1
2
3
4
5

Duyên Khởi 14:CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

Khi Đức Phật còn tại thế, trong thành Vương xá có một trưởng giả tên là Phước Tăng, tuổi hơn một trăm nên răng rụng, sức yếu. Mọi người lớn nhỏ trong nhà đều sinh tâm chán nản, xa lánh. Ông lão nghe nói về lợi ích của sự xuất gia nên sinh tâm vui mừng. Công đức ấy là vô lượng, không thể ví dụ, cao hơn núi Tu-di, sâu hơn bể cả, rộng như hư không. Vì sao? Do vì xuất gia mới chứng đắc quả vị Phật. Chư Phật nơi ba đời chưa từng có vị nào không xuất gia mà thành Phật bao giờ.

Trưởng giả nghe vậy, tuy tuổi già, lòng rất hoan hỷ, tìm đến chỗ Phật cầu xin xuất gia, gặp lúc Đức Phật đi du hóa, nên trưởng giả đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất xin được hóa độ. Tôn giả Xá-lợi-phất thấy trưởng giả quá già nên không tiếp nhận. Ông già lại cầu xin xuất gia nơi năm trăm vị La-hán nhưng đều không được tiếp nhận. Bấy giờ, trưởng giả ra về, rời khỏi tinh xá cất tiếng khóc lớn. Lúc ấy, Đức Thế Tôn từ phía sau bước đến, đem lời khuyên bảo an ủi, khiến ông vui mừng. Đức Phật liền bảo Tôn giả Mục-kiền-liên thu nạp làm đệ tử xuất gia, truyền trao giới pháp. Do vì đám Tỳ-kheo trẻ tuổi mới tu học thường hay đùa giỡn, nhiễu loạn tâm ông, nên ông liền trầm mình, muốn kết liễu cuộc đời. Tôn giả Mục-kiền-liên quán biết, liền dùng thần lực vớt để trên bờ, nhân đó mới hỏi:

-Nguyên do gì khiến ông ra nông nỗi này?

Trưởng giả bèn trình bày mọi việc như trên.

Tôn-giả Mục-kiền-liên thầm nghĩ: “Người này ngu độn, sân hận đến thế, nếu chẳng đem sự báo ứng đang khiếp sợ trong ba đường ác để giáo hóa, thì làm sao ông ta chứng được đạo quả?” Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên sắp bay lên hư không, mới bảo Phước Tăng chuyên ý nắm vào chéo áo của Tôn giả, sau đó, từ từ bay đến chỗ biển lớn, thấy một thi hài phụ nữ vừa mới chết, thân hình đoan chánh, lại thấy một con giòi từ miệng xác chết bò ra, rồi lại chui vào mũi, từ mắt chui ra, rồi lại bò vào lỗ tai. Tôn giả Mục-kiền-liên thấy vậy rồi bỏ đi. Đệ tử Phước Tăng liền thưa:

-Bạch thầy, người chết này là ai?

Tôn giả Mục-kiền-liên nói:

-Người đàn bà này là vợ của một đại thương gia trong thành Xá-vệ, ỷ lại nơi nhan sắc của mình không tu phước nghiệp, cậy vào chỗ yêu quý, nuông chiều của người chồng thường gây tổn hại cho mọi người. Hai vợ chồng đi qua vùng này bị chìm thuyền, cả hai đều bỏ mạng, biển không dung nạp tử thi nên sóng xô giạt vào bờ. Thần thức của người chồng vẫn còn yêu xác thân người vợ đẹp nên biến làm con giòi ấy. về sau sẽ bị đọa vào địa ngục chịu các quả báo đau khổ.

Rồi thầy trò từ từ tiến về phía trước. Lại thấy một người đàn bà loanh quanh bên chảo lớn đầy nước đang đun sôi, tự cởi y phục nhảy vào trong chảo ấy, da thịt đều tan rã, nước sôi thổi vọt xương văng ra ngoài, bỗng chốc xương lại thành người, tự vớt thịt trong chảo mà ăn.

Phước Tăng bạch thầy:

-Đây là người gì?

Tôn giả Mục-liên đáp:

-Có một vị Ưu-bà-tắc ở trong thành Xá-vệ, kính tín Tam bảo, thỉnh chư Tăng đến cúng dường, luôn sắm đủ các thức ăn ngon, sai tỳ nữ bưng dọn, tỳ nữ bưng đồ ăn cúng dường, mỗi khi đi qua chỗ khuất người bèn lựa lấy món ngon ăn trước. Mọi người trong nhà thấy hỏi, tỳ nữ đều chối và nói:

-Khi nào các Tỳ-kheo ăn xong, còn thừa cho tôi, tôi mới dám ăn, nếu tôi có ăn trước, nguyện vào đời sau tự ăn lấy thịt thân mình.

Do nhân duyên này, trước thọ quả báo như hiện tại, còn quả báo chính thức sẽ thọ nhận trong cõi địa ngục.

Thầy trò lại tiến dần về phía trước, thấy một núi xương cao rộng đến bảy trăm do-tuần, ngăn che ánh sáng mặt trời khiến vùng biển này trở nên tối tăm. Lúc ấy Tôn giả Mục-liên trèo lên đỉnh núi, thấy một bộ xương lớn đang di chuyển qua lại. Phước Tăng hỏi:

-Bạch thầy đây là núi xương gì?

Tôn giả Mục-liên nói:

-Ông muốn biết núi này chăng? Đây là xương nơi thân cũ của ông.

Phước Tăng nghe qua, toàn thân dựng chân lông, hoảng sợ toát mồ hôi, liền bạch Tôn giả:

-Ngày nay con nghe qua tâm chưa được tỏ ngộ, kính mong thầy thương xót, vì con giảng nói rõ về nhân duyên của núi xương này.

Tôn giả Mục-liên nói:

-Sinh tử luân hồi không có giới hạn, nghiệp báo thiện ác như bóng theo hình, như âm vang theo tiếng không sai khác, về đời quá khứ xa xưa, tại cõi Diêm-phù-đề này, có một làng nọ, dân chúng đều giàu có. Lúc ấy, trong lành có một trưởng giả tên là Pháp Tăng, tộc họ từ trước đến giờ thuần tín Tam bảo, dốc làm việc thiện, lòng nhân từ ưa bố thí, không gây tổn hại đến sinh mạng của chúng sinh, nên dân làng tôn làm bậc Lệnh trưởng. Trong khoảng mười năm đầu, dân chúng được hưởng cảnh an lạc, thái bình, đều nhờ ân đức của Lệnh trưởng, dân làng coi vị ấy như cha mẹ.

Một hôm, Lệnh trưởng nhân khi nhàn rỗi tập chơi cờ bạc, bạn ác được cơ hội gần gũi xu phu, giảng nói tà thuyết nên Lệnh trưởng lần lần phế bỏ việc nước, việc dân. Chẳng bao lâu, tình hình trong vùng bị bọn xấu ác thao túng, xử kiện không cổng minh, hình phạt thì chẳng đúng pháp. Vào ngày nọ, người hầu cận trình bản án vô tội của tù nhân, nhằm lúc Lệnh trưởng đánh bạc bị thua, không màng xem xét tận tường, liền ra lệnh xử tử.

Hôm sau lại hỏi các quân lính phụ tá:

-Tội nhân hôm qua nay ở đâu?

Kẻ hầu cận đáp:

-Theo lịnh cửa Lệnh trưởng đã giết rồi.

Lệnh trưởng nghe qua liền ngã lăn ra đất chết giấc, kẻ hầu phải dùng nước rưới, giây lâu mới tỉnh dậy, rơi lệ nói:

-Tất cả những người thân, ngọc ngà châu báu đều còn ở lại đây, chỉ riêng mình ta rơi vào địa ngục! Ngày nay, ta xem thường việc sát nhân, phải biết là ta thuộc loài hàng thịt!

Suy nghĩ như vậy rồi, trong giây lát mạng chung, sinh làm loài cá Ma-kiệt ở trong biển cả, thân to lớn đến bảy trăm do-tuần.

Phật nói:

-Này Tôn giả Mục-liên, như hàng quan lại ỷ thế cậy quyền, hà hiếp dân chúng giết hại vô số, khi mạng chung phần nhiều đều sinh làm cá Ma-kiệt to lớn, bị loài trùng bám vào thân rúc ria ăn thịt, nên thân hình bị gầy ốm, mỗi khi dựa vào núi, máu của loài trùng nhỏ chảy ra làm nhơ cả biển, dòng nước nhuộm máu đỏ tươi lan rộng đến trăm dặm. Giấc ngủ của loài cá ấy trải qua hàng trăm năm, sau khi thức dậy nó uống nước, làn nước bị hút vào miệng cá cuộn chảy như dòng sông lớn. Nhằm lúc ấy có đoàn lái buôn vào biển tìm châu báu, gặp loài cá Ma-kiệt đang há miệng, thuyền buôn bị cuốn về hướng miệng cá như gió, cả đoàn thuyền sắp chui vào bụng cá, thì ngay trước đó, khách buôn buồn khóc, nhất loạt đồng niệm: “Nam-mô Phật”. Cá nghe tiếng Phật liền ngậm miệng, nước dừng chảy. Do diệu lực từ bi hộ niệm của Đức Phật, cả đoàn thương khách đều được thoát nạn. Khi ấy, cá Ma-kiệt nhịn khát mà chết. Các thần biển là Dạ-xoa, La-sát tranh nhau kéo thân cá lên bờ.

Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên dẫn đệ tử là Tỳ-kheo Phước Tăng du hành xong, trở về tinh xá, đầu mặt sát đất đảnh lễ Phật, vô cùng hoan hỷ nên Phước Tăng hiểu rõ sự sinh tử, vô thường, khổ, không, dứt sạch các kết sử hữu lậu, chứng quả A-la-hán.

Phiền não trói buộc, tánh, dụng rộng khắp. Lực dụng thắng nghĩa tận diệt các lậu. Căn lành phát sinh, lìa mọi điên đảo. Lẽ tịch tĩnh ấy không hề giảm suy. Nhân thực nghĩa lợi (đem lại) hình tướng tươi đẹp. Dốc sức tiến tu, tăng trưởng cúng dường. Làng xóm chốn chốn thêm tu như vậy. Tất cả mọi nơi biến đổi, an lạc. Thắng nghĩa cõi hành hòa hợp không tranh. Điên đảo dứt sạch, ngộ lẽ vô ngôn. Xa lìa nhị kiến, đúng nẻo trung đạo. Lành thay tự tánh! Hòa hợp như thế. Cõi bố thí ấy chư Thiên vui thích. Đêm ngày tinh tấn, thắng nghĩa viên mãn. Thế Tôn ứng hiện, khai ngộ hữu tình, sắc tướng tăng trưởng, viên mãn là vậy. Thuận hợp hài hòa, thanh tịnh trùm khắp. Sắc tướng Như Lai, chân thật tối thượng.

Bồ-tát tư hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh quảng diễn nghĩa thứ mười một.

Thật tướng trượng phu hòa hợp, không đổi. Đó là tùy thuận, lãnh hội thấu đạt hạnh của Bồ-tát. Phát khởi tùy thuận từ nơi chỗ đạt các pháp tịch tĩnh, không biến đổi. Phạm hạnh bao la, tu tập gồm đủ. Nghiệp thiện quyết tu chứng quả vô sinh. Thấu lẽ thậm thâm, tăng trưởng diệu hạnh. Tỏ ngộ giáo pháp, dốc sức tấn tu. Hội nhập trọn vẹn tự tánh căn bản. Trụ ở quá khứ, tịch tĩnh tăng thêm, chế ngự hữu tình, gánh vác đại sự. Đức hạnh chân thật, ngôn ngữ khế hợp, khiến cho tâm chúng sinh diệt sạch bao thứ sân hận, tạo được nơi chốn thích hợp.

Giáo pháp thắng nghĩa dứt mọi sân si. Đúng là giới đức của bậc hữu học. (Nếu không thế thì sẽ) thọ khổ lưu chuyển nối tiếp không ngừng. Tận cùng tự tánh (chính là) tỏ nẻo luân hồi. Cung kính bố thí đâu mong phước báo (mà là nhằm đạt được nơi) nương tựa an lạc, tịch tĩnh viên mãn. Danh, tướng (được) tự tại. Lưu chuyển dừng dứt. Trí tuệ là điều tối thượng, (là) nơi bậc hữu học lìa bỏ phiền não. Đó chính là cái nhân tự tại của bậc pháp sư chân chính xuất hiện. Phiền não trừ diệt, ngôn ngữ khế lý. Tâm hành vô tướng, mọi ác thảy trừ. Giới mốc chẳng còn, đảo điên cũng sạch. Đấy chính là lúc mọi thứ phiền não, chướng ngại đều được lắng sạch, tĩnh lặng. Xa lìa ngôn từ (đó mới là) ngôn ngữ chân thật.

Thế nào là lìa bỏ cõi khổ đồng nữ?

Bậc hữu học lìa, chẳng bị nhiễm quấy.

Thế nào là gốc của mọi cấu nhiễm?

Tham dục dấy mạnh thật khó cản ngăn. Biến chuyển tăng trưởng mong đạt thắng nghĩa bất thoái để dứt hết mọi nhiễm chướng. Phận nữ trói buộc thọ khổ như vậy. Tạo nhân tịch tĩnh, thấu đạt khẩu hòa. Bố thí tôi thượng, tỏ ngộ tự tại. Tu tập lĩnh lặng, lìa mọi hý luận. Từ hàng Phạm thiên tăng thêm nghị luận, kiến tánh viên mãn, trí tuệ tương ứng, thông suốt mọi cõi. Tu học trọn vẹn, đắc giới Hòa thượng. Trí lực có thể phá bỏ mọi nhân điên đảo, cũng như có thể luận bàn giáo pháp. Tạo ra các bậc Giáo thọ, A-xà-lê, là những vị giới sư làm khuôn phép mẫu mực. Trọn đủ các nhân chân thật như thế. Luận bàn thuận hợp, tranh biện nảy nở. Năng dứt nhiễm buộc, thiện tịnh hiện bày. Đó là tánh thanh tịnh, xa lìa mọi trói buộc, là phương tiện tỏ ngộ của tánh Không.

Thế nào là thấu đạt lực dụng của nghiệp?

Trí tuệ tỏ ngộ mọi pháp thường tịch gọi là xuất thế gian. Tất cả các tháp miếu, phước báo Phạm thiên cũng đều được thấu rõ như thế. Nhân chân thật ấy cõi tánh tài bồi. Phước báo cõi trời, không còn sân hận. Từ chốn thanh tịnh mong cầu như vậy, vâng giữ lấy lời, như lọng phủ che. Siêng năng tu tập, nương tựa thầy bạn. Dạy dỗ như thế, cậy bậc thiện hiền. Tu hạnh thắng nghĩa, gieo trồng nhân lành. Chân thật như thế, biết rõ khó đạt. Là chốn đầy đủ Bồ-tát an trụ. Bồ-tát ứng hiện, điên đảo lặng dừng, tâm ý trói buộc, cấu nhiễm đều dứt. Lìa hạnh Duyên giác, rời mọi kiêu mạn.

Thế nào là hình tướng phiền não buộc che trùm khắp như cõi không, như mây, phàm phu khó thoát?

Chánh pháp thậm thâm, thù thắng khó được. Tưởng niệm, tư duy mọi nẻo đều vượt. Bồ-tát thuận duyên, phương tiện chỉ bày. Từ hàng Phạm hạnh, thân ta xuất hiện. Xa lìa nẻo người, dứt hết nghiệp dữ. Nhân lành tạo tác, tướng mạo hiện bày. Theo đường Thập thiện, xa lánh vọng tưởng. Nơi chốn thanh tịnh, ưu khổ hết buộc. Tự tánh trong lành, phước báo trang nghiêm. Là cõi Bồ-tát ngôn ngữ dạy truyền, giới hạnh uy nghi, rõ nghĩa giải thoát. An trụ bất thoái, hành tướng tự tại. Theo thầy bàn luận, rõ tướng không tịch.

Thế nào là chúng sinh đạt được nghiệp nhân của Thập thiện do thầy truyền dạy?

Lìa mọi mê chấp thường, đoạn, hữu, vô.

Thế nào là xa lìa không tạo nhân xấu?

Thế gian gây nhân, tạo nghiệp điên đảo. Chúng sinh nặng nghiệp, chẳng thấu ngọn nguồn. Tạo tác ngã mạn, mắt mờ không thấy; Dòng thác điên đảo lưu chuyển triền miên, biến đổi, chứa dồn, phát sinh ngã kiến. Diệu ý thù thắng sửa trừ ngã vọng. Phiền não hý luận, si mê tạo nghiệp. Nhận rõ nhiễm ô, tịch tĩnh như vậy. Tự thân thanh tịnh, chủng loại chẳng khinh. Hữu tình không chuyển, tham thọ càng tăng. Hạnh, tuệ chẳng tu, nghiệp ác tự buộc. Bố thí biếng theo, nhân lành chẳng có. Rõ hạnh Bồ-tát, tâm ý thanh tịnh. Bậc thầy mẫu mực, ngôn ngữ trao truyền. Ý chẳng tu sửa, tánh ngã mạn tăng. Chẳng rõ nghĩa ấy, đức hạnh càng tối. Chẳng xét ngọn nguồn, dẫn dụ khó lập. Do mình tạo tác, tích tụ, chuyển lưu. Tư tưởng điên đảo, sân hận nào dứt. Rốt ráo không thật, biết rõ hư ảo. Căn lành phát sinh, lìa xa tà pháp. Là nơi có bậc đạo sư mẫu mực, chỉ dạy nhận rõ, dứt tận mọi thứ vọng tưởng. Lành thay! Hàng thiện nam! Bậc đại phạm hạnh sắc tướng tăng trưởng. Mong đạt các hạnh tịch tĩnh viên mãn.

Thế nào là tu tập theo các pháp thiện tĩnh?

Thấu đạt, tỏ ngộ, tu pháp vô tướng. (Tức là) Nghĩa rộng thanh tịnh tiến tu viên mãn. Là bậc Thiện nam đã dứt phiền não. Đó là nghĩa lợi tịch tĩnh thù thắng. Thấu tỏ hiện bày, an lạc nên tu. Cõi trời tự tại ấy thật đã hòa hợp với hình tướng của bậc Đại trượng phu. Lực dụng bao trùm, đạt cảnh tịch nhiên. Tạo nhân như vậy, Thánh lực viên mãn. Vượt qua con đường Thanh văn Tiểu thừa. Tướng mạo thế gian, ngôn ngữ tăng trưởng.

Bồ tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc, sinh vào cõi Phạm thiên, quầng diễn về bản sinh nghĩa thứ mười hai.

Phiền não trói buộc thật sự như thế. Đạo pháp xuất thế (có thể đạt được) lực dụng tự tại. Đó là tùy thuận thấu đạt thắng nghĩa chân thật, trí tuệ nhận rõ nghĩa lợi thế gian. Lìa dứt tất cả gốc rễ ngã mạn. Bồ-tát bố thí các pháp khó làm, cứu độ chúng sinh thoát khỏi nghiệp dữ. Do chỗ biết rõ giới luật là vua của các pháp, phiền não biến chuyển không ngừng, tu hạnh bí mật, dứt bỏ ngã mạn. Là bậc cha lành của cõi thế gian. Bậc Đại trượng phu dưỡng nuôi con trẻ. Tự tánh bình đẳng, rõ lẽ biến chuyển. Giáo thừa tùy thuận các pháp công đức (nhưng) đạo vẫn thường hằng. Thấu lẽ trang nghiêm, tạo nhân (cho) thế gian. Diễn giảng giáo pháp, một thân vì đạo. Tà pháp, ngoại đạo, vững chí thuyết phục. Là chốn mê muội, chánh pháp chẳng cầu, nhân quả nghiệp báo chân lý chẳng tỏ. Mau mực tịch tĩnh tu tập như vậy. Hình tướng ung dung, tánh lìa điên đảo. Không tạo nghiệp ác, Tam bảo kính tin, không chuộng tham ái, trí tuệ thông tỏ mọi nẻo quá khứ. Đức hạnh tối thượng thảy đều biết rõ. Tu hạnh bố thí, tạo tác thiện tịch. Đó là tuệ nhãn thanh tịnh, vô lậu. Cần nên xa lìa nơi chốn ngu muội. Tam bảo chân thật mà không hay biết, đúng là xứ sở mê muội tối tăm. Chẳng rõ nhân nhiễm gốc rễ là vậy. Là cõi Phạm thế thông rõ ba tướng.

Thế nào là không thiện?

Phiền não hiện hành không thể dừng dứt. Là chốn xa lìa mọi hành điên đảo. Ta tự diễn bày ngôn ngữ Phạm chúng. Tự tu hiền thiện, phạm hạnh gồm đủ. Chốn thanh tịnh ấy an trụ, hội nhập. Chúng Phạm thiên vương tu tập viên mãn. Là cõi có hàng Phạm chúng tu hạnh bố thí. Tự tánh thanh tịnh, chốn chốn yên vui. Báo thân mong đạt an định, thiện tịnh, tịch tĩnh viên mãn, tối thượng, tối tôn. Nghĩa tánh Như Lai, thân oán chẳng phân. Lực dụng tự tại, hạnh tu an trụ. Tăng bảo viên mãn, thường trụ thế gian. Chí cầu mong đạt sắc tướng trùm khắp. Tuệ giải tu tập, ý không nhân nhiễm. Hình tướng hiện bày, tham dục đều không, như bậc A-la-hán.

Thế nào là chúng sinh lìa khỏi nghiệp dữ điên đảo?

Tâm ý tịch tĩnh, tạo nhân vô tướng. Hạnh thí phát khởi, theo đúng nghĩa lợi. Lãnh hội Thánh giáo, dứt nẻo luân hồi. Nhân tốt, ý vui, nương bậc quốc vương. Thông đạt, an lành, tự tánh hiển hiện. Đó là nương tựa theo nhân Thập thiện. Thể tánh thành tựu (như) mẹ hiền hòa hợp. An trụ thêm tăng, tâm ý sung mãn. Bố thí ân tích, lực dụng phát sinh. Nương tựa mẹ hiền đạt được an lạc. Tri kiến rộng lớn điều phục vương giả. Bốn phương hiện bày như mẹ hiền mến yêu, mọi thứ tranh luận, hý luận thảy đều dứt bỏ. Phát sinh hòa hợp, mọi việc an lành. Như bậc A-la-hán diệt hết ngã mạn, điên đảo, phiền não trói buộc. Chủng loại phát triển, dứt tham, sân, si, ba thứ “hoặc” gốc. Như xua mây che ánh trăng sáng tỏ, trong lặng đáng yêu! Thấu đạt nghĩa lợi chân thật như thế. Hình tướng vương giả, tư dung đáng chuộng, sắc tướng tuyệt vời. Dứt bỏ nghĩa lợi, đạt quả bất sinh. Nhà cửa, nữ nhân không thể so sánh. Thanh tịnh dứt nhiễm, tham dục xa lìa. Là chốn cõi tâm chân thật hiển bày. Vua (xứ) Ma-kiệt-đà thân đến chốn ấy. Thế lực hơn hết, thanh tịnh, dứt nhiễm. Lìa si, mạn, sợ, tham dục đoạn trừ. Nhập Như Lai tạng, hội lẽ vô ngôn, chân tâm bình đẳng. Thông suốt ba thời, mọi nẻo luân hồi. Nương tựa cõi ấy, hoa sắc xanh tươi, hương thơm khắp chốn. Hình tướng tùy thuận, phép tắc uy nghi, chính danh Đại thừa, Đại Bát-niết-bàn. Phước đức gồm đủ, thảy đều viên mãn. Kinh điển thọ trì, trí tuệ bừng tỏ. Là chốn mẫu mực, vọng tưởng đều dứt.

Thế nào là trí tuệ vô biệt vô nhân, làm phát sinh các pháp Thập thiện nghĩa lợi? Thế nào là nhân tướng?

Tịch tĩnh chân thật, hình tướng dứt mạn. Thiện tịnh hòa hợp. phước đức tịnh diệu. Lực dụng gồm đủ, uế tạp dứt trừ. Thực hành Thập thiện, tu Tứ niệm trụ. Là chốn mê muội, điên đảo dấy tràn. Không theo Thập thiện, chính cõi đói khát. Là chốn gặp gỡ mọi thứ độc hại. Quốc vương lìa dục, tịnh diệu thi hành. Tu hành tự tại. Tùy thuận các pháp phiền não, tham ái, si độn trói buộc. Căn bản tôì thượng của hàng Tỳ-kheo là chỗ sử dụng vật dụng thù thắng. Cội rễ ngã kiến buộc chặt ba đời. Báo chướng khiến thân tạo nghiệp bất thiện. Không theo Thánh hiền, gốc mọi nghiệp dữ. Thiên nữ tự tại, xa lìa nẻo người. Phải nên tu tập các hạnh chân thật. Không tu Thập thiện là hạng mê mờ. Nơi chốn khế hợp xiển dương chánh pháp. Khiến tâm hoan hỷ, trí tuệ phát sinh. Ý thức tịnh diệu, tịnh thuận thế gian. Ý thức tự tại đúng nghĩa là vậy. Tự tánh phát sinh diệu nghĩa vô cùng. Trọn nên các hạnh bí mật, thuận hợp. Pháp thiện diệu ấy thường xuyên thọ trì. Căn bản thượng diệu thuyết phục trời, người. Tu hạnh lục độ (Ba-la-mật) theo bước Phật Tổ. Gánh vác đại sự, tiến tu như thế. Tạo nhân lâu dài, xa lìa sợ hãi. Thuyết pháp vi diệu, lĩnh hội tu tập. Các hạnh thù thắng từ gốc nhân lành. Tịnh diệu dốc tu, bền chặt không chuyển. Phụng thờ, diễn giảng, trừ dứt si mê. Diệt phiền não chướng, đúng hạnh Thánh nhân. Thượng diệu tối thắng, bố thí rộng khắp. Tạo tác vô nhiễm, nhân của thanh tịnh. Tâm không vướng dục, gốc của mọi việc. Hình bóng không thật, tùy tâm sở hiện. Thắng nghĩa chân thật là hạnh thanh tịnh. Dòng thác triền miên, sợ hãi khó tu. Hình tướng điên đảo, xứ sở héo hắt. Hèn yếu ngu muội do chẳng siêng tu. Mộ cõi tịnh trụ, giữ đúng giới hạnh. Dứt lời sân hận, tâm vốn vô tướng. Vương giả tự tại, tỏ bày chân thật các pháp trị nước. Lực dụng năm uẩn gốc rễ tu tập. Hành tướng của chúng, rõ tánh thiện ác. Phiền năo trói buộc (nhưng) thể tánh (vốn) Như như. Mọi chốn nương tựa, tâm cầu đạo pháp. Dứt hết hý luận, lực dụng chẳng sinh. Là chốn chi phần do thiếu tu tập. Các pháp tối thượng, sự hãi khó theo. Phiền não, chướng ngại vốn không giới mốc. Giữ hạnh thanh tịnh, trừ gốc tham dục. Hình tướng điên đảo đâu dễ phát sinh. Lực dụng khó ngăn, mê muội đáng khuất. Bố thí thanh tịnh, tâm không bợn đục. ứng biến rộng khắp, chư Thiên cung kính. Phiền não chẳng sinh, tự tại gồm đủ. Tánh vốn nhân, hòa (nên khiến cho các loài) hữu tình phát sinh. Nghĩa lợi thanh lịnh khế hợp như vậy.

Thế nào là tâm ý an lạc như hàng chư Thiên tướng mạo hòa hợp?

Nghĩa ấy thêm rõ, cầu nhân xa lìa, đạt quả vô học. Như xứ có vua, cõi nước rộng lớn. Tự mình hành xử các pháp trị nước. Muốn dân ngưỡng mộ, luôn luôn ghi nhớ. Ngôn ngữ ung dung, chân thật, hợp lẽ.

Thế nào là giải rõ ý nghĩa của việc nhận ra tâm ý tương ứng nhưng không bị cấu nhiễm điều ác?

Ham chuộng tu tập, dứt chướng, phá xiềng. Do nhân phiền não, nhiễm lấy nghiệp ác, xuôi theo dòng đời. Hành động hóa độ nương trí tuệ sinh. Nhân quả rõ ràng, diễn bày thêm tỏ. Mẹ hiền từ trời, ngôn từ đúng pháp. Bố thí nhân thực, theo pháp thi hành. Tự tánh hòa hợp, nhân tranh không còn, tạo tác như thế.

Thế nào là tu hành đúng nghĩa bất thoái, chư Thiên chúc tụng?

Tịnh diệu hiện bày, nhân tranh dứt bỏ. Làm chủ hành nghiệp

như bậc A-la-hán. Tùy thuận theo nhân, nơi chốn tự tại. Truyền dạy nghĩa lợi, chung Thánh nên nương. Như mây che phủ, lìa hạnh tham dục. Chư Thiên cùng tu, ngu si đáng sợ. Phật dạy như vậy, lặng suy, thuận hợp. Nhân thắng chân thật, như đất đỡ nâng. Tu hạnh bố thí, chẳng màng phước báo. Phát huy tại chốn, nghĩa lợi vô tận. ứng hiện bệnh, nạn, Thánh nhân cũng làm. Mẹ hiền dạy dỗ, ân tích khắp chốn.

Ở cõi si độn, mong dứt tạo nghiệp.

Thuận lợi như vậy, thế nào là nhân của ý bất thoái?

Chẳng rõ tội tướng, ngu muội đều mắc. Tịch tĩnh vô biên, thấy nghe gồm đủ, tự tại hòa hợp.

Thế nào là thành thật?

Đạt được ái lạc thù thắng, thậm khó! Giải thoát viên mãn như mây che khắp. Chân lý tối thượng, chúng sinh si mờ. Như bậc mẹ hiền yêu thương con trẻ. Tà pháp ngoại đạo không thể hóa độ.

Ái lạc biến chuyển, làm sao xa lìa?

Đắm nhiễm tham dục, chính là điều ác. Tứ chúng xa lìa, tạo nhân ái lạc. Hình tướng khó bày, thấu lẽ khẩu hòa. Chúng hội hý luận, chư Thiên rời bỏ. Lời nói của vua như mây phủ khắp. Gươm bén chẳng dùng, lực dụng dừng lặng. Tánh (của các) pháp không buộc, thảy cùng tồn, diệt. Cộng nghiệp tạo nhân, cùng lên bờ giác. Phiền não chấp ngã làm nhân tu hành, như bóng theo hình, dễ đâu đạt được? Biết rõ nghĩa lợi tất cả không thực. Trí tuệ độ người, vô tranh là vậy. Ngôn luận của vua. Vô ngã là gì? Chính nơi ám độn, các mạn phát sinh. Rõ chúng không thực tuệ sinh từ nhiễm. Phát tâm cúng dường, bố thí thân mạng.

Do vì chấp ngã, tánh chẳng tịnh diệu. Bờ giác tối thượng, các pháp giải bày. Vận dụng hướng cầu, nhiễm chướng tận diệt. Biết rõ chư Thiên an lạc tịnh diệu. Chúng sinh mê lầm, tà kiến trói buộc, chánh y quả báo, thân tâm đói khát. Thể tánh lìa vọng, dốc sức tạo nhân. Thế gian khó được phước đức rộng lớn. Bố thí tự tại, cầu quả Vô thượng. Lời vua truyền dạy, dứt bỏ tham dục. Tạo nhân bố thí lợi ích vô tận. Tu nhân vô ngã, nghĩa lợi biến chuyển dứt nẻo phiền não. Như vậy chúng sinh (mọi) hý luận đều dừng. Tạo nghiệp thế gian, phiền não bủa vây. Ba cõi thế gian, nương pháp tu hành. Thấu đạt tịch tĩnh, quả báo vô tận.

Căn lành phát sinh, lực dụng bất thoái. Chúng sinh an ổn lìa pháp mê mờ. Hạnh nghĩa lợi sinh, lìa phiền não chướng.

An trụ nhân diệu, xa lìa những gì?

Nhân khổ chẳng tạo, si mê dần mở, đạt được an lạc. Nhân của thắng nghĩa tùy thuận phát sinh. An trụ từ bi, nghĩa của lợi lành. Là lời Phật dạy. Như bày món ăn, nghĩa lợi tự tại, các pháp đầy đủ. Tu tập biến chuyển, lực dụng khế hợp. Thấu đạt bất thoái, xa lìa nhân tranh. Bố thí tại chốn, như mẹ hiền làm. Nuôi dưỡng chúng sinh, nghĩa vụ chân thật, như lời vua dạy là chốn hành động, phiền não không ngăn. Chúng sinh đạt được, tâm Từ hóa độ. Biết rõ chúng sinh theo đường an lạc. Tu pháp bố thí chân thật là thế. Thắng nghĩa tối thượng, rõ lẽ vô ngôn. Thánh hiền xuất hiện, khai thị tự tánh. Tâm thí phát khởi, tu tập rộng khắp. Gốc rễ tam độc, trí tuệ phá trừ. Nuôi dưỡng muôn loài, nghĩa lợi thù thắng. Lời mẹ hiền dạy, lìa mọi nhân tranh.

Tánh Không là gì?

Thánh hiền cùng hướng. Gồm đủ bốn quả (của hàng Thanh văn). Rõ đường sinh kế thực của thế gian. Nhớ nghĩ, nuôi dưỡng, ngôn dung thanh tịnh. Tạo nhân bố thí, đạt được thượng vị. Tịch tĩnh sinh thiện, dứt mọi điên đảo. Lực dụng hòa hợp, thắng nghĩa năng tu. Ngã mạn giảm thiểu, đúng pháp vô tướng. Thấu đạt giáo pháp, nơi chốn tịch tĩnh. Dứt phiền não chướng, lợi lạc chúng sinh. Tập nhiễm dứt trừ, an nhiên tự tại. Tâm dục không dấy, rõ hạnh vi diệu. Mẫu mực nghiêm túc nghĩa lợi tối ưu. Là xứ trí tuệ tăng trưởng không ngừng. Tịnh diệu hiện bày thật đáng yêu quý. Ý của vương giả. Dứt tuyệt ngôn từ, trí tuệ thông tỏ. Phước đức cõi người, lực dụng như thiên, tùy thuận dứt tham. Nghĩa lợi chân thật an lạc như vậy. Chúng sinh đắm dục, vương giả tự chế. Đức hạnh thuận hợp, đúng nghĩa giải thoát. Đạt hạnh thanh tịnh, mong đoạn pháp nhiễm. Báu từ biển lớn, sự theo lý sinh. Khổ vọng nhiễm buộc, đường hiểm khó qua. Theo nẻo vô lậu, dứt các pháp nhiễm. Thực sự hòa hợp, vượt mọi tư duy.

Bồ-tát bố thí, Tôn giả Trang nghiêm diễn bày rõ việc hộ quốc bản sinh thứ mười ba.

Các pháp tịch tĩnh, lực dụng chân thật, thuận hợp tân tu, mong đạt phước báo, khế hợp giáo pháp. Chỗ gọi tùy thuận tức là thấu đạt lời dạy dỗ của Bồ-tát.

Chúng sinh rộng khắp, nghiệp lành viên mãn, lực dụng khế hợp. Các bậc Bồ-tát bẩm thụ Phật pháp, giáo hóa hữu tình chẳng chút nghỉ ngơi, là bậc đạt được trí tuệ viên mãn, giúp hàng hiếu học tham cầu diệu nghĩa, an tĩnh tự tại; là nơi chúng sinh sáng tỏ, thông suốt. Năm tháng dần qua, tri thức tăng thêm. Lực dụng thắng nghĩa, hạnh thí viên mãn. Thu nhiếp hành tướng. Lực đủ độ sinh. Tạo tác tướng mạo. Viên mãn chấn thật. Tu nhân bố thí như biển tràn trề. Niệm niệm tăng lên. Tịch nhiên thường tại, chẳng hề sợ hãi. Khẩu hòa gồm đủ. Mưa móc thấm nhuần. Ao khô nước nhẫy. Bờ giác nhân thực, bao la vô tận.

Tịnh diệu gồm đủ, nghiệp dữ chẳng sinh. Điên đảo hý luận, nhân của ngã mạn. Chỉ theo đường thiện mới trừ diệt hết. Phát khởi tu hạnh bố thí ấy, hiện bày thuận hợp. Nhà cửa thanh tịnh, rộng rãi, thanh thoát. Chi phần tịnh diệu, chúng sinh trú ngụ. Ba nghiệp trọn nên, tạo nhân tự tại, dốc theo nghĩa lợi. Là chốn bố thí, tâm niệm gánh vác. An lạc tịnh diệu, hòa hợp trọn vẹn. Hữu tình đại nguyện, thắng diệu đáng quý. Những lời dạy bảo, thấu rõ từ tánh. Theo pháp Thập thiện, thấu đạt nghĩa lợi. Tu niệm chuyên trì, lực dụng tự đạt. Hóa độ rộng khắp, xem (như) không tạo tác. Ngọn nguồn thiện khởi, ngôn luận chẳng sinh. Cội rễ thăm dò thường không ám độn. Thân xác lưu chuyển, cứu cánh khó đạt. Hành nghiệp hòa hợp.

Thế nào là nhân tu giải thoát đúng nghĩa, thấu đạt, thành tựu?

Hình tướng chi phần chúng sinh đủ loại. Nhân lớn khó làm, cần thêm thần lực. Tự thể phát sinh, cõi tánh gồm đủ. Là chốn vô ngã, ý không điên đảo. Thân xác hữu hạn, tự tánh vô cùng. Chẳng hề luận bàn. Tánh vốn thường hằng, nhân của dòng thác. Tự tánh thành tựu, tất cả như thế. Tạo nghiệp không hợp, chỉ đạt biến đổi (hý luận). Phát khởi diệu dụng, nhân không cấu nhiễm. Chủng loại biến động, hủy hoại tướng mạo. Ví (như) duyên sinh con, bốn tướng chuyển biến. Thảy thảy chi phần, muốn vật muôn loài. Tướng mạo, lực dụng từ nơi phước báo. Nơi ở, chốn học, tâm kia như biển. Là chốn cuộc sống đầy những sợ hãi. Tăng trưởng cùng tận, bình đẳng không phân. Nghe giữ gồm đủ, tu tập pháp thiện. Tùy thuận chúng sinh đều khắp muôn loài.

Thế nào là cấu nhiễm hý luận?

Tu hạnh vọng tưởng, đúng là nghiệp dữ. Tâm ý sáng suốt, dứt ác đầy đủ. Chân thật như biển, sợ, tranh, (hý luận) đều bặt. Giảng dạy bình đẳng, phát khởi thắng nghĩa. Hình tướng tạo tác, đảm đang thích hợp. Lực hòa hợp ấy, an định như biển. Dung mạo rõ ràng như trời quang đãng. Nơi chốn tu học, Thánh lực thêm tỏ. Chân thật kính tin, dứt cõi điên đảo. Khắp chốn hành động, thảy đều hòa hợp, ung dung. Thân tâm an trụ, dứt nẻo luân chuyển. Đường dữ không sa, lực dụng đảm đang. Tu tập vô tướng, xa lánh ác độc. Ví gặp tai họa, độc hại không gần. Trụ tịnh, lìa ác, phước sinh cõi trời. Người người kính trọng, là chốn an định. Giáo hóa muôn người, tâm không vướng mắc. Hình tướng thanh tịnh, khẩu hòa viên mãn. Tịch nhiên tấn tu, đường của an lạc. Tánh của năm uẩn, tùy hiện bao la. Thắng nghĩa chân thật, như biển khó dò. Không nhân, không gốc, vượt cả trước sau. Thiện tịnh khổng tham, ví như biển rộng. Hạnh của Bồ-tát giáo hóa quần sinh. Hữu, vô dừng dứt, trong lặng như biển. Hình tướng (như cõi) hư không, đâu có trong ngoài. Phiền não, chướng lớn, khó thể lìa bỏ. Tự tánh hàm thiện, bặt mọi điên đảo. Bố thí không cùng, đúng nghĩa tự tại. Tùy duyên tu tập, tăng trưởng không ngừng. Si độn buộc chặt ví như độc dược. Thí lớn khó làm, giảm trừ càng rộng. Trí tuệ chân thật, tự tại thung dung. Tu tập tinh tấn, Ba thừa hóa độ. Theo đây mong cầu, tâm ý không nhiễm. Các mạn không dây, Thập thiện song hành. Thanh tịnh dốc tu, viên mãn như biển. Diệu nghĩa Như Lai, hàm chứa chân tánh. Bậc Đại trượng phu không bàn sắc tướng. Thọ giữ chánh pháp, đứt bỏ ngã tướng. Xứng bậc thầy mẫu (mực) thường luôn xa lìa (ngã tướng). Tướng xưa nay (vốn) không, dung mạo phát sinh. Trong lặng an nhiên, nhiếp thấu như biển.

Không bàn sắc vọng. Không tạo buộc ràng, sắc tướng hòa hợp, tự tại như vậy. Hội nhập cõi tịnh, xa lìa hý luận. Chi phần khắp chốn chẳng hề tổn hoại, ngôn luận cũng bặt. Nhân, Phi nhân các nẻo, thân tự xa lìa. Thiện, ác, vọng nhiễm thảy đều vượt qua. Đúng nẻo bất nhị, ma chướng tự tiêu. Ô nhiễm chẳng sinh, như biển sâu rộng. Tự tướng ung dung, bỉ thử đều vượt. Nhân không giới mốc, hý luận thảy dừng. So sánh thí dụ nào đủ diễn đạt. Ngọn nguồn đã tận, điên đảo cũng không. Là chốn phiền não không nhân thiện diệu. Nghiệp tạo dứt tranh (hý luận) hình tướng không hiện. Biến chuyển trọn nên, như biển không bờ. Tự cầu quả báo, không hạnh bí, diệu. Hình tướng nhiễm buộc là điều đáng sợ. Hạnh thiện chẳng tu, phiền não là thế. Luận thuyết rốt ráo, trí tuệ hội nhập. Lâu dài hợp phần, hình tướng đều không, nơi chốn thênh thang. Ăn năn, lìa vọng, thâm tâm tịch tĩnh, xa lìa tranh (hý luận) buộc. Thường không dừng dứt, (nên) nhiễm buộc làm gốc.

Thế nào là nhân trói buộc, khó có thể giáo hóa?

Hữu tình hòa hợp, không nhân tu thiện. Các pháp thanh tịnh, chủng loại xuất hiện. Nơi chốn chân thật, bỉ ngã chẳng thêm. Như biển chứa vàng, nơi chốn tùy thuận, xuất hiện biến chuyển, loại loại trang nghiêm. Như lửa bừng sáng, dung mạo thêm tỏ. Thiện diệu diễn đạt, thế gian khó sánh, ví như biển rộng. Nghiệp dữ như lửa, khó lường như biển. Thường khỏi trói buộc, lực dụng rộng lớn. Ân dạy như mẹ vổ cùng chân thật. Hóa độ thế nào khỏi vướng dòng thác. Hình tướng tự tại, không tu nhiễm, tranh. Hành trì Thập thiện. Bố thí chúng sinh. Tu tập khế hợp, trí tuệ như biển. Dưỡng nuôi muôn loài, yên vui không bỏ. Hý luận dứt bặt, thắng nghĩa viên mãn. Lực dụng tăng trưởng, hình tướng không bày. Lực dụng mẫu mực, thiện diệu như thế. Sinh kế bôn ba, tâm luôn thư thái. Ngôn ngữ thanh tịnh nghĩa lợi chúng sinh. Tạo nhân không nhiễm, các hạnh viên mãn. Thường nên buông xả. Tịch tĩnh vô tướng, diệu dụng như biển. Đủ nhân thiện tịnh, phiền não hằng đoạn. Trói buộc tánh không, giảm trừ hý luận. Tăng trưởng, phát huy, mênh mông biển rộng. Bồ-tát tu hành năng lìa nhân nhiễm. Hành tướng hiện bày, tự tại phát sinh. Tạo tác ung dung, nhân tu phát khởi.

Thế nào là bố thí thù thắng, đạt được phước báo vô tận?

Là nơi chân thật, thảy thảy nơi chôn, tướng mạo, thân tâm, đều được an định. Pháp bí mật của Như Lai chân thật vô sinh. Nhân thù thắng trọn, phát khởi thuận hợp. Yên vui vô tướng, pháp vượt thế gian. Chúng sinh nương tu, đạt vô tranh biện (hý luận) đúng nghĩa giải thoát. Dòng thác xấu ác, ý kiêu đều dứt, như hạnh mẹ hiền. Nghiệp dữ, bệnh nạn do tự trói buộc. Dứt bỏ vọng tưởng, tu hạnh Như như. Diệu dụng thanh tịnh khó lường như biển. Tạo lập pháp đàn bày lý vô tướng. Hành nghiệp vô ngã, mong đạt sở nguyện. Diệu dụng tịch tĩnh thù thắng như vậy. Căn bản vô tướng vô ngã, tịch tĩnh. Trí tuệ như lửa, phiền não như củi. Chúng sinh lĩnh hội tu ba loại hạnh.

Lực dụng tịch tĩnh, thu giữ phước quả. Nhân thật phiền não không do ý tạo. Tùy thuận bình đẳng hướng xuất thế gian. Thắng nghĩa tịch tĩnh, tạo nhân chuyển biến. Dốc sức thọ trì, dứt mọi tạo nghiệp. Như vậy sân, phẫn là căn, tùy phiền não, diễn biến khó dứt. Nghiệp dữ hướng cầu, càng khó dừng dứt. Hủy hoại pháp tịnh, ruồng bỏ mẹ hiền. Là chốn khiến ta tạo nghiệp đen lối. Chúng sinh nặng nghiệp, giáo pháp khó truyền. Giữ hạnh thuận hợp, tạo được an lạc. Lưu chuyển không hoại, mong khỏi đói khát. Thấu đạt thắng nghĩa, khó nào cũng vượt. Tu chân giải thoát, thông tỏ ngôn hành. Thanh tịnh bất thoái, nên hạnh chân thật. Hư dối, chân thật, tự tánh chuyển đổi. Nghĩa lý khó đạt, dốc tu tịch tĩnh, ngộ lẽ “bất khả đắc”. Trí học tâm tu, siêng năng cầu quả. Thanh tịnh hiện bày, tĩnh trụ tự tại. Tu tập như vậy mong dứt vọng, nhiễm. Ngôn ngữ khế hợp, phiền não lánh xa. Cứu cánh thiện tịnh, thuận hợp chân thật, tâm Bi gồm đủ. Chân như vi diệu, thường trụ viên mãn. Tùy thuận đức hạnh… chúng sinh nhờ đấy đạt được tĩnh trụ tương ưng bất thoái, nơi chốn thanh tịnh.

Nhiễm, tranh dứt tuyệt, khiến tâm tự tại. Nhân ấy không mất (chỉ vì) ngu si (nên đã) dứt bỏ. Lực dụng viên mãn, mọi vọng tưởng tiêu. Thấu đạt ngôn thuyết, hình tướng hòa hợp.

Cõi rộng như biển, không trí khó dò. An trụ thích hợp, không theo dòng thác. Là nơi chúng sinh không người thương dẫn, hủy hoại bố thí, ngôn luận quấy càn. Tịch tĩnh (nhận ra tính chất) không thật, phát triển tu nhân. Đủ sức đảm đang, chuyển biến vô tận. Không nhân không thật (là gốc của) si mê, nghiệp dữ. Đạt (quả) báo thắng diệu, hình tướng đủ loại. Xứ không yên tĩnh, làm sao giáo hóa? Là chốn thanh tịnh tột bậc, khó sánh. Bồ-tát diệu dụng tối thắng, tạo tác chi phần vô tận. Thanh tịnh cúng dường, tùy thuận đàn pháp. Trì chú bí mật, theo đúng phép tắc. Chúng sinh dứt khổ, ba nghiệp thanh tịnh. Tu hạnh vô tướng, không chấp văn tự. Rõ pháp vô ngã, thanh tịnh an nhiên. Trí tuệ tăng trưởng, soi sáng tư duy, tâm ý thông tỏ, dứt mọi hý luận. Lực dụng không đạt, phước tu chẳng gắng. Đói khát trói buộc, đảo điên tự tánh. Là chốn chấp ngã, phải cố xa lìa. Phước đức thù thắng, từ nhân sinh khởi. Thể tính nhân duyên, tai họa chẳng sinh. Bỉ thử không giảm, chấp ngã càng tăng. Phiền não đã sạch, luân hồi tự lìa. Gốc rễ đã chặt, cành ngọn ngã theo. Dòng thác tạo nghiệp hết nơi sinh trụ. Là chốn phát khởi ngôn thuyết rộng khắp. Đạt được sắc tướng tịnh diệu thù thắng. Nghiệp dữ biến chuyển khó thể dự lường. Quan sát chân thực, lìa mọi hư ảo, là chốn tỏ ngộ sinh nhân hỷ thọ. Tạo dựng pháp đàn trong lành đáng quý. Hình tướng chân thật (khiến cho bậc) vương giả sinh thiện. Hóa độ chuyển biến tổn hại không dừng. Tùy thuận thích hợp, an lạc dứt mạn. sắc tướng tươi sáng như thế ít có. Giáo pháp quý giá giữ gìn không mất. Tinh tú quần tụ chiếu sáng muôn nơi. Nghiệp đạo chuyển biến, nghiệp dữ giảm bớt. Dốc tu thanh tịnh theo lời Phật dạy. Hành tướng dòng thác, không nhân dung bồi. Nghĩa lý hiểu biết, phiền não như biển. Si độn hý luận, nhiễu loạn khó dừng. Hóa độ như vậy, lâu dài vô tận. Vật dụng tạo ra, bố thí nghèo đói. Nơi ở tịch tĩnh, kẻ xấu không gần, là chốn thanh tịnh, thiện diệu rôt ráo. Trí tuệ thông tỏ, dứt mọi buộc ràng. Tùy duyên thuận hợp tu hạnh Thập thiện. Châu báu nhân ái xứ xứ hiện bày. Lực nhân vô tận, các pháp hòa hợp. Tâm tùy tự tánh, phát sinh gắn bó, là chốn nguồn sáng căn bản phát sinh. Hình sắc viên mãn, xa gần hiện đủ. Y báo, Chánh báo, tướng mạo phát sinh sắc tướng viên mãn. Cõi trời trang nghiêm, nương giáo pháp tu. Lìa bỏ pháp tà, tin lẽ nhân quả. Nương tựa bạn lành, tu tập trọn vẹn, dứt nghiệp luân lưu, ý nghĩa là vậy.

Bồ-tát bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh quảng diễn nghĩa thứ mười bốn.

Giữ giới tu hành tinh tấn không giảm. Ngày đêm chuyên trì, thanh tịnh bất thoái. Chỗ gọi tùy thuận là thấu đạt lời Bồ-tát chỉ dạy.

Thế nào là hành tướng hợp phần?

Giáo pháp Đại thừa, mẫu mực tu hành. An trụ tịch tĩnh, lìa mọi sợ hãi. Chướng ngại chẳng nề, tâm không thoái chuyển. Cả mọi thanh sắc đều không tham đắm. Tự lực thích ứng, hạnh không thay đổi. Nhận ra vọng tưởng, tu tập nghĩa lợi. Xứ sở tùy thuận, cõi nhân an lạc, hòa hợp đích thực. Nơi chốn thanh tịnh, tạo tác nghiệp hành. Cõi ấy như vậy (là) thấu đạt cùng tận. Các pháp si độn: căn, tùy phiền não, trói buộc chúng sinh như loài độc dược. Nên phải tu hành đạt đến giải thoát.

Bậc đại hữu tình tu tập các tướng.

Thế nào là tùy thuận hướng tới thắng nghĩa, có thể dứt trừ mọi cấu nhiễm?

Không hành bố thí, theo pháp si độn, đích thị là nhân của kiếp luân hồi. Lìa mọi sợ hãi, dứt tướng kiêu mạn, rõ nghĩa thanh tịnh, tối thượng tột cùng. Ngôn ngữ phát sinh, quyết rời sáu nẻo, là nơi chúng sinh tu hạnh bố thí. Hình tướng phước đức tùy tâm phát sinh, như con nương mẹ, được tướng quý giá, là chốn tịch tĩnh, quả báo thù diệu, thanh tịnh đáng yêu, do nhân từ trước. Tạo tác mong đạt hình tướng như vậy. Chi phần bình đẳng, phát khởi hòa hợp. Tu hạnh bố thí, thực hành làm gốc. Hăm hở tùy thuận, tu tạo tướng nhân. Phát khởi bố thí, thanh tịnh tột bậc. Tăng trưởng tột cùng, sức đủ thi thố. Xa lìa tánh nhiễm, vọng tưởng, trói buộc. Tạo tác hòa hợp, nghĩa lợi tịnh diệu. Dũng mãnh dứt mọi hành tướng dòng khác. Là cõi Bồ-tát hiện bày diệu dụng. Hành hóa như vậy thù thắng viên mãn. Hình tướng trang nghiêm, chúng sinh kính yêu. Hành động tự tại thiên trụ thuận hợp. Từ bi dẫn dắt tất cả chúng loại. Tạo tác tịch tĩnh, nghĩa lợi thù thắng. Lại phải xua mọi si độn, đảo điên. Phiền não vây bủa, đâu phải một nơi. Câu kết, biến chuyển, hủy hoại pháp thiện. Giáo hóa (hạng chúng sinh) si mê, ám muội như thế. Lại nên xa lìa mọi thứ phiền não cùng bao tác hại của chúng. An trụ khế hợp, công năng tu học. Chướng ngại không sinh, pháp nhiễm tự dừng.

Thế nào là ân mẹ hiền nuôi dưỡng?

Xa lìa kinh sợ, đạt cõi trong lành. Nên thu Thập thiện, thương yêu cứu vớt. Bình đẳng không lệch. Khắp cõi, khắp thời thực hành ái ngữ. Tư duy đúng nẻo, không theo vọng nhiễm. Vương giả như trời, mưa nhuần đúng tiết. Là chốn thuận hợp, hữu cầu tất ứng. Bày biện cúng dường, phước được lớn lao. Chánh pháp thanh tịnh, trời rồng phụng kính. Đủ sức tùy thuận, hòa hợp như mật. Hình tướng chi phần, tịch tĩnh như cõi không, tâm ý thông tỏ. Ngôn ngữ căn bản diễn đạt như thế. Vọng tưởng giũ sạch, hương khí xa bay. Hý luận lặng dừng, dứt trừ tướng nhiễm. Tu tướng thắng nghĩa tận cùng là vậy. Như mây che khắp, lực dụng căn bản, tự tánh hiện bày mọi vẻ phước báo. Chủng loại tăng thêm, xa lìa đói khát. Ngôn ngữ giải thoát, tịch nhiên xa lìa. Hương khí tỏa lan, muốn ngàn hình trạng, trùm khắp hư không, tận cùng các nẻo. Thọ dụng quả báo, chân thật sung mãn. Lớp lớp si mê trừ diệt chẳng sinh. Tạo nhân vi diệu, rõ nghĩa giáo hóa. Dòng thác điên đảo, si độn trói buộc. Vô minh vọng động chuyển biến thành nhiễm, là chốn Bồ-tát tăng trưởng nhân thắng quá khứ. Tướng mạo tự tại, lực dụng tịnh diệu. Các pháp bình đẳng, thành tựu viên mãn, đạt chốn thanh tịnh, không còn sợ hãi. Dạy bảo đúng cách, vọng nhiễm đều sạch. Bao lớp trói buộc, nghiệp dữ thảy dừng. Thắng nghĩa thậm thâm, tối thượng phát sinh. Như Lai chứng đắc tự tại, bất thoái, các báu trang nghiêm, rực rỡ sáng ngời, thù thắng tột bậc, thấu đạt các pháp.

Oán báo Thiên đế phi đẹp, hậu quý, ngôn thuyết giảm thiểu.

Thời ấy gồm đủ. Tùy thuận rộng khắp, nguồn ngọn si mê, lại không tịch tĩnh. Xa lìa chướng nhiễm, buông lung quá mức. Hình tướng như cõi không, hòa hợp thế gian. Nơi chốn tạo tác, phát khởi vọng, nhiễm. Tâm kia mờ tối chẳng tạo nhân lành, đức hạnh hữu tình thanh tịnh, thuận hợp. Trói buộc như vậy, tâm ý tán loạn. Ba tánh của tâm xen tạp mà có. Tu thiện, lìa vọng, chướng nhiễm không còn. Đạt được như vậy, giới đức tu hành nhân ngã cùng tăng. Xa lìa tranh, nhiễm, ngã pháp chân thật. Tán dương giữ giới, giới luật viên mãn.

Bồ-tát bố thí, thêm vẻ trang nghiêm, Tôn giả hộ quốc bản sinh quảng diễn nghĩa thứ mười lăm.

Thuyết pháp chân thật, viên mãn, lực dụng hòa hợp vô lượng vô biên. Phiền não như lửa, hình tướng hợp nhất. Chỗ gọi là thấu đạt lời dạy bảo của Bồ-tát, chân thật như bạn lành, các pháp không tranh, hòa hợp như vậy.

Đêm tối vọng tưởng, nhiễm tranh tăng thêm.

Xa lìa (mọi) phiền não, chướng ngại nhiễm buộc, hình tướng mờ mịt, chi phần lộn xộn, tạo lại bình đẳng.

Như tâm của cha yêu nuôi con trẻ. Thấu chứa công đức, ba thời không vướng. Lực bố thí ấy, tu tập tối thượng. Pháp lìa hý luận, chúng sinh ghi nhớ. Như ân dưỡng dục của bậc cha lành. Chư Thiên cõi Dục còn tham, sân, si. Tất cả phiền não theo đấy phát sinh. Ngăn chặn cản trở các pháp thắng định.

Thắng nghĩa chân thật, bao la như vậy. Bình đẳng tăng trưởng, dứt mọi nhiễm, vọng. Đây cầu, kia buộc, tạo nhân xa lìa. Pháp vốn như như, dứt mọi biến chuyển. An lạc tịch tĩnh, pháp vốn thường trụ, tâm không ưu khổ, an lạc tự tại. Thế Tôn thượng diệu, khẩu pháp như hoa sen thơm. Giải thoát đúng nẻo, phiền não đoạn sạch. Ba nghiệp thanh tịnh, vi diệu thậm thâm. Nhân ám độn, chướng, si mê thảy dứt. Hình tướng thiện diệu, thanh tịnh hiện bày. Thọ mạng an định gồm đủ phước đức. Lìa mọi tà pháp trói buộc chúng sinh. Lực dụng tịch tĩnh thể hiện bình đẳng. Thể tánh thường tại, dốc lòng tu tập. Hình tướng chi phần không gây phiền não. Cõi ý thanh tịnh, bình đẳng, an lạc. Hình tướng hợp nhất, tâm được sung mãn.

Thế nào là si độn, không tâm bố thí?

Chúng loại thấp kém dễ sa hý luận. Quả báo thích ứng, an trụ yên định. Phiền não như lửa thiêu đốt căn lành, nhân ác khó dừng. Giáo hóa tạo nhân, chi phần chẳng bận. Bình đẳng trọn đủ, hòa hợp bất thoái. Lực dụng bố thí, tiếng tăm chẳng màng. Lại tạo phiền não làm nhân ngã mạn. Buổng theo nhiễm, chướng, si độn phát sinh. Là chốn đủ lực, việc khó không sửa. Thắng nghĩa viên mãn, nhiễm vọng đâu còn. Bố thí tạo nhân, tướng nghĩa trọn đủ. Theo hạnh Bồ- tát, giáo hóa, tu tập. Như vậy là hàng đại hữu tình dứt sạch chấp ngã. Thắng nghĩa phát sinh theo đúng Thánh pháp, thù thắng thêm tăng. Tánh vốn không nhiễm vọng tưởng phiền não. Thấu rõ chẳng tạo tánh của dòng thác. Toàn cõi phiền não tinh thô trùm khắp, thường không gián đọan. Chỉ rõ tự tánh viên mãn đúng thực. Hàng đại hữu tình phát sinh hạnh thiện. Ngọn nguồn nghiệp dữ lưu chuyển không cùng. Dứt nhân điên đảo, tịch tĩnh hiện bày. Quảng diễn nghĩa lý, không nhân trói buộc. Trí tuệ như lửa thiêu củi phiền não. Truyền dạy lời Phật, tịch tĩnh bất thoái. Thân thể chi phần, sắc tướng thượng diệu.

Phát tâm bất thoái, vô tướng, không buộc, tu nhân thù thắng, tĩnh trụ như biển. Căn bản phát sinh, mong đạt chân thật. Luôn nhớ bố thí tùy thuận tướng nhân. Tự tánh viên mãn, chân thật hoàn hảo. Nhân tịnh diệu trọn, rực sáng như lửa. Lực dụng đích thực, tu hành dứt nhiễm.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, hạnh của Tôn giả hộ quốc bản sinh thứ mười sáu.

Không tu chướng nhiễm, phát khởi hành giải, nhận rõ si độn, dứt trừ điên đảo, lìa bỏ tạp thuyết. Đó là tùy thuận các bậc Sư trưởng, phát sinh lãnh hội.

Các hạnh Bồ-tát hình tướng thế nào?

Theo đó phát sinh bi nguyện rộng lớn, an trụ hiện bày, thông suốt trọn vẹn. Dứt mọi vọng tưởng, trừ hết Thiên ma. Không nhân vọng loạn, hành nghiệp tạo tác. vỗ về các loài, diệt trừ nhân độc.

Gọi là dứt nhiễm. Bi lực tự tại thế gian khó sánh. Vi diệu, hòa hợp, hướng xuất thế gian. Căn lành vô tận, vọng nhiễm không sinh, thâm diệu khó đạt. Chúng sinh tạo nhân, hành giải gồm đủ. Tu hạnh thắng nghĩa, tự tại hiện bày, là cõi thấu đạt. Hữu tình thế gian, tâm không trừ diệt cấc tướng tham dục. Phật đại từ bi, tâm nguyện cứu vớt, hiện tướng bạn lành, chỉ nẻo an vui. Nương lời chỉ dạy, phiền não không sinh. Ba độc không dấy, thấu rõ lợi ích. Chi phần tăng trưởng, đói khát đổi thay. Hý luận, mười ác, tất cả đều dứt. Chướng ngại, tai nạn cũng đều không sinh. Lại nhận rõ nhiễm, độn, thế gian không thật, mười pháp bất thiện không rời đói khát. Nhân vọng phát khởi, nghĩa lợi chẳng đạt. Mẹ hiền thấy con ưu sầu chẳng bỏ. Trí tuệ thấy rõ cõi tánh chân thật, phiền não tự dứt. Bậc vương giả ấy trị ở cõi đời. Năng lực rộng lớn, đói khổ chẳng còn. Sùng tu chánh pháp, viên mãn, bất thoái. Biết rõ phạm hạnh, ngã mạn không sinh. Si độn chẳng còn. Lực dụng tăng trưởng, nơi chốn đầy đủ, tự tại viên mãn. Bạn bè thích hợp, trí lực tròn đầy, Thanh tịnh đều khắp, diệu dụng tuyệt vời. Tâm ý không nhiễm, thấy rõ tướng xấu. Tu hành đoạn nhiễm, trí tuệ phát sinh. Tin theo nhân quả, nương lời Phật dạy. Tất cả chúng sinh đùm bọc dưỡng nuôi, chỉ dạy nhân quả. Lại tạo vật dụng, ví như lọng phủ. Hình tướng nuôi dưỡng là nghĩa chở che.

Thế nào là hình tướng?

Hành động hòa hợp, dứt bỏ hý luận. Như xứ có vua, đất nước thịnh trị. Ngôn ngữ truyền dạy, tạo tác thù thắng. Nghiệp dữ, điên đảo như thế đều dứt, các loại cô quả dưỡng nuôi đầy đủ. Lại tạo nhân từ gốc, diệt nhiễm, không gây xáo trộn đổ vỡ cho đời. Chúng sinh tự đạt, tịch tĩnh không lời. Hiểu biết chân thật, thắng nghĩa cõi hành. Hình tướng hợp nhất chúng sinh dứt mạn. Khổ thọ thế gian tất có nguyên nhân, không phải xuất phát từ điều huyền bí. Không như lệnh vua ban ra sai khiến. Có đủ nhân phước, đức hạnh tròn đầy. cấu nhiễm, hý luận phải được dứt trừ, thế gian thành chốn vun trồng phước nghiệp. Luận đàm, tranh biện, phàm phu khó dứt. Thuận theo thắng nghĩa, thanh tịnh dứt nhiễm. Tri thức sung mãn, phước đức bao trùm.

Thế nào là thuận hợp bất thoái?

Hữu tình tịch tĩnh, ngôn thuyết đều dừng. Bậc đại vương giả lãnh hội chánh pháp. Phát triển đầy đủ, lìa mọi tà thuyết.

Thế nào là đúng nghĩa giải thoát chân chính?

(Bậc) hữu học hướng cầu, phiền não vô tận. Gốc sinh theo loại, hành động tạo nên điên đảo dẫy đầy. Hợp với ngã mạn (làm) gốc rễ tự tánh. Chúng sinh phiền não tràn trề khởi hợp. Ghi, nhớ, nghĩ, giữ, xửa nay không sót. Diệt rồi lại sinh, biến chuyển không cùng. Nhân từ xa xưa, gặp duyên mà khởi. Vuông, tròn các thứ trí tuệ tỏ ngộ. Trong lặng, yên lành tâm kia tự tạo. Đạị thừa tối thượng, trí không thể đạt. Hành tướng trói buộc, Như Lai hằng dứt. Thể tánh bao la, biến chuyển chẳng cùng. Nhân diệu thanh tịnh, tịch nhiên không đổi. Tâm được giải thoát vốn chẳng bóng hình. Trí vượt hữu, vô, ngôn từ nào kịp. Pháp tánh thanh tịnh, vi diệu khó đạt. An định lìa sợ, vượt mọi giới mốc. Nơi chốn yên ổn, nghiệp dữ chẳng sinh tạo nghiệp điên đảo. Hình tướng tối thượng, lực dụng căn bản, Thân tâm hiện bày, uy dung đáng kính. Tự tánh vi diệu hợp nhất, dung thông. Hý luận càng dấy, giáo pháp chẳng sinh, xứ sở thiếu kém, phiền não trói buộc. Nhớ nghĩ không dứt, si độn tận cùng. Trí tuệ diệu bày, chủng loại sung mãn, hình tướng thuận hợp, hóa độ nên công, mẫu mực nghiêm túc, tộc loại quý kính; tu hạnh vô thường trụ Như Lai tánh, tối tôn tối thượng, gốc rễ thân tâm, dung mạo tịnh diệu, bóng hình tịch tĩnh.

Lực nhân tự tánh viên mãn như vậy, đủ sức tu tập đạt trí tuệ thực. Nhân duyên hòa hợp, lìa buộc là chính. Tâm sinh căn bản các pháp mẫu mực, lực dụng bố thí vì đạo, xa lìa tất cả. Tất cả các loài, mong đường hòa hợp. Thảy đều tu hành, phiền não từ khước, lìa bỏ nẻo trời. Xa lìa ngã mạn, nhân thắng đạt được. Gốc rễ ba tranh cùng buộc ngã sinh. Đúng nghĩa giải thoát, xa lìa tất cả. Nhiễm buộc, tịch tĩnh, tạo tác chân thật. Điều phục tu tập, tạo nghiệp thanh tịnh. Hành, giải gồm đủ, mạn không thể dấy. Trí tuệ thông tỏ, nhân thắng nên tu. Tịch tĩnh ưu việt, sáng rỡ không giảm. Trí tuệ hiện bày, hòa hợp an định. Tiến tới, trọn nên, linh động không bỏ. Tu tuệ viên mãn, ý càng thấu đáo. Tham ái mênh mông, chỉ trí nên lìa. Diệu lý thâm diệu, vốn chẳng sinh ra, cũng không thể hoại. Đúng nghĩa an lạc là dứt (nẻo) trôi lăn. Cõi tánh như vậy luôn được an trụ. Hình tướng căn bản, hiện bày khó đạt. Đức hạnh thắng nghĩa tịch nhiên như như. Tự thể Như Lai hằng đoạn phiền não. Si độn, khổ não, địa ngục khó chịu. Quả báo ngạ quỷ, lo sợ khó thoát. Vô ngã thuận hợp, lực dụng hiện bày. Thanh văn động chuyển, Đại thừa an trụ. Giải thoát chẳng sinh, Giới luật đâu bận. Hăm hở bố thí, mong cầu không đạt. Cha lành thế gian điều phục chẳng cùng. Tánh giới, trì, phạm dứt bỏ nhân nhiễm. Trí thông vô tướng, phiền não chẳng sinh. Đức hạnh như như, tịch tĩnh hiển hiện. Bốn quả Thanh văn, thắng nghĩa chân thật, là xứ có vua tu hạnh đàn-na. Như dòng thác lớn, phải dốc sức tu. Tuy có bố thí không mong phước báo. Hạnh thí vô tướng, ngọn nguồn thuận hợp. Ăn uống đầy đủ, hành đàn rộng khắp. Kiêu, phóng chẳng dấy, muốn dân trong nước hớn hở vui mừng. Lệnh dạy mẫu mực thấm nhuần mọi nẻo. Hạnh bố thí ấy, tịnh diệu kính tu. Tế độ quần sinh chính là đại thí. Làng xóm, thị tứ trong nước ước tính năm ngàn. Lệnh ban khắp nơi theo bậc Đạo sư, là bậc Mẫu mực thảy nên tu tập. Nước ấy giàu có, đạo đức tốt đẹp, đời thật ít có. Lời thiện ban bố. Là nước có vua. Việc nước theo gốc, giỏi trị khắp cõi còn, mất, bỏ, theo thảy đều cân nhắc. Việc nay, phép xưa luận bàn thích đáng. Chú trọng sự thật, tạo tác an nhiên, hình tướng đều đạt. Chi phần thuận hợp, theo pháp lệnh truyền. Lời bậc vương giả ban bố cặn kẽ. Bậc vương giả ấy có đủ trí tuệ, lực dụng thù thắng, đâu cần bạo lực. Tu tập thù thắng, trời giúp bậc ấy. Hành, giải gồm đủ, kiêu mạn chẳng sinh, thuận hợp trọn đủ.

Thế Tôn như vậy ở thời xa xưa. Không đến không lại, sắc tướng viên mãn.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, trang nghiêm xứ ấy, Tôn giả hộ quốc bản sinh nghĩa quảng diễn thứ mười bảy.

Giới luật tịch tĩnh, dứt mọi vọng tưởng. Giới pháp trong lành năng trừ nhiễm buộc. Đó là tùy thuận thấu đạt.

Các bậc Bồ-tát thảy đều an nhiên, dung mạo hòa hợp, an định, thường trụ. Nơi chốn tịnh diệu, các chúng bình đẳng, tịch tĩnh chân thật. Hành trang phạm hạnh, học xứ thanh tịnh. Bạn lành các vị trí tuệ tăng trưởng. Tự tánh xưa nay, tu tập tự tại. Thanh tịnh chân thật, hình tướng vẹn toàn. Tùy thuận thế gian, (khai thị) trí tuệ chúng sinh. Dung mạo trang nghiêm, tột vời khó sánh. Cõi người thấu suốt, sáng tỏ đáng yêu. Bờ giác trong lành, nhiễm buộc thảy diệt. Trí tuệ thiền định diệu dụng vô biên. Dòng thác phiền não Như Lai đã trừ. Thế gian si độn, như vậy khó thoát. Do không có trí, chỉ mong lực dụng. Nhận rõ pháp vọng, tri kiến chân thật. Đức hạnh tối thượng, ngã mạn không buộc. Phiền não pháp sinh, có trí tuệ trừ. Xuất gia tu học, bậc đại hữu tình. Đắm yêu xứ sở chỉ nhận lấy khổ. Lìa bỏ chánh pháp, đam mê dục lạc. Tu hạnh bố thí, cõi ý an lạc. Tu hạnh bố thí, bình đẳng tăng trưởng. Hơn cả bố thí cho trăm ngàn Sa-môn cùng Bà-la-môn, đó là công đức bố thí. Như A-la-hán trí tuệ viên mãn, công đức không khác. Làng xóm xa xưa, tùy thuận thích hợp. Chốn ngự (của bậc) vương giả biến chuyển, an trụ. An lành, thượng diệu, tùy duyên bất biến. Thiền định cõi sắc, cội nguồn nhận rõ. Hội nhập thanh tịnh, tướng nhân tịch tĩnh. Thể của thân tâm, năm uẩn biến chuyển. Hình tướng tịnh diệu, lực dụng tự tại. Như A-la-hán ứng hiện tối thắng. Công đức xuất gia, theo pháp thực hành. Trí diệu thanh tịnh, các mạn chẳng sinh. Tướng nhiễm đã dứt, thọ trì kinh điển. Tướng mạo biến hóa, thân tâm đổi thay. Trí tuệ phát sinh, lìa xa trói buộc. Tịnh diệu hiện bày, đạo đức hơn hết. Thấu đạt thiện tịnh, xa lìa ồn tạp, trong lặng như trăng. Là chốn phát sinh ý lành bất thoái. Như nhớ cha lành ân đức vô bờ. Thiện, tĩnh trọn đủ như (mùa) xuân sinh dưỡng. Cha lành yêu con thường không rời bỏ. Nơi chốn hành động ngôn ngữ thuận hợp. Khéo léo điều phục (các) hình tướng đảo điên, tịch tĩnh mênh mông, giới mốc vô tận. Tán thán công đức như núi cao vời. Năng lực thanh tịnh, khó dùng tên gọi. Sinh linh cõi nước, trí tuệ an lành. Xứ sở diệu kỳ, si độn vắng bặt. Công năng diệu dụng, Thánh hiền bày rõ. Dốc tu thượng diệu, an trụ, yên định. Bạo lực trói che phải nên xa lìa. Nữ nhân, gốc ngọn âu sầu đáng sợ.

Chúng sinh do đâu dễ sinh tham ái?

Mầu mực nghiêm túc không tạo nhân ấy. Mong được dứt sạch, tăng trưởng tự độ. Thắng nghĩa mong đạt, cứu vớt muôn loài. Nghĩa lợi thấu đạt, thanh tịnh chân thật. Như ý mẹ hiền khéo dạy các con. Đó chính là điều không hề biến đổi. Chúng sinh thế gian (cần được) điều phục như thế. Tạo nghiệp đầy đủ, an lạc tự tại, chân thật tăng trưởng.

Thế nào là đạt được an lạc tận cùng?

Vui mừng hớn hở tạo việc an lành. Là xứ các vị Bồ-tát căn bản mong đạt các hạnh an lạc.

Đạt trí vi diệu, lìa trói buộc, nhiễm. Trao dạy học thức chân thật vô thượng. Dạy dỗ tri kiến an lạc như vậy, từ đấy đảm đang tế độ hữu tình. Ngôn thuyết vô tướng, tâm sinh an lạc, nghiệp dữ không còn, tạo nghiệp bố thí. Gây nhân Thập thiện, điều phục khắp chốn. Thắng tuệ an lành như mẹ hộ niệm. Đó là như tánh an lạc chân thật. Nhân ấy tăng trưởng, quả báo thắng diệu. (Nhưng nếu) dấy ‘Tăng thượng mạn’ (mọi lẽ) vi diệu ắt dừng. Pháp của ‘Thánh tánh” căn bản là thế. (Chỉ nương vào) nghĩa của nghe, giữ, pháp khó thể đạt. Tự tánh chúng sinh, phàm Thánh chung dòng. Không bỉ, không thử, ngã mạn cũng dứt. Nhân gốc nào có, (nhưng) bày hiện đủ đầy. Vọng tưởng đùa cợt biến chuyển như vậy. Nhân bố thí kia, gốc của an lạc. Trí diệu thanh tịnh (là) nhân lành xuất thế. Các pháp giáo hóa động tĩnh cùng tiến. An lạc, không mạn, hưởng cầu đúng pháp. Tự tại an nhiên, đúng nẻo đạo Phật. Nhân gốc thành tựu, mong đạt không tranh (hý luận). Các pháp ấy giúp chúng sinh lìa lỗi. Tôn kính Thánh hiền, hoan hỷ cúng dường. An tĩnh vui thích chân thật viên mãn. Thắng pháp dốc tu, công quả chóng thành. Thắng nghĩa tự tánh, ngọn nguồn tịch tĩnh. Ý tịnh không sinh, chân thật khó trụ. Tự tánh pháp ấy, tịch nhiên an lạc, thể vượt hữu vô, trí diệu bình đẳng. Tu tập thuận hợp, an lạc tịnh diệu. Thể tánh thanh tịnh, trang nghiêm như vậy, giúp chúng sinh giải thoát, giác ngộ. Khổ não không còn, trói che cũng hết. Thắng nghĩa căn bản, mong đạt bất thoái. Ba loại nhiễm buộc, tạo tác chẳng sinh. Mẹ hiền sung sướng, làm sao lìa bỏ? Thấu đạt động tĩnh, không ngừng cầu an. Phiền não, độc nhiễm, si độn che buộc. Lực an lạc thiếu, ngã mạn dấy tăng. Nơi chốn thanh tịnh, pháp tánh thường trụ. Nhân duyên các mạn cầu chẳng thể được. Bạo lực, khổ não, si độn trói buộc. Thiện tịnh hòa hợp, tĩnh lặng, xa lìa. Trong lặng, mẫu mực giống cõi thái hư. Ngã mạn, si mê dấy tăng, đáng sợ. Hình tướng đổi dời, tịch nhiên an lạc. Cho dù đói khát trăm mối bức bách, khổ não thường xuyên trói buộc như vậy, (Bồ-tát) hóa độ quyết không dừng nghĩ, Thấu tánh phiền não ắt được an lạc. Ngộ lẽ vô tâm, theo hạnh như như. Bờ giác thanh tịnh, Thánh nhân an trụ. Phân tích nghĩa lý, nên dựa trí lực. An lạc tịch tĩnh, tâm lặng dạy truyền. Tham dục, hý luận, gốc của phiền não. Trói buộc bỉ, thử, trí tuệ khó sinh. Dũng lực cha lành, nơi chốn khuyên dạy. Dòng thác gặp duyên, ý kiêu liền khởi. Kẻ học giữ luật, bậc đại hữu tình. Tâm thiện hòa hợp, giới hạnh thanh tịnh. Dứt sạch phiền não, chỉ bậc A-la-hán. Trừ bỏ hình tướng che buộc chẳng sinh. Tự tánh lìa bỏ hình tướng như vậy. Công năng mẫu mực căn bản không khác.

Bồ tát tu hạnh bố thí, Tôn giả Trang Nghiêm hộ quốc bản sinh nghĩa thứ mười tám.

Một loại vui thích, trí nhận nhiều vẻ. Cội nguồn oan đôi, chuyển biến xa lìa. Đó là tùy thuận theo hạnh Bồ-tát, căn bản tịch tĩnh điều phục thích hợp.

Đức hạnh trùm khắp, lực dụng an trụ. Dứt trừ phiền não, trí tuệ tăng trưởng. Mọi nghiệp dữ ấy, đích thực do từ si độn, vọng tưởng. Hý luận (về) sắc tướng, ganh ghét, đức giảm. Buông theo bạo lực, hạnh khó điều phục. Lãnh hội đầy đủ, tăng thêm bố thí. Nẻo thiện quyết giữ, theo hạnh tịch tĩnh. Phiền não chẳng sinh, lực dụng tự tại. Thắng nghĩa tăng trưởng, thân tâm sung mãn. Bậc thầy dạy bảo, mong đạt mẫu mực. Rõ lẽ Chỉ, Trì mới thông Tác, Phạm. Thiện diệu, thậm thâm, tạo nhân thanh tịnh. Nghiệp lành thường tạo, ba nghiệp vun bồi. Tạo nhân căn bản, dốc tu đã trọn. Xa lìa nẻo quỷ, lo lắng sầu khổ. Hành, giải gồm đủ, giảng giải truyền dạy. Ý nhiễm si độn, dòng thác phiền não, chúng sinh thường được tăng trưởng tịnh diệu, hiện bày như vậy. Thảy nên lìa buộc, gốc rễ, hình bóng. Hòa hợp, xa lìa, vọng tưởng càng tăng. Nhân nhiễm cùng tận, sắc trần cũng vậy. Mong cho tất cả đều được thanh tịnh. Pháp Bà-la-môn tánh không vi diệu. Như ý mẹ hiền dưỡng nuôi đùm bọc. Mong được tự tại, đạt đến viên mãn. Hóa sinh tăng trưởng, hình tướng vui thích. Thượng diệu trùm khắp, thần thái kỳ vĩ. Nhận thức tự tại, trí lực đầy đủ. Lìa cõi hý luận, lên bờ giác ngộ. Bên trong linh động, an trụ bình đẳng. Luật nghi tịch tĩnh, thiền định diệu bày. Lại đạt công đức vô thượng, hy hữu. An trụ vô tướng, trong lặng, thanh tịnh. Thật tướng nghĩa lợi đạt được như vậy. An lạc, tự tại tột bậc thế gian. Tính chất phá hoại, hoàn toàn vắng bóng. Là chốn xa lìa vọng tưởng che buộc. Ý tịnh hòa hợp, cứu cánh bình đẳng. Dứt bỏ đói khát, được nhân thấu đạt. Quả vị La-hán dứt nhiễm ba cõi. Ưu sầu cùng loại, tất thảy đều không. Khổ não hòa hợp an trụ như thế. Thể thắng nghĩa ấy, an tĩnh tự tại. Ưu sầu khổ não, biết rõ (là) không còn. Nhân thật tự tánh, gốc rễ hợp phần. Nhiễm, mạn đều dứt, thể giác tự hiện, là chốn thấu đạt tịch tĩnh căn bản, cảnh giới an lạc, tùy thuận vô tận. Lúc ấy nhiễm vọng không nơi bám víu, thanh tịnh thuần nhất. Đó là thời điểm đạt được (lẽ) vi diệu sâu xa, dứt sạch phiền não. Bồ-tát khuyên dạy cảnh giới an lành, đủ lực tùy thuận (giáo hóa chúng sinh). Sinh ở niệm đầu, đạo nghĩa diệu thiện. Là chốn kiêu dật, gốc rễ dấy tăng. Tịnh diệu hữu vô, đúng nghĩa giải thoát. Nhân gốc thấu rõ, tu hạnh hữu học. Tâm được an trụ, lực đủ đảm đang. Bố thí mong đạt được như bậc Thánh hiền. Bảy hàng Thánh ấy tu học gồm đủ. Bạn lành thấu đạt, trí tuệ thông suốt. Nhân tham không khởi, trụ hàng Thánh hiền. Thánh chúng chân thật, tu hạnh Như như. Trụ ở Thập địa, đoạn nhiễm phân biệt. Đạt đúng giải thoát, theo pháp Đại thừa. Lực dụng sung mãn, kiên định an trụ. Giáo hóa thanh tịnh khiến tâm hoan hỷ. Năng lực bố thí, thân tâm chẳng xao. Hình tướng nhiễm ác không nhân tạo tác. Nương cõi tĩnh trụ, phiền não chẳng dứt. (Cùng với) Ngã mạn càng dấy, vọng tưởng trừ diệt. Thắng nghĩa căn bản, vô tướng hiện bày. Thiền định thanh tịnh, trong lặng an lạc. Bồ-đề Tát-đỏa dứt các pháp nhiễm. Mong đạt nghĩa lợi, đủ sức điều phục. Chư Thiên cõi sắc tự tại vô dục. Hành theo Thập thiện, xa lìa sân hận. Trí tuệ, sắc tướng mong được viên mãn. Vọng tưởng, buông lung, đầu mối (của) nghiệp dữ. Thắng nghĩa Đại thừa tịch tĩnh tột bậc. Diệu trí căn bản: tỏ tánh chân như. Theo hạnh Bồ-tát, khắp chốn thanh tịnh. Tự tại viên mãn, tu hạnh Bồ-tát. Giáo pháp truyền dạy, chân thật bao la. Biến hóa, tịch tĩnh, sắc tướng trọn đủ. Phước đức hòa hợp, âm thanh vi diệu. Trí tuệ sáng tỏ, vô minh sạch làu. Nhân chánh giải thoát thảy đều chân thật. Tạo nghiệp nhất như, mẫu mực nghiêm túc. Nơi chốn tự tại, phước đức vẹn toàn. Tánh ham tu thí, thuận hợp, trọn thành. Ái ngữ, thiền định, trí tuệ thêm rõ. Thể tánh an trụ, bất hoại như vậy. Giới mốc tột cùng (là) diệt pháp tránh nhiễm. Như vậy ám độn (là do) bản tánh si mê. (Nhờ) Giáo pháp trong lành chế ngự, soi dẫn. Tánh vốn không thật, dụng ở ngăn che. Thiền định thuận hợp, lực dụng biến chuyển. Thiên đế phước tận, thật đáng âu lo. Thảy đều tăng trưởng dứt trừ đầy đủ. Thiền định tự tại, dứt mọi đói khát. Xứ sở thanh tịnh, ngã mạn chẳng sinh. Diệt hết phiền não, đức hạnh chân thật. Tự tánh căn bản lực dụng gồm đủ. Pháp hành tùy thuận, tịch tĩnh xa lìa. Các cõi Vô sắc, tịnh diệu sung mãn. Thượng diệu phát khởi. Là chốn tịch tĩnh nghiêm đẹp bày rõ. Hình tướng phiền não, điên đảo đều diệt. Tịnh diệu căn bản, nhân lành gồm đủ, hình thái sắc tướng biểu hiện như hoa. Vật dụng trong sạch, hình sắc chân thực. Giảng dạy về nhân, rõ nghĩa điều phục. Âm thanh gồm đủ, hòa hợp tận cùng. Si độn, vọng tưởng, thảy do hý luận. Bồ-tát giáo hóa, phiền não dứt trừ. Xứ của vọng tưởng; oan gia, Thiên đế, Phi đẹp các loại… Trói buộc căn bản không dấy như vậy, khổ não phơi bày, mong cầu dứt bỏ. Vui thích tự tại, thanh tịnh vi diệu, là cõi tột bậc. Bồ-tát hướng đến. Phước đức như thế ví như hoa sen. Viên mãn, đáng quý, thuận hợp, chủng loại tu hành vượt xa như vậy. Chi phần trói buộc tự tánh, trí tuệ, tư duy, mong đạt chân thật tận cùng như vậy.

Tâm định viên mãn, bản tánh như thị.

Tâm ý tự tại, nghĩa lợi viên mãn. Giữ giới thanh tịnh, luật nghi an trụ. Mong cầu bỉ thử, không phiền não chướng. Chi phần cõi ý, tịch tĩnh hiện bày. Tên gọi sắc tướng, tánh là năm uẩn. Tâm ý như vậy, muốn đạt an lành. Thiện lợi, phước đức tịch nhiên trọn đủ. Nghiệp dữ như thế số lượng gồm ba. Bốn đại, năm uẩn vốn luôn biến chuyển. Tự tánh (vốn) tịch tĩnh, thiện diệu, an lạc. Hạnh nguyện Bồ-tát tăng trưởng thuận hợp. Bậc đại hữu tình lực dụng tự tại. Thiền định, tâm lặng, ý thức không xao. Hành, giải như thế mới mong độ khắp. Ngọn nguồn tai nạn thảy nên xa lìa, là chốn viên mãn, dứt tuyệt hý luận. Cầu pháp chân thật, phiền não dứt trừ cùng tâm nhiễm ác. sắc tướng Bồ-tát trang nghiêm viên mãn. Thân thể thù thắng, nơi chốn thị hiện trăm thứ tinh diệu. Hình tướng bạo lực, phiền não chẳng sinh. Tự tánh thành tựu, điên đảo đều dứt. Đức hạnh tự tại, pháp nhiễm không còn. Ngọn nguồn ái lạc là pháp Thập thiện. Tịch tĩnh thượng diệu, tu tập thuận hợp. Cõi ý vô ngã chuyên cần bày biện. Nghĩa lợi Bồ-tát theo hạnh như như. Luật nghi thích hợp là xứ bất thoái. Thiền định viên mãn rõ hạnh không nhiễm. Tâm ý khế hợp, oan nghiệp chẳng đeo. Xa lìa mọi ác (chính là) ngọn nguồn tạo tác ngã mạn, si độn. Tu hạnh bố thí, si mạn tự dừng. Trí tuệ bình đẳng tạo tác ngã mạn, si độn. Tu hạnh bố thí, si mạn tự dừng. Trí tuệ bình đẳng tạo tác, chuyển biến. Kiên định dốc tu, an trụ như vậy, là xứ Bồ-tát thanh tịnh tùy thuận. Lực dụng hướng cầu, hành mười nghiệp thiện. Giới mốc như thế, tịch tĩnh trọn đầy. Gốc các phiền não do nhân ý nhiễm, bạo lực phát sinh. Chế ngự cõi ý, gốc nhiễm tự diệt. Bình đẳng thù thắng, thân sơ chẳng phân. Mong dứt nhân vọng hàng Bà-la-môn. Tịch tĩnh trang nghiêm truyền dạy đầy đủ. Giáo hóa muôn loài dứt bỏ ưu khổ. Nghe, giữ gồm đủ, tăng trưởng hành động. Nghiệp dữ tận cùng (là) đói khát bức bách. Giáng dạy thắng nghĩa, hốt nhiên tự diệt. Chi phần dòng thác tạo mọi si độn. Ngã mạn hiện bày, (cũng) âm thầm dứt sạch. Điên đảo (như) gió cuốn, phiền não không bờ. Nhân duyên trói buộc (mọi) – tạo tác chân thực. Thể tánh tự tại, ngôn ngữ thuận hợp. Phiền não, mạn dứt, Thiện diệu an trụ, như thêm hương vị.

Ngọn nguồn, cõi ý không nhân đảo điên. Lực dụng vương giả như gió xua cỏ. Lời vương như vậy, giúp đỡ thích hợp, ngôn ngữ đúng phép. Sắc tướng tự tại, thu bày đều đạt. Thảy đều kính tu, thể không bạo lực. Trí tuệ thanh tịnh, nhân diệu tăng thêm. Tánh không đảo điên, giảng truyền thuận hợp. Thắng nghĩa vi diệu, bình đẳng đích thực. Thể Như như lớn, biến chuyển không nhiễm, đạt nhân bố thí, trí tịnh bất thoái. Hành, giải thượng diệu, tròn hạnh thù thắng. (Cõi) Tứ thiền tịch tĩnh, ngôn ngữ khế hợp. Cõi dụng không bờ, gốc mọi tướng mạo. Lực dụng không hoại, gồm đủ thù diệu. Luận bàn (theo lý) vô ngã, đạt gốc trí tuệ. Ngôn ngữ tịnh diệu, giáo hóa quần sinh. (Cùng với) nơi chốn, xóm làng, nghiệp dữ, pháp nhiễm, đều được an lành, oan báo đều dứt. Đúng nơi hình tướng vương giả an tĩnh. Nghĩa lợi thù thắng, lời ban hiệu lực. Chúng dân như thế, lãnh hội rõ ràng. Dưỡng nuôi các loài thấu đạt, thuận hợp. Tu tập tịch tĩnh, (đạt đến) cõi tánh thù thắng. Hữu tình thanh tịnh, nghiệp nhân bất thoái. Ngôn ngữ khế hợp tăng trưởng như thế.

Thế nào gọi là trí tuệ bình đẳng?

Thể tánh thanh tịnh, rời cõi hý luận. Cõi tánh vọng động (dẫn tới việc) tạo nghiệp đích thực. Các pháp thanh tịnh, lực trừ từ gốc. Các pháp thiện ấy dứt ác, (tạo) nghĩa lợi. Tự tánh vi diệu, thanh tịnh chân thật. Bạo ác hết mực (chính là) trói buộc ngay gốc. Tạo nhân 7 thắng nghĩa, lãnh hội đầy đủ. Mọi ác xấu ấy thảy đều tự dứt. Là cõi Dạ-xoa thanh tịnh, không nhiễm. Nghĩa lợi Thập thiện, đạt chốn an, tĩnh, ngọn nguồn tịch tĩnh. Tạo nhân rộng lớn, đạt lực thanh tịnh. (Đó là) dung mạo của chốn tĩnh lặng, ung dung. Chú nguyện chân thực tánh sinh hàng Thiên. Nghĩa lợi thanh tịnh, đói khát chẳng còn. Giảng: lẽ tối thượng, lãnh hội giữ gìn, mọi thứ vọng tưởng, phải nên trừ diệt. Trí tuệ tịnh diệu, tự tại vô biên, dứt thảy tranh nhiễm, náo loạn, si độn, kiêu mạn. Xứ sở tịnh diệu, giảng lý thanh tịnh, (mọi thứ) đói khát, đảo điên (đều được) nuôi dưỡng an lạc. Như ánh trăng trong xua tan nóng bực. Si độn trói buộc, nhiễm dục thảy dừng. Tạo nhân bố thí, tham nhiễm dần hết. Là cõi Bồ-tát tùy thuận bình đẳng. Ngọn nguồn lâu đời, nghiệp dữ cũng diệt. Ngôn ngữ tham dục, si độn, ngã mạn, thể không trong lặng. Tánh của dục nhiễm, thể vốn tạp loạn. Đạt nhân tối thượng, dứt trừ điên đảo. Tánh của phiền não tăng dấy như thế. Tu hạnh Như như phải gắng dứt trừ. Như chốn oan báo Thiên đế, Thiên hậu đúng là hoạn nạn.

Tham dục, điên đảo làm sao dứt trừ?

Ở chốn thắng nghĩa, căn bản vắng lặng. Mong được lực dụng tự tại, thù thắng. Dốc lòng dưỡng nuôi, tăng thêm tánh thiện. Như mẹ yêu dưỡng, phiền não lặng yên. Các chúng thanh tịnh đạt được an lạc. Nghĩa lợi thù thắng (là) “Vô úy” chân thực. Giáo hóa (theo) mẫu mực, tự tại cùng tận.

Thế nào là mong cầu hành động tham dục?

Hoan hỷ, cung kính lời Bồ-tát dạy. Hướng đạt nghĩa lợi, dứt mọi đảo điên. Thấu đạt lời dạy của Đức Bổn Sư, lìa mọi phiền não, đạt cảnh tịch tĩnh. Tham dục, si độn, điên đảo, buộc che. Thế gian sầu lo, chịu mọi thông khổ. Dục tham nghĩa lợi thì cũng như vậy. Thế là nhân nhiễm tạo pháp điên đảo, cùng với kiêu mạn, che lấp, trói buộc. Bố thí rộng khắp, theo nhân giáo hóa. Đạt được thắng nghĩa tịch tĩnh, vô tướng.

Thế nào là tĩnh trụ hòa hợp, an lạc?

Xa lìa tranh, nhiễm, tâm thiện cùng bày. Nhân gốc (của) ngã mạn chính là tham dục. Tận cùng tăng trưởng (là) cúng dường Thánh hiền. Dạy bảo (về lẽ) thanh tịnh, rõ nghĩa giáo hóa. Như chốn oan báo Thiên đế, Thiên hậu. Ngôn ngữ giải bày, biến hóa thích ứng. Các chúng tự tại, vô hữu viên mãn. Tạo nghiệp tịch tĩnh, đức, dũng gồm đủ. Cội nguồn giáo hóa: dứt hết chướng ngại. (Đạt được) tịch tĩnh, xa lìa dòng thác đảo điên. Thảy đều là nơi phát sinh bố thí. Tu tập thanh tịnh, mong được tịch tĩnh. Bồ-tát ứng hiện, dẫn dắt chúng sinh phát khởi theo nhân thanh tịnh. Là chốn Bồ-tát bố thí thích hợp, hành giải sinh khởi. Tùy thuận tịnh diệu, làng xóm yên lành. Lực dụng tận cùng (là) pháp Đại thừa mở. Phiền não (nơi) chín địa tùy thuận cõi trời. Vua toi tự tại, dạy truyền đây đó. Oan báo Thiên đế, Phi đẹp, kiêu mạn, đúng là dòng thác phiền não cấu nhiễm trói buộc, dấy lên ngã mạn, phóng túng. Ngôn ngữ thượng diệu, tự tại viên mãn. Trí tuệ thông tỏ, phiền não đều dứt. Đạt cõi thắng nghĩa như A-la-hán. Báo thân tự tại (gồm đủ) hai trí chân, tục. Hình tướng bao la như cõi hư không. Sám hối lỗi lầm, (đó là) buộc ngã cùng tận. Tai nạn xa lìa, mong được dứt bỏ. Ba độc (buộc) chúng sinh, sám trừ điều ấy. Hướng cầu sinh Thiên, đủ mọi an lạc. Lìa xa tham dục, rời bỏ si độn. Thực hành bố thí, tu hạnh Như Lai, tịch tĩnh hiển hiện. Nên vì muôn loài gánh vác, giáo hóa, trọn đủ khổng ngại. An tĩnh bỉ thử, viên mãn yên định, hoạn nạn không còn. Trưởng giả bạn lành, theo hạnh bố thí, bạo lực các hạng cũng không phân biệt. Hình tướng viên mãn, đạt giá trị lớn. Người ấy: phiền não cùng dự, oan đối cùng ở. Tu tập tinh tấn, đúng nghĩa giải thoát.

Bồ-tát tu hạnh bố thí, thêm vẻ trang nghiêm, Tôn giả hộ quốc bản sinh nghĩa thứ mười chín.

Đức hạnh (của) tự tánh, chân thật, diệu dụng. Phiền não hiện bày vui mong dứt sạch. Tu tập nghiêm túc, nhiễm vọng dần tiêu. Đó là tùy thuận thấu đạt.

Bồ-tát “Tịch mặc” tộc họ chính đáng. Vô tận, bao la, lìa mọi xấu ác. Theo nhân tịnh diệu, mong đạt yên tĩnh. Dạy bảo, dắt dẫn, dứt các si mạn. Bi nguyện tùy thuận, bình đẳng an lạc. Tánh không ngã mạn, hành hóa rộng khắp. Đạt pháp Đại thừa, tạo nhân căn bản. Cầu chốn an tĩnh, trí tuệ thanh tịnh. Chánh pháp thấu đạt, lực tu tự tại. Thị hiện ở đời, cõi tịnh an trụ. Là nơi thâm tâm thanh tịnh hiện bày. Tộc họ vương giả bền vững lâu đời. Phiền não quấy nhiễu chi phối đều dứt. Cứu giúp muôn loài, thế gian ít có. Tâm ý dốc tu, tạo nhân tịnh diệu, tự lực giác ngộ. Đại nguyện Bồ-tát, hóa độ chúng sinh, chỉ dạy căn lành, thảy đều viên mãn. Tịch tĩnh nhiều kiếp, làm thân hữu tình. Năng cầu tu tập, an trụ thiện định. Theo đường khổ hạnh, (đạt) thắng nghĩa căn bản. Giới đức thanh tịnh, tự tánh như thế. Nghĩa lợi bậc Thánh (gồm) chín loại hình tướng. Sinh khởi tận cùng, điều phục tột bậc. Tích tụ giới đức, rõ đoạn buộc ràng. Căn bản tịch tĩnh, gánh vác thuận hợp. Tánh vốn là không, sắc tướng nào cố. Ghi nhớ, lãnh hội nhân mọi vọng tưởng. Chúng sinh sao được hình tướng giải thoát? Tai nạn thảy lìa, an trụ trong lặng. Ngã mạn chẳng còn xa lìa nhà cửa, bụi bặm, ác nhiễm. Tịch tĩnh phát sinh các hạnh vi diệu.

Tự tánh thanh tịnh, nghiệp tịnh căn bản tăng trưởng không ngừng. Nhân diệu gắng theo, chế ngự xua tan phiền não thống khổ. Thắng nghĩa tịnh diệu, cõi trời đầy đủ. Giữ giới thanh tịnh, đạo hạnh khế hợp. Thắng giải tự tại, nhân tịnh viên mãn, (đó là) tùy thuận tận cùng. Xa lìa che, buộc, bỏ lời kinh sợ. Yêu, nuôi các loài, an lạc, dứt nhiễm, dứt bỏ chấp ngã, (cùng với) nhà ruộng bao thứ. Đó chính là xứ hành động mong đạt. Chẳng theo bố thí, tự tánh lu mờ. Ham muốn bạo lực, sắc tướng càng tăng.

Thế nào là vọng tưởng: “Nhân ít quả nhiều”, các nẻo luân hồi, lời dạy nêu rõ?

Không còn tranh nhiễm (là) gốc mọi xứ sở. Tùy thuận trọn đủ các pháp ái, lạc.

Thế nào là các pháp thắng nghĩa tối thượng?

Bi nguyện tự tại – chúng sinh cùng tận – bạn lành dứt ác – các nhiễm nên dừng. Bố thí trí tuệ. Diệt cõi ngã mạn. Tự tánh giữ giới. Thuận hợp tịch tĩnh. Hành, giải tùy thuận, đạt nhân bố thí. Thắng nghĩa thanh tịnh. Tùy thuận chủng loại, bậc Thánh nhận rõ. Theo pháp chân thật xa lìa đảo điên. Nghe, giữ gồm đủ, mong dứt pháp nhiễm. Tánh giới vi diệu, phiền não hằng dứt. Lực dụng tự tại, cơm áo thi ân. Hòa hợp không tranh, không điên đảo, mạn. Tu pháp điều phục, hành hạnh thành tựu. Là chốn Bồ-tát nguyện độ muôn loài. Tinh tấn không ngừng, hướng đạt viên mãn. Hạnh nguyện bất thoái, vì (nhằm dứt) gốc phiền não. An trụ thanh tịnh, hành nhân như như.

Si, độc, nghiệp dữ, khổ não, đói khát, dứt sạch từ gốc. Thắng nghĩa căn bản (là) lực dụng từng niệm, lìa bỏ trói buộc. Làng xóm thành ấp, nơi chốn an lạc. Bản nguyện bố thí (là) hòa hợp vắng lặng. Cứu cánh tịch tĩnh. Nội lực thâm hậu. Mong đạt tận cùng. Gốc mọi mê, vọng, tai nạn đều lìa. Vọng chấp khó rời, (cần có) thắng nghĩa điều phục. Trí tuệ thấu đạt thông tỏ mọi lẽ. Âu lo khổ não. Hình bóng con người. Thể tánh vốn không. Chúng Bà-la-môn trí tuệ là có.

Thành ấp, làng xóm, dân chúng an ổn. Dốc tu dứt bỏ tham ái trói buộc. Phát tâm quy ngưỡng giáo pháp Đại thừa. Chúng sinh thế gian học đạo Như Lai, hòa hớp dứt khổ. Thực thể phiền não tùy thuận nghiệp thiện. Hữu học dốc tu, phiền não tự dứt. Là cõi vương giả hành hạnh Bồ-tát. Lực dụng thuận hợp, chủng tộc viên mãn. Tự tại hiện bày, tiếng tăm khắp chốn. Trí tuệ tĩnh lặng, thân tướng an trụ. Bậc Đại trượng phu cõi nước yên định. Trí tuệ tịch tĩnh, tỏ tánh vốn như. Diệu hạnh thanh tịnh, phát khởi tận cùng. Điều phục tự tại, hướng đến tối thượng. Quả báo tịnh diệu, hình tướng ung dung. Trí tuệ cõi trời, chúng sinh nghe giữ, là cõi rộng lớn, chúng sinh thanh tịnh, tĩnh lặng, thâm diệu. Si, mạn đều sạch. Sinh khởi thù thắng, biến chuyển an nhiên. Nghiệp dừ, oán đôi, âm thầm vắng bóng. Trí tuệ dũng lực, thông tỏ, thích ứng. Dung mạo hài hòa, chúng sinh quy kính. Xóm làng sung túc, chân thực, hiền lành.

Thế nào là xứ sở tùy thuận kiêu mạn, phóng túng?

Sinh kế si độn, dẫn tới tận cùng. Trí tuệ hành, giải, đức hạnh thanh tịnh. Xứ sở tịch tĩnh, căn lành không nhiễm. Hữu tình hòa hợp, nhận thức khác nhau. Trí tuệ bình đẳng, áo cơm thí khắp. Phiền não, nghiệp chướng gốc rễ giống (như) người. Gốc đã bị nhiễm, ngọn cũng mất theo. Giáo pháp chân thật, dứt trừ như vậy. Nhiễm, buộc thế ấy phút chốc tiêu tan. Si, mạn cũng diệt. Như Lai hộ trì, như trời che lấp. Tùy thuận hiện bày. Lực dụng trí tuệ, công năng vô biên. Như vua an trụ.

Thế nào là trí tuệ điều phục bày hiện?

Lời thiện khích lệ (hướng tới) cứu cánh giải thoát. Trí tuệ như thế, tạo nhân tùy thuận. Là chốn có vua, giáo lệnh tự tại, dân chúng tuân hành. (Ví như) Xứ sở kiêu mạn, nhiễm buộc dấy đầy, chúng sinh khổ não, (tất cả đều được) ổn định như trước.

Nhân điên đảo ấy, dẫn tới chấp ngã. Mong cầu nghiệp dữ không duyên chẳng dấy. Là chốn tự tánh hiện bày hỗn tạp: vọng tưởng, oán đối, yếu kém, ngu muội, buộc che tự dừng; kiêu mạn trói buộc chúng sinh; (bậc có) trí tịnh, ý thông hiện rõ, dứt sạch mọi thứ phiền não ấy. Ngã mạn lớn lao, chính là gốc rễ. Ngôn ngữ thuận diệu, trí tuệ tăng trưởng, rõ nghĩa giải thoát. Tất cả chúng sinh kính chúng thanh tịnh. Cõi tánh trong lặng, hý luận chẳng còn. Dòng thác chẳng diệt, khổ não không bờ. Mẫu mực thượng diệu dựa theo thắng nghĩa. Bố thí rộng khắp, cầu nhân cõi người. Đói khát, ưu phiền, trí tuệ không (bị) mờ. Thấu đạt tịnh diệu, an lạc như vậy. Trí tịnh nghe, giữ như lọng phủ che. Tịch tĩnh tăng trưởng, pháp nhiễm chẳng sinh. Như giáo lệnh vua, tạo nhân Thiên tịnh, trí tuệ phát sinh. Thường không tham dục, thanh tịnh càng tăng. Lực dụng trí tuệ gồm đủ chánh định. Thù thắng tận cùng (là) đạo hạnh tăng trưởng. Thượng phẩm tịnh diệu (là) tự tại bao trùm. Cứu cánh tận cùng (là) thế gian yên tĩnh. Xứ sở tột bậc (là) khắp chốn bình đẳng. Thắng nghĩa phát sinh, tạo nhân đạt quả. Bồ-tát khuyên dạy. Như bậc vương giả. Theo dụng trí tuệ, tu hạnh vô tướng. Tịnh diệu cõi trời, xa lìa che buộc. Bỏ quên cội rễ, tạo pháp hý luận. Nhân không chân thật, hành oán đối sinh. Tịnh diệu tăng trưởng mong dứt pháp nhiễm. Nhân hành phát sinh đúng lý tự tánh. Đức nghiệp thanh tịnh, dứt trừ các mạn. Tịch tĩnh tu học, hành động dũng mãnh. Dìu dắt muôn loài diệt trừ ngu muội, đạo đức hiện bày khắp mọi nơi chôn. Vọng nhiễm dứt sạch, tự tại diệu dụng. Lìa bỏ tranh, nhiễm, hạnh như viên mãn, khổ não, oán thân, đều nên xa lìa. Tánh trí tuệ ấy thiện tịnh trọn đủ. Nhân duyên thích hợp, thù diệu sinh khởi. Sân hận chuyển tới tạo tác hý luận, ngôn ngữ điên đảo, đâu hạnh của trời. Trí tuệ chuyển tu (chỉ) mong đạt cơm áo. Lời nói tham tục, đâu (phải là) chân trí tuệ. Cõi tâm giả trá, nhiễm buộc đấy lên. Mong cầu tạp loạn, phiền não, chướng sinh. Bậc đại quốc vương diễn nói chánh pháp khiến tâm hoan hỷ, thuận theo đạo lý. Trí tuệ tăng trưởng tự tại tận cùng. Dòng thác phiền não (tạo ra bao) hình tướng của khổ. Nghe, giữ trọn đủ. Các pháp mạn, vọng thảy nên xa lìa.

Thế nào là bố thí căn bản?

Pháp thiện tiêu trừ nhiễm, mạn, vọng tưởng. Chi phần thuận hợp, nghiệp đạo viên mãn. Tăng trưởng tận cùng (là sự) đói khát chân lý. Chế ngự, xa lìa.

Thế nào là mong dứt hết vọng tưởng?

Lìa bỏ hý luận, tạo tác thanh tịnh. Thiện tịnh vui cầu, gắn bó Thập thiện. Trí tuệ bạn lành, tu tập viên mãn. Theo hạnh thanh tịnh, phước đức đầy đủ. Thân tâm, năm uẩn mong đạt an tru. Thấu đat vi diệu, nhân ấy vô biên. Phiền não, vọng ấy, đích thực thông khổ. Cõi học trọn đủ, thân thể tịnh diệu. Phước đức cõi đời, quả báo không sai. Thế nào là tăng trưởng cứu cánh tận cùng?

Cõi học thấu đạt, cầu thắng nghĩa ấy. Thanh tịnh chân thực, vọng, nhiễm chẳng sinh. Đói khát, phiền não cõi ý thênh thang. Buộc, nhiễm bị diệt, như (cõi) không vô ngại, vượt cả tư duy.

Vọng động liên tục, căn bản đều dứt. Tự tánh Như Lai vốn từ tuệ giác. Thuyết pháp tối thượng chỉ nẻo dẫn dường. (Chỉ ra) các nhân si, kém, độc, xấu bám chặt. Nẻo nghiệp thuận duyên, nhờ vào trí lực. Lực dụng thanh tịnh, ba độc chẳng sinh. Giữ, nghe, (theo) tự tánh, tâm mong đầy đủ. Ba thừa hóa độ, cùng đạt Niết-bàn. Chi phần chân thật, lìa vọng trọn vẹn. Dòng thác phiền não (tạo ra) ba loại căn bản. Gốc đã dứt rồi, ngọn ngành đều bỏ. Kính tin chư Phật, giáo pháp thanh tịnh. Pháp như vậy (gọi) là chốn chánh giải thoát. Từ chỗ ưu não, chúng sinh hòa hợp. Nơi chốn nghiêm trang, nói pháp Đại thừa. Cầu nhân vi diệu, danh sắc vô tướng, xa lìa tranh, nhiễm, viên mãn như vậy. Là cõi chúng sinh buông theo tham dục, phiền não điên đảo mặc sức dấy động. Nghĩa lợi thanh tịnh, thành tựu thích hợp, vô cùng tự tại. Các pháp vô ngã, chánh kiến thuận hợp. Si mê không bày, chúng sinh chứng đạt (chánh kiến, vô ngã). Thắng nghĩa vô tướng. Gìn giữ vẹn toàn. Nhân diệu thiện tịnh, diệu dụng tùy thuận. Tự tánh trong lặng, chở che nghĩa lợi. Lực dụng bố thí, hành giải thanh tịnh, là gốc báo nhân, phước đức không mất. Các pháp hữu vi luôn luôn biến chuyển. Nghiệp nhân tự tại như A-la-hán. Hòa hợp tĩnh lặng, ứng hiện tùy thuận. Đạt tánh bản giác, dưỡng nuôi thích hợp. Ba nghiệp thanh tịnh, đạt nghĩa như như.

Trí tuệ thanh tịnh, ngã mạn không còn. Bạn lành giúp sức, dứt mọi điên đảo. Thắng nghĩa căn bản (là) đức hạnh tăng trưởng. Pháp tịnh gắng theo, tịch tĩnh tột bậc. Năng dứt dục, tham, an trụ tinh xá. Chi phần điên đảo, ý lìa nhiễm, buộc, vọng tưởng. Diệu lý tịch tịnh,

hằng mong chứng đắc, an trụ tĩnh lặng, thâm tâm như như. Đức hạnh thắng nghĩa, chân thật dứt tranh. Trí tuệ thiện tịnh, biến chuyển tự tại.

Tự tánh như thị, vượt mọi phân biệt. Trí tuệ thắng nghĩa tùy thuận, khẩu hòa. Diệu lý tịch tĩnh, đức hạnh ung dung. Xa lìa nơi chốn (là) nhân của bệnh hoạn. Tịnh diệu mong cầu (là nhằm đạt) ngọn nguồn không nhiễm, phiền não tự dừng, tịch tĩnh thuận hợp. Trí căn bản ấy tự thân chứng đắc. Chúng sinh vô biên, hóa độ tất cả. Điều phục thắng nghĩa, dứt thân khổ não. (Cùng với) nghiệp dữ, vọng tưởng, phiền não trói buộc. Đạt trí thanh tịnh, dứt mọi tạo tác. Tận cùng phiền não (là) xứ của tự tại. Thế gian biến hoại (là) hình tướng (của) tịch mặc. Phiền não buộc thế, khiến sắc uẩn sinh. Si, độn trói che, không nhân tự diệt. Cội rễ ngã mạn, phiền não, kiêu căn, phóng túng, mong đạt hằng tịnh, hạnh ấy viên mãn.

Chánh pháp tùy thuận, nâng niu tịch tĩnh, ác nhiễm không buộc, Chân thật sinh khởi, đạo đức chư Thiên. Mong cầu lìa mọi gốc rễ phiền não. Đức hạnh chúng thiện (là) khẩu hòa thắng nghĩa. Dòng thác cuồn cuộn, hóa độ không cùng. Chúng “Cận sự nam” căn lành phát sinh, Các pháp giải thoát, tu tập tự tại. Lìa vọng, gắn bó, hành giải gồm đủ.

    Xem thêm:

  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trượng Phu - Luận Tạng
  • Luận Thành Duy Thức Bảo Sanh - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Tịnh Độ Luận - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Phân Biệt Công Đức - Luận Tạng
  • Luận Phật Thừa Tông Yếu - Luận Tạng
  • Luận Về Tịnh Độ Sanh, Vô Sanh - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thiền Lâm Bảo Huấn - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng