1
2

Quyển 2

Bấy giờ Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín hỏi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:

– Làm sao mở bày phương tiện, chỉ cho những người muốn hướng đến Đại thừa?

Ngài Địa Tạng đáp:

– Này thiện nam tử! Nếu có người nào muốn hướng về Đại thừa, trước hết người ấy phải biết hạnh nghiệp căn bản ban đầu.

Hạnh nghiệp căn bản đầu tiên là gì? Đó là nương vào cảnh giới của Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết. Nhờ sức tin hiểu thêm lớn cho nên nhanh chóng được vào dòng giống Bồ Tát.

Cảnh giới của Nhất Thật Tướng là gì?

– Nghĩa là bản thể nơi tâm của tất cả chúng sanh, từ trước đến giờ chẳng sinh chẳng diệt, tự tính nó thanh tịnh, không chướng không ngại, dường như hư không vì lìa phân biệt, bình đẳng khắp giáp, nơi nào cũng có, tràn đầy khắp mười phương, rốt ráo một tướng, không hai không khác, chẳng biến, chẳng đổi, không thêm, không bớt. Do vì bản thể nơi tâm của tất cả chúng sinh, nơi tâm của tất cả Thanh Văn, Độc Giác, nơi tâm của tất cả Bồ Tát và nơi tâm của tất cả chư Phật, đều cùng chẳng sinh chẳng diệt, không nhiễm, không tịnh, đồng là một tướng chân như. Tại sao vậy? Vì tất cả những tâm có khởi phân biệt, đều như huyễn hóa, không hề chân thật. Nghĩa là: Những Pháp số của tâm như: ức niệm, lo lắng, xét biết v.v…thuộc bốn uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải tạp sắc, chẳng có dài ngắn, vuông tròn, lớn, nhỏ… cho đến cùng tận mười phương hư không, tất cả thế giới, tìm về hình trạng tâm này, không một chút phần, có thể nắm bắt. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh si tối làm nhân làm duyên huân tập, hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến sinh nhớ nghĩ vướng mắc.

Tâm này nó chẳng thể tự biết, vọng tự bảo có, khởi tưởng xét nét, so đo về ngã, sở hữu của ngã, nhưng thật ra không có cái tướng của giác tri. Bởi vọng tâm này rốt ráo không có thật thể, vì chẳng thể tìm thấy cái thật thể của vọng tâm. Nếu không có cái năng phân biệt của giác tri, thì không có cái tướng của tất cả cảnh giới sai biệt thuộc mười phương ba đời, bởi tất cả Pháp đều chẳng thể tự có, chỉ nương sự phân biệt của vọng tâm mà có. Nghĩa là tất cả cảnh giới, mỗi mỗi chẳng tự nghĩ mình là có, chẳng biết đây là tự, kia là tha. Thế nên tất cả Pháp chẳng thể tự có, ắt không đổi khác. Chỉ nương vọng tâm, chẳng biết chẳng rõ, vì bên trong tự không. Tức là: Có cái bị biết bên ngoài, rồi vọng sinh các thứ tưởng Pháp, cho là có, cho là không, bảo kia, bảo đây, bảo phải, bảo trái, bảo tốt, bảo xấu… cho đến vọng sinh vô lượng vô biên tư tưởng về Pháp. Nên biết tất cả các Pháp như thế, đều từ vọng tưởng sinh ra, nương vọng tâm làm gốc. Nhưng vì vọng tâm không tự tướng, cũng chỉ nương cảnh giới mà có. Nghĩa là nó duyên niệm xét biết theo cảnh giới đằng trước, cho nên gọi là tâm. Vả lại, vọng tâm này với cảnh giới mé trước, mặc dù đều nương vào nhau, nhưng sự phát khởi của nó không trước sau gì cả và vọng tâm này luôn luôn là nguồn gốc, là chủ tể của tất cả cảnh giới. Tại sao vậy? Bởi vì, nương vào vọng tâm mà vọng tâm này chẳng rõ một tướng Pháp giới, vì thế nói rằng tâm có vô minh. Nương vào sức mạnh vô minh làm nhân, cho nên hiện ra cảnh giới hư vọng. Lại cũng do vô minh diệt, cho nên tất cả cảnh giới cũng diệt theo. Chẳng phải do tất cả cảnh giới tự chẳng sáng tỏ mà nói cảnh giới có vô minh, cũng chẳng phải nương nơi cảnh giới mà sinh vô minh.

Tất cả các đức Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng sinh vô minh.

Lại nữa, chẳng do cảnh giới diệt mà tâm vô minh diệt. Bởi tất cả cảnh giới, từ trước đến giờ thể tính tự vắng lặng, vì chưa từng có bất cứ thứ gì. Do nghĩa như thế, cho nên chỉ nói, tất cả các Pháp nương nơi tâm làm gốc. Nên biết, tất cả các Pháp, Pháp nào cũng gọi là tâm, vì nghĩa của thể không thay đổi, và được nhiếp vào tâm vậy.

Lại nữa, tất cả các Pháp, được khởi từ tâm, với tâm mà tạo ra tướng, hòa hợp mà có, cùng sinh cùng diệt, đồng không dừng trụ. Bởi tất cả cảnh giới chỉ bị duyên của tâm, niệm niệm tiếp nối mà được duy trì, tạm thời được có.

Về nghĩa của tâm được nói trên đây, có hai thứ tướng. Thế nào là hai?

Một là tướng bên trong tâm. Hai là tướng bên ngoài tâm.

– Tướng bên trong tâm lại có hai thứ. Một là chân, hai là vọng.

Chân là gì? Đó là cái tướng sẵn có nơi thể của tâm, tướng này như như chẳng đổi, thanh tịnh tròn đầy không chướng, không ngại, kín nhiệm khó thấy. Bởi nó khắp giáp tất cả chỗ, thường hằng không hoại, nên có thể kiến lập, sinh trưởng tất cả Pháp.

Vọng là gì? Tức là luôn luôn khởi niệm, phân biệt, xét nét, duyên lự, nhớ tưởng các việc. Mặc dù liên tục hay sinh tất cả cảnh giới, nhưng thể bên trong của nó là hư ngụy, không hề chân thật, và cũng không thể tìm thấy nó.

– Tướng bên ngoài tâm, tức là tất cả các Pháp và các thứ cảnh giới v.v…Tùy có cái bị niệm mà cảnh giới hiện ra trước, vì vậy mà biết, có sự sai biệt giữa tâm bên trong và tâm bên ngoài. Thế thì nên biết, tướng vọng bên trong, là nhân, là thể, tướng vọng bên ngoài, là quả là dụng.

Do những nghĩa như vậy, thế nên ta nói: Tất cả các Pháp, đều gọi là tâm.

Lại nữa, nên biết cái tướng bên ngoài của tâm. Tướng này cũng như các thứ cảnh giới bị thấy trong mộng, duy tâm hiện ra, không có việc thật bên ngoài. Tất cả cảnh giới đều cũng như vậy, bởi đều nương vào giấc mộng vô minh của nghiệp thức mà được thấy, vọng tưởng mà thành.

Lại nữa, nên biết mỗi niệm, mỗi niệm trong nội tâm đều chẳng có dừng trụ, cho nên tất cả cảnh giới bị thấy, bị duyên, cũng tùy theo tâm mà niệm niệm chẳng dừng.

Nghĩa là: Tâm sinh, nên các Pháp sinh, tâm diệt, nên các Pháp diệt. Tướng sinh diệt này chỉ có tên gọi, thật bất khả đắc. Bởi vì tâm chẳng qua đến cảnh giới, cảnh giới chẳng về đến tâm, như tướng trong gương, không đến không đi, thế nên tất cả Pháp, tìm tướng sinh diệt nhất định trọn chẳng thể được.

Nghĩa là tất cả Pháp rốt ráo không có thật thể, từ trước đến giờ luôn luôn rỗng rang, vì thật sự chẳng sinh chẳng diệt vậy.

Tất cả các Pháp thật không có sinh diệt như thế, thì không có tướng cảnh giới sai khác, mà là vắng lặng nhất vị. Như thế gọi là Chân Như, gọi là Đệ nhất Nghĩa đế, gọi là Tự tính Thanh tịnh Tâm. Tự tính Thanh tịnh Tâm ấy long trọng, tròn đầy, vì không có cái tướng phân biệt. Tướng không phân biệt tức là, đối với tất cả chỗ, không đâu mà chẳng hiện hữu. Vì nó hiện hữu ở khắp giáp, do đó có thể nương vào sự hiện hữu này mà duy trì và dụng lập tất cả Pháp.

Lại nữa, tâm đó gọi là Như Lai Tạng, Như Lai Tạng nghĩa là: Tâm này gồm chứa đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghì chủng tử vô lậu và công đức thanh tịnh, vì Pháp thân của chư Phật, từ ngằn mé vô thỉ đến nay, không chướng, không ngại, tự tại chẳng diệt. Tất cả mọi sự hóa hiện và những công đức nghiệp hằng thường lẫy lừng, chưa bao giờ dứt. Nghĩa là chư Phật đều thị hiện Phật ở trong tất cả thế giới, ứng hóa đủ cách làm lợi ích chúng sanh. Do đó thân một đức Phật, chính là thân của tất cả chư Phật, thân của tất cả chư Phật cũng chính là thân một đức Phật, và bao nhiêu việc làm cũng đồng là một, tức là không tướng phân biệt, không niệm kia đây, bình đẳng không hai.

Bởi nương vào một Pháp tánh mà có sự tác nghiệp, đồng ứng hóa một cách tự nhiên, vì thể không đổi khác vậy.

Như trên đã nói, Pháp thân của các đức Phật khắp tất cả chỗ và tròn đầy bất động, tùy các chúng sanh, chết đây sinh kia mà luôn luôn làm chỗ nương tựa cho các chúng sanh.

Ví như hư không đều có thể dung nạp tất cả sắc tướng và các thứ hình trạng. Tất cả sắc tướng và các thứ hình trạng đều nương nơi không mà có sự dựng lập và sinh trưởng ở trong hư không, bị nhiếp vào nơi hư không, lấy hư không làm thể, không có vật gì có thể ra ngoài ranh giới của hư không. Nên biết, trong mọi sắc tướng biên giới hư không chẳng bị hủy diệt, khi sắc tướng hoại bèn trở về với hư không và biên giới hư không sẵn có không thêm, không bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.

Pháp thân của các đức Phật cũng lại như vậy, đều có thể dung nạp các thứ quả báo của tất cả chúng sanh, đều nương vào Pháp thân của các đức Phật, mà có sự dựng lập và sinh trưởng, ở trong Pháp thân, bị nhiếp nơi Pháp thân, lấy Pháp thân làm thể, không một vật gì có thể ra ngoài ranh giới của Pháp thân. Nên biết trong thân của tất cả chúng sanh, Pháp thân của chư Phật cũng chẳng thể hủy diệt, nếu khi phiền não bị đoạn trừ, sẽ trở về với Pháp thân, về biên giới Pháp thân sẵn có không thêm không bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.

Chỉ vì từ đời vô thỉ trở lại đây, tâm tương ưng với vô minh, do năng lực nhân duyên huân tập si ám, cho nên hiện ra cảnh giới hư vọng, rồi do nương vào cảnh giới hư vọng, làm nhân làm duyên huân tập mà khởi vọng tưởng, tương ưng với tâm, chấp ngã, sở hữu của ngã, tạo chứa các nghiệp, để rồi chịu khổ sống chết không ngừng, thay vì gọi Pháp thân, lại gọi là chúng sanh.

Nếu trong số các chúng sanh, người nào có được năng lực huân tập của Pháp thân, thì phiền não của chúng sanh ấy lần lần cạn mỏng, có thể nhàm chán sự khổ thế gian và cầu đạo quả Niết Bàn, tin tưởng quay về với Nhất Thật Tướng, tu sáu Pháp ba la mật và tất cả Pháp phần Bồ Đề, đó mệnh danh là Bồ Tát. Trong số những Bồ Tát như thế, vị nào tu hành tất cả thiện Pháp một cách đầy đủ hoàn toàn, rốt ráo được lìa giấc ngủ vô minh, sẽ được mệnh danh là Phật. Lại nên biết rằng, danh từ chúng sanh, Bồ Tát, Phật v.v… chỉ nương lời lẽ giả gọi của thế gian để nói mà thôi, về thể của Pháp thân, thì không có gì sai khác, rốt ráo bình đẳng, không có tướng biến đổi.

Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:

– Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng, nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết(28), thì hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu.

Thế nào là hai?

– Một là quán các Pháp đều Duy tâm Duy thức. Hai là quán Thật tướng Chân như. Về cách học quán Duy tâm Duy thức thì: Trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, tùy thân, khẩu, ý có sự móng niệm, đều phải quán xét, biết những niệm khởi chỉ là do tâm, cho đến bất cứ cảnh giới gì, nếu tâm trú vào sự nhớ nghĩ, thì phải xét biết và buông xả, chớ để cho tâm rơi vào tình trạng vô ký(29), hoặc vin theo duyên mà không tự kiểm soát. Trong mỗi mỗi niệm đều nên quán sát, tùy ý niệm nào mà tâm duyên đến, lập tức thâu nhiếp trở lại, không để cho tâm theo đuổi những ý niệm đó. Làm sao cho tâm tự biết, nội tâm của mình tự sinh tưởng niệm, chẳng phải tất cả cảnh giới có tưởng niệm, có phân biệt. Nghĩa là nội tâm tự sinh các quan niệm như: hay dở, tốt xấu, phải quấy, được mất, suy lợi, có không v.v… tóm lại là vô lượng ý tưởng. Song, tất cả cảnh giới chưa từng có tưởng, chưa từng có khởi phân biệt, nên biết tất cả cảnh giới, tự nó không có tư tưởng phân biệt, tức là tự nó chẳng phải hay dở, chẳng phải tốt xấu, cho đến chẳng phải có, chẳng phải không, lìa tất cả tướng.

Cứ như vậy quán sát, biết tất cả Pháp chỉ duy tâm tưởng mà sinh. Nếu như lìa tâm, thì không có tướng bất cứ một Pháp nào có thể tự thấy có sự sai biệt. Thường nên như vậy mà khắc ghi và giữ gìn nội tâm, biết rằng chỉ có vọng niệm, không có cảnh giới chân thật. Sự quán sát này cần phải đều đặn, chớ cho bỏ dở. Đây gọi là sự tu học duy tâm, duy thức quán.

Nếu tâm bị vô ký, chẳng biết tự tâm đang nghĩ gì, đó chính là có cảnh giới ở trước, chẳng gọi là duy tâm thức quán.

Vả lại, gìn giữ và khắc ghi nội tâm, ắt biết được, tưởng tham, tưởng sân, tưởng si, tưởng tà kiến. Biết thiện, biết bất thiện, biết vô ký, biết tâm lao lư nghĩ đến các sự khổ v.v… Nếu khi tịnh tọa, tùy đối tượng bị duyên của tâm mà mỗi niệm xét biết sự sinh diệt của duy tâm, ví như dòng nước trôi chảy, hay ánh lửa tiếp nối của ngọn đèn, không lúc nào tạm thời dừng lại. Từ đó sẽ được chính định vắng lặng các sắc. Được tam muội này rồi, kế đến học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha(30) và đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na(31).

Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha nghĩa là: Tư duy về tướng chẳng thể thấy của nội tâm. Tướng này tròn đầy, bất động, không đến, không đi, bản tính chẳng sinh, chẳng diệt, vì lìa phân biệt vậy.

Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na nghĩa là: Xét biết những tư tưởng, nhận biết các sắc bên trong bên ngoài, đều theo tâm mà sinh, theo tâm mà diệt, cả đến tư tưởng nhận thức về sắc thân Phật cũng vậy, đều tùy tâm sinh, tùy tâm mà diệt, như huyễn như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, chúng chẳng phải tâm, cũng chẳng lìa tâm, không phải đến, không phải chẳng đến, không phải đi, không phải chẳng đi, không phải sinh, không phải bất sinh, không phải tác động, không phải chẳng tác động.

Đại Bồ Tát Địa Tạng, bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:

– Này thiện nam tử! Nếu luôn luôn dùng đức tin, tu tập hai Pháp quán tâm như vậy, mau được ngộ ra đạo lý nhất thừa. Nên biết, quán Pháp duy tâm duy thức như vậy, gọi là ngưỡng cửa trí tuệ cao tột hơn hết. Ngưỡng cửa này có thể khiến cho tâm của hành giả mạnh mẽ bén nhạy và thêm lớn sức tin hiểu, nhanh chóng vào nghĩa không của Đại thừa, và phát được tâm Vô thượng Đại Bồ Đề.

Trên đây là nói về Pháp quán Duy tâm Duy thức.

Nếu muốn học tập Pháp quán Thật tướng Chân như thì: Hành giả tư duy về tính của tâm vốn không sinh, không diệt, không trụ vào cái thấy nghe hiểu biết, lìa hẳn tất cả những tưởng phân biệt, lần lần có thể vượt qua tướng cảnh giới của các định không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Được tương tự với không tam muội, thì tướng phân biệt thô của Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng hiện ra trước từ đó mà tiến tu thêm, sẽ làm bậc thiện tri thức, với lòng từ bi quảng đại. Vì khéo bảo nhiệm và trưởng dưỡng, cho nên lìa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ phế lần lượt có thể vào tam muội vắng lặng của tâm. Được Tam muội đó rồi, lại liền có thể nhập Nhất hạnh Tam muội, nhập Nhất hạnh Tam muội rồi, thấy vô số đức Phật và phát những tâm hạnh sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn, trụ vào bậc Kiên Tín(32).

Trên đây là đường lối của hai Pháp quán Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na, chắc chắn được sự tin hiểu, có thể quyết định thú hướng Bồ Đề, tùy chỗ tu học các Tam muội Thiền định và sự nghiệp thế gian, nhưng không bị đắm trước, cho đến có thể tu khắp tất cả thiện căn của Pháp phần Bồ Đề, đối với sự sống chết không bị khiếp sợ, không thích Nhị thừa. Bởi nương vào phương tiện hay khéo, vô cùng vi diệu và khả năng tu tập bằng hai đường lối quán tâm này, có thể làm chỗ sở y cho các thứ trí tuệ và các hạnh căn bản vậy.

Lại nữa, tu học sự tin hiểu như trên gồm có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là hạng căn tính lanh lợi. Hai là hạng căn tính chậm lụt.

Hạng căn tính lanh lợi: Người này trước đó đã biết: Tất cả các cảnh giới bên ngoài, duy tâm tạo ra, hư dối chẳng thật, như mộng, như huyễn, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa, năm món cái nhẹ mỏng, tâm tán loạn cũng ít. Hạng người nói trên, nên học tập ngay Pháp quán Thật tướng Chân như.

Hạng người căn tính chậm lụt: Hạng này trước đó chưa thể biết tất cả các cảnh giới bên ngoài, đều chỉ là tâm, vì hư dối không thật. Tình thức nhiễm mắc của họ dày đặc, năm món cái nhiều phen nổi lên, tâm khó điều phục, thì trước hết phải nên học Pháp quán duy tâm thức. Nếu người nào, tuy học sự tin hiểu như vậy, nhưng chủng tử thiện căn còn mỏng, chưa thể tiến lên, các phiền não xấu ác chẳng bị bẻ dẹp lần lần, và tâm những người ấy nghi ngờ khiếp nhược, sợ đọa vào ba đường ác, hoặc sinh vào chỗ tám nạn(33), sợ chẳng thường được gặp đức Phật, chư vị Bồ Tát, các bậc Thánh nhân, chẳng được cúng dường nghe nhận Chánh Pháp, sợ hạnh Bồ Đề khó thể thành tựu… Có các thứ nghi sợ và những chướng ngại như thế v.v…thì nên trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, thường xuyên tụng niệm danh hiệu của Ta, Địa Tạng Bồ Tát. Nếu được nhất tâm thì căn lành sẽ thêm lớn và ý chí người ấy dõng mãnh lanh lợi. Lại thêm quán Pháp thân của Ta, và Pháp thân của tất cả các đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều bình đẳng, không hai không khác, chẳng sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều đáng nên nương tựa.

– Lại nữa, hành giả thường nên quán sát thân mình và cái tướng của tâm đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, như huyễn, như hóa, đáng chán, đáng lìa.

Nếu luôn luôn tu học Pháp quán như vậy, hành giả mau được tăng trưởng đức tin thanh tịnh, bao nhiêu chướng ngại lần lần giảm bớt. Tại sao vậy ?

– Vì những người này được gọi là học tập theo sự nghe danh hiệu của ta, cũng có thể nói, học tập sự nghe danh hiệu của các đức Phật trong mười phương. Được gọi là sự học tập chí tâm lễ lạy và cúng dường ta, và hay học sự chí tâm lễ lạy cúng dường đức Phật trong mười phương. Được gọi là học sự nghe những Kinh điển thâm sâu đại thừa. Được gọi là sự giữ gìn biên chép, cúng dường cung kính Kinh điển Đại thừa sâu thẳm. Được gọi là học sự xa lìa những chấp trước tà vạy, đối với nghĩa lý sâu xa của Chánh Pháp, chẳng bị rơi vào sự phỉ báng chê bai. Được gọi là đối với đệ nhất nghĩa, rốt ráo sâu xa của thật tướng, học sự tin hiểu. Được gọi là hay trừ các thứ tội chướng. Được gọi là sẽ được sự chứa nhóm vô lượng công đức.

Những người nói trên, khi bỏ thân này, trọn chẳng đọa vào ác đạo và tám chỗ nạn. Khi sinh trở lại được nghe Chánh Pháp và tin tưởng học tập tu hành. Cũng có thể tùy nguyện sinh về Tịnh Độ của các đức Phật ở các phương khác.

– Lại nữa, nếu như người nào muốn sinh Tịnh Độ hiện tại ở phương khác, thì phải theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó(34) mà chuyên ý niệm tụng, một lòng chẳng loạn và quán sát Pháp thân như đã nói trên, người ấy quyết định được sinh Tịnh Độ của đức Phật ấy. Chừng đó căn lành sẽ thêm lớn và mau được bất thoái. Nên biết, sự nhất tâm buộc niệm tư duy Pháp thân bình đẳng của các đức Phật được nói trên đây, đối trọng tất cả căn lành, nó là tịnh nghiệp trỗi vượt trên hết.

Do đó, người nào siêng năng tu tập, lần lần có thể hướng đến Nhất hạnh Tam muội. Một khi được vào Nhất hạnh Tam muội, là thành tựu tâm hạnh rộng lớn nhiệm mầu, mệnh danh là được tương tự với Vô sinh Pháp nhẫn.

Bởi luôn luôn được nghe danh hiệu của Ta, cho nên cũng luôn luôn được nghe danh hiệu của chư Phật mười phương. Bởi luôn luôn dốc lòng lễ lạy cúng dường Ta, cho nên cũng luôn luôn lễ lạy cúng dường mười phương chư Phật. Bởi luôn luôn được nghe Kinh điển Đại thừa sâu thẳm, luôn luôn gìn giữ biên chép cúng dường, cung kính Kinh điển Đại thừa sâu thẳm, luôn luôn thọ trì, đọc tụng Kinh điển Đại thừa sâu thẳm, cho nên có thể đối với đệ nhất nghĩa của thật tướng sâu thẳm rốt ráo, chẳng sinh sợ sệt, xa lìa phỉ báng, được tâm chính kiến, luôn luôn tin hiểu, quyết định trừ diệt các thứ tội chướng và hiện đời thực chứng vô lượng công đức.

Tại sao vậy?

– Vì được tâm Bồ Đề vô phân biệt, vì được trí tuệ vắng lặng hiện tiền, vì phát khởi chủng tử phương tiện các thứ nguyện hạnh.

Luôn luôn nghe danh hiệu của ta, là được sự quyết định của đức tin và việc làm lợi ích, cho nên bất cứ việc gì có thể làm, đều được chẳng thoái chuyển nghiệp nhân của đạo nhất thừa vật.

Nếu tu hành với tâm tạp loạn cấu uế, thì dầu có xưng tụng danh hiệu của Ta, đó chẳng được gọi là nghe danh hiệu, vì chẳng hay sinh sự tin hiểu quyết định, chỉ gặt hái quả báo lành nhỏ mọn của thế gian mà thôi, chẳng được lợi ích rộng lớn sâu diệu. Hành giả nào tu với tâm tạp loạn cấu uế như vậy, tùy tu bất cứ thiện Pháp nào, đều chẳng thể được lợi ích sâu rộng.

Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:

– Thiện nam tử: nên biết, sự siêng lòng tu học môn Thiền vô tướng trên đây, không lâu sẽ được lợi ích rộng lớn sâu xa, lần hồi thành Phật.

Sự lợi ích rộng lớn sâu xa là: được vào Pháp vị Kiên Tín, vì thành tựu Tín nhẫn(35).

Vào địa vị Kiên tu(36), vì thành tựu Thuận nhẫn(37), vào Chính nhân vị(38) vì thành tựu Vô sinh nhẫn(39).

Lại thành tựu Tín nhẫn, là có thể trở thành dòng giống của Như Lai. Thành tựu Thuận nhẫn, có thể hiểu Hạnh của Như Lai.

Thành tựu Vô sinh nhẫn là được nghiệp của Như Lai.

Lần hồi thành Phật là: lược nói có bốn hạng.

– Một là: vì tròn đầy đức tin về Pháp mà làm Phật. Nghĩa là: nương vào bậc Tập chủng tính(40), quyết định tin các Pháp chẳng sinh chẳng diệt, thanh tịnh, bình đẳng, không gì đáng nguyện cầu.

– Hai là: vì hiểu trọn vẹn về Pháp mà làm Phật. Nghĩa là, nương vào bậc Giải hạnh(41), hiểu sâu tính các Pháp, biết chủng tử của Như Lai là không tạo, không tác, đối với sinh tử và Niết Bàn, chẳng khởi hai tưởng và tâm không bị sợ sệt.

– Ba là: vì chứng trọn vẹn Pháp mà làm Phật, nghĩa là nương vào Tịnh tâm địa(42), do được trí vô phân biệt, thể nhập Pháp thân tịch tịnh, cũng như nghiệp dụng tự nhiên chẳng thể nghĩ bàn, không còn ý tưởng tìm cầu nữa.

– Bốn là: tất cả hạnh công đức trọn vẹn mà làm Phật. Nghĩa là, nương vào bậc Bồ Tát cứu cánh địa(43) có thể diệt trừ tất cả chướng ngại, giấc mộng vô minh không còn.

Lại cũng nên biết, tu học theo môn Thiền hữu tướng của thế gian, gồm có ba thứ. Thế nào là ba?

– Một là: không có phương tiện và sức tin hiểu, cho nên tham nhận công đức của các thiền định rồi sinh kiêu mạn, bị sự hệ phược của thiền, làm cho thoái tâm, chỉ cầu mối lợi thế gian.

– Hai là: không có phương tiện và sức tin hiểu, cho nên nương vào thiền mà phát khởi hạnh chán lìa một bên khiếp sợ sinh tử, thoái đọa vào hàng Nhị thừa.

– Ba là: có phương tiện và sức tin hiểu. Nghĩa là, nương tựa cảnh giới Nhất Thật Tướng, tu tập gần với đường lối hai Pháp quán Xa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na, nên có thể tin hiểu tất cả các Pháp, duy tâm tưởng sinh, đồng như mộng như huyễn. Dầu được công đức của thiền định thế gian, mà chẳng đắm trước kiên cố, chẳng còn thoái tâm, cầu quả báo trong ba cõi. Lại tin và biết sinh tử cũng chính là Niết Bàn, nên cũng chẳng sợ sệt, khiếp nhược, chẳng thoái cầu quả Nhị thừa.

Người tu học tất cả Thiền định Tam muội như đây, nên biết có mười môn tướng thứ lớp, nhiếp lấy đầy đủ sự nghiệp thiền định, có thể làm cho người học thành tựu sự tương ưng mà không lầm, không lộn.

Những gì là mười?

– Một là: Tướng phương tiện nhiếp niệm.

– Hai là: Tướng muốn trụ cảnh giới.

– Ba là: Tướng biết sự xuất nhập một cách tỏ rõ cảnh giới vừa mới trụ tâm.

– Bốn là: khéo trụ cảnh giới được vững vàng.

– Năm là: Tướng mống khởi tư duy phương tiện dõng mãnh, càng cầu sự tiến thủ hơn nữa.

– Sáu là: Tướng lần lần được điều độ, xứng với hỷ lạc của tâm, trừ mối nghi ngờ, thêm sự tin hiểu và tự an ủi mình.

– Bảy là: Tướng chắc được sự thắng tiến, bởi ý chuyên nhất, tương ưng ít phần với khả năng nhận thức.

– Tám là: Tướng công tu, thêm sáng suốt, công phu thêm vững vàng, được công đức thù thắng, thành tựu sự đối trị vọng tâm.

– Chín là: Tướng tùy tâm hành giả khởi niệm làm những gì, muốn thị hiện công đức ra ngoài, đều tương ưng với ý mà không sai lầm.

– Mười là: Tướng nếu muốn tu thêm Pháp khác, nương nơi sở đắc có trước mà khởi phương tiện, sẽ lần lượt thành tựu, xuất nhập tùy tâm, siêu việt một cách tự tại.

Đó gọi là mười môn tướng thứ lớp, nhiếp hết sự nghiệp của người tu tập Thiền định.

Bấy giờ Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ Tát Địa Tạng:

– Ngài vì sao mà khéo nói Pháp sâu xa, có thể khiến chúng sanh lìa sự khiếp nhược?

Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng đáp:

– Này thiện nam tử! Nên biết, người mới phát ý cầu về Đại thừa mà chưa được tín tâm, đối với giáo Pháp sâu xa của đạo Vô Thượng, họ ưa sinh nghi ngờ khiếp nhược, cho nên Ta dùng phương tiện hay khéo, tuyên rõ nghĩa thật để an ủi họ, khiến lìa khiếp nhược. Do đó hiệu của Ta là “Bậc khéo nói an ủi”. An ủi như thế nào? Nghĩa là những chúng sanh căn tính chậm lụt, tâm lượng nhỏ hẹp, nghe sự tối thắng, tối mầu của đạo Vô Thượng, mặc dù ý họ ham thích, phát tâm hướng về, nhưng lại suy nghĩ rằng: Sự cầu đạo Vô Thượng, cần phải chứa công để đức rất rộng, tu những hạnh khổ khó làm, phải tự độ, độ tha, trải qua kiếp số dài xa, ở trong sinh tử lâu chịu siêng khổ, mới có thể thành. Vì lý do đó họ sinh khiếp nhược. Ta liền vì họ nói nghĩa lý chân thật. Nghĩa là nói tất cả các Pháp bản tính tự rỗng rang, rốt ráo vô ngã, không có người làm, không có người thọ, không tự không tha, không đi, không đến, không có phương sở, cũng không quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến vì họ nói mười tám món không. Tất cả các Pháp không có tướng sinh tử Niết Bàn, cũng không có tướng chắc thật có thể nắm bắt. Lại vì họ nói: Tất cả các Pháp như huyễn, như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, như thành Càn Thát Bà, như tiếng dội trong hang trống, như quán nắng, như bọt nước, như sương mốc, như đèn lòa, như mắt bị nhặm, như mộng, như chớp, như mây nổi đầu non, những phiền não sinh tử tính nó rất yếu ớt, có thể dễ làm cho diệt mất… Lại dạy họ rằng: phiền não sinh tử, rốt ráo không có tự thể, tìm nó chẳng thể được, xưa nay chẳng sinh, thật cũng chẳng diệt, tự nó vắng lặng, chính là Niết Bàn…

Những lời nói như vậy, nhằm phá tất cả mọi sự nhận thức sai lầm, bớt đi sự chấp đắm nơi tự thân tâm, để chúng sanh được lìa khiếp nhược.

Lại có chúng sanh, vì chẳng hiểu ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai mà sinh khiếp nhược. Ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai như thế nào? Đó là: Đức Như Lai đã luôn luôn nhìn thấy cảnh giới Nhất Thật Tướng, rốt ráo lìa khỏi các pháp ác thuộc sinh, lão, bệnh, tử, chứng được Pháp thân của Ngài, Pháp thân này thường hằng không mất, không biến đổi v.v… có sự chứa nhóm vô lượng công đức. Như Lai lại có thể thấy tỏ rõ trong thân của tất cả chúng sanh, đều có sẵn những công đức chân thật, thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng vì bóng tối nhiễm ô của vô minh che chướng, cho nên từ trước tới giờ luôn luôn chịu vô lượng thứ khổ sinh, già, bệnh, chết. Như Lai ngay đó khởi tâm đại bi, muốn khiến cho tất cả chúng sanh lìa các thứ khổ, đồng gặt hái sự vui đệ nhất của Pháp thân và Pháp thân ấy là Pháp vô phân biệt, lìa tất cả ý niệm. Chỉ có bậc hay diệt tư tưởng hư vọng của thức, chẳng khởi niệm phân biệt, mới có thể chứng nhập.

Chỉ vì tất cả chúng sanh, thường ưa phân biệt, chấp đắm các Pháp, bởi điên đảo vọng tưởng cho nên chịu sống chết triền miên, do đó đức Như Lai muốn cho họ lìa ý tưởng phân biệt chấp trước, cho nên Ngài nói: Tất cả pháp thế gian rốt ráo của nó rỗng rang, không là gì cả, cho đến tất cả những Pháp xuất thế gian, bản thể của nó cũng rốt ráo, rỗng không, không thuộc vào đâu…”. Nếu nói rộng ra thì như mười tám Pháp không(44). Sự hiển bày tất cả các Pháp như vậy, đều chẳng lìa thể của Bồ Đề. Thể của Bồ Đề chẳng thể có, chẳng phải không, chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không, chẳng phải cả có lẫn không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải chẳng một, chẳng phải chẳng khác, chẳng phải một lẫn khác, cho đến rốt ráo không một tướng nào có thể nắm bắt, vì nó lìa hết tất cả tướng. Thế nào là lìa hết tất cả tướng? Nghĩa là chẳng thể nương vào lời lẽ để giữ lấy, vì trong Pháp của Bồ Đề, không có sự lĩnh nhận bằng lời lẽ nói năng, và sự nói năng không thể đến được, lại cũng chẳng thể nương vào cái tâm có nghĩ ngợi mà biết được. Trong Pháp Bồ Đề không có “người hay giữ lấy và Pháp để giữ lấy”. Không ta, không người vì lìa tướng phân biệt. Nếu còn có sự phân biệt, chính là hư ngụy, chẳng gọi là khế hợp với Bồ Đề.

Những lời dạy như thế của đức Như Lai, các chúng sanh căn tính chậm lụt, không thể hiểu nổi, cho rằng Vô thượng Bồ Đề và Pháp thân của Như Lai chỉ là Pháp trống không, rốt ráo một mực, không có gì hết, do đó mà tâm của họ khiếp nhược, sợ sệt vào chỗ “không được gì cả”. Hoặc họ sinh ra tư tưởng đoạn diệt, khởi nhận thức có tăng có giảm, chuyển sang phỉ báng, khinh mình, khinh người v.v… Để đối trị hạng này, ta liền vì họ nói: Pháp thân Như Lai, tự tính nó chẳng phải ngoan không, mà là có Tự thể chân thật, Thể này đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh, từ vô thỉ đến giờ, nó tự nhiên tròn đầy, chẳng phải nhờ tu mới có, chẳng phải nhờ tạo mới thành. Cả đến trong thân tất cả chúng sanh cũng đều sẵn đủ, không biến, không đổi, không thêm, không bớt. Những lời nói như vậy, có thể trừ sự khiếp nhược của chúng sanh, đó mệnh danh là “An Ủi”.

– Lại nữa, những chúng sanh ngu si chấp chặt, nghe những lời nói như thế, cũng sinh khiếp nhược nữa, vì không hiểu nổi nghĩa này, họ lại chấp rằng Pháp thân của Như Lai từ xưa đến nay đã đầy đủ, chẳng phải là tướng tu tạo, thì đâu có tướng chứng đắc gì, do đó mà họ sinh khiếp nhược, rơi vào hạng tín tà đảo kiến, theo lối của tự nhiên ngoại đạo.

Đối với hạng này, ta liền vì họ nói đến sự tu hành tất cả thiện Pháp, để tăng trưởng sự đầy đủ, mới sinh ra sắc thân Như Lai, được quả báo vô lượng công đức thanh tịnh. Những lời nói như thế, nhằm khiến chúng sanh lìa sự khiếp nhược, đó được mệnh danh là “An Ủi”.

Những nghĩa sâu thẳm được ta nói ra, khế hợp với lý chân thật, không có các lỗi, bởi lìa lời nói mâu thuẫn của thế gian, làm sao biết tướng lìa lời nói mâu thuẫn? Bởi vì Pháp thân của Như Lai, mặc dầu không có cảnh giới của lời lẽ, và lìa cả cái tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến không có tất cả các tướng, chẳng thể căn cứ vào lời lẽ để chỉ bày, nhưng căn cứ vào Pháp giả gọi đối đãi nhau bởi nhân duyên huyễn hóa của thế đế, thì có thể dùng phương tiện chỉ bày để nói. Vì tính của Pháp thân này không phân biệt, lìa cả tướng tự, tướng tha, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến lìa hết tất cả các tướng, cho nên nói rằng, bản thể của Pháp thân là rốt ráo rỗng rang, không thuộc vào cái có. Vì khi đã lìa tâm phân biệt rồi, thì tưởng niệm hết sạch, bèn không còn một tướng nào cả, nhưng có thể tự thấy, tự biết và tự có tất cả. Thế nên nghĩa không quyết định khế hợp với thật tướng chân như, không hề sai lầm.

– Lại nữa, chính trong nghĩa không đó, do lìa tâm vọng tưởng phân biệt, thì sự rốt ráo tận cùng của nó, không một tướng nào có thể nói rằng không. Vì chỉ còn lại một sự chân thật, chính đó gọi là bất không vậy.

Lìa tưởng niệm của thức, cho nên không có bất cứ một tướng hư ngụy nào, mà là rốt ráo thường hằng chẳng biến, chẳng đổi. Bởi không còn một tướng nào có thể hoại, có thể diệt, cho nên cũng lìa mọi sự tăng giảm.

– Lại nữa, chỗ vô phân biệt của Thật thể Chân như này, từ đời vô thỉ đến nay, đủ vô lượng chủng tử công đức vô lậu, tự nhiên sẵn có, lúc nào cũng tương ưng, vì nó không lìa, không rời, cho nên nói là bất không. Những công đức chứa nhóm nơi Thật thể Chân như như thế, tất cả chúng sanh đều có sẵn, chỉ vì chúng sanh bị vô minh che lòa, cho nên chẳng biết, chẳng thấy, chẳng thể nào đạt được công đức lợi ích của Pháp thân, đâu khác gì hoàn toàn không có. Nói chưa có là nói những chúng sinh chẳng biết, chẳng thấy về thể của Pháp thân, cho nên bao nhiêu lợi ích của công đức nghiệp, chẳng phải là chỗ những chúng sanh ấy có thể thọ dụng, vì vậy chẳng gọi là thuộc về của họ. Chỉ có nhờ vào sự tu khắp tất cả thiện Pháp, đối trị các thứ nghiệp chướng, nhận ra Pháp thân kia, sau đó mới được những công đức lợi ích. Thế nên nói rằng tu tất cả thiện Pháp, sinh ra sắc thân Như Lai.

– Thiện nam tử! Như hiện nay Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, khi nói về những phương tiện thù thắng và Pháp môn trọng yếu sâu xa này, có mười vạn ức chúng sanh, phát tâm Vô thượng Bồ Đề, trụ bực Kiên Tín. Lại có chín vạn tám nghìn Bồ Tát được Vô sinh Pháp nhẫn. Toàn thể đại chúng, đều dùng hương hoa vi diệu cõi trời cúng dường đức Phật và Đại Bồ Tát Địa Tạng. Bấy giờ đức Phật bảo đại chúng rằng:

– Các vị mỗi người phải nên thọ trì Pháp môn này, tùy ở chỗ nào, đều làm cho lan rộng. Tại sao vậy?

– Pháp môn như thế này rất là khó gặp, hay làm lợi ích rất lớn. Nếu như người nào, được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, và tin những lời người nói, nên biết người ấy có thể nhanh chóng lìa tất cả mọi sự chướng ngại mau đến Vô thượng Bồ Đề.

Lúc ấy đại chúng đều phát lời rằng:

– Chúng con sẽ thọ trì, lưu thông thế gian, chẳng dám để quên.

Bấy giờ Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Những điều được nói trong Khế Kinh Lục Căn Tụ này, tên là Pháp môn gì? Pháp chân yếu này, con sẽ thọ trì, khiến đời sau này, khắp đều được nghe.

Đức Phật bảo Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín:

Pháp môn này gọi là: Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác; Cũng gọi tên là: Tiêu Trừ Các Chướng. Còn được gọi là: Chỉ Bày Cho Người Cầu Về Đại Thừa Biết Phương Tiện Tiến Đến Và Phát Lộ Nghĩa Thật Rốt Ráo Rất Sâu; Và cũng gọi là: Khéo Nói An Ủi Khiến Lìa Khiếp Nhược Mau Vào Đức Tin Kiên Cố Quyết Định. Y danh nghĩa như thế, Ông nên thọ trì.

Đức Phật nói tên Pháp môn này rồi, tất cả đại hội thảy đều hoan hỷ, tin nhận vâng theo thực hành.

CHÚ THÍCH

(28) Lòng tin và sự hiểu biết: Đây là nói đến các vị Bồ Tát sơ phát tâm, và các Bồ Tát thuộc Tam hiền. Lòng tin là nói hàng Thập tín. Sự hiểu biết là nói bậc Giải hạnh phát tâm. Hiểu biết thực hành mà phát tâm. Bậc Giải hạnh phát tâm gồm có 30 ngôi vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi hướng. Về Thập Tín, theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, nêu 10 thứ tâm như sau:

1. Tín tâm: Một lòng quyết định ưa muốn thành tựu.

2. Niệm tâm: Thường tu sáu niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên.

3. Tinh tiến tâm: Nghe tạng Pháp Bồ Tát, tinh cần tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.

4. Định tâm: Đối với sự, đối với nghĩa, buộc tâm an trú, xa lìa tất cả hư ngụy, khinh tháo, lìa nhớ tưởng phân biệt.

5. Huệ tâm: Nghe tạng Pháp Bồ Tát, suy lường quán sát, biết tất cả Pháp không ta không người, tự tính rỗng lặng.

6. Giới tâm: Thọ trì Luật nghi thanh tịnh của Bồ Tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, chẳng phạm các lỗi, có phạm liền sám hối.

7. Hồi hướng tâm: Tu được căn lành nào đều hồi hướng Bồ đề, không nguyện hưởng quả báo nơi các cõi, hồi hướng cho chúng sanh, chẳng chuyên vì mình, không vướng mắc danh tướng.

8. Hộ pháp tâm: Phòng hộ tâm mình, chẳng khởi phiền não và tu năm thứ hộ tâm.

9. Xả tâm: Chẳng tiếc thân mạng, tài sản, những gì có được thường hay thí xả.

10. Nguyện tâm: Tùy lúc mà tu tập các thứ tịnh nguyện.

Lại như Ngài Cưu Ma La Thập dịch Kinh Nhân Vương, ở quyển thượng nơi Phẩm Bồ Tát giáo hóa, trình bày 10 thứ tâm là: Tín tâm, tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm, lấy đó làm 10 thứ tâm thuộc tập chủng tính.

Kinh Phạm Võng quyển thượng trình bày 10 tâm là: Xả tâm, giới tâm, nhẫn tâm, tiến tâm, định tâm, huệ tâm, nguyện tâm, hộ tâm, hỷ tâm, đỉnh tâm. Lấy 10 tâm này gọi là Thập phát thú tâm trong bậc Kiên Tín nhẫn. Ngoài ra còn một vài thuyết nữa, chúng tôi xin lược bớt. Về phần Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi hướng, sẽ chú thích ở đoạn sau.

(29) Tình trạng vô ký: Những người tu thiền định thường có ba trạng thái trong lúc dụng công, đó là Hôn trầm, Tán loạn, Vô ký. Hôn trầm nghĩa là bị buồn ngủ, ngủ gục, tâm trí không kiểm soát tư tưởng. Tán loạn: Trong lúc chuyên chú theo dõi nội tâm nhưng nhiều loại vọng tưởng khởi lên liên tục, làm cho tâm không định tỉnh được.

Vô ký: Nghĩa là không bị hôn trầm, tán loạn, nhưng vọng niệm sinh khởi hành giả không phân biệt là đúng với Pháp tu hay chẳng đúng với Pháp tu, như thế gọi là vô ký.

(30) Xa ma tha: Dịch là chỉ. Đó là Pháp tu chỉ, là sự tu nhiếp tâm trụ vào một duyên, xa lìa mọi tán loạn, chỉ là tên gọi khác của định, có nghĩa là tịch tỉnh. Đối với phép nhiễm tịnh, tâm không bị vọng duyên.

(31) Tỳ bát xá na: Dịch là quán, là kiến, là chủng chủng quán sát. Dùng trí tuệ quan sát giản trạch các Pháp. Quán là tên khác của huệ, ở quả gọi là huệ. Cũng như: Chỉ là nhân, Định là quả. Hai pháp Chỉ Quán này người tu Phật phải vận dụng cả hai trong khi tu tập thiền định, vận dụng cùng một lúc, không phải trước sau gì cả.

(32) Kiên Tín: Như đã giải sơ ở phần chú thích số 28. Các vị Bồ Tát sơ phát tâm thành tựu 10 đức tin mà được vào bậc Thập trụ, gọi là Tập chủng tính. Đến đây đức tin về Đại thừa đã vững chắc, không bị lay chuyển, cho nên gọi là Kiên Tín.

(33) Tám chỗ nạn: Sở dĩ gọi nạn là vì không gặp Phật, không nghe Pháp, không được sự giáo hóa của Hiền Thánh Tăng. Tám nạn là: Ba đường ác: Địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.

Thứ tư là Bắc Câu Lô Châu, vì người ở châu này sung sướng nhưng không có Phật Pháp lưu thông.

Thứ năm là Thường Thọ Thiên, Thọ mạng thiên chúng ở các cõi trời Sắc giới rất lâu dài, nhưng khi hết phước báu bèn sinh xuống các cõi dưới, cho nên cũng khó tu Phật Pháp.

Thứ sáu là đui điếc câm ngọng.

Thứ bảy là Thế trí biện thông, đây là những người ỷ vào kiến thức đời nên không tin không tu Phật Pháp.

Tám là sinh trước khi Phật ra đời và sinh sau khi Phật nhập diệt đã lâu xa.

Tám điều trên đây khiến chúng sanh không giác ngộ, không giải thoát được, nên gọi là nạn.

(34) Theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó: Đây là Pháp trì danh hiệu Phật để được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn cũng được gọi là Nhất hạnh Tam muội. Kinh Văn Thù Sư Lợi nói Bát Nhã dạy rằng: Muốn được Nhất hạnh Tam muội thì tùy đức Phật ở phương nào, nên ngồi xoay mặt về phương ấy mà xưng niệm danh hiệu của Ngài không cho gián đoạn, tức có thể được nhất tâm bất loạn, khi được nhất tâm rồi, có thể tùy nguyện vãng sinh về thế giới của đức Phật ấy.

(35) Tín nhẫn: Một trong sáu nhẫn Pháp, tương ưng với giai vị của Bồ Tát. Các vị Bồ Tát bực Thập trụ của Biệt giáo tu tập Pháp quán không, tin tất cả các Pháp đều rỗng lặng, đối với Pháp không, có thể nhẫn, có thể chứng, cho nên gọi là Tín nhẫn.

(36) Kiên tu: Một trong sáu Kiên Pháp của các giai vị Bồ Tát. Kiên tu là chỉ cho giai vị Bồ Tát Thập Hồi Hướng của Biệt giáo, các bậc này tu tập Pháp Trung quán, rõ biết tất cả Pháp, không Pháp nào chẳng là trung đạo, không thể nào hủy hoại, do đó bậc Thập Hồi Hướng gọi là Kiên tu.

(37) Thuận nhẫn: Một trong năm nhẫn của các giai vị Bồ Tát (gồm 42 địa vị). Năm nhẫn là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sinh nhẫn và Tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn trước mỗi nhẫn có thượng, trung, hạ thành ra 12 nhẫn. Nhẫn thứ năm Tịch diệt nhẫn chia làm hai, là thượng và hạ.

1. Phục nhẫn: các vị Bồ Tát tiền địa (Tam hiền) chưa được trí tuệ vô lậu, phiền não chưa đoạn, chỉ thể hàng phục trụ địa phiền não, làm cho chẳng khởi mà thôi (chưa thể diệt). Trong đó Thập Trụ thuộc về Phục nhẫn bậc hạ. Thập Hạnh thuộc về Phục nhẫn bậc trung. Thập Hồi hướng thuộc Phục nhẫn bậc thượng.

2. Tín Nhẫn: Bồ Tát từ sơ địa trở lên, được Vô lậu tín, tùy thuận không nghi, trong đó Sơ địa là Hạ phẩm, Nhị địa là Trung phẩm, Tam địa là Thượng phẩm tín nhẫn.

3. Thuận nhẫn: Bồ Tát thuận Vô thượng Bồ đề đạo, hướng đến vô sinh quả, trong đó đệ tứ địa là Hạ phẩm Thuận nhẫn, ngũ địa là Trung phẩm, Lục địa là Thượng phẩm của Thuận nhẫn.

4. Vô sinh nhẫn: Bậc Bồ Tát đã hết vọng hoặc, biết rõ tất cả Pháp đều chẳng sinh, trong đó Thất địa là Hạ phẩm, Bát địa là Trung phẩm, Cửu địa là Thượng phẩm của Vô sinh nhẫn.

5. Tịch diệt nhẫn: các hoặc đã hết, thanh tịnh vô vi, lòng trong lặng lẽ, trong đây Thập địa là Hạ phẩm, Phật quả là Thượng phẩm (Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã…)

(38) Chánh chân vị: Chỉ cho bậc đã đạt ngộ Pháp tánh, đã phục diệt phiền não. Đó là bậc Bồ Tát Thượng địa, từ Sơ địa trở lên đến Thập địa.

(39) Vô sinh nhẫn: Như đã giải ở đoạn trên.

(40) Tập chủng tính: Gọi đủ là Tập sở thành chủng tính. Phạn Samudanitam gotram, gọi tắt là Tập chủng. Chỉ cho chủng tính trước đó chưa có mà sau này tu được, cũng chính là huân tập. Chủng tính do tu các thiện Pháp mà được thành. Tập chủng tính thường được gọi chung với tính chủng tính, hai chủng tính này trong các Kinh Luận có nhiều chỗ đề cập đến, như Luận Đại thừa Khởi tín gọi nó là Bản giác với Thủy giác. Thành duy thức luận lại nói là: Chủng tử sẳn có với chủng tử mới huân. Nghĩa là tính Phật sẵn có phát ra chủng tử vô lậu, phát ra bên ngoài, làm cái nhân huân tập trở vào bên trong, cho nên gọi là Bản giác và Thủy giác.

Đây cũng tiêu biểu giai vị tu hành của Bồ Tát. Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã nói đến ba chủng tính là Tập chủng tính, tính chủng tính, Đạo chủng tính. Y theo thứ tự có thể phối với giai vị tu hành của Bồ Tát Đại thừa là Thập tín tâm, Thập trụ tâm, Thập hạnh tâm.

Lại như Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng lập danh thì có: Tập chủng tính, Tính chủng tính, Đạo chủng tính, Thánh chủng tính, Đẳng giác tính, Diệu giác tính. Y thứ tự có thể phối với Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Tóm lại Tập chủng tính là nói về 10 giai vị của Bồ Tát thuộc Thập trụ.

(41) Giải hạnh: Từ ngữ này để chỉ các bậc Bồ Tát thuộc Tam hiền, tức Thập trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi hướng.

Các Ngài vừa hiểu biết Chánh Pháp của Phật một cách sâu sắc, luôn luôn tu tập ba Pháp quán không quán, giả quán và trung đạo quán, và thực hành sáu ba la mật (thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, trí) cho nên gọi là giải hạnh.

(42) Tịnh tâm địa: Đây là bậc thứ nhất trong Thập địa, cũng gọi là sơ hoan hỷ địa. Thập địa còn gọi là Thập thánh. Khi Bồ Tát tu hành đến mãn Thập hồi hướng là qua A tăng kỳ kiếp, có thể chứng vào bậc Tịnh tâm địa này. Đến đây là chứng nhập Pháp thân thanh tịnh, phá từng phần căn bản vô minh tiến lên các địa sau và thành tựu diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn.

(43) Cứu cánh địa: Chỉ cho bậc Bồ Tát từ Đẳng giác đến Diệu giác (Phật). Theo cấp bậc tu hành của Bồ Tát thuộc Viên giáo thì đến đây Bồ Tát đã phá xong vô minh phẩm thứ 42, chứng được Thật tướng các Pháp một cách rốt ráo. Chữ cứu cánh có nghĩa là đến chổ chí cực, Lý và Thế không hai.

(44) Mười tám Pháp không: Phạn Astadasa sunyatah. Vì để phá các thứ tà kiến, đức Phật nói về 18 Pháp không: 1. Nội không 2. Ngoại không 3. Nội ngoại không 4. Không không 5. Đại không 6. Đệ nhất lớn của phương pháp này chẳng thể nghĩ bàn, tuyệt đối không một phương pháp bói quẻ nào của thế gian có thể theo kịp.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại An Ban Thủ Ý - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 25 – Kinh Bẫy Mồi (Nivàpa sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 32 - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 31 – Tống Chung - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Xuất Gia - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 13 – Bần Tiện - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Già Da Sơn Đỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Ngài Ma Ha Ca Diếp Độ Bà Lão Nghèo - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 25 – Mười Việc Ác - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 30 – Địa Ngục - Kinh Tạng
  • Vạn Thiện Đồng Quy Tập - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 15 - Kinh Tạng
  • Kinh Cư sĩ Tịnh Ý Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Cú – Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Ca Diếp Vấn Đại Bảo Tích Chánh Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 4 - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 27 – Lười Biếng Và Kiêu Mạn - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 20 – Lục Độ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 22 - Kinh Tạng