1
2
3
4
5

Duyên Khởi 5:NHƯ LAI CHẲNG BỊ CHẤT ĐỘC LÀM HẠI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang hành hóa nơi thành Vương xá, quốc chủ lúc ấy là vua A-xà-thế, mới phát sinh lòng tin thanh tịnh, quy y Phật-đà, bốn sự cúng dường luôn đầy đủ, do đó, các đại thần, muôn dân, bốn chúng đều gần gũi cung kính Đức Như Lai. Phật đã dùng phạm âm thuyết giảng diệu pháp, chỉ dạy hàng đệ tử đoạn trừ mười nghiệp ác: Không được giết hại sinh mạng, không được trộm cướp của người, không được tạo tác tà hạnh, không được nói lời chẳng thật, không được nói lời thêu dệt, không được nói lưỡi hai chiều, không được nói lời thô ác, không tham lam, không sân hận và không tà kiến. Những chúng sinh này nhờ Phật giáo hóa tu tập theo mười điều lành, đem thân tâm thanh tịnh an trụ trong Phật pháp.

Lúc ấy, có một trưởng giả tên là Thân Nhựt, vô cùng giàu có, tài sản vô lượng, có thế lực lớn, từ xưa đến nay luôn phụng thờ ngoại đạo, chấp giữ tà kiến, theo giáo pháp Bà-la-môn.

Đám ngoại đạo thấy vua A-xà-thế, các đại thần cùng vô số dân chúng quy ngưỡng kính tín Đức Như Lai, mà các môn đồ của họ mất thì dâng cúng ít ỏi, nên ôm lòng ganh ghét, muốn ám hại Đức Phật, bèn đến nhà trưởng giả Thân Nhựt cùng nhau bàn kế. Chúng nói:

-Sa-môn Cù-đàm thường nói mình biết rõ mọi sự việc trong ba cõi, biết trước tâm niệm của kẻ khác, ta nay tìm cách thử xem việc ấy có thật chăng?

Trưởng giả nói:

-Phải đấy, nhưng phải thử nghiệm như thế nào?

Ngoại đạo nói:

-Trưởng giả phải quy y giả với Phật, thỉnh Phật về nhà bày biện cúng dường món ăn uống thượng vị, nếu Sa-môn biết trước thì không nhận lời, còn nếu nhận lời thỉnh, thì đám Sa-môn Cù-đàm ấy tất sẽ bị họa.

Ngoại đạo hiến: Trước tiên là bên trong cổng vào đào sẵn một hầm thật sâu rộng, dưới chứa đầy những khúc lửa cháy sẵn, mặt hầm đậy bằng một tấm sắt dựa vào một đòn bẩy rồi phủ lên một lớp đất mỏng, chờ cho Sa-môn Cù-đàm dẫn các môn đệ đi ngang qua đây. Như họ lánh thân đi quanh cửa hồng an toàn, thì xem như không có gì xảy ra. Việc kế tiếp, trưởng giả vái chào họ rồi mời đi thẳng vào trai đường, dùng cơm đã trộn lẫn độc dược dâng cho họ ăn.

Trưởng giả Thân Nhựt khen ngợi cho là thượng sách, rồi mỗi mỗi làm theo y như lời ngoại đạo, sai các thuộc hạ gấp rút đào hầm và bố trí đúng như mưu, rồi trưởng giả đến chỗ Đức Phật, tỏ vẻ thành kính thỉnh Phật. Đức Phật biết trưởng giả này cơ duyên hóa độ đã đến, nên im lặng nhận lời. Khi ấy đám ngoại đạo hết sức vui mừng.

Trưởng giả có một người con tên là Nguyệt Quang, tuổi vừa mười sáu, thông minh lanh lợi, từ lâu đời đã vun trồng căn lành, có trí tuệ biết được thọ mạng từ đời trước của mình, nên thưa với cha:

-Thần trí của Đức Như Lai, chúng sinh vừa dấy niệm là liền biết. Đám ngoại đạo là hạng người ngu si cha phải thận trọng chớ nên tin.

Trưởng giả Thân Nhựt không nghe theo lời con, vẫn thực hiện kế hoạch đào hầm chứa lửa, dùng thuốc độc hòa lẫn với cơm. Trưởng giả chờ trời sáng cho người đi thỉnh Phật đến xem thử sự việc thế nào.

Đức Như Lai đã biết trước nên dặn các Tỳ-kheo bưng bình bát đi theo sau mình. Cùng lúc các vị: Tứ đại Thiên vương, Đế Thích, Phạm thiên và các chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần… thảy đều theo hầu Đức Phật. Bấy giờ, Đức Phật hiện các thần thông biến hóa: Trước tiên phóng hào quang màu vàng ròng chiếu thẳng đến nhà trưởng giả Thân Nhựt, rồi cùng với đại chúng ung dung hướng về nhà trưởng giả. Thân tướng của Đức Phật uy nghiêm rạng rỡ như mặt trăng ở giữa đám sao. Khi gần đến cổng chính thì đại địa hiện đủ sáu thứ chân động, người bệnh được lành, người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, mọi thứ độc hại đều tiêu tan, kẻ điên cuồng thì tâm trí được sáng suốt trở lại, tất cả các thứ âm nhạc tự nhiên hòa tấu, các loài cầm thú quý hiếm bỗng nhiên cùng nhau nhảy nhót kêu vang, hầm lửa được che đậy kia do thần lực của Phật liền biến thành ao nước rộng lớn, trong lành, nơi ao lại hiện hoa sen ngàn cánh, Đức Như Lai bước trên đó chậm rãi đi vào trước, các vị đại đệ tử tuần tự bước trên hoa sen trăm cánh ngay hàng tiến vào sau.

Trưởng giả Thân Nhựt lúc ấy chứng kiến các thần thông biến hóa của Như Lai mới tỉnh ngộ, thấy mình là kẻ không hiểu biết, nên hết sức lo sợ, vội vàng đầu mặt sát đất cung kính đảnh lễ Đức Phật xin sám hối, tự trách việc làm tội lỗi của mình.

Giờ ăn sắp đến, trưởng giả muốn sai kẻ hầu nhanh chóng nấu cơm thơm ngon khác để dâng cúng Đức Như Lai. Đức Phật bảo trưởng giả:

-Cứ lấy cơm đã trộn với độc dược đem lại cho Ta, chẳng cần nấu cơm khác.

Đức Phật lại bảo đại chúng, khi nhận cơm này để vào trong bát chưa được ăn liền. Đức Phật nói tiếp:

-Kẻ phàm phu nơi thế gian có ba điều độc: Một là tham dục, hai là sân hận, ba là ngu si. Như Lai hiện nay đã trải qua vô số đại kiếp diệt trừ lửa phiền não, tâm được thanh tịnh trong lành, đối với ba thứ độc đó đã hoàn toàn dứt sạch. Giả sử thuốc độc lớn như núi Tu- di, hầm lửa đào rộng như biển cả, thì đối với thân Như Lai đều chẳng thể gây tổn hại, nên cơm trộn lẫn độc dược này, do diệu lực từ sự thực hành của Phật, Pháp, Tăng khiến cho tất cả mọi độc hại đều được tiêu trừ.

Đức Phật và đại chúng cùng thọ trai, đều bình yên vô sự. Lúc này đám ngoại đạo đều lẫn trốn.

Trưởng giả Thân Nhựt quỳ gối đảnh lễ dưới chân Đức Phật, bạch:

-Bạch Đức Thế Tôn, con quá ngu si nghe theo đám tà sư làm điều ác này, cúi xin đức đại từ bi thương xót thọ nhận sự sám hối của con để con khỏi ưu sầu, sợ hãi.

Đức Như Lai vì trưởng giả giảng nói pháp bôn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trưởng giả nghe rồi tâm được thanh tịnh, tin hiểu, chứng bậc Sơ quả, đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

***

Duyên Khởi 6:THỎ CHÚA XẢ THÂN CÚNG DƯỜNG PHẠM CHÍ

Bồ-tát trong thời quá khứ thường làm thỏ chúa, do các nghiệp nhân còn sót lại từ đời trước của mình, tuy thọ báo thân làm thỏ mà biết nói tiếng người. Thỏ chúa tánh ngay thẳng, thật thà, chưa từng biết dối trá, dốc chứa nhóm trí tuệ, huân tập theo từ bi, tâm không hề dấy niệm sát hại, ở trong vô lượng trăm ngàn con thỏ, do bẩm tánh hiền hòa, mực thước, nên được đứng đầu nơi đồng loại.

Thỏ chúa vì hàng thuộc hạ giảng nói kinh pháp, khuyên bầy thỏ nên để ý lắng nghe khéo suy niệm:

-Ta cùng các người từ vô thỉ kiếp đến nay, chẳng tu hạnh chân chánh, nên theo nghiệp lưu chuyển trong các đường ác. Do bốn thứ nhân là tham lam, giận dữ, si mê, kiêu mạn, nên bị đọa trong ba nẻo dữ.

Hoặc do tham lam bỏn sẻn tạo mười nghiệp ác, vì nhân duyên ấy nên bị đọa vào loài ngạ quỷ, do sự tham lam keo kiệt luôn tăng trưởng, nên cổ họng như lỗ kim, nhiều kiếp lâu dài chưa từng nghe đến tên nước uống, nếu thấy được chút cơm thì cơm kia liền biến thành lửa, da bọc lấy xương chịu các khổ bức về đói khát.

Hoặc do sân hận tạo mười điều ác, vì nhân duyên này mà phải đọa vào loài súc sinh. Hoặc làm loài thú như: cọp, tê giác, rắn độc, loài không chân, loài nhiều chân, ăn nuốt lẫn nhau. Hoặc làm thân lạc đà, trâu, bò… chịu quả báo phải chở nặng đi xa, cổ mồm đều bị lở để trả nợ đời trước của mình.

Hoặc do ngu si tạo mười điều ác, vì nhân duyên ấy mà bị đọa vào địa ngục. Do không có trí tuệ chân chánh, nên cho không có nhân quả, hủy báng Phật, Pháp, Tăng, đoạn hạt giống trí tuệ, phải chịu sự trừng phạt thọ nhận vô số khổ bức nơi các địa ngục Bát hàn, Bát nhiệt, núi đao, rừng kiếm…

Hoặc do ngã mạn tạo mười điều ác, vì nhân duyên đó mà bị đọa vào loài A-tu-la, tâm thường dua nịnh, cao ngạo tự đại, xa lánh thiện tri thức, chẳng tin Tam bảo, tuy thọ nhân phước báo như chư Thiên, nhưng bị cái khổ về chiến đấu nên tay chân luôn bị tàn hại.

Ta nay lược nói sự thọ khổ ở các cõi như vậy, nếu nói đầy đủ thì trọn kiếp cũng không diễn tả hết. Lại nữa, ta cùng với các ngươi do không có mắt trì tuệ, ngu si luôn tăng tưởng, nên thọ lấy thân loài thỏ, thường chịu các khổ về đói khát, thiếu cỏ ăn nước uống. Tuy sống nơi đồng nội hay rừng sâu, luôn luôn hồi hộp lo sợ, hoặc bị tai nạn do lưới rập, hầm bẫy, hoặc bị thợ săn bắn hại. Hiện tại thọ nhận sự khổ này ta phải hết sức nhàm chán, xa lìa tai họa ấy. Mỗi người đều nên phát tâm dũng mãnh quyết tu tập mười điều lành, hướng đến việc xa lìa các nẻo ác, cầu sinh cảnh giới tốt đẹp.

Thuở ấy, thỏ chúa thường vì đồng loại diễn nói pháp quan trọng thích hợp với căn cơ của chúng như trên.

Bấy giờ, có một ngoại đạo thuộc dòng Bà-la-môn, nhàm chán thế gian nên vào núi tu tập đạo Tiên, xa lìa ái dục, khổng khởi tâm sân hận, uống nước trong, ăn hoa quả, thích ở chỗ vắng lặng, móng tay và râu tóc để dài, ra tướng Phạm chí. Một hôm, bỗng nghe tiếng thuyết kinh giảng pháp của thỏ chúa với bầy thỏ từ xa vọng lại, Phạm chí này tự than:

-Ta nay tuy được làm người, nhưng ngu si vô trí, không bằng thỏ chúa kia, hiểu rõ pháp thiện đem khai ngộ cho đồng loại. Thỏ chúa này nhất định là bậc đại Hiền thánh quyền biến hóa thân, hoặc là Phạm vương hay Đại tự tại… Ta nhân được nghe lời thuyết pháp của thỏ chúa ấy mà xa lìa các phiền não, thân tâm được thư thái. Nay thỏ chúa này tâm tánh nhân từ, khéo có thể tìm ra được giáo pháp của các Thánh hiền đời trước, phân biệt được lý báo ứng của thiện ác. Từ bây lâu nay, ta nương thân nơi hang núi, lấy cỏ làm y phục, sông bằng hoa quả để mong cầu đạo ra khỏi ba cõi, chưa gặp được lời chỉ dạy của các bậc thầy, bạn nào như vậy, nay vừa nghe được nên vui mừng vô cùng.

Lúc ấy, Tiên nhân bèn đứng dậy chắp tay, đi về chỗ ở của thỏ chúa, nói lời ôn tồn:

-Bậc Đại sĩ kỳ diệu! Phương tiện hiện thân nơi loài thỏ, vì chúng sinh giảng nói rộng pháp yếu. Ngài nay đích thật là bậc đã nắm giữ đại pháp, là kho tàng chứa tất cả chánh pháp, xin vì tôi mà mở bày chỉ rõ giảng nói pháp môn tối thượng, rốt ráo ra khỏi sự khổ nơi ba cõi. Tôi trước đây học đạo Bà-la-môn, từ lâu đã gắng nhiều sức khổ công nhưng hầu như không đem lại kết quả gì! Ví như người ngu xoi đục băng để tìm lửa thì không thể có lửa được! Nay nguyện theo nhân giả làm nơi nương tựa.

Thỏ chúa đáp:

-Này đại Bà-la-môn, pháp giải thoát ta giảng nói hôm nay, có công năng nhổ sạch tận gốc đau khổ, hợp với căn cơ của ông, sẽ thỏa đáng chỗ mong muốn của ông, ta không hề tiếc lẫn. Từ lâu ta đã trừ sạch mọi cấu nhiễm của tham lam bỏn sẻn, vì nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh, thích ở trong sinh tử để giáo hóa đồng loại, nên thọ lấy thân thỏ này.

Khi ấy, Tiên nhân nghe lời thỏ nói như vậy, tâm rất hoan hỷ, được điều chưa từng có, liền thưa:

-Tôi nay may mắn được gần gũi bậc Từ bi giáo hóa, mong ngài thương xót chỉ dạy, chớ từ chối việc làm nhọc sức này.

Trải qua nhiều năm gần gũi, tình thân hữu giữa vị Phạm chí và thỏ chúa càng thêm thắm thiết, cùng ăn cỏ cây, uống nước suối như thỏ không khác.

Thuở đó, dân chúng thường làm điều tà vạy, phi pháp, quen tạo tội lỗi, phước thiện suy kém nên thiện thần xa lánh, tai họa dồn dập nổi lên. Cộng nghiệp chiêu cảm nên trời đại hạn, đã mấy năm không mưa khiến cỏ cây cháy khô, nguồn suối cạn kiệt.

Bấy giờ, Bà-la-môn thầm nghĩ: “Năm nay ta đã già, lại gặp lúc thực phẩm thiếu thốn, nếu cứ ở đây mãi thì chỉ tăng thêm sự đói khát.” Bèn nói với thỏ chúa:

-Tôi nay xin tạm rời chỗ này tìm đến chốn khác, may ra khỏi thấy cảnh khô hạn ở đây!

Thỏ chúa liền đáp:

-Đại tiên hiện không còn thích ở nơi này, nếu thật có điều gì xúc phạm xin Đại tiên dung thứ, tình nghĩa mật thiết bấy lâu, nay bỗng thành xa cách!

Bà-la-môn nói:

-Cảnh u tịch này dứt được những hoạn nạn, tội lỗi, rất thích hợp với quý ngài, vì không ai xâm phạm, nhiễu hại. Chỉ riêng tôi thì không có người giúp đỡ, thiếu thốn thực phẩm. Từ lâu, nương theo Đại sĩ được hưởng pháp vị, những pháp yếu đã thọ giáo trọn đời ghi chứa trong tâm, nguyện sẽ lưu truyền rộng rãi để cứu giúp mọi chúng sinh. Tôi đã hoàn toàn không ăn uống trải qua cả tuần, sợ mạng sống không bảo đảm, uổng công tu học bây nay.

Thỏ chúa nghe qua cảm động, nghẹn ngào, nói không thành lời:

-Chúng ta ngày nay xa nhau biết khi nào được gặp lại. Xin đại tiên nán thêm một đêm, thọ sự cúng dường đạm bạc để tỏ lòng thành kính với nhau.

Khi ấy, thỏ chúa bảo bầy thỏ:

-Đại tiên này đạo lực vững chắc, là bậc Thiện tri thức, là ruộng phước tôi thượng. Các ngươi nên cùng nhau hợp sức tìm nhiều củi khô, giúp ta nấu thức ăn cúng dường bữa sáng.

Rồi thỏ chúa đến chỗ Đại tiên thưa:

-Cúi xin Đại tiên sáng sớm ngày mai, dù sao cũng nhận lời thọ thỉnh của tôi.

Đại tiên nhận lời, nhưng trong lòng luôn suy nghĩ:

-Hiện tại thỏ chúa có lẽ tìm được những gì chăng? Hoặc là được nai chết, hoặc là gặp thịt thú còn thừa, nên mới vui mừng mời ta như vậy.

Đêm ấy thỏ chúa nói với các đồng loại:

-Ngày nay Đại tiên sắp rời chúng ta ra đi, sự vô thường, biệt ly là điều luôn xảy ra ở thế gian, thọ mạng của chúng sinh như trò huyễn thuật, quả báo một khi đến thì không thể nào tránh khỏi. Vậy các ngươi phải siêng năng tinh tấn cầu đạo giải thoát, nhổ sạch gốc rễ đau khổ.

Trọn đêm hôm đó thỏ chúa không ngủ, vì chúng đồng loại thuyết giảng pháp yếu.

Tờ mờ sáng, thỏ chúa đến chỗ chất đông củi dùng lửa mồi vào, lửa từ từ rồi bốc cháy ngùn ngụt. Thỏ chúa lại bạch với Đại tiên:

-Theo lời mời của tôi hôm qua, giờ đây sắp dâng món cúng dường nhỏ mọn, đã sắm sửa đầy đủ, xin Đại tiên chịu khó thọ dụng. Vì sao vậy? Vì kẻ trí đã chứa nhóm của cải để bố thí, kẻ thọ thí phải thương tưởng thí chủ mà thọ dụng. Ta nay nghèo cùng, làm việc bố thí rất khó, cúi xin nhân giả nạp thọ. Ta muốn khiến cho Đại tiên được vui vẻ an lạc, nên tự xả thân mình không luyến tiếc. Nguyện đem công đức này hồi hướng về khắp tất cả chúng sinh đồng chứng đạo quả Giác ngộ Vô thượng.

Thỏ chúa nói lời ấy rồi thì lao mình vào đống lửa. Lúc đó, Tiên nhân thấy việc như vậy, vội vã đến bên đống lửa quờ quạng cứu thỏ. Thân thỏ yếu đuôi, chỉ trong nháy mắt thì bỏ mạng. Đại tiên cầm thân thỏ để trên đầu gối, không sao ngăn được nỗi đau buồn, than:

-Đau lòng thay! Đại sĩ đã sốt sắng hy sinh mạng mình để cứu thân người khác như thế này. Ta nay kính lễ, tôn ngài là bậc ta quy y, nguyện đời sau ta được làm đệ tử.

Phát lời thề nguyện này rồi, bèn để thi hài thỏ trên đất, đầu mặt sát đất đảnh lễ. Đại Tiên lại ôm thỏ vào lòng, lập tức cùng xác thỏ chúa nhảy vào đống lửa.

Lúc đó trời Đế Thích dùng Thiên nhãn từ xa trông thấy, liền đến nơi đống lửa, dùng các thứ vật báu xây tháp, thiết đại lễ cúng dường.

Đức Phật bảo chư Tỳ-kheo:

-Vị Tiên nhân ngày ấy nay là Bồ-tát Di-lặc, còn thỏ chúa bấy giờ chính là thân Ta.

***

Duyên Khởi 7:TÂM TỪ CỦA LONG VƯƠNG HÒA GIẢI MỐI THÙ SÁT HẠI

Bồ-tát thuở xưa vì nhân duyên sân hận, nên bị đọa vào loài rồng có ba thứ độc: Một là khí độc, hai là con mắt độc và ba là vảy độc. Lại do diệu lực từ phước báo của biệt nghiệp nên thân như một khối bảy báu, đủ các màu sắc, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng, mà tự thân luôn chiếu sáng. Thường cùng với vô lượng trăm ngàn rồng quyến thuộc vây quanh, biến hiện thành thân người dung mạo tuấn tú. Rồng sông nơi chôn thâm u tịch mịch, tận trong núi Tỳ-đà, nơi có nhiều rừng rậm, hoa quả sum suê, ao hồ nước trong vắt, là cảnh an nhàn thật đáng yêu thích. Long vương thường cùng các long nữ ca múa vui vầy, sống trong cảnh ấy, như thế qua vô lượng trăm ngàn vạn năm.

Bỗng nhiên một hôm nọ, có một Đại bàng cánh vàng chúa xuất hiện, bay vòng đảo liệng nơi hư không, rồi đáp xuống muốn bắt các loài rồng dùng làm thức ăn. Đương lúc chim Đại bàng bay đến, luồng gió từ hai cánh tung ra làm đổ non vỡ đá, khiến sông ngòi, suối lạch tất cả đều cạn khô. Các rồng và long nữ thấy việc như vậy, nên hết sức lo sợ, cả người run rẩy khiến bao nhiêu thứ anh lạc trang sức trên thân đều rớt xuống đất, cùng nhau than thở:

-Ngày nay gặp phải đại oan gia này, miệng nó cứng như kim cương, mổ đến vật nào thì vật đó thảy tan nát! Nay nó sắp đến ăn thịt chúng ta, chúng ta làm thế nào đương đầu được?

Lúc ấy, Long vương nghe qua, rất đỗi lo âu, phiền muộn. Nhờ đời trước Long vương đã từng gieo trồng căn lành, lại biết tư duy nên tâm không sợ sệt, nghĩ rằng: “Đại bàng cánh vàng này tuy có đủ uy lực lớn, nhưng chỉ một thân ta cũng đủ chống cự. Rồi bảo các rồng:

-Các ngươi chỉ nên theo núp sau ta thì nhất định sẽ không bị tổn hại. Nếu ta không bảo vệ được bằng hữu, quyến thuộc thì cái thân to lớn này dùng để làm gì?

Bấy giờ, Long vương đến chỗ Đại bàng cánh vàng, tâm không khiếp sợ nói với Đại bàng:

-Xin người bình tĩnh một chút để cùng ta bàn luận việc này: Người đối với thân ta thường sinh oán thù, sát hại, nhưng ta với nhân giả hoàn toàn không có ý nghĩ này. Vì nghiệp ác từ đời trước chiêu cảm, nên mới có thân to lớn này, tuy có đủ ba loại khí, mắt, vảy, đều độc, nhưng chưa từng dùng ba độc ấy làm hại kẻ khác. So về sức lực ta có thể cùng người đối địch, cũng có thể lánh xa khiến người không thể trông thấy. Nay ta sở dĩ không bỏ đi, vì có nhiều rồng nương cậy bên ta. Vì vậy ta không muốn cùng người giao chiến. Do đó, đôi với người ta không hề khởi tâm oán thù.

Đại bàng cánh vàng nói:

-Ông đôi với ta thật không có tâm oán thù chăng?

Long vương đáp:

-Ta tuy mang thân loài thú, nhưng hiểu rõ luật nhân quả nghiệp báo, đối với nhân ác dù nhỏ mà nhận lấy quả báo rất nặng, như bóng với hình không bao giờ rời nhau. Ta và ông đều bị đọa vào nẻo ác, đều do đời trước tạo nhân tội lỗi. Ông phải nhớ nghĩ đến giáo pháp của Đức Như Lai đã dạy: “Không thể lấy tâm oán thù để hóa giải mối thù oán, chỉ khởi tâm Từ bi, nhẫn nhục, thì oán thù mới có thể trừ diệt. Thí như đống lửa, bỏ thêm củi khô vào thì lửa càng cháy mạnh, không bao giờ dừng. Đem sân hận đáp lại sân hận lý đó như vậy .

Đại bàng cánh vàng khi nghe lời nói này, thì tâm oán thù liền dứt, tâm thiện phát sinh, lại hướng về Long vương nói:

-Nay ông đã có thể dùng diệu lực của từ bi nhẫn nhục, dứt được lòng sân hận của tôi, như múc nước suối tưới vào đống lửa, khiến tâm tôi liền được thanh tịnh, mát mẻ.

Long vương lại nói:

-Thuở xa xưa vô lượng kiếp, tôi với ông ở chỗ Đức Phật cùng thọ học giới pháp, do tâm của chúng ta không thanh tịnh, lại chẳng kiên trì, ưa cầu danh tiếng sinh ra ganh tỵ, oán ghét lẫn nhau. Vì nhân duyên đó chúng ta bị đọa vào cõi ác, ta thường tỏ bày sám hối nên nay vẫn nhớ, còn ông do che giấu nên nay quên mất. Ông nay phải nghĩ nhớ tới chánh niệm ban đầu, phát tâm Từ bi nhẫn nhục, tu tập phạm hạnh thanh tịnh.

Đại bà nơ cánh vàng lại nói:

-Ta từ hôm nay xin ban cho tất cả loài rồng niềm vui an ổn, khỏi phải sợ sệt.

Nói rồi liền rời Long cung, trở về chỗ ở của mình.

Long vương đem lời an ủi các rồng quyến thuộc, lại hỏi các

rồng:

-Các ngươi thấy Đại bàng cánh vàng có sợ không?

Các rồng đều đáp:

-Hết sức sợ.

Long vương nói:

-Chúng sinh nơi thế gian, nếu thấy các ông thì họ sợ hãi cũng như vậy. Này các rồng, các ông quý mến thân mạng mình cùng với chúng sinh nơi thế gian quý mến thân mạng họ đều giống nhau không khác, phải xét bụng ta suy ra bụng người. Do vậy các ông phải phát tâm đại từ bi. Ta do nhân duyên tu tập từ bi nên đã khiến cho kẻ oán thù kia trở về chỗ ở của họ.

Chỗ nương tựa cho tất cả các loài chúng sinh luân chuyển trong sinh tử đều không thể vượt bỏ tâm Từ. Tâm đại Từ cũng như lương dược chữa lành bệnh nặng phiền não của chúng sinh. Tâm đại Từ cũng như ngọn đèn sáng chiếu soi xua trừ bóng tối nơi ba độc của chúng sinh. Tâm đại Từ cũng như thuyền bè đưa chúng sinh vượt qua bể khổ trong ba cõi. Tâm đại Từ như người bạn đồng hành, giúp ta vượt khỏi con đường ác sinh tử hiểm nạn. Tâm đại Từ như viên ngọc Ma-ni, làm thỏa mãn sở nguyện hợp lý của chúng sinh.

Ta do từ thuở xua xưa bỏ mất tâm Từ, bị đọa trong loài rồng này, không được giải thoát. Nếu chúng sinh nào tạo dựng được cửa từ bi, thì có thể làm phát sinh vô lượng pháp thiện, ngăn lấp tất cả bóng tôi ngu si, các duyên phiền não bên ngoài cũng không vào được, thường sinh trong nhân gian hay trên cõi trời giải thoát, an lạc.

Các rồng quyến thuộc nghe lời này rồi, đều từ bỏ sân hận, phát khởi tâm Từ. Long vương thấy chúng đồng loại nghe lời giáo hóa của mình, nên vui mừng nói:

-Hay thay! Việc làm của ta ngày nay đã hoàn tất, đã khiến cho các ông trừ được vô lượng độc ác, đem tất cả pháp lành, thanh tịnh rải khắp nơi đây. Lại vì các ông, ta sẽ nói pháp Bát quan trai thanh tịnh cần phải vâng giữ.

Chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề dùng nước của tám giới này rửa sạch thân tâm khiến được thanh tịnh, đoạn trừ vô lượng cấu uế của tham, sân, si. Tám giới này là hành trang trên con đường đi tới cõi trời, người. Nếu ai giữ được tám giới pháp bát quan trai, phải biết người ấy không mặc y phục sang trọng mà đã có đầy đủ áo hổ thẹn. Nên biết người này không có tường thành mà có thể chống ngăn được giặc thù sáu căn. Nên biết người ấy tuy không phải là dòng dõi quý tộc mà đã ở trong tộc họ Hiền thánh. Nên biết người này tuy không có chuỗi báu anh lạc mà đã có đầy đủ pháp lành trang nghiêm nơi thân. Nên biết người ấy tuy không có châu báu mà đã tích tập đủ bảy thứ pháp tài của cõi trời, người. Nên biết người này không nhờ vào cầu cống mà đã vượt qua được con đường nguy hiểm. Công đức của việc thọ trì tám giới là như vậy.

Khi ấy, các rồng đồng thưa Long vương:

-Ngày nay chúng tôi muốn được nghe tám giới để siêng năng tu tập…

Long vương nói:

-Tám giới đó, một là không được sát sinh, hai là không được trộm cướp, ba là không được tà dâm, bốn là không được nói dối, năm là không được uống rượu, sáu là không được ăn sau giờ ngọ, bảy là không được nằm giường cao rộng lớn, tám là không được trang điểm phấn son, ca múa ca nhạc theo thế tục. Đó là tám giới pháp quan trai thanh tịnh, cốt yếu phải xa lánh nơi ồn ào, ở chỗ thanh vắng, tâm ý chuyên chú theo đúng như lý mà giữ gìn.

Các rồng cùng thưa:

-Như đám chúng tôi chỉ xa đại vương một thời gian ngắn, tâm không được an ổn, nhờ nương nơi uy thần của đại vương mà không bị phiền não, trong tất cả các thời lúc nào cũng được an ổn.

Chúng lại hỏi:

-Công đức diệu lực của Phật pháp, ở chỗ nào chẳng được, cần gì phải tìm nơi thanh vắng?

Long vương bảo các rồng:

-Không thấy cảnh dục thì tâm niệm không khởi, vì tập quán duyên vào đối tượng mà phát khởi, ví như đất ướt thì dễ thành bùn. Nếu ở chỗ thanh vắng, thì tâm nhiễm không động.

Lúc ấy, Long vương đem bằng hữu quyến thuộc đến ở nơi khu rừng thâm u, rộng rãi trong núi. Xa lìa tâm tham dục sân hận, thường lấy từ bi nhẫn nhục để tự tu thân, giữ gìn trai giới, trải qua nhiều ngày hạn chế ăn uống, nên thân gầy ốm sinh ra mỏi mệt.

Vào một hôm nọ có đám người ác tìm đến tại chỗ ở của các rồng, Long vương nghe được tiếng người liền tỉnh ngộ. Đám người ác này thấy Long vương thân hình như vậy nên rất đỗi kinh ngạc, nói với nhau: Khôi báu gì đây từ dưới đất trồi lên chăng?

Long vương tự nghĩ thầm: “Nếu để đám người này thấy nguyên hình của ta tức thời sợ hãi đến chết, thế là ta phạm giới sát hiện đang tu tập thọ trì. Những người ác này hôm nay đến đây, chắc chắn là tham muốn nơi ở thân ta, họ sẽ giết ta.”

Các người ác lại cùng nhau bàn luận:

-Chúng ta vào trong núi trải qua nhiều năm, chưa từng thấy hình tượng như thế này, các màu sắc xen nhau, ánh sáng chói lòa cả mắt. Nếu được lớp da bên ngoài dâng lên nhà vua thì chắc chắn sẽ được trọng thưởng, không gì sung sướng bằng. Tức thì cả đám dùng dao bén mổ thân Long vương nhằm lột lấy lớp da.

Bấy giờ Long vương do sức của tâm Từ bi, nhẫn nhục, nên không dây chút oán hận, lại cũng mất hết đau đớn, đối với đám người này Long vương chỉ khởi tâm thọ nhận nên ba độc đều tiêu diệt. Tâm tự an ủi là chẳng nên lẫn tiếc, dù cho kẻ thù đến giết ta, ta cũng không bỏ đi. Huống chi hôm nay những người này thấy thân ta nên khởi tâm tham tiền thưởng nơi nhà vua mà giết ta, ta thà chịu chết chứ không hại lại họ, chẳng khiến những kẻ ấy thân hiện tại phải chịu khổ. Các người ác lúc đó như càng phấn khích, sức lực thêm mạnh mẻ, cầm dao bén cắt tấm da mang đi.

Sau đó Long vương tự suy nghĩ: “Giả sử có người vô tội bị kẻ khác phanh thây, đã nhẫn nhục chịu đựng không sinh tâm báo thù, không dấy tâm oán giận, thì nên biết người này là bậc Đại sĩ. Nếu đối với cha mẹ, anh em, vợ con có thể im lặng nhận chịu, trường hợp này chưa đủ là quý. Như đối với kẻ oán thù giết hại mình, mà tâm không khởi niệm báo thù, chỉ im lặng chịu đựng, trường hợp này mới là rất khó. Nhưng ta nay tu hạnh lợi tha nên im lặng chịu đựng. Ta nghĩ từ vô số kiếp sinh tử cho đến giờ, đã biết bao lần xả bỏ thân mạng một cách uổng phí, chưa từng lần nào bố thí riêng biệt cho một người. Nguyện đời sau sẽ bố thí cho đám người này vô lượng pháp tài, để nguyện ta được viên mãn.”

Lúc ấy Long vương đã bị lột da rồi, khắp mình máu túa đầy đau nhức vô cùng, không thể kìm chế được nên cả thân run rẩy, lại có vô số loài sâu trùng nghe mùi máu liền tìm đến rúc rỉa. Long vương lại nói:

-Những loại sâu trùng này ngày nay ăn thịt ta, nguyện đời sau sẽ bố thí pháp thực cho chúng.

Bấy giờ, các rồng quyến thuộc thấy thân của Long vương chịu sự đau khổ như vậy, thảy đều buồn bã áo não. Long vương phát nguyện:

-Nếu vào đời vị lai ta sẽ thành Phật thì khiến thân ta tức khắc bình phục như cũ.

Phát nguyện xong thì thân tự nhiên trở lại như trước. Các rồng quyến thuộc đều hết sức vui mừng.

Đây là việc làm của Bồ-tát ở trong cõi ác, dùng diệu lực nơi từ bi nhẫn nhục, kiên trì tịnh giới, chịu khổ như vậy.

***

Duyên Khởi 8:VUA TỪ LỰC CHÍCH MÁU THÂN MÌNH BỐ THÍ CHO NĂM QUỶ DẠ-XOA

Bấy giờ, Đức Thế Tôn an cư kiết hạ tại tinh xá Kỳ hoàn, thuộc nước Xá-vệ. Sau giờ ngọ trai xong, Tôn giả A-nan-đà thâu cất bát của Phật, rồi cùng các Tỳ-kheo vào trong rừng đi kinh hành. Xong, lại theo thứ lớp an tọa và cùng nhau đàm đạo:

-Ngày nay Đức Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời là điều rất đặc biệt, là sự hy hữu bậc nhất, đối với chúng sinh đã tạo nhiều lợi ích. Nay, năm vị Đại Tỳ-kheo như Kiều-trần-như… là bậc Thượng thủ, sau khi Đức Phật thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, các vị ấy là người gặp Phật đầu tiên. Vậy các vị ấy vốn đã gieo căn lành gì? Có nhân duyên gì mà khi Đức Phật chuyển pháp luân nơi vườn Lộc dã liền được chứng ngộ, mới đánh trống pháp mà các vị ấy đã nghe trước, Địa thần từ dưới đất vọt lên báo tin cho các thần Hư không, cho đến chư Thiên đều chứng kiên và nói: “Kiều-trần-như đã hiểu rõ Phật pháp”?

Thảo luận như vậy rồi liền rời chỗ ngồi trở về tinh xá, đem mọi sự như trên bạch lên Đức Phật.

Khi ấy Đức Như Lai nói với Tôn giả A-nan:

-Điều ông ấy hỏi không phải là không có nhân duyên. Từ thời xa xưa Như Lai đã từng thương xót các vị ấy, từng chích máu nơi thân mình giúp họ trừ đói khát, cứu mạng sống khiến được an lạc. Do nhân duyên đó, nên trong đời này họ theo Ta nghe pháp trước tiên và được tỏ ngộ.

Tôn giả A-nan lại bạch Phật:

-Mong Đức Thế Tôn đem việc này khai thị cho những người chưa được nghe, khiến cho tất cả chúng hội tâm đều được thư thái.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Vào thuở xa xưa, cách đây vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, tại cõi Diêm-phù-đề này có một quốc vương tên Từ Lực, là người phước đức, trí tuệ gồm đủ, danh tiếng đồn khắp, tướng mạo đoan nghiêm, oai thần không ai sánh kịp, có hai vạn quần thần giúp việc trị quốc, thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, hậu phi quyến thuộc có đến mười ngàn… Vua Từ Lực đã được gặp chư Phật từ đời trước, vốn đã vun trồng các căn lành, thích tu hạnh từ bi, nhân từ, khoan dung, hòa nhã. Đối với chúng sinh nhà vua luôn đem lại mọi sự an lạc, lại khởi tâm Bi giúp đỡ kẻ nghèo khó, hễ có chúng sinh nào đau khổ đều được vua cứu độ. Nhà vua lại sinh tâm hoan hỷ, tôn kính các bậc Hiền thánh, thường dùng lời thân thiện khiến mọi người nghe đều được vui vẻ. Lại khởi tâm xả bỏ không sinh thương ghét, đối với của cải hay thân mạng không hề keo kiệt, đem tâm bình đẳng đối với chúng sinh xem như con mình. Nhà vua thực hành bốn pháp bình đẳng như vậy, ở trong nhiều kiếp chưa từng biếng trễ thoái chuyển.

Nhà vua lại đem mười điều lành giáo hóa quần thần dân chúng, ai nấy cũng đều vâng lệnh giữ gìn sự thanh tịnh, nên quốc gia an ổn, muốn dân hưởng cảnh thái bình.

Đối với loài quỷ gây tật bệnh và quỷ Dạ-xoa thường ăn uống máu, gây khổ não cho dân chúng, giờ đây mọi người đều tu mười điều lành, ba nghiệp thân ngữ ý được thanh tịnh, các tai họa đều tiêu trừ, chư Thiên, Thiện thần thường hộ trì, dầu có tà mị, ác quỷ và các hung thần ôm lòng làm tổn hại muốn dân đều không có cơ hội thuận tiện. Lúc ấy, có năm quỷ Dạ-xoa đến vương cung đồng tâu:

-Chúng tôi đều nhờ khí huyết nơi muốn dân để nuôi thân mạng. Do nhà vua chỉ dạy dân chúng tất cả đều tu theo mười điều lành, lũ chúng tôi từ đó đến nay không có thức ăn uống, đói khát khốn khổ, thật vô phương sinh sống. Đức từ bi của đại vương là cứu giúp tất cả khổ của chúng sinh, riêng phần chúng tôi, ngài chẳng ban ân huệ gì cả.

Nhà vua nghe lời nói ấy thì hết sức thương xót đám Dạ-xoa kia, liền tự thầm nghĩ: “Đám Dạ-xoa chỉ uống máu người để sống, làm thế nào để thỏa mãn chỗ mong muốn của chúng? Chỉ phải hy sinh thân ta thì mới cứu được mạng sống của họ mà thôi”.

Rồi nhà vua bèn chích năm chỗ nơi thân mình, máu từ đó phun ra, năm quỷ Dạ-xoa liền đem vật dụng đến hứng uống. Quỷ Dạ-xoa đã được no nê nên rất vui vẻ. Đại vương nói với chúng:

-Ta đã dùng máu nơi thân mình để cứu mạng sống cho các ngươi, nếu được no nê rồi, ta không đòi hỏi điều gì, chỉ mong các ngươi tu tập mười điều lành, đó là báo ân ta, nguyện vào đời vị lai, khi ta thành Phật, đầu tiên thuyết pháp sẽ độ các ngươi trước, dùng vị cam lộ trừ sạch ba độc cùng diệt các thứ đói khát là dục vọng khiến các ngươi được thanh tịnh.

Đức Phật bảo A-nan:

-Vua Từ Lực thuở xưa đâu phải người nào khác, chính là thân Ta. Năm quỷ Dạ-xoa lúc đó, nay là năm Tỳ-kheo nhóm ông Kiều- trần-như trong chúng hội này. Do diệu lực từ bản nguyện của Ta thời trước, nay Ta thành Phật, chuyển pháp luân đầu tiên nơi vườn Nai, năm Tỳ-kheo nhóm ông Kiều-trần-như là người trước tiên tỏ ngộ chánh pháp, dứt sạch cội gốc các khổ, chứng quả A-la-hán. Từ đó mới bắt đầu có đủ Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng xuất hiện ở đời.

Đại chúng nghe lời Phật dạy, thảy đều vui mừng, lễ Phật và lui ra về.

***

Duyên Khởi 9:NÊU RÕ DIỆU LỰC CỦA SỰ BỐ THÍ ÍT

Đức Phật hiện trú tại tinh xá Kỳ hoàn, thuộc khu lâm viên Kỳ- đà, Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, gồm đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo. Bấy giờ, trong nước có một thương chủ cùng với năm trăm thương khách, muốn chèo thuyền lớn vào biển cả để tìm châu báu. Lúc đó, thương chủ phát tín tâm thanh tịnh, nhằm thiết trai cúng dường Đức Phật và chư Tăng để cầu phước gia hộ, nên đến chỗ Đức Phật chí thành thưa thỉnh. Đức Như Lai biết trước nên im lặng nhận lời.

Vào buổi sáng, tại nhà mình, thương chủ dâng các món ăn đều là loại thượng vị, để tỏ lòng thành kính cúng dường. Đức Phật thọ trai xong, trải tòa ngồi, vì thương chủ thuyết pháp, tán dương công đức của hạnh bố thí, chỗ cảm ứng như ý nguyện, ruộng tâm đầy đủ sự thù thắng nên gieo nhân ít mà đạt kết quả nhiều. Thương chủ nghe pháp, tâm được tỏ ngộ, lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải rồi lui ra đứng một bên.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì thương chủ nên giảng nói:

-Muốn vào biển cả, ở đó luôn có nhiều nguy hiểm đại nạn, nên trước hết ông phải quy y và chuyên niệm Tam bảo, thọ trì năm giới làm người Ưu-bà-tắc thì điều mong cầu mới được toại nguyện, đi tới nơi về đến chốn an ổn.

Thương chủ nghe Đức Phật thuyết pháp, ân cần lễ Phật, xin thọ năm giới.

Đức Phật bảo:

-Phải khéo suy nghĩ, lắng nghe ghi nhớ! Năm giới là:

1. Không được giết hại sinh mạng.

2. Không được trộm cắp.

3. Không được tà dâm.

4. Không được nói dối.

5. Không được uống rượu.

Ông phải giữ lấy năm điều này, trọn đời không được hủy phạm. Được như vậy gọi là người Ưu-bà-tắc.

Do thương chủ này đã vun trồng cội phước đức từ trước, nên thông minh, trí tuệ sáng suối, biết được sóng gió thời tiết tốt xấu, nên các khách buôn mời làm người hướng đạo, được mọi người quý trọng tôn xưng là Hiền giả. Mọi người sắm đầy đủ lửa củi, lương thực, chọn ngày lành tập trung các thương khách đồng đi vào biển cả.

Ra đi được vài ngày thì phong ba nổi dậy, thần biển biến hiện thành một Dạ-xoa, hình dạng xấu xí, hung dữ, da đen sậm, răng nhọn hoắc nhô ra ngoài miệng, trên đầu mỗi răng đều bốc lửa, từ dưới sóng vọt lên, kéo thuyền không cho chạy, hỏi các khách buôn:

-Người trong thế gian đã từng thấy ai đáng sợ hơn ta?

Lúc ấy, Hiền giả thấy hình dạng quái lạ, nhưng chỉ nhất tâm niệm Tam bảo, nhờ Phật lực gia hộ, nên không sợ sệt, bèn lớn tiếng đáp lại:

-Ta đã từng thấy kẻ cực ác hơn ông gấp bội.

Thần biển hỏi:

-Ai vậy?

Hiền giả đáp:

-Ở đời có kẻ ngu si thường làm những điều bất thiện, tạo tác mười điều ác, chìm đắm trong tà kiến, sau khi chết bị đọa vào địa ngục chịu vạn thứ đau khổ, ngục tốt La-sát nắm lấy các tội nhân ấy trị phạt đủ các thứ: Hoặc lóc da, hoặc cắt thịt, hoặc giã, hoặc xay, hoặc chẻ thân tội nhân làm thành trăm ngàn phần, hoặc bắt trèo lên núi đao rừng kiếm, hoặc ở trên xe lửa cháy đốt nướng. Hoặc ở trên băng lạnh, hoặc ở chỗ đại tiểu tiện… Khổ sở như vậy trải qua trăm

ngàn kiếp, điều đó mới đáng sợ hơn ông.

Thần biển bèn im lặng ẩn thân mà đi.

Thuyền từ từ tiến về phía trước được vài ngày, thần biển lại hiện thân thành người hết sức ốm yếu, da bọc lấy xương, hơi thở khò khè, cấp bách, bám vào mạn thuyền, hỏi thương chủ:

-Ông đã từng thấy ai trên thế gian ốm yếu, tiều tụy như ta chăng?

Hiền giả đáp:

-Lại có kẻ khô gầy tiều tụy quá hơn ông.

Thần biển hỏi:

-Ai vậy?

Hiền-giả đáp:

-Có người ngu si, tâm tánh xấu ác, bỏn sẻn, tham lam ganh ghét không biết bố thí, sau khi chết bị đọa vào loài ngạ quỷ, đầu như Thái sơn, cổ như cây kim, đầu tóc dựng ngược bờm xờm, hình dáng cháy đen, trải qua nhiều kiếp lâu dài chưa từng nghe đến danh từ cơm ăn, nước uống. Ốm yếu như thế còn hơn ông nhiều.

Thần biển nghe vậy bèn bỏ thuyền, ẩn thân mất.

Thuyền lại từ từ rẽ sóng tiến lên. Qua được vài ngày, thần biển lại hiện làm một nam nhi, tuổi tác còn niên thiếu, dung mạo hết sức đoan nghiêm, từ dưới nước vọt lên, kéo thuyền, hỏi thương chủ:

-Người từng thấy ai tuổi trẻ sức lực hơn ta không?

Hiền giả đáp:

-So với dung mạo của ông, thì có người tươi đẹp hơn ông trăm vạn lần.

Thần hỏi:

-Ai vậy?

Hiền giả đáp:

-Thế gian có người trí, vâng giữ mười điều lành, ba nghiệp thân ngữ ý luôn được thanh tịnh, hết lòng tin Tam bảo, tùy thời cúng dường. Người này mạng chung sinh lên cõi trời, hình dung đẹp đẽ, trong thế gian không ai sánh bằng. Đem hình dạng của ông so với người ấy, khác nào đem loài khỉ cái mù lòa so với tiên nữ.

Thần biển nghe nói như vậy, lấy làm hổ thẹn, im lặng và thầm nghĩ: “Nay thương chủ này tri thức quảng bác, thông hiểu mọi việc, khéo giảng nói luật nhân quả, báo ứng một cách rõ ràng, nay ta đem một việc rất gần thử hỏi xem sao.” Thần biển liền dùng bàn tay phải vớt một vốc nước, lại hỏi thương chủ:

-Nước trong tay ta nhiều hay nước trong biển cả nhiều?

Hiền giả đáp:

-Nước trong tay ông nhiều, nước trong biển cả ít.

Thần biển gạn hỏi:

-Việc rõ ràng trước mắt, lời nói của ông hôm nay thật khó tin.

Hiền giả đáp:

-Lời nói này là chân thật, quyết định không sai lầm, chỗ hiểu biết của thế gian không thể lãnh hội được.

Thần biển hỏi:

-Lấy gì chứng minh điều đó?

Hiền giả đáp:

-Nước biển tuy nhiều nhưng có ngày cũng phải khô cạn. Khi thế giới đến thời kỳ hoại diệt, thì cõi Tam thiên đại thiên đều hoại, núi Tu-di, biển cả đều tan vỡ, tiêu diệt không trừ một vật gì. Do đấy nên biết nước biển phải khô cạn. Nếu lại có người đem một vốc nước cúng dường chư Phật, hoặc bố thí cho chúng sinh, hay để phụng dưỡng cha mẹ, hoặc cho kẻ ăn xin, cho đến các loài cầm thú, chính do diệu lực của việc làm lành tuy ít ỏi này, trải qua số kiếp như vi trần, hưởng phước không cùng tận. Do đây ta biết: Nước nơi biển ít mà vốc nước trong tay lại nhiều.

Lúc ấy, thần biển tâm rất hoan hỷ, liền đem các loại ngọc ngà châu báu quý giá tặng cho Hiền giả, cùng gửi các thứ châu ngọc quý dâng cúng Phật và Tăng.

Bấy giờ, các khách buôn đều trở về đất liền, cùng đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ, đem vật báu của thần biển gửi dâng cúng dường Phật, lại đem số châu ngọc đã tặng cho mình bày trước Đức Phật, quỳ mọp, chắp tay bạch:

-Bạch Đức Thế Tôn, chúng con được may mắn là nhờ đức từ bi của Như Lai từ xa gia hộ, nên khi vào biển thoát khỏi tai nạn, được của báu trở về quê nhà, tất cả đều mang ân Đức Phật. Hôm nay chúng con nguyện làm đệ tử xuất gia.

Đức Phật nói: “Thiện lai”, các khách buôn kia liền có đủ tướng Tỳ-kheo, tất cả đều dứt hết các thứ kết sử, chứng A-la-hán.

***

Duyên Khởi 10:NHƯ LAI ĐẦY ĐỦ TRÍ TUỆ KHÔNG GÁNH VIỆC TỐT NGƯỜI KHÁC

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn cùng chúng đệ tử đại Tỳ-kheo, trên đường du hóa dừng chân tại đại thành Vương xá. Bấy giờ, Đức Như Lai từ tòa ngồi đứng dậy, tản bộ trong hư không, hiện những việc chưa từng có: Dưới chân hiển bày tướng bánh xe một ngàn tăm, khoảng giữa các tăm phóng ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, mỗi hoa sen xuất hiện tám vạn bốn ngàn nhụy sen và cánh sen vi diệu. Các hoa sen này thứ tự rải khắp trong mười phương thế giới, trên hoa sen đều có vô lượng chư Phật hết sức nhiệm mầu, dưới chân mỗi vị Phật đều hiển bày tướng tốt đường chỉ bánh xe ngàn tăm.

Trong chúng hội lúc ấy vua Tịnh Phạn trông thấy sự việc như vậy, tâm rất hoan hỷ, hướng về Đức Phật đảnh lễ, năm vóc sát đất, liền chứng được quả A-na-hàm.

Tất cả đại chúng thấy thần thông biến hóa của Đức Như Lai, thảy đều chắp tay bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, chúng con hôm nay được thấy vô số chư Phật khắp mười phương, xem xét tận tường mà không thể hiểu rõ thế nào là Chân Phật? Thế nào là Hóa Phật?

Lúc đó Đức Thích-Ca Như Lai rủ lòng đại bi thương xót khắp chúng hội, liền bảo:

-Chư Phật Như Lai đã nhập vào Tam-muội không tịch xứ giải thoát, tùy ý tự tại. Nhưng hình tướng của Chân Phật hay của Hóa Phật là do tâm của các vị tự thấy đó thôi.

Vì sao? Vì tâm Phật xưa nay là như nhiên rỗng lặng. Lại nương theo pháp định Giải thoát quang minh vương, do diệu lực của Định này mà hóa thành vô biên thân. Vô biên thân là Nhất thiết trí. Nhất thiết trí là định Vô trước. Định Vô trước chính là diệu dụng của Như Lai: Hoặc Như Lai hiện thân đi khất thực, hoặc hiện thân đi kinh hành. Vì hai việc này đem lại lợi ích rất nhiều cho chúng sinh:

Hoặc có thiện nam, thiện nữ khi Phật tại thế, được trông thấy tướng tốt là bánh xe một ngàn tăm bên dưới bàn chân Phật, chí tâm thành kính đảnh lễ, cúng dường, tán thán. Do công đức này họ diệt được nghiệp ác rất nặng trong ngàn kiếp.

Hoặc sau khi Phật diệt độ, bốn bộ chúng an trụ trong thiền định, tưởng nghĩ đến Đức Phật đang tản bộ, sinh tâm cung kính, cúng dường. Cũng do công đức đó mà tội chướng trong ngàn kiếp đều được tiêu trừ.

Ví dù không ở trong thiền định để tưởng niệm, thì hoặc chiêm bái các Phật tích, hay dùng xe hoa rước tượng Phật, đem tâm hoan hỷ tùy sức cúng dường thì chỗ phước báo đạt được chẳng thể cùng tận.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Như Lai từ thời xa xưa, trải qua vô số kiếp đến giờ luôn đem tín tâm thanh tịnh cung kính đối với tất cả. Thấy chỗ tu tập diệu hạnh thù thắng kia thì luôn sinh tâm tùy hỷ, xưng tán, mong muốn khiến được tăng trưởng tốt đẹp. Cho đến dù là một hào ly phước đức nhỏ nhặt, chưa từng dấy tâm ganh tỵ đối với điều thiện của kẻ khác. Do công đức này, ngày nay Ta được phước báo thù thắng.

Lại nữa A-nan, sau khi Ta diệt độ, các đệ tử muốn tạo tượng Phật, phải tạo thật đầy đủ các tướng tốt, cho đến vẽ các đường chỉ trong hình bánh xe ngàn tăm nơi lòng bàn chân và chư Hóa Phật hiện ra chung quanh trong hào quang nơi thân Phật, khiến cho tất cả chúng sinh đời vị lai chiêm ngưỡng tướng hảo của Phật, sẽ được nhiều điều tốt đẹp như ý, những tội nặng chứa nhóm từ lâu đều được tiêu diệt.

Này các Tỳ-kheo, phải siêng năng suy nghĩ đúng chân như ý mà thực hành.

Đức Phật nói lời ấy rồi lại trở về bổn tòa.

Khi đó, vua Tịnh Phạn liền rời chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, ngày nay Đức Phật xuất hiện ở đời tạo được thuận lợi gì để có thể khiến chúng sinh đạt được an lạc?

Đức Như Lai ôn tồn nói với phụ vương:

-Trưởng giả Tu-đạt người thành Xá-vệ trong nhà có một bà già tên Tỳ-đê-la siêng năng giữ gìn gia nghiệp, nên luôn được Tu-đạt tin dùng, ủy thác các việc thu chi, thọ nhận hay cho ai vật gì.

Một hôm, trưởng giả thỉnh Phật và chư Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Trong đại chúng có một Tỳ-kheo bị bệnh nên đòi hỏi nhiều việc. Bà già bỏn sẻn tiếc của, sinh giận dữ, ý chẳng muốn cung cấp, nên nói:

-Đại trưởng giả nhà ta bị tà thuật của Sa-môn, các người khất thực đó đòi hỏi quá nhiều không biết nhàm chán, lại có đạo như thế sao?

Rồi bà ta lại buông lời độc ác:

-Không biết khi nào thì khỏi phải nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, khỏi phải thấy đám người đầu tròn mặc áo hoại sắc?

Tiếng ác này từ một người nghe được rồi lan rộng khắp thành Xá-vệ. Lời hủy báng này lần lần lọt vào tai vương hậu Mạt-lợi phu nhân, khiến phu nhân hết sức buồn bã than:

-Tại sao Tu-đạt đối lòng nhân từ ban ân khắp mọi nơi, như hoa sen đẹp ai cũng ưa thích xem, ngược lại có người giữ của khác nào loài rắn độc!

Phu nhân nói lời này rồi ra lệnh:

-Nói với trưởng giả cho vợ ông đến đây, ta muốn nói chuyện.

Khi vợ trưởng giả đến, Mạt-lợi phu nhân bảo ngồi, rồi nói với bà ta:

-Lão già nô tỳ nhà bà thường dùng lời nói xấu ác hủy báng Tam bảo, thậm chí còn là nguyện không muốn nghe đến tên ba ngôi báu nữa. Sao bà không đuổi nó đi? Ôi tội ấy không gì nặng hơn!

Vợ trưởng giả Tu-đạt tâu với phu nhân:

-Mặt trời Phật xuất hiện trong thế gian soi chiếu phá tan bóng tối ngu si, rất nhiều nơi được thấm nhuần tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Như Ương-quật-ma-la là kẻ đại ác, giết hại đến cả ngàn người lấy ngón tay làm chuỗi, mà Đức Phật còn điều phục được, khiến ông ta phát đạo tâm, huống chi là mụ già nô tỳ này, không đủ để cho phu nhân nhọc sức quan tâm.

Phu nhân nghe nói tâu hết thì sức vui mừng và nói:

-Ta sẽ cho trang hoàng nơi cung vua thật trang nghiêm, ngày mai thỉnh Đức Phật và các vị Tỳ-kheo đến cúng dường, người cho mụ già ấy đến đây ta xem thử thế nào.

Sáng ngày hôm sau, trưởng giả cấp Cô Độc lấy một chiếc bình đẹp đựng đầy ngọc Ma-ni và các thứ ngọc quý khác, sai bà quản gia đem dâng lên nhà vua, phụ vào lễ cúng dường.

Mạt-lợi phu nhân từ xa thấy người tỳ nữ già đến, phu nhân thầm cầu nguyện cho kẻ tà kiến này sẽ nhờ Đức Phật hóa độ. Nếu thấy người này được Đức Phật hóa độ, thì mình quyết được pháp lợi rất lớn.

Vừa đến hoàng cung, Đức Phật đi vào cửa giữa, Tôn giả Nan-đà hầu bên trái, Tôn giả A-nan hầu bên phải, còn La-hầu-la thì theo sau Đức Phật.

Bà già trông thấy Đức Phật và chư Tăng tiến vào, thì hoảng sợ kinh hãi dựng cả chân lông, liền muốn tìm nẻo chạy trốn nhưng không được, đành núp sau cánh cửa. Đức Phật hiện trước mặt bà, khiến cánh cửa trong suốt như gương, bà bèn xoay về hướng Đông, thì thấy Đức Phật ở hướng ấy, cho đến xoay mặt khắp các hướng: Nam, Tây, Bắc, bốn góc và trên dưới đâu đâu cũng đều thấy có Đức Phật. Bà lại dùng tay che mặt, thì ở giữa kẽ nơi mười ngón tay đều thấy có Hóa Phật hiện. Bà ta lại nhắm mắt, nhưng khi mở mắt ra thì cũng lại thấy khắp mười phương thế giới đều có Hóa Phật.

Khi Đức Thích-ca Như Lai thị hiện Hóa Phật thì trong thành Xá- vệ có hai mươi lăm người đàn bà thuộc dòng Chiên-đà-la, năm mươi người đàn bà tà kiến thuộc chủng tộc Bà-la-môn và năm trăm người đàn bà thuộc các chủng tộc khác, tất cả những người đó trước nay đều tin theo tà giáo không tin Phật pháp. Nhưng hôm nay thấy Đức Như Lai vì bà quản gia kia đã hiện ra vô số Hóa Phật đi trên hư không, tâm họ đều hoan hỷ, màn lưới tà kiến dày đặc bấy lâu đã bị phá vỡ nên đều cung kính, đầu mặt đảnh lễ nơi chân Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Phạm âm hỏi những người đàn bà kia:

-Nay các người gọi Ta bằng danh hiệu gì?

Mọi người đáp:

-Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Thích-ca Mâu-ni

Phật.

Đức Phật nói:

-Do các người xưng danh hiệu, chiêm ngưỡng tướng hảo của Như Lai nên sẽ thoát khỏi các tội nơi sinh tử trong tám mươi ức kiếp, cùng khiến phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc ấy, bà quản gia kia, sau khi vừa thấy Đức Phật, liền vụt chạy về nhà, bảo với mọi người:

-Ta nay vừa gặp phải điều xấu ác! Sa-mồn Cù-đàm ở tại cửa cung nhà vua, trước mặt nhiều người đã hiện bày các yêu thuật, thân như núi vàng ròng, mắt đẹp như búp sen xanh, có trăm ức hào quang, không thể diễn tả hết mọi vẻ, sự thiện xảo của Sa-môn trong thế gian này không ai sánh bằng. Các người trẻ tuổi không nên thấy đó lấy làm thích thú.

Nói rồi, bà già bèn chui vào thùng gỗ, lấy nhiều tấm da bò phủ lên bên ngoài, lánh thân nằm núp trong bóng tối.

Khi Đức Thế Tôn sắp trở về tinh xá, Mạt-lợi phu nhân liền đến trước Đức Phật bạch:

-Xin Đức Thế Tôn bỏ ít thời gian, phóng ánh từ quang nhiếp hóa bà lão ấy.

Đức Phật nói:

-Gốc tội lỗi của bà lão ấy quá sâu nặng, vả lại không có duyên với Ta. Bà ấy cùng với La-hầu-la đã nhiều kiếp kết giao bạn bè. Ngày nay Như Lai vì bà ta, hóa hiện đi trên hư không, là nhằm để diệt trừ tội chướng trong nhiều kiếp.

Rồi Đức Phật trở về Kỳ-viên bảo La-hầu-la:

-Tôn giả hãy đến nhà cư sĩ Tu-đạt hóa độ bà lão quản gia ấy.

Một ngàn hai trăm vị đại đệ tử nghe lời Đức Phật dạy, đều tùy hỷ, nguyện cùng đi với La-hầu-la.

Luc ấy, Tôn giả La-hầu-la nương theo uy thần của Đức Phật, nhập pháp định Như ý, lễ Phật và nhiễu quanh chỗ Phật bảy vòng, rồi liền biến thành Chuyển luân thánh vương, một ngàn vị Tỳ-kheo biến thành một ngàn người con của vua Chuyển luân, bảy thứ báu, bốn binh chủng thảy đều đầy đủ. Chuyển luân thánh vương ngồi nơi đài sen báu đặt trên bánh xe bằng vàng đi đến nhà Tu-đạt trụ trên hư không. Thần Dạ-xoa giữ vườn nhà Tu-đạt trông thấy bèn to tiếng xướng lên:

-Thánh vương xuất thế, xua đuổi các người ác, xiển dương pháp lành.

Bà già kia nghe lời ấy thì rất đỗi vui mừng, thầm nghĩ:

-Thánh vương xuất hiện còn hơn chỗ mong cầu của ta, giống như có được ngọc báu Như ý, không một sở nguyện nào là chẳng toại, nguyện ta hôm nay nhất định sẽ thành.

Bây giờ, Thánh vương ngự trên chiếc xe báu, gióng chuông đánh trống, rồi hạ xuống nhà trưởng giả. Bà già nghe, vậy bèn từ thùng gỗ chui ra, đầu mặt sát đất đảnh lễ Thánh vương, tán dương công đức:

-Nay gặp Thánh vương, xin đem pháp thiện nhiếp hóa muốn dân, quyết chẳng phải như sự mê hoặc của Sa-môn.

Thánh vương sai quan Chủ kho báu đến nói với bà già:

-Này cô em, người có phước đức từ đời trước nên được nhà vua yêu chuộng, nay muốn tuyển vào làm Ngọc nữ báu, là một thứ báu của Thánh vương.

Bà già đáp:

-Thân con thấp hèn, bần tiện, bỗng nhiên được Thánh vương quan tâm, lòng thật vui sướng vô cùng, nhưng làm sao con có khả năng làm Ngọc nữ là báu vật của nhà vua?

Lúc ấy, Thánh vương bảo cư sĩ Tu-đạt:

-Bà già quản gia của nhà khanh có đủ các tướng, ta nay muốn sung vào làm ngọc nữ, là một trong bảy thứ báu của nhà vua.

Trưởng giả đáp:

-Dạ vâng, tôi xin bảo người ấy tuân lệnh.

Bà già nghe trưởng giả nói, lòng vui sướng không thôi.

Thánh vương đem châu báu cho bà ta soi mặt, bà thấy dung mạo đoan chánh như điều mình từng mơ ước, chỉ càng thêm hổ thẹn về sự may mắn của mình. Rồi bà thầm nghĩ: “Đám Sa-môn tự cho là có đạo đức, nói lời thương xót suông, hoàn toàn không có hiệu nghiệm. Nay Thánh vương xuất thế đem lại lợi lạc cho chúng sinh rất nhiều, khiến dung mạo già ốm của ta biến thành ngọc nữ của nhà vua.”

Rồi gieo năm vóc sát đất tỏ lòng cung kính lễ tạ.

Khi đó, quan Chủ kho báu tuyên đọc giáo lệnh của Thánh

Vương: Mọi người tu tập theo mười pháp lành, điều phục thân tâm. Bấy giờ, Tôn giả La-hầu-la hiện lại thân như cũ, bà già liền tỏ ngộ, trông thấy đại chúng liền rơi nước mắt khóc lóc thưa:

-Phật pháp thanh tịnh không hề lìa bỏ chúng sinh! Như con là kẻ quá xâu ác mà vẫn còn được độ.

Rồi bà lão ăn năn, tự trách về tội của mình, nguyện dứt trừ mọi lỗi lầm trong quá khứ, lại xin thọ giữ năm giới. Tôn giả La-hầu-la vì bà giảng nói pháp ba quy y và năm giới, bà lão lãnh hội tâm thư thái, an vui, chỉ trong khoảnh khắc đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.

Địa thần từ đất vụt hiện lên nói với trưởng giả Tu-đạt:

-Lành thay trưởng giả! Lưới tà kiến đã được phá tan, Đức Như Lai xuắt thế chính vì việc này.

Sau đó, Tôn giả La-hầu-la đem bà lão về khu lâm viên Kỳ-đà. Đến nơi, bà lão trông thấy Đức Phật, tâm rất vui mừng, cung kính đảnh lễ, phát lời sám hối, nguyện theo như lời Phật dạy, xin được xuất gia. Đức Phật cho người đưa bà đến trú xứ tu tập của di mẫu Kiều-đàm-di. Bà luôn tinh tấn tu hành không chút biếng trễ, như tấm lụa trắng dễ nhuộm màu sắc, nên ngay tại đời này chứng quả A-la-hán.

***

Duyên khởi 11:ĐỨC PHẬT RÓT NƯỚC LÊN ĐẢNH ĐẦU TỲ-KHEO BỆNH, BỆNH ĐƯỢC LÀNH

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ở tại tinh xá Trúc Lâm, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo bị bệnh ghẻ nhọt rất nặng, khắp thân máu mủ loang lổ, mọi người đều chẳng muốn nhìn, không ai dám gần gũi, chúng Tăng bèn cho ở nơi căn phòng nhỏ hẹp, tồi tàn. Đức Phật rõ được sự việc, bèn dùng thần lực che mắt chúng Tăng không cho ai biết, một mình Đức Như Lai đến chỗ Tỳ-kheo bị bệnh, đem lời êm dịu an ủi, khuyên nên dùng nước tắm rửa sạch sẽ.

Lúc đó, trời Đế Thích cung các Thiên tử đang tụ hội tại giảng đường Thiện pháp, bàn luận về tình hình trong các cõi. Đức Phật dùng thần lực khiến chư Thiên biết được việc này. Tức thì trời Đế Thích liền đem vô lượng trăm ngàn chư Thiên quyến thuộc, tấu các thứ nhạc trời trước sau lần lượt nhiễu quanh trên hư không, rồi hiện xuống chỗ Đức Phật, đầu mặt sát đất cung kính đảnh lễ nơi chân Phật, hỏi thăm mọi việc. Đế Thích tay cầm bình bằng ngọc quý đựng đầy nước thơm dâng lên Đức Phật, rồi đứng hầu một bên.

Bấy giờ, Đức Như Lai bèn từ từ giơ cánh tay với trăm phước tướng trang nghiêm, nơi mười đầu ngón tay phóng ra hào quang rực rỡ, tỏa chiếu đến tận nơi xa như báo hiệu khiến chư Thiên thảy đều vân tập đến. Lại từ trên đảnh đầu Như Lai hiện ra một đạo hào quang soi chiếu đến thân Tỳ-kheo bị bệnh. Tỳ-kheo này, nhờ ánh hào quang chiếu vào thân nên các chỗ đau nhức liền hết, những vết máu mủ nơi ghẻ nhọt đều được sạch sẽ. Khi ấy, Tỳ-kheo liền chắp tay đảnh lễ Đức Phật, bày tỏ sự thành tâm sám hối, mong Phật từ bi thương xót diệt trừ mọi trọng tội của mình.

Lúc ấy Đế Thích tay cầm bình ngọc khi trước quỳ gối dâng lên. Đức Như Lai nhận lấy bình nước thơm, rồi dùng tay phải cầm bình rót nước lên đảnh đầu Tỳ-kheo bị bệnh, còn tay trái thì kỳ rửa nơi thân Tỳ-kheo. Những mụn nhọt trên mình Tỳ-kheo bệnh, tùy theo tay của Như Lai rửa đến đâu, liền bình phục đến đó. Được lành bệnh, vị Tỳ- kheo ấy vô cùng vui sướng, chí tâm xưng niệm:

-Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Đại Từ Bi Phụ! Nam-mô Tối Thắng Y Vương, đã khiến cho thân bệnh của con hôm nay được lành, cúi xin Đức Như Lai dùng diệu lực của bản nguyện thương xót tiếp nhận bố thí pháp dược cho con để tẩy dứt tâm bệnh, bao nhiêu trọng tội nơi con đều được tiêu trừ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với vị Tỳ-kheo kia:

-Ta nay làm như vậy là để đền đáp lại thâm ân của ông trong đời trước.

Rồi Đức Phật giảng dạy về bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, chỉ bày các tướng đau khổ, khuyên gắng tu tập để chứng đắc giải thoát viên mãn. Tức thì Tỳ-kheo bịnh liền chứng được đạo quả A-la- hán, đầy đủ ba minh, sáu thông và tám pháp giải thoát.

Lúc ấy, trời Đế Thích và chư Thiên nghe Đức Phật nói lời đền đáp ân từ đời trước, nên sinh nghi ngờ, bèn bạch Phật:

-Hôm nay Như Lai đã dùng thần lực, khổ nhọc tẩy rửa máu mủ nơi các vết nhọt trên thân Tỳ-kheo kia, nhưng Đức Như Lai lại nói: “Ta nay làm vậy là để báo thâm ân từ đời trước của ông.” Cúi xin Như Lai vì đại chúng hiện thời giải thích rõ ràng.

Đức Phật nói:

-Này Thiên chủ, vào thời xa xưa vô lượng kiếp về trước, có một thôn tên là Tăng quảng, đất đai màu mỡ, dân chúng giàu có, an lạc, người trong làng ấy đều thuộc tộc họ cao quý, cùng tôn một vị kỳ lão làm người xử đoán các việc. Sau đấy, trong thôn có một vị Ưu-bà-tắc lão thành, bỗng nhiên bị một kẻ ác ngang nhiên đến bắt nhằm mưu hại. Kẻ ác đem giao cho quản ngục coi giữ, những người giữ tù này nghĩ rằng vị ưu-bà-tắc ấy vô tội, nên dẫn đến chỗ vị kỳ lão xét đoán sự việc để phân xử. Vị ấy xét biết người này vô tội nên thả ra. Kẻ ưu-bà-tắc ấy đương khi bị nạn liền được thoát khỏi.

Đức Phật bảo:

-Này Đế Thích, vị kỳ lão xét đoán sự việc thời ấy nay là vị Tỳ- kheo bị bệnh này. Còn vị Ưu-bà-tắc lâm nạn được thoát khỏi nay chính là Ta. Cho nên Như Lai đã nói lời như trên.

Do đó, Bồ-tát dù trái qua vô lượng kiếp, đối với một ân nhỏ vẫn luôn nghĩ tưởng phải báo đáp trọng hậu, cho đến khi thành Phật cũng chưa từng quên lãng.

Đế Thích nghe lời Phật giảng nói tâm rất vui vẻ, đại chúng chư Thiên đồng tấu nhạc trời, đảnh lễ Phật rồi trở về chốn cũ.

***

Duyên Khởi 12:CÔNG ĐỨC XƯNG NIỆM TAM BẢO

Thời ấy, Đức Phật xuất hiện ở đời, vì phụ vương và chư đại chúng diễn nói pháp môn Quán Phật tam-muội. Hành giả quán ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Như Lai sắc thân màu vàng ròng, hào quang tỏa sáng rực rỡ.

Lúc đó, trong chúng hội có năm trăm người thuộc dòng họ Thích, quán thân tướng Phật như vị Bà-la-môn tu khổ hạnh, người gầy

Ốm, bôi đầy tro. Quán thấy như thế rồi tự bức đầu bức tóc, vật vã khóc than thảm thiết. Đức Như Lai thấy vậy mới an ủi:

-Các ông chớ nên buồn khóc nữa Ta nay sẽ vì các ông giảng nói các sự việc về đời quá khứ.

Đức Phật nói:

-Về thời quá khứ xa xưa, có Đức Phật Tỳ-bà-thi, sau khi Phật ấy nhập diệt, vào thời kỳ tượng pháp có một vị trưởng giả tên Nguyệt Đức sinh năm trăm người con đều là hạng thông minh, nhiều trí, tất cả sách vở thế gian không gì là không am tường. Trưởng giả Nguyệt Đức là người kính tín Tam bảo, nên thường giảng nói về ý nghĩa của Phật pháp cho các con ông nghe, nhưng họ đều là người tà kiến, không có tín tâm. về sau, các người con đều lâm bịnh nặng, trưởng giả bèn đến trước các con rơi nước mắt khóc lóc, chắp tay nói:

-Các con vì tà kiến, không tin Phật pháp, ngày nay các con đang bị lưỡi dao bén vô thường cắt đứt mạng sông, sự sông của các con chỉ còn trong chốt lát, không biết nương tựa vào đâu! Nay có Đức Như Lai hiệu là Tỳ-bà-thi, các con phải chí tâm niệm danh hiệu Ngài.

Các người con nghe lời cha dạy, liền đồng niệm:

-Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng.

Niệm rồi tất cả đều mạng chung. Do nhân duyên niệm Phật ấy, nên sau khi mạng chung, được sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương. Hưởng hết phước báo nơi cõi trời, do vì nhân duyên tà kiến thuở trước, liền bị đọa vào địa ngục, ngục tốt La-sát dùng chỉa ba bằng sắt nung nóng đâm vào hai mắt.

Trong khi chịu khổ não như thế, mới nhớ đến lời dạy của người cha, liền niệm Nam-mô Phật. Nhờ vậy, thoát khỏi cảnh khổ nơi địa ngục, sinh trong nhân gian làm người thuộc hàng hạ tiện, bần cùng. Các kiếp sau đó cũng sinh nhằm vào thời kỳ Đức Phật Thức Khí ra đời, nhưng chỉ nghe danh hiệu Phật mà không chiêm ngưỡng được kim thân. Cho đến các Đức Phật Tỳ-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp-ba trải qua sáu Đức Phật kế tiếp ra đời như vậy, nhưng chỉ nghe danh hiệu mà không được thấy tướng hảo.

Do vì nghe được danh hiệu của sáu Đức Phật, nên ngày nay được cùng Ta sinh trong dòng họ Thích, sắc thân Ta như vàng Diêm- phù-đàn thì các người quán thấy sắc màu tro như vị Bà-la-môn gầy ốm, là do nhân duyên đời trước khinh chê Phật pháp, chấp chặt nơi tà kiến nên mắc phải quả báo nặng nề như vậy.

Đức Phật dạy:

-Ngày nay các ông phải xưng niệm danh hiệu chư Phật đời quá khứ, xưng niệm danh hiệu Như Lai, danh hiệu Đức Phật Di-lặc và danh hiệu phụ thân của các ông. Xưng niệm danh hiệu và lễ bái rồi, các ông phải hướng về đại đức chúng Tăng, gieo năm vóc sát đất làm lễ, bày tỏ sự sám hối về tội tà kiến.

Năm trăm người vâng lời Đức Phật, xưng niệm danh hiệu và làm lễ sám hối xong, tội chướng từ đời trước được tiêu diệt, ba nghiệp thanh tịnh, cùng thấy thân Phật màu vàng ròng, oai nghiêm vòi vọi như núi Tu-di, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp quang minh vô lượng, thảy đều hết sức vui mừng chứng được Sơ quả. Tất cả đều xin Phật xuất gia, lần lần chứng được A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông, tám môn giải thoát.

Đức Phật nói với các Tỳ-kheo:

-Sau khi Ta diệt độ, nếu ai xưng niệm danh hiệu Như Lai và danh hiệu của chư Phật, sẽ được phước báo vô lượng, vô biên.

Này A-nan, Tôn giả xem Như Lai trong khi đi đường, đã có thể khiến cho mặt đường chỗ cao thấp xuống, chỗ thấp nhô lên, các chỗ cao thấp đều bằng phẳng, Như Lai đi qua rồi thì mặt đất trở lại như cũ. Tất cả cây rừng đều nghiêng hướng về phía Phật, thần cây hiện thân cui mình lễ kính. Như Lai qua rồi thì cây rừng trở về trạng thái bình thường. Tất cả gò đống, hầm hố, đồi đất, các thứ cấu bẩn chẳng sạch, sỏi sạn gai gốc đều được san lấp, quét dọn, rưới nước trong sạch, rải các thứ hoa trên mặt đường, tỏa mùi hương lạ ngào ngạt.

Lại nữa, Như Lai đi bộ trên đường dài, các loài vô tình như cây, đất… tất cả hãy còn nghiêng mình kính cẩn, huống gì là các loài hữu tình mà lại không cung kính. Vì sao? Là vì Như Lai khi tu hạnh Bồ-tát đạo, đối với tất cả loài chúng sinh không khởi tâm kiêu mạn, mà luôn khiêm cung đón tiếp khiến họ sinh tâm vui vẻ. Do nghiệp thiện này nên sau khi thành Phật, tất cả các loài hữu tình, vô tình đối với Phật khi ra đi, thảy đều nghiêng mình đảnh lễ.

Như Lai thuở xưa từng đem rất nhiều tài sản, với tâm thanh tịnh cúng dường chúng Tăng trong mười phương. Do vì nhân duyên ấy nên nay thành Phật, nơi nào Như Lai ngự đến đều hết sức trang nghiêm, sạch sẽ, khoáng đạt.

Lại nữa, vào thời quá khứ Như Lai đối với các bậc Thánh hiền đồng tu phạm hạnh, trên đường các ngài đi qua Như Lai đều sửa sang bằng phẳng, quét dọn rưới nước. Phòng xá, các vật dùng cần thiết đều được dọn dẹp, sắp đặt trang hoàng một cách đầy đủ.

Ớ trong các thời đều dốc cầu Phật đạo, nhằm đem lại lợi ích an lạc cho mọi chúng sinh. Cho nên ngày nay, nơi nào Như Lai đi đến đều tự nhiên thanh tịnh.

Lại như núi Di-lư cao rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần, phần ngập trong biển cả cũng lại như vậy. Núi Thiết vi cao mười hai vạn tám ngàn do-tuần, bền chắc như kim cương, không thể hủy hoại, đến khi Như Lai nhập Niết-bàn, cũng đều nghiêng mình hướng về phía Đức Phật đảnh lễ.

Lại nữa, tâm Như Lai luôn thanh tịnh, lìa mọi cấu nhiễm, nên khi Phật đi qua bất cứ chỗ nào, chân không hề dính các thứ uế tạp, trùng kiến không bị tổn hại đến tánh mạng.

Phật không mang giày dép, có ba nguyên do:

1. Khiến người đi đường sinh tâm ít ham muốn.

2. Hiển rõ tướng dưới bàn chân có hình bánh xe ngàn tăm trên mặt đất.

3. Khiến người trông thấy sinh tâm hoan hỷ.

Lại nữa, khi Phật bước đi bàn chân cách mặt đất bốn tác, có ba lý do:

1. Thương xót loài trùng kiến ở dưới đất.

2. Giữ gìn cỏ hoa nơi mặt đất.

3. Thể hiện thần túc của Phật.

Này các Tỳ-kheo, phải y theo lời Phật dạy tu hành để dứt tận cội nguồn của đau khổ.

***

Duyên Khởi 13:PHƯỚC BÁO THÙ THẮNG CỦA VIỆC TẠO THÁP PHẬT

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Như Lai nay đối trước đại chưng này, nói sơ lược về công đức đạt được của việc xây tháp, Tôn giả phải lắng nghe, suy nghĩ, ghi nhớ.

Giả sử khiến cho tất cả cỏ cây, rừng rú đầy trong bốn châu thiên hạ, đều trở thành thân người, mỗi người đều phát tâm tu tập, tùy theo khả năng của từng người, có kẻ chứng quả Tu-đà-hoàn, có kẻ chứng quả Tư-đà-hàm, có kẻ chứng quả A-na-hàm, có kẻ chứng quả A-la-hán, cho đến quả Duyên giác. Bấy giờ, có một trưởng giả đem tâm thanh tịnh cúng dường, thường xuyên cung cấp các thức ăn uống, y phục, đồ nằm ngồi, thuốc men… suốt đời không thiếu. Cho đến khi các vị này diệt độ, trưởng giả lại vì mỗi vị xây một bảo tháp, dùng tua, lọng, cờ phướn trang trí hết sức trang nghiêm, tốt đẹp, lại đem các thứ hoa hương đèn dầu cúng dường nơi mỗi tháp.

Này A-nan, trưởng giả ấy được phước nhiều chăng?

Tôn giả A-nan đáp:

-Bạch Đức Thế Tôn, trưởng giả ấy đạt được phước rất nhiều.

Đức Phật nói:

-Này A-nan, trưởng giả ấy tuy đạt được phước rất nhiều, nhưng vẫn còn giới hạn. Chẳng bằng có người, sau khi Phật diệt độ, đem tâm kính mộ cầu được một phần xá-lợi dù hết sức nhỏ như hạt cải, tạo tháp cúng dường. Tháp ấy chỉ lớn bằng quả Am-ma, trụ của lòng tháp bền chắc như cây kim, nơi đỉnh tháp bày mâm lớn bằng lá táo, trên đó đặt một tượng Phật chỉ bằng hạt lúa, hoặc hương, hoặc đèn tùy sức cúng dường.

Này Tôn giả A-nan, đem phước cúng dường của trưởng giả kia đối với phước đức của việc tạo tháp này thì không thể so sánh. Nói tóm lại, đem phước báo thù thắng của việc tạo tháp này phân ra làm một trăm phần, thì phước đức cúng dường của trưởng giả kia chẳng được một phần. Ví dầu chia làm ngàn vạn ức phần cũng đều không bằng một phần. Cho đến dùng số để tính toán, ví dụ cũng không thể biết được phước báo của việc tạo tháp này.

Này A-nan, phải biết Như Lai ở trong số kiếp như trần sa, tích chứa, huân tập, tu trì năm phần Pháp thân, làm phát sinh các công đức. Năm phần pháp thân là: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lại tu tập các pháp: Bốn tâm vô lượng, sáu pháp Ba-la-mật, tự lợi, lợi tha, thực hành những khổ hạnh khó hành, nên đạt được các thần thông, nguyện lực không thể nghĩ bàn, thế gian và xuất thế gian không ai sánh bằng. Vì sao? Là do Phật đã thành tựu vô lượng, vô biên trí tuệ chân thật.

Này Tôn giả A-nan, tất cả Như Lai vào thời xưa khi còn tu nhân đều biết rõ tự tánh của chúng sinh là thanh tịnh, vì bị phiền não của ngoại trần che lấp, nhưng tự íánh của chúng sinh hoàn toàn không bị phiền não làm ô nhiễm. Do vậy Như Lai xuất hiện ở đời, vì tất cả chúng sinh giảng nói pháp vi diệu diệt trừ các thứ câu uế, ô trược, khiến họ đạt được giải thoát.

    Xem thêm:

  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trượng Phu - Luận Tạng
  • Luận Thành Duy Thức Bảo Sanh - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Tịnh Độ Luận - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Phân Biệt Công Đức - Luận Tạng
  • Luận Phật Thừa Tông Yếu - Luận Tạng
  • Luận Về Tịnh Độ Sanh, Vô Sanh - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thiền Lâm Bảo Huấn - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng