ti, a gra ti, mắc khi dê, ta ra chi, ta ra chi va ti, chia si, chi ri, si ri mi ri, ma nan đi, đa ma khê, ma ri chi dê, pra na pa ri dê, lô ka ji dết tha, lô ka, si nết thi, lô ka via dê, sít đa, pa ra tê, bi ma mu khi, su chi cha ri, a pra ti ha tê, a pra ti ha ta bút đi, na mút chi, na mu chi, ma ha đếp dê, pra ti, gra ha, na mát ka ra, ma ma, bút đi, đa sa hi, bút đi, a pra ti ha ta, ba va tu, si ra ha mê, vi sút đa, chi tô, sát tra si lô ka, măn tra, pi ta ka, ka pi da đi sô, tát da tha, ma ha pra ba va, hi li, mi li, vi cha ra tu, vi bút đi, ma ma, bút đi, sút đi, ba ga vát ti dê, đê vê dăm, Sa rát va tim, ka ra ti, kê du ra ma ti, hi ri, mi ri, hi ri, mi ri, a ba da, mê, ma ha đê vi, bút đa, sát dê na, đa ma, sát dê na, săn ga, sát dê na, In dra, sát dê na, Va ru na, sát dê na, dê lô ki dê sát da, sát dê na, tê săm, sát dê na, sát da va cha ni da, a ba da, mê, ma ha đê vi, hi li, mi li, hi li, mi li, vi cha ra tu, ma ma, bút đi, nô, nam mô, ba ga va ti, ma ha đê vê, Sa rát va ti da, sít đi dăn tu, măn tra, pa đa, mê, soa ha. (Tadyatha miri cyore avate avajevati hingule mingule pingalevati ankhusa maricye sammati visammati agrati makhye taraci taracivati cirsi ciri sirimiri manandhi damakhe maricye pranaparye lokajyestha loka snesthi lokavirye siddha parate bhimamukhi sucicari apratihate apratihatabuddhi namuci namuci mahadevye prati graha namaskara mama buddhi darsahi buddhi apratihata bhavatu sirahame visuddha cito sastrasloka mantra pitaka kapiyadiso tadyatha mahaprabhava hili mili vicaratu vibuddhi mama buddhi suddhi bhagavatye deveyam Sarasvatim karati keyuramati hiri miri hiri miri abhaya me mahadevi buddha satyena dharma satyena sangha satyena Indra satyena Varuna satyena yelokyesatya satyena tesam satyena satyavacaniya abhaya me mahadevi hili mili hili mili vicaratu mama buddhi no namo bhagavati mahadeve Sarasvatya siddhiyantu mantra pada me svaha).

Đại biện tài thiên nữ tuyên thuyết minh chú như vậy rồi, nói với Bà la môn, rằng lành thay đại nhân, ông có thể vì những người cầu sự hùng biện nhiệm mầu, cầu châu ngọc, cầu thần thông trí tuệ, để lợi ích tất cả và mau chứng bồ đề, thì nên biết cách thức thọ trì minh chú nói trên. Đại biện tài thiên nữ tức thì nói những lời chỉnh cú sau đây.

(15) Trì minh chú này

trước phải thuộc lòng

sao cho thuần thục

không sai không sót.

Kế đó qui kính

Tam bảo chư thiên,

cầu xin da trì

ước nguyện tùy tâm.

(16) Kính lạy Phật bảo

cùng với Pháp bảo

Tăng bảo Bồ tát

Độc giác Thanh văn,

kế lạy Phạn vương

cùng với Đế thích

bốn vị Thiên vương

hộ vệ thế giới.

(17) Đối với những vị

thường tu phạn hạnh,

thì hết lòng thành

thiết tha kính lạy.

Hãy ở lan nhã

yên tĩnh yên ổn

mà tụng lớn tiếng

minh chú nói trên.

(18) Trước tượng Thế tôn

và trước thiên long,

tùy mình có gì

thì đem hiến cúng.

Đối với hết thảy

bao loại chúng sinh

tâm hãy nổi dậy

từ bi thương cảm.

(19) Thế tôn tướng tốt

thân màu vàng tía,

tập trung tâm tưởng

vào tướng tốt ấy.

Thế tôn da trì

tuyên thuyết giáo pháp

cho người thích hợp

tu tập thiền định.

(20) Khéo nghĩ chữ nghĩa

của giáo pháp ấy,

lại theo nghĩa Không

tu tập chính xác.

Hãy ngồi ở trước

hình tượng Thế tôn

nhất tâm chánh niệm

về giáo pháp Ngài.

(21) Thế thì thực hiện

Diệu trí tam muội,

lại còn thực hiện

tổng trì tối thắng.

Miệng vàng Thế tôn

tuyên thuyết giáo pháp,

tiếng mầu thuần hóa

chư thiên nhân loại.

(22) Tướng lưỡi tùy cơ

biểu hiện hiếm có

rộng dài bao trùm

đại thiên thế giới ;

tiếng mầu lưỡi ấy

của đức Thế tôn

chí thành nhớ lấy

lòng không nghi ngại.

(23) Thế tôn do sự

phát nguyện rộng lớn,

nên được tướng lưỡi

bất khả tư nghị,

tuyên thuyết các pháp

toàn là phi hữu,

tựa như không gian

không có vướng mắc.

(24) ­ thanh, trường thiệt

của đức Thế tôn,

tư duy hai tướng

thì thỏa nguyện cầu.

Thấy ai hiến cúng

Đại biện thiên nữ,

hoặc thấy đệ tử

theo lời thầy dạy,

(25) truyền cho mật pháp

bảo nên tu học,

trân trọng thiết tha

nguyện gì cũng thành.

Muốn thực hiện được

trí giác tối thượng,

thì phải nhất tâm

trì mật pháp ấy.

(26) Tăng trưởng tư lương

phước đức trí tuệ,

quyết định thành tựu

đừng có nghi hoặc;

cầu mong tài sản

được lắm tài sản,

cầu mong danh vọng

được danh vọng tốt.

(27) Cầu nguyện giải thoát

thì được giải thoát,

quyết định thành tựu

đừng có nghi hoặc.

Thành tựu công đức

vô lượng vô biên,

toàn đúng ước nguyện

nội tâm người cầu.

(28) Nếu có khả năng

y thế tu hành

thì được thành tựu

đừng có nghi hoặc.

(29) Nên chọn chỗ sạch

và mặc đồ sạch,

mà làm đàn tràng

lớn nhỏ tùy ý.

Dùng bốn bình sạch

mà đựng mĩ vị,

cùng với hương hoa

hiến cúng tùy lúc.

(30) Giăng treo lụa màu

tràng phan bảo cái,

bôi rải khắp cả

bằng bột hương liệu,

hiến cúng Thế tôn

và Biện tài thiên,

cầu thấy thiên thân

cũng được toại nguyện.

(31) Hai mươi mốt ngày

tụng minh chú trên,

bằng cách đối trước

tượng Biện tài thiên.

Nếu chưa thấy được

thân Biện tài thiên,

thì nên dụng tâm

thêm chín ngày nữa.

(32) Mà nửa đêm sau

vẫn chưa thấy được,

thì nên tìm chỗ

thanh tịnh đẹp hơn,

rồi vẽ đúng cách

tượng Biện tài thiên,

hiến cúng trì tụng

chứ không xả bỏ.

(33) Cả ngày liền đêm

không hề biếng nhác,

sẽ được vô cùng

tự lợi lợi tha.

Đem kết quả ấy

hồi hướng chúng sinh,

thì cầu nguyện gì

cũng thành tựu cả.

(34) Nếu chưa toại ý

thì phải ba tháng,

sáu tháng chín tháng

cho đến một năm,

thiết tha thỉnh cầu

lòng không dao động,

thì được thiên nhãn

được tha tâm thông.

Bà la môn Kiều trần như nghe Đại biện tài thiên nữ nói như vậy thì hoan hỷ, phấn chấn, khen chưa từng có. Ông thưa đại hội mà nói như vầy, tất cả đại hội nhân loại chư thiên nên biết và nghe cho, tôi lại muốn theo phép thế đế mà tán dương Đại biện tài thiên nữ. Ông liền nói những chỉnh cú sau đây.

(35) Kính lạy Thiên nữ

bậc đại dũng mãnh

và đại tự tại

trong thế giới này;

nay tôi tán dương

bậc tôn cao ấy,

với lời tựa như

lời tiên nhân xưa.

(36) Cát tường hoàn thiện

tâm trí thanh thoát,

thông minh tàm quí

có danh tiếng lớn.

Là bậc mẹ sinh

của cả thế giới,

dũng mãnh thường hành

sự đại tinh tiến.

(37) Ở trong quân trận

chiến đấu thường thắng,

giáo dục thuần hóa

từ bi nhẫn nhục.

Hiện làm chị cả

của Diêm la vương,

mà thường mặc áo

kén tằm hoang xanh.

(38) Dung nhan khi đẹp

khi thì xấu xí,

xấu thì mắt nhìn

đã làm khiếp sợ.

Nhiều việc đặc thù

vượt trên thế giới,

những ai tin tưởng

thì thu nhận cả.

(39) Hoặc ở hang núi

chỗ sâu và hiểm,

hoặc ở hầm sâu

hay ở bên sông,

hoặc ở đại thụ

hay ở lùm cây,

Thiên nữ phần nhiều

cư trú như vậy.

(40) Giả sử những người

rừng núi hoang dã,

mà thường hiến cúng

đối với Thiên nữ,

lấy những lông công

mà làm phan cờ,

thì cũng thường được

Thiên nữ hộ trì.

(41) Sư tử cọp beo

thường thường vây quanh,

bò dê gà trĩ

cũng thường nương tựa.

Rung cái linh lớn

âm thanh phát ra,

chúng núi Tân đà

cũng nghe âm vang.

(42) Hoặc cầm cái kích,

đầu tóc búi tròn,

và tay thường cầm

tinh kỳ nhật nguyệt.

Ngày chín, mười một

của tháng trăng tối (72)

lúc ấy thì nên

hiến cúng Thiên nữ.

(43) Hiện làm em gái

Bà tô đại thiên,

thấy có chiến tranh

lòng đầy thương xót.

Quan sát tất cả

bao loại chúng sinh,

thấy không có ai

hơn được Thiên nữ.

(44) Lại hiện nữ nhân

Mục ngưu hoan hỷ,

chiến với chư thiên

thường thường đắc thắng.

Có thể sống lâu

ở trong cuộc đời,

khi thì hòa nhẫn

khi thì bạo ác.

(45) Bốn loại minh luận

của Bà la môn,

trong có biến hóa,

đều tinh thông cả.

Là tự tại nhất

trong chúng thiên tiên,

tạo ra hạt giống

cùng với đất đai.

(46) Khi các thiên nữ

tụ tập với nhau,

Thiên nữ ứng đến

y như thủy triều (73) .

Với các bộ loại

long thần dược xoa,

thì làm cầm đầu

thuần hóa được cả.

(47) Phạn hạnh Thiên nữ

hơn mọi nữ nhân.

Nói thật, y như

chúa tể thế giới.

Trong giới vua chúa

thì như hoa sen.

Sông mê bến khổ

thì làm cầu, thuyền.

(48) Khuôn mặt thì giống

mặt trăng tròn đầy.

Đa văn toàn hảo

là nơi nương tựa.

Hùng biện nổi bật

in như núi cao.

Ai tưởng niệm đến

thì làm cồn, bãi (74) .

(49) Bộ loại tu la

cùng với chư thiên,

ai cũng tán dương

công đức Thiên nữ.

Ngay như Đế thích

với cả ngàn mắt,

cũng nhìn với lòng

kính trọng nồng hậu.

(50) Chúng sinh nếu có

mong cầu những gì,

thì làm cho họ

thành đạt mau chóng.

Giúp kẻ hùng biện

toàn hảo nghe nhớ.

Là kẻ hơn hết

giữ cho địa cầu.

(51) Ở trong thế giới

khắp cả mười phương,

làm ánh đèn lớn

chiếu soi thường xuyên.

Cho đến quỉ thần

cùng với cầm thú

cũng toại nguyện cho

những gì chúng cầu.

(52) Trong mọi nữ nhân,

như đỉnh núi cao.

Sống lâu ở đời

như tiên nhân xưa.

Thường xuyên ly dục

như Thiếu nữ thiên.

Lời nói chân thành

như Đại thế chúa.

(53) Nhìn khắp thế giới

chủng loại khác nhau,

cho đến chư thiên

của cả Dục giới,

chỉ thấy Thiên nữ

đáng xưng tôn quí,

không thấy có ai

hơn được Thiên nữ.

(54) Những ai kinh hoàng

ở trong chiến trận,

những ai sa vào

ở trong hố lửa,

sông ngòi hiểm nạn

và gặp đạo tặc,

thì được làm cho

hết cả sợ hãi.

(55) Ai bị phép vua

bắt bớ cùm kẹp,

ai bị oán thù

muốn giết muốn hại,

mà nhớ Thiên nữ

lòng không dao động,

quyết định thoát được

mọi nỗi lo sợ.

(56) Người hiền kẻ dữ

đều giúp đỡ cả,

ý niệm từ bi

thường ở trước mắt.

Thế nên nay tôi

đem lòng chân thành

kính lạy ngưỡng vọng

Đại biện thiên nữ.

Bà la môn, lúc ấy, lại chú tán (75) Đại biện tài thiên nữ như sau:

(57) Tôi kính lạy bậc

tôn quí trong đời,

là mẹ hơn hết

tất cả bà mẹ.

Ba loại thế giới (76)

đều hiến cúng cả.

Mặt và dáng dấp

ai cũng thích nhìn.

(58) Diệu đức đa dạng

trang sức thân thể.

Mắt như cánh sen

xanh mà lớn dài.

Ánh sáng phước trí

nổi tiếng khắp nơi,

tựa như ngọc quí

như ý vô giá.

(59) Tôi nay ca tụng

một bậc siêu việt,

bậc làm thành tựu

cho sự mong cầu,

bậc diệu cát tường

chân thật công đức,

bậc như hoa sen

rất ư thanh khiết.

(60) Thân sắc uy nghiêm

ai cũng thích nhìn.

Tướng tốt hiếm có

không thể nghĩ bàn.

Phóng ra ánh sáng

trí tuệ trong sạch.

Ý niệm hơn hết

trong mọi ý niệm.

(61) Ví như sư tử

nhất trong loài thú,

thường có tám tay

tự trang hoàng mình:

cầm cung, cầm tên

cầm đao, giáo, búa,

chày, bánh xe sắt,

cùng với dây buộc.

(62) Đẹp đẽ thích nhìn

tựa như trăng tròn.

Nói năng thông suốt

mà lại hòa nhã.

Những ai trong lòng

cầu nguyện những gì,

bậc Thiện sĩ này

tùy niệm thỏa mãn.

(63) Đế thích, chư thiên

đều kính trọng cả,

đều cùng tán dương

là nơi nương tựa.

Công đức xuất sinh

thật khó nghĩ bàn,

trong mọi thì gian

tôi khởi cung kính

Soa ha (svaha) (77) .

(64) Ai muốn cầu đảo

Đại biện thiên nữ,

hãy y lời chữ

bài chú tán này,

hôm sớm tinh khiết

chí thành mà tụng,

thì điều cầu nguyện

ứng nghiệm tùy tâm.

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Bà la môn, lành thay, ông có thể lợi ích chúng sinh như vậy, ban cho họ yên vui, bằng cách tán dương Đại biện tài thiên nữ, thỉnh cầu da hộ, được phước vô biên.

Chú thích:

(64) Năng lực là đạt được kết quả, đường chính là phi nhị biên, lý thể là chân như, sức mạnh là diệt ác sinh thiện.

(65) Phạn tự của tên 4 vị này như sau: Agate, Satadru, Cyutaprabha, Sutamani.

(66) Dịch Quan thế âm là từ một thuyết khác, và danh hiệu này không đủ, không phải chính phiên (Chính 39/300).

(67) Đây là Phạn văn của 32 vị. Tham chiếu Chính 16/434-435.

1. xương bồ (vaca) 2. ngưu hoàng (gorocana) 3. mục túc hương (sephalika) 4. xạ hương (mahabhaga) 5. hùng hoàng (manassila) 6. hợp hôn thụ (sirisa) 7. bạch cập (indrahasta) 8. khung cùng (syamaka) 9. câu kỷ căn (sami) 10. tùng chi (sri – vibhitaka) 11. quế bì (tvaca) 12. hương phụ tử (musta) 13. trầm hương (agaru) 14. chiên đàn (candana) 15. linh lăng hương (tagara) 16. đinh tử (?) 17. uất kim (knnkuma) 18. bà luật cao (galava) 19. vi hương (naradamsa) 20. trúc hoàng (gorocana) 21. tế đậu khấu (sukumara) 22. cam tùng (misganta) 23. hoắc hương (patna) 24. mao căn hương (usira) 25. sất chi (sallaki) 26. ngải nạp (saileya) 27. an tức hương (guggula) 28. giới tử (sarsapa) 29. mã cân (sophaghni or sosani) 30. long hoa tu (nagakesala) 31. bạch giao (sarjarasa) 32. thanh mộc (kustha) (68) Phạm văn: Pusya. Kinh cũ gọi là quỉ tinh (Chính 39/302) (69) Tráng lát nền nhà hay tường vách, đều dùng vật liệu hiện đại, mới sạch sẽ trang trọng.

(70) Đồng tử: giữa tuổi thiếu nhi với thiếu niên.

(71) Ấn với Tàu phân tích tất cả âm điệu có 5 cung bậc, gọi là ngũ âm.

(72) Là mỗi tháng âm lịch mà là nửa sau, tức 16-30. Ngày 9 là 24, ngày 11 là 26.

(73) Là như thủy triều ứng theo mặt trăng.

(74) Là làm cù lao, làm bãi nổi, cho người khỏi bị trôi cuốn.

(75) Chú tán là tán dương bằng minh chú, và minh chú ở đây là hiển ngữ (lời chữ không bí mật).

(76) Là 3 loại thế gian. Thông thường là 1. ngũ uẩn thế gian: thế giới tổng thể, tức 5 uẩn; 2. chúng sinh thế gian: thế giới chủ thể, tức thọ tưởng hành thức và phần nội sắc; 3. quốc độ thế gian: thế giới khách thể, tức phần ngoại sắc.

(77) Ngài Nghĩa tịnh ghi chú: Trên đây là minh chú để trì tụng, cũng là minh chú để tán dương. Khi tụng chú thì phải tụng chú tán này trước. (Chính 16/437).

    Xem thêm:

  • Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Huyền Trang - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Bát Nhã Cộng Lợi Ngôn Đẳng - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cương Tam Muội Bản Tính Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt - Kinh Tạng
  • Nghi Thức Tụng Niệm Đại Lạc Kim Cang Tát Đỏa Lược Trích Từ Kinh Kim Cang Đỉnh Thắng Sơ Du Già - Kinh Tạng
  • Bá Trượng Hoài Hải Thiền Sư Quảng Lục - Kinh Tạng
  • Truyền Tâm Pháp Yếu Của Thiền Sư Hoàng Bá - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Sắc Vương - Kinh Tạng
  • Uyển Lăng Lục Của Thiền Sư Hoàng Bá Đoạn Tế - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam Muội - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến - Kinh Tạng
  • Pháp Môn Lược Thuật Kim Cang Đỉnh Du Già Phân Biệt Thánh Vị Tu Chứng - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Đàn Tràng Đại Khổng Tước Minh Vương Hoạch Tượng - Kinh Tạng
  • Kinh Nhất Thiết Chư Như Lai Tâm Quang Minh Gia Trì Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Diên Mạng Kim Cang Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Trừ Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Danh Hiệu Kim Cương Giáo Pháp Của Thai Tạng - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Bảo Đàn (Đôn Hoàng) - Kinh Tạng
  • Kim Cang Đỉnh Siêu Thắng Tam Giới Kinh Thuyết Văn Thù Ngũ Tự Chơn Ngôn Thắng Tướng - Kinh Tạng