1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

QUYỂN 9

Phẩm 9: THIỀN ĐỊNH BA-LA-MẬT( Phần 2)

Đức Phật dạy Từ Thị:

–Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật cần phải tu tập đại Bi vô lượng, vì đại Bi là pháp dẫn đầu của các nghiệp lành. Ví như đối với mạng căn thì hơi thở ra vào là trên hết. Trong bảy báu của Luân vương thì bánh xe báu là trên hết. Trong vạn hạnh Đại thừa thì đại Bi là trên hết. Như trưởng giả có một đứa con, cha mẹ yêu thương thấu tận xương tủy, đại Bi của Bồ-tát cũng vậy, yêu thương các hữu tình như con một.

Sao gọi là đại Bi?

Đại gọi là Ma hạ. Ma gọi là ngã. Ngã đem đại Bi làm lợi lạc cho hữu tình nên gọi là đại Bi.

Hạ gọi là tánh, tự tánh đại Bi có thể cứu vớt hữu tình, vì không do người khác dạy bảo nên gọi là Đại Bi.

Lại gọi là Sa-phạ, Sa-phạ là thuộc về phần của ta. Ta phải cứu hộ tất cả hữu tình nên gọi là đại Bi. Ca là phòng hộ, không để cho người khác làm hại nên gọi là đại Bi. Đại Bi có thể làm phương tiện để hoàn thành tất cả pháp trợ Bồ-đề. Đại Bi có thể tự giác ngộ, không nhờ thầy dạy mà trí tự nhiên phát. Đại Bi có thể diệt tâm lo buồn, tùy thuận mà làm lợi ích cho chúng sinh.

Này Từ Thị! Tâm đại Bi này có năm mươi loại:

1.Không dua nịnh.

2.Thân, khẩu, tương ứng.

3.Không hư dối.

4.Luôn luôn chân thật.

5.Không thoái lui.

6.Liễu ngộ bản giác.

7.Không dối trá.

8.Tự tánh thanh tịnh.

9.Hành dụng ngay thẳng.

10.Trú nơi chánh tánh.

11.Cầu thân Phật.

12.Cầu tuổi thọ Phật.

13.Không tạo tất cả lỗi lầm.

14.Bảo vệ hữu tình.

15.Độ hữu tình không có hạn lượng.

16.Đồng với hư không.

17.Không từ bỏ chúng sinh nghèo khổ.

18.Nhổ bỏ các khổ.

19.Tự tánh bất động, gánh vác tất cả.

20.Hành hạnh thanh tịnh, không lừa gạt mình và người.

21.Có thể làm tự lợi bằng các thiện nghiệp.

22.Làm cho tất cả chúng sinh được an vui.

23.Không mệt mỏi.

24.Trừ bỏ gánh nặng, khai mở thắng nghĩa.

25.Kiên trì thực hành bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn.

26.Nhẫn nhục khi bị người hạ liệt khinh mạn mình.

27.Không ôm thù hận xưa.

28.Làm thầy thuốc vô thượng.

29.Dùng trí Đại thừa giáo hóa những thừa dưới bình đẳng không hai.

30.Khéo giấu đức của mình, khen ngợi điều tốt của người.

31.Có thể sánh bằng với chân pháp lạc vô lậu.

32.Có thể xả bỏ những gì yêu thích mà không tiếc rẻ.

33.Vì hữu tình, không hối hận.

34.Khéo giữ gìn giới thanh tịnh, luôn cứu hộ người hủy phạm cấm giới.

35.Chịu khổ để hữu tình được an vui.

36.Làm hữu tình thành thục, trụ vào pháp thân.

37.Xả bỏ các bộ phận trong thân thể mà không tiếc thân mạng.

38.Thích tu công đức, không cầu quả báo.

39.Có thể điều phục hữu tình để tu tập thiền định.

40.Hiểu rõ ba cõi là không, không đắm trước.

41.Tích lũy căn lành, xa lìa điều bất thiện.

42.Làm toại nguyện tất cả chúng sinh.

43.Không bỏ nguyện xưa, trụ trong vô vi.

44.Bỏ pháp hữu vi.

45.Hữu tình xan tham thì dạy họ hành xả.

46.Có thể làm cho hữu tình sống trong giới luật nhà Phật.

47.Hữu tình đa sân, khiến họ nhẫn nhục.

48.Hữu tình giải đãi, khiến họ tinh tấn.

49.Hữu tình tán loạn, khiến họ thiền định.

50.Hữu tình ngu si, khiến họ có trí tuệ.

Phật dạy Từ Thị:

–Như vậy đại Bi làm cho tất cả căn lành của mình và người được thành tựu. Đó là đại Bi vô lượng.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật-đa phải tu tập như thế nào để đạt được đại Hỷ vô lượng? nghĩa là nhớ nghĩ, ưa thích và cung kính tất cả Phật pháp, không chạy theo sinh tử, không phá hoại tâm hỷ, diệt trừ các tà kiến, xa lìa năm dục triền cái, có thể làm cho hữu tình an trụ trong Niết-bàn, luôn cầu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai, nghe Chánh pháp khế hợp với Đệ nhất nghĩa đế, luôn luôn thích tu hành để đạt đến bờ kia Niết-bàn, tâm sinh hoan hỷ đủ đầy viên mãn. Giống như ngày Tết thế gian, tất cả dòng họ, bạn bè đều hội họp hưởng khoái lạc năm dục, vui chơi thích thú. Bồ-tát cũng vậy, khi khởi thần thông biến hóa thì an trú vào đó, làm cho tất cả Bát bộ, Rồng, Thần, bốn chúng đều tụ họp vào Giới, Định, Tuệ, Giải thoát tri kiến, trong lòng vui thích. Đó là đại Hỷ.

Đại Hỷ này không có tâm làm tổn hại các hữu tình, siêng cầu tất cả diệu pháp chư Phật. Dù đã đạt được hay chưa tâm cũng không rời bỏ, luôn hiểu rõ pháp Đại thừa một cách chân chánh, không chấp lấy pháp Nhị thừa, xả bỏ tánh xan tham, làm tăng trưởng bố thí. Thấy người đến xin thì đem cho với tâm hoan hỷ. Đối với người trì giới thì phải có lòng tin thanh tịnh.

Thấy người phá giới thì phải thương xót, với tịnh giới của mình thì giữ gìn thanh tịnh viên mãn, không còn lo sợ ba đường ác mà được hướng đến pháp thân.

Nếu bị ai mắng nhiếc thì nhẫn nhục mà nhận.

Với thầy gương mẫu nên cung kính, tôn trọng, siêng năng thực hành theo lời dạy của thầy.

Với hữu tình thì nói lời hòa nhã, mỉm cười, không nhăn nhó, cau mày. Ý đầu tiên là thăm hỏi, trụ trong định tịch tĩnh, không dua nịnh, không hư dối, không thô thiển, không tà vạy, luôn khen điều tốt của người, không nói lỗi người, thích hòa đồng chung với mọi người, thực hành sáu hòa kính, tôn trọng Đại Pháp sư, khai mở Niết-bàn và hiển bày tướng chân thật.

Đối với bậc Tôn trưởng thì tưởng như cha mẹ, xem tất cả chúng sinh như con một, tôn trọng Thân giáo sư như Phật.

Đối với người tu hành xem như người dẫn đường đi vào biển bảo châu vô giá của các Ba-la-mật-đa. Coi người nói pháp như châu như ý, dạo chơi tự tại trong rừng pháp vô lậu.

Ai dạy bảo ta phải vui mừng, nghe nói lỗi sai của mình giống như người thầy thuốc chỉ bệnh mình, nghe nói Chánh pháp như bệnh được thuốc. Đó gọi là Hỷ.

Hiểu rõ khổ, vô thường, vô ngã, bất tịnh, tùy thuận thường, lạc, ngã, tịnh của Niết-bàn là một tướng một vị, nên gọi là Hỷ. Thể tánh của đại Hỷ là chân thật thù thắng, tánh không sinh diệt, không trầm, không bổng, không đi, không đến, luôn nhất tâm, đó gọi là Hỷ chân thật.

Đại Hỷ: như nghe nói điều thiện, thân tâm vui thích, an trú bất động giống như núi Tu-di.

Đại Hỷ: sáng suốt hiểu rõ nhân quả không sai lầm.

Đại Hỷ: như đất làm chỗ nương tựa, không lay động.

Đại Hỷ: như người có oai đức, không ai có thể địch lại.

Đại Hỷ: như Thắng nghĩa đế không thể hủy hoại.

Đại Hỷ: như Phật, Pháp, Tăng công đức viên mãn, cầu không chán.

Từ Thị nên biết! Đây gọi là đại Hỷ vô lượng.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu tập Thiền định ba-la-mật-đa phải tu tập đại Xả vô lượng như thế nào?

Đại Bồ-tát tu tập Xả vô lượng nói chung có ba:

1.Xả phiền não.

2.Xả sự giữ gìn giữa mình và người.

3.Xả đúng thời, không đúng thời.

Thế nào là xả phiền não? nghĩa là gặp được cung kính không tự cao, gặp khinh mạn không nhu nhược ti tiện, được lợi không vui mừng, mất lợi không buồn, bị mắng chửi không sân giận, được khen cũng không mừng, được đề cao không phấn khởi, nghe chê bai không tức giận. Khi gặp khổ nạn thì quán không, vô ngã, gặp việc vừa lòng đến luôn quán vô thường, tâm không tham đắm cảnh yêu thích. Nếu bị hiềm khích không sân giận, với người oán, thân, người giữ giới, phá giới có tâm bình đẳng. Đối với thiện ác, yêu ghét đều không có hai tướng. Nghe lời nói thiện ác, chánh hay bất chánh cũng như vậy. Đem tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh. Đối với thân mạng, tài lợi không tham tiếc. Đó gọi là Đại xả phiền não.

Xả sự giữ gìn mình và người là thế nào? nghĩa là nếu có người đến cắt chẻ từng khúc thịt của mình, Đại Bồ-tát không những không sân giận mà cả thân và lời nói cũng không biến đổi. Đó gọi là Xả.

Khất-xoa-đa nghĩa là đôi và cũng nghĩa là vết thương. nghĩa là mắt và sắc giống như có hai người đến chỗ Bồ-tát: một người đánh đập gây vết thương, một người xoa hương thơm trên mình, nhưng Bồ-tát quán hai việc ấy với tâm bình đẳng, không thấy có hai. Bồ-tát quán vết thương trong Đệ nhất nghĩa thì người đánh gây vết thương là ai và ai là người xoa bóp, Bồ-tát không hề thấy tổn hại hoặc lợi ích, cũng không thấy có mình và người, không hại mình và người. Đó gọi là Xả.

Hai nghĩa của nhãn căn và sắc cảnh cũng thế. Nhó căn với âm thanh, tỷ căn với hương, thiệt căn với mùi vị, thân căn với xúc chạm, ý căn với pháp. Tất cả cũng đều tịch tĩnh bình đẳng như thế.

Người hủy báng, người khen ngợi, đối với sáu căn của ta trong Đệ nhất nghĩa không có tổn thương, không gây hại nên gọi là Xả. Giả sử bị người làm tổn hại, cũng không làm tổn hại lại họ. Đó gọi là Xả.

Hoặc giữ gìn mình và người, không cho thương tổn, đó gọi là Xả.

Xem lợi hay bất lợi như nhau, luôn nhất tâm không làm hại mình và người, đó gọi là Xả.

Thường tự xem xét, hỗ trợ tâm người khác, xa lìa các sự tranh cãi, kiện tụng, gọi đó là Xả.

Quán sát thật kỹ, không còn thị phi, gọi là Xả.

Xả như vậy gọi là xả sự giữ gìn mình và người.

Thế nào gọi là xả đúng thời và phi thời?

Nếu các hữu tình không nhận những sự dạy dỗ, chẳng phải là bậc Pháp khí thì Bồ-tát không nên sân giận, đó gọi là xả phi thời.

Đối với hàng Thanh văn, quán bốn Thánh đế đạt được pháp nhẫn về sự khổ, hướng đến quả A-la-hán, nhưng Bồ-tát không chướng ngại. Đó gọi là xả phi thời.

Khi hành bố thí thì dừng lại trì giới, khi giữ giới thanh tịnh thì dừng lại để bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng như vậy. Đó gọi là xả phi thời.

Nếu đối với các pháp cần phải thành tựu, việc quyết định phải làm thì tinh tấn dũng mãnh không bao giờ mệt mỏi, không nghỉ ngơi, không thoái lui, không nề hà khổ nhọc, đến khi làm xong công việc mới thôi. Đó là xả đúng thời.

Như vậy gọi là xả đúng thời, xả phi thời.

Tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả như vậy chỉ gọi là thiền định, chứ không được gọi là Ba-la-mật-đa.

Khi ấy Từ Thị bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lấy việc tu tập thiền định như vậy làm nhân, có thể được đầy đủ trí tuệ thần thông. Thế nào là trí tuệ thần thông?

Đức Thế Tôn dạy Từ Thị:

–Này thiện nam! Thần thông là dùng năng lực thần thong có thể thấy sắc cực vi. Dùng mắt pháp thanh tịnh biết tánh của sắc là không, nhưng không đắm trước, thì gọi là trí tuệ.

Lại nữa, có thể nghe các loại âm thanh rất nhỏ trong thế gian, gọi là thần thông. Biết rõ các thứ âm thanh ấy không có ngôn thuyết, lìa xa các thí dụ, gọi là trí tuệ.

Lại có thể biết tâm hành của các hữu tình, đó là thần thông. Hiểu rõ vọng tâm, phi tâm của hữu tình, đó gọi là trí tuệ.

Nhớ biết tất cả những gì ở quá khứ, vị lai, gọi là thần thông. Hiểu rõ cõi Phật chân không là trí tuệ.

Hiểu biết rõ ràng tướng sai biệt của căn tánh hữu tình, là thần thông. Hiểu rõ thắng nghĩa là không, đó gọi là trí tuệ.

Thấu biết các pháp là thần thông. Hiểu rõ thế tục như huyễn, đó là trí tuệ.

Năng lực vượt qua Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương là thần thông. Vượt qua Thanh văn, Độc giác là trí tuệ.

Từ Thị nên biết! Đó gọi là Đại Bồ-tát tu tập chân thiền định được quả báo thần thông không thể nghĩ bàn.

Này Từ Thị! Tất cả chúng sinh luôn bị vô lượng phiền não quấy nhiễu tâm mình, còn các Đại Bồ-tát thì được chân Tam-muội, rồi tùy theo từng loại phiền não của hữu tình mà hiện các môn Tam-muội để độ cho họ được giải thoát. Đại Bồ-tát càng siêng năng tinh tấn trụ trong Tam-muội ấy để cho các hữu tình an trụ trong pháp bình đẳng như vậy, nghĩa là tâm bình đẳng, hành bình đẳng, tương ưng bình đẳng; Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đều bình đẳng, tức là tất cả các pháp thảy đều bình đẳng. Đó gọi là Pháp tánh Tam-muội.

Này Từ Thị! Tam-muội bình đẳng này là Bồ-đề bình đẳng, Bồ-đề bình đẳng là tất cả hữu tình bình đẳng, tất cả hữu tình bình đẳng là tất cả các pháp bình đẳng. Được pháp bình đẳng như vậy rồi, đó gọi là trụ vào chân Tam-muội.

Này Từ Thị! Bồ-đề bình đẳng tức là hư không bình đẳng, hư không bình đẳng tức là tất cả hữu tình bình đẳng, tất cả hữu tình bình đẳng tức là tất cả các pháp bình đẳng. Được tất cả các pháp bình đẳng như vậy gọi là trụ trong chân Tam-muội.

Này Từ Thị! Tánh của tất cả thế gian bình đẳng, tức là tánh thanh tịnh bình đẳng, tánh thanh tịnh bình đẳng tức là tất cả hữu tình bình đẳng, tánh của hữu tình bình đẳng tức là tất cả các pháp bình đẳng. Đạt được tất cả các pháp bình đẳng thì gọi là trụ trong chân Tam-muội.

Này Từ Thị! Nếu tâm chính mình bình đẳng tức là biết tâm của hữu tình bình đẳng, đó gọi là trụ trong chân Tam-muội.

Này Từ Thị! Đối với thân ta, các hữu tình dầu có làm lợi ích hay không lợi ích, thì ta đối với tâm của hữu tình như đại địa, đều bình đẳng với tâm bất động. Vì sao? Vì trụ trong tánh bình đẳng của Tam-muội này. Do trụ trong Tam-muội nên không có lời nói tán loạn và không có những lời vô ý thức. Thông đạt các pháp, hiểu rõ Đệ nhất nghĩa, biết rõ thời tiết tùy thuận để mà nói, không bị tám loại gió làm lay động. Bồ-tát trụ trong pháp tánh bình đẳng như vậy, không xả bỏ Tam-muội, không lìa thế gian, được tự tại vô ngại. Đó gọi là Đại Bồ-tát dùng phương tiện trí tuệ Thiền định ba-la-mật-đa.

Này Từ Thị! Thế nào là Đại Bồ-tát tu hành phương tiện trí tuệ xuất thế? nghĩa là khi tu thiền định, Bồ-tát khởi lòng Từ bi với tất cả chúng sinh, đó gọi là phương tiện, quán các pháp tịch diệt là trí tuệ.

Khi tu thiền định, quy y Phật là phương tiện, hiểu rõ không chấp thủ là trí tuệ.

Cầu tất cả các pháp là phương tiện, hiểu rõ tánh của các pháp là không, đó là trí tuệ.

Quán sắc thân Phật là phương tiện, quán thân Phật là không, gọi là trí tuệ.

Quán Phạm âm của Phật là phương tiện, hiểu rõ không có ngôn thuyết là trí tuệ.

Khi chánh quán là phương tiện, sự quán chiếu cũng không, là trí tuệ.

Cứu vớt hữu tình là phương tiện, biết rõ chúng sinh là không, gọi là trí tuệ.

Biết căn tánh của chúng sinh là phương tiện, biết rõ căn tánh cũng không, là trí tuệ.

Quán cõi Tịnh độ của Phật là phương tiện, biết rõ cõi Phật là không, gọi là trí tuệ.

Chứng đắc Bồ-đề là phương tiện, biết rõ Bồ-đề vốn tịch tĩnh là trí tuệ.

Thỉnh chuyển pháp luân là phương tiện, biết pháp không có tướng chuyển, là trí tuệ.

Quán bảy Giác chi là phương tiện, biết rõ đó là chân bản giác, là trí tuệ.

Đại Bồ-tát tương ưng tu tập Thiền định ba-la-mật-đa như vậy làm cho tất cả Thiên ma không hại được và sẽ thành tựu Vô thượng Bồ-đề.

Khi Đức Thế Tôn nói Thiền định ba-la-mật-đa này có ba vạn hai ngàn Bồ-tát trong hội chứng Nhật đăng Tam-muội. Nhật đăng Tam-muội này cũng gọi là Nhất trang nghiêm Tam-muội.

Nhật đăng Tam-muội là gì?

Giống như khi mặt trời mọc thì tất cả ánh sáng của đèn đuốc, sao, trăng bị che lấp. Bồ-tát được Tam-muội này cũng như vậy, sẽ che khuất ánh sáng của hàng Hữu học, Vô học Thanh văn, Độc giác và các hữu tình, cho nên gọi là Nhật đăng Tam-muội.

Sao gọi là Nhất trang nghiêm Tam-muội?

“Nhất” tức là vô sinh, vô sinh là pháp không. “Nhất” nghĩa là ở khắp tất cả mọi nơi, giống như dầu mè có khắp trong mè; pháp vô sinh cũng vậy, thể tánh của nó biến khắp tất cả nên gọi là Nhất trang nghiêm Tam-muội.

Nhất trang nghiêm Tam-muội này cũng gọi là Nhất tăng trưởng Tam-muội. “Nhất” tức là A, A là pháp giới, nghĩa là Khế kinh làm cho pháp giới được hiện tiền. Pháp giới hiện tiền rồi thì tất cả các pháp thần thông trong pháp giới tăng trưởng, sáng rõ hiện tiền, cho nên gọi là Nhất tăng trưởng Tam-muội.

Nhất tăng trưởng Tam-muội này cũng gọi là Nhất pháp giới Tam-muội. “Nhất” là pháp giới, pháp giới cũng là không. Do có định lực cho nên cái không ấy hiển bày. Đó gọi là Nhất pháp giới trang nghiêm Tam-muội.

Nhất pháp giới này cũng gọi là Nhất không Tam-muội. “Nhất” giống như hư không, tất cả vạn vật sinh trưởng trong hư không, khi Bồ-tát đạt được chân không thì các pháp như tín,… đều tăng trưởng, cho nên gọi là Nhất không Tam-muội.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát trụ vào Thiền định ba-la-mật-đa có thể nhập trăm ngàn câu-chi na-do-tha Tam-muội. Nay ta nói cho ông một số tên Tam-muội, đó là: Điện quang Tam-muội, Nguyệt quang Tam-muội, Thiện tăng trưởng Tam-muội, Tỳ-lô-giá-na Tam-muội, Tăng trưởng chẳng nghĩ bàn Tam-muội, Như như quang chiếu Tam-muội, Vô cấu Tam-muội, Hải đức Tam-muội, Năng tự tại chuyển nhất thiết pháp luân Tam-muội, Thành tựu cấm giới Tam-muội, Vô ưu Tam-muội, Kiên cố Tam-muội, Tô-mê-lô Tam-muội, Pháp cự Tam-muội, Pháp dũng Tam-muội, Chuyển pháp trí tự tại Tam-muội, Tán tích tụ pháp Tam-muội, Trì nhất thiết pháp Tam-muội, Trì bạch pháp Tam-muội, Tri tha tâm Tam-muội, Trang nghiêm bảo tràng Tam-muội, Diệt phiền não Tam-muội, Hoại tứ ma Tam-muội, Phát khởi thập lực Tam-muội, Vô trước Tam-muội, Đoạn phược trước Tam-muội, Đăng thủ Tam-muội, Văn thí danh Tam-muội, Trì địa Tam-muội, An trụ tâm Tam-muội, Tu-di đăng Tam-muội, Tồi phục oán địch Tam-muội, Trí cự Tam-muội, Phát sinh trí Tam-muội, Giáo thọ Tam-muội, Tự tại chuyển vô biên pháp môn Tam-muội, Linh tâm kham nhậm Tam-muội, Tri thắng diệu thiện Tam-muội, Chấn nhật nguyệt âm Tam-muội, Vô sở hành

Tam-muội, Hoại ma Tam-muội,Vô chủng chủng tưởng Tam-muội, Thiện điều phục tâm Tam-muội, Thích sư tử Tam-muội, Niệm phật Tam-muội, Niệm pháp Tam-muội, Niệm tăng Tam-muội, Bất thoái chuyển Tam-muội, Bất cụ Tam-muội, Tối thắng vô ngã Tam-muội, Tợ không xứ Tam-muội, Thường giác ngộ Tam-muội, Trừ phiền não duyên Tam-muội, Như hư không Tam-muội, Nhập công năng Tam-muội, Niệm tuệ giác Tam-muội, Vô tận biện Tam-muội, Đại bi thanh Tam-muội, Hiện chân đế Tam-muội, Bất hủy hoại Tam-muội, Thiện hạnh Tam-muội, Hữu tình hoan hỷ Tam-muội, Tri ái lạc Tam-muội, Sinh thọ lạc Tam-muội, Thắng từ Tam-muội, Tánh tịnh Tam-muội, Đại bi Tam-muội, Đại thiện Tam-muội, Vô sở xả trước Tam-muội, Pháp nghĩa Tam-muội, Pháp bi Tam-muội, Tuệ cự Tam-muội, Trí hải Tam-muội, Vô động Tam-muội, Thiện điều phục thân Tam-muội, Giải thoát trí tự tại Tam-muội, Kim cang tràng Tam-muội, Thắng liên hoa đạo tràng Tam-muội, Ly thế gian pháp Tam-muội, Thắng trí Tam-muội, Phật quán hành Tam-muội, Oai quang Tam-muội, Oai diễm Tam-muội, Dữ giải thoát trí Tam-muội, Phật thân trang nghiêm Tam-muội, Quang minh phổ biến Tam-muội, Sát độ biến tịnh Tam-muội, Nhập hữu tính tánh Tam-muội, Mãn nhất thiết nguyện Tam-muội, Thuận Bồ-đề lộ Tam-muội, Ba-la-mật trang nghiêm Tam-muội, Bảo kế Tam-muội, Giác hoa Tam-muội, Dữ giải thoát quả Tam-muội, Cam lộ âm Tam-muội, Vô đới Tam-muội, Tật phong hành Tam-muội, Bảo quang Tam-muội, Tài hải lưu Tam-muội, Kim cang phong Tam-muội, Đại thần thông Tam-muội, Xuất sinh nghĩa Tam-muội, Kiến vô biên phật Tam-muội, Ức trì nhất thiết sở văn Tam-muội, Dữ sát-na trí Tam-muội, Thanh tịnh vô biên công đức Tam-muội….

Vô lượng câu-chi Tam-muội như vậy, nếu Đại Bồ-tát đạt được các Tam-muội ấy thì gọi là Thiền định ba-la-mật-đa.

Khi Đức Phật Thế Tôn nói Thiền định ba-la-mật-đa này, trong hội có bảy mươi tám na-do-tha trời, người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, ba vạn hai ngàn Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn.

Phẩm 10: BẤT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA (Phần 1)

Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn đang ngồi nơi tòa Sư tử được trang nghiêm bằng nhiều loại ma-ni quý báu, hiện đủ loại tướng và chung quanh Ngài toàn là chúng Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát Từ Thị rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, quỳ gối chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Thế Tôn đã làm lợi ích an lạc cho các Bồ-tát nên nói Thiền định ba-la-mật-đa. Bây giờ con cúi xin Ngài vì các Bồ-tát mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa này có bao nhiêu loại? Tu như thế nào để đạt được? Cúi xin Ngài hãy phân biệt giải nói.

Đức Thế Tôn dạy:

–Này thiện nam! Ông hãy nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Thiền định ba-la-mật-đa đều từ nơi Trí tuệ ba-la-mật-đa. Vì nó là căn bản, là mẹ sinh ra các Ba-la-mật. Ví như năm Căn: mắt… nắm lấy năm trần, phát sinh ra thức, tất cả đều có chỗ dụng của nó. Như vậy, mỗi mỗi đều do tâm thức làm căn bản. Nếu lìa tâm ấy thì không thể làm được gì cả. Đại Bồ-tát tu năm pháp Ba-la-mật-đa trước luôn lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm mẹ, nếu xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không đạt được gì cả. Cũng như thân hữu tình có mạng căn mới hoạt động được, nếu mạng căn chết thì không làm gì được nữa. Tu hành các độ cũng vậy, nếu không có trí tuệ thì cũng giống như vậy. Ví như trong đất nước không có vị quan trí tuệ thì thiên hạ đảo lộn, nhân dân không an lạc. Cũng vậy, trong cõi vua của pháp, nếu không có vua trí tuệ thì tu hành Bố thí cho đến Thiền định ba-la-mật-đa đều không thành tựu, không bao giờ đạt được Niết-bàn giải thoát. Cũng như chủ buôn vào biển nhặt châu báu, cốt yếu là tìm được người chèo thuyền mới đến chỗ châu báu mà tùy ý lấy. Bồ-tát cũng vậy, trong biển sinh tử lấy năm pháp Ba-la-mật-đa làm thuyền chở châu báu công đức, chủ yếu là nhờ thuyền trưởng Vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa mới đến được bờ bên kia.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ:

Trí tuệ là cội gốc

Sinh trưởng mầm pháp lành

Quả Phật đại Bồ-đề

Do trí tuệ phát sinh.

Như người gặp khổ nạn

Người trí luôn cứu giúp

Người tu tạo điều ác

Như đá ném biển sâu.

Không có chân trí tuệ

Đa văn vọng phân biệt

Người này không hiểu nghĩa

Như chén sao biết mùi!

Gọi là bậc Trưởng lão

Không phải do tuổi già

Tuy nhỏ, có trí tuệ

Đó chính là Trưởng lão.

Ở đời, người có đức

Chân chánh không tà vạy,

Không phân biệt tà chánh,

Sao biết lý đúng, sai?

Chánh trí nghe pháp mầu

Trí tương ưng với lý

Tùy thuận nơi Đại thừa

Đó là người chánh trí.

Không vướng mắc được, mất

Buồn vui không lay động,

An trú như Tu-di

Đó là người chánh trí.

Được cung kính không mừng

Bị khinh chê không giận,

Trí tuệ như biển lớn

Đó là người chánh trí.

Không nói lỗi người khác

Không khen đức của mình,

Trí chiếu không mình, người

Được mọi người khen ngợi,

Dũng mãnh luôn tinh tấn

Tránh xa tất cả tướng

Diệt trừ tâm ngã mạn

Đó là người chánh trí.

Luôn quán sát chân chánh

Không thấy lỗi người khác,

Tin sâu quả thiện, ác

Đó là người chánh trí.

Người trí ở trong chúng

Không nói công đức mình

Nếu được người khen ngợi

Xấu hổ không nhận lấy.

Thành tựu các công đức

Khiêm tốn không thấy có

Như cây trái chín nhiều

Cành lá tự rũ xuống.

Phước trí sinh giàu sang

Tuy giàu không kiêu mạn

Người ngu tự kiêu căng

Người trí nên quán sát

Trí tuệ là bạn lành

Tránh xa bạn xấu ác

Đoạn diệt các phiền não

Tự nhiên được giải thoát.

Ai gần gũi người ác

Cũng nên phải tránh xa

Tôn kính bậc Hiền thiện

Đó là người chánh trí.

Bồ-tát nhiều trí bi

Bị hại, vẫn thương xót

Như chiên­đàn bị chặt

Mùi hương tỏa thơm ngát.

Không nhớ lỗi người khác

Luôn nghĩ những việc lành,

Trí tuệ không phân biệt

Là đệ nhất loài người.

Người trí luôn tịch tĩnh

Bị chê không phiền muộn,

Các ác không thể đốt

Như hơi ấm biển lớn.

Đại Bi không phân biệt

Gặp ác luôn thương xót

Như mặt trời tỏa sáng

Không bỏ Chiên-trà-xá.

Người trí tuy lỗi nhỏ

Vì lợi ích ở chung

Như vào rừng Chiêm­bặc

Tự nhiên được xông ướp.

Chánh trí không phân biệt

Như mặt trời chiếu khắp

Cũng như trăng trong sáng

Xua tan các mây che.

Người trí nhiều Từ bi

Thường cứu kẻ khổ nghèo.

Thấy người xin không khinh

Nên sinh lòng hoan hỷ

Như cây mới sinh trưởng

Đêm ngày không dừng nghỉ

Người trí thích tu hành

Tăng trưởng cũng như vậy.

Người trí gặp kẻ thù

Giữ Từ bi không bỏ

Như bẻ gãy cọng sen

Tơ sen vẫn không đứt.

Sinh tử như cây độc

Giác ngộ quả Pháp thân

Sinh tử là Niết-bàn

Bản tánh đều bình đẳng.

Tịnh tuệ hạnh Hiền thánh

Đại Bi ích vạn loài

Không chọn thù hay thân

Không bao giờ phân biệt

Tuổi già nhiều trí tuệ

Tịnh giới đều tròn đầy

Gần gũi người như vậy

Hạnh an lạc mau thành.

Người trí tuệ không cấu

Ba nghiệp luôn thanh tịnh

Nên gần gũi người ấy

Tôn kính hơn cha me.ï

Đừng gần gũi người ngu

Vì hoại tâm người lành

Như lửa đốt cây khô

Phải nên lánh người ấy.

Dung dưỡng người xấu ác

Muốn lợi nhưng bị hại

Như cho thú dữ ăn

Không ai không bị hại.

Cúng dường người trí tuệ

Tuy ít, được phước nhiều

Như người uống cam lồ

Luôn được vui an ổn.

Đức Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị:

–Bát-nhã ba-la-mật-đa này đều nhờ bạn lành khai mở Chánh pháp. Kẻ tà kiến là kẻ thù của trí tuệ. Các ông nên gần gũi bạn lành, lánh xa bạn xấu ác. Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải chỉ phát sinh ra tất cả pháp lành mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều từ đây sinh ra. Nên biết, kinh này là mẹ của tất cả chư Phật.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát khi hành bố thí có hai loại trí, đó là trí nhỏ và trí lớn. Người trí nhỏ bố thí thì cầu sinh làm trời, người và quả giải thoát Nhị thừa. Bố thí như vậy chỉ được gọi là bố thí, không được gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Người trí lớn, bố thí với tâm không sở đắc, vì không sở đắc nên thành Phật Bồ-đề. Bố thí như vậy gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Vì thế nên biết, Bố thí ba-la-mật-đa là từ trí tuệ sinh ra.

Trì giới ba-la-mật-đa cũng có hai loại: trí nhỏ và trí lớn. Người trí nhỏ trì giới vì sợ ba đường ác nên cầu sinh vào trời, người và quả giải thoát Nhị thừa. Trì giới như vậy tâm không thanh tịnh, không được gọi là Trì giới ba-la-mật-đa. Người trí lớn trì giới vì làm lợi ích an lạc khắp các hữu tình, không trụ vào tướng mà vô sở đắc, hướng đến Bồ-đề. Trì giới như vậy gọi là Trì giới ba-la-mật-đa. Cho nên phải biết Trì giới ba-la-mật-đa là từ trí tuệ sinh ra.

Nhẫn nhục ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Tất cả bản trí của hữu tình như mặt trời bị vô minh che lấp, làm cho ánh sáng nhẫn nhục không hiện ra được. Người tu nhẫn nhục, đoạn trừ vô minh, Thánh trí hiện tiền, mặt trời Phật do đây mà chiếu sáng.

Ví như trong một đất nước không có quan trí tuệ nên việc cai trị không công bằng, làm cho nhân dân ly tán, nếu có người trí tuệ, họ cũng sẽ trốn lánh. Người không có trí tuệ mà nhẫn nhục cũng như vậy. Trí tuệ này như người mắt sáng, thấy rắn độc liền tránh xa. Cũng vậy, người có mắt trí tuệ tránh xa rắn độc sân giận. Người không có mắt trí tuệ vì trong vô lượng kiếp quá khứ tu hành các điều thiện nhưng không có sức nhẫn nhục và mắt trí tuệ nên trong một niệm lửa sân thiêu đốt, tiêu diệt tất cả, không còn chút gì. Như quăng lửa vào đống cỏ khô thì cỏ khô bị thiêu đốt trụi. Người trí tuệ có sức nhẫn nhục, giả sử gặp người ác đến đánh đập mắng nhiếc, Bồ-tát nên dùng chánh trí nhẫn nhục thì có thể điều phục được họ. Ví như voi lớn đã được điều phục rồi thì ra trận xông xáo, có thể phá tan quân địch. Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ trong nhẫn vô tướng không sân giận, dùng vô duyên đại Bi mà rộng độ tất cả. Cho nên phải biết rằng, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa là từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Tinh tấn ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Vì sao? Vì nếu không có Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm việc gì cũng đều không thành tựu. Vô biên pháp môn, quả Đại Bồ-đề đều an trụ vào đại trí tuệ phương tiện tối thắng, quán sát khắp cả, chủ yếu là có sức tinh tấn mới có thể viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa. Cho nên phải biết rằng, Tinh tấn ba-la-mật-đa đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Thiền định ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Vì sao? Vì ý nghiệp rất tinh vi, khó mà lường được. Thân, khẩu nghiệp dễ diệt trừ nhưng vọng tâm khởi lên khó chế ngự được. Ví như gió thổi lửa dữ, ta vẫn có thể ngăn cản được, sĩng biển ta cũng có thể làm dừng lại được, nhưng vọng tâm rất khóù điều phục. Vì sao? Vì bị vô minh từ vô thỉ làm mê mờ tâm tánh. Giống như người nhiều tư tưởng thế gian, khi vọng tưởng khởi lên thì mong cầu lăng xăng, cứ theo ý nghĩ mà phát sinh mãi. Người vọng tưởng như vậy, nếu có nhập vào định thì tâm vẫn còn chấp thủ. Vì không có trí tuệ nên trải qua trăm ngàn kiếp không bao giờ đạt được Tam-muội. Cũng như người ngu vọng chấp các kiến, chấp ngã là thường còn, hoặc chấp ngã là đoạn. Những kiến chấp ấy không thanh tịnh thì làm sao Tam-muội hiện tiền? Người có trí tuệ quán sát hai điều:

Một là tự quán sát thấy thân mình có nhiều tật bệnh, khổ vui là đều do đời trước vọng tưởng điên đảo tạo ra các nghiệp, nay phải chịu quả báo. Nếu không si ái thì làm gì có bệnh. Thân mình vốn nó là không, nhờ nhân duyên huyễn hóa mà có, nếu không tạo tác thì ai chịu khổ?

Hai là quán sát lại, tuy không có tướng ngã nhưng nghiệp phước đã tạo đều không mất. Nên nguyện vô lượng phước đức của tất cả hữu tình ở pháp giới đều thanh tịnh, tất cả đều thành tựu sáu pháp Ba-la-mật-đa, trang nghiêm thân bằng Giới, Định, Tuệ, cho nên biết tất cả các hạnh đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm mẹ. Giống như đại địa đều nương vào hư không mà đứng vững, nhưng hư không đó không có chỗ nương dựa. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vậy, cho nên biết Trí tuệ là mẹ của Thiền định ba-la-mật-đa. Chẳng phải chỉ có năm pháp Ba-la-mật-đa từ trí tuệ sinh ra, mà tất cả phước đức, tiếng khen ở thế gian, quả báo ở cõi trời, người, cho đến căn lành vô lậu của xuất thế đều nhờ trí tuệ sinh ra. Giống như đại địa nương vào hư không mà được đứng vững. Tất cả chúng sinh vì chấp ngã, chấp tướng mà có năm sợ hãi:

1.Sợ không đủ sinh sống, nghĩa là thường cất chứa của cải, sợ mình không có để sống.

2.Sợ đường ác nghĩa là tạo ra nghiệp ác nên sợ mình đọa trong ba đường ác.

3.Sợ chết nghĩa là thương tiếc thân mạng.

4.Sợ tiếng xấu nghĩa là luôn làm việc ác để che lấp, sợ người nghe biết.

5.Sợ oai đức đại chúng nghĩa là trong đại chúng có nói ra lời gì cũng đều sợ hãi.

Đại Bồ-tát dùng trí tuệ quán sát đầy đủ, chứng được Nhị không, có thể làm lợi ích cho mình và người thì không sợ không đủ sinh sống. Đoạn trừ tà hạnh, giữ trọn vẹn giới, chắc chắn đạt đến Niết-bàn thì không sợ đọa vào đường ác. Nhập sâu vào lý duyên khởi, hiểu rõ nó vốn không sinh thì không sợ chết.

Trụ trong lý vô tướng, thân tâm tịch tĩnh, không có tướng mình và người thì không sợ tiếng xấu.

Thành tựu bốn Biện tài vô ngại nhiệm mầu thì ở trong chúng không sợ, giống như Sư tử chúa, cho nên gọi là không sợ đại chúng.

–Này Từ Thị! Căn tánh của tất cả chúng sinh đều sai biệt. Ai xan tham thì dạy họ bố thí, người sân giận thì dạy họ Từ bi nhẫn nhục. Người ngã mạn dạy họ khiêm nhường, người ngu si được trí tuệ. Khai mở Niết-bàn, làm hiển rõ vô lượng công đức của tướng chân như. Tất cả đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Tất cả chư Phật và các vị Bồ-tát, Trời, Rồng, tám bộ chúng đều khen ngợi tôn trọng, cung kính giống như cha mẹ. Ví như mẹ hiền chỉ có một đứa con, nuôi dưởng dạy dỗ nó dần dần trưởng thành, mong được nên danh; Bồ-tát cũng vậy, yêu thương hữu tình giống như con một, lấy trí tuệ cam lồ làm pháp thức ăn, lấy năm độ làm đại lương dược, lấy mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, các công đức vi diệu để trang nghiêm pháp thân, thành tựu ngôi vị Pháp vương vô thượng.

Này Từ Thị! Có mười việc làm chướng ngại đèn trí, che lấp làm cho ánh sáng không hiển hiện được, làm tăng trưởng sự tối tăm, không hiểu biết gì cả:

1.Biếng nhác: đối với sự nghiệp ở đời đều không thành tựu, thì làm sao có thể tu hành điều thiện vi diệu của đạo xuất thế!

2.Gần bạn ác thì tạo ra nghiệp ác, làm tăng trưởng vô minh.

3.Chìm đắm trong ngủ nghỉ, làm cho thân tâm hôn mê, không thể tu tập Vô thượng Bồ-đề.

4.Nghe Đại thừa liền quên mất.

5.Thích học tập tất cả kỹ nghệ ở thế gian, không biết nó như huyễn mà lại chấp trước.

6.Bị ngã mạn che lấp, dù gặp bạn lành nhưng không học hỏi Chánh pháp vô thượng.

7.Không liễu ngộ giáo lý Đại thừa vi diệu nhiệm mầu, lại ngã mạn tự cao thoái lui.

8.Xấu hổ về sự ngu muội của mình nên không gần gũi người có trí.

9.Bắt chước dị đoan, dối trá nói là thấy biết, nếu bị luận hỏi thì bỏ chạy.

10.Không tin thích Tối thượng thừa, giả sử có nghe thì lại hiểu bằng lăng kính tà kiến.

Do mười việc này mà làm chướng ngại Đại thừa. Do không nghe Chánh pháp nên bị đắm chìm trong sinh tử.

Mười việc này có mười pháp thù thắng để cho người ngộ nhập vào Vô thượng Bồ-đề:

1.Tinh tấn siêng năng, thích tu tập thiền định.

2.Gần gũi bạn lành nghe Chánh pháp.

3.Giảm bớt ngủ nghỉ, luôn luôn tự tỉnh thức.

4.Nghe pháp Đại thừa không bao giờ quên.

5.Làm theo sự nghiệp ở đời nhưng luôn quán nó như huyễn, không chấp trước.

6.Không giấu điều gì, giải nghi ngờ cho đại chúng.

7.Không nên chê mình, phải siêng năng tu hành.

8.Thích thiết lập đàn bố thí.

9.Luôn khiêm nhường, không lừa gạt chúng sinh.

10.Không nhờ thầy mà nhập sâu vào tuệ Phật.

Đại Bồ-tát nhờ mười việc này mà đầy đủ viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành tựu pháp thân thanh tịnh giải thoát.

Này Đại Bồ-tát Từ Thị! Bát-nhã ba-la-mật-đa này không tương ưng với mười sáu pháp:

1.Không tương ưng với mười hai nhân duyên, nghĩa là từ vô minh cho đến Lão tử.

2.Không tương ưng với Vô minh diệt cho đến sinh tử diệt. Vì Đại Bồ-tát lìa tâm phân biệt, không có hai tướng.

3.Không tương ưng với thân kiến, biên kiến, cho đến sáu mươi hai kiến.

4.Không tương ưng với tám loại gió thế gian, đó là: lợi dưỡng, khen ngợi, chê bai, khổ, vui, suy, hao, chế giễu.

5.Không tương ưng với tùy phiền não: phẫn, hận…

6.Không tương ưng với ngã mạn, tăng thượng mạn…

7.Không tương ưng với căn bản phiền não: tham, sân, si…

8.Không tương ưng với ma phiền não, ma chết…

9.Không tương ưng với tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, người làm, người nhận, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng.

10.Không tương ưng với vọng niệm phân biệt của thấy nghe, hay biết.

11.Không tương ưng với bốn pháp điên đảo: vô thường cho là thường, thường cho là vô thường; không vui cho là vui, vui cho là không vui; vô ngã nói là ngã, ngã cho là vô ngã; bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh. Do vọng tưởng nên gọi là pháp điên đảo. Do tâm hành của hữu tình như thế nên dẫn đến cửa trần lao.

12.Không tương ưng với xan tham, phạm giới, sân giận, biếng nhác, tán loạn, ngu si, và cũng không tương ưng với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ mà có tướng.

13.Không tương ưng với các pháp bất thiện: tánh tội, già tội, hữu lậu, hữu vi, không tương ưng với sự phân biệt về pháp thiện của thế gian, xuất thế gian, vô lậu và vô vi.

14.Không tương ưng với hai mươi hai căn, đó là: Không tương ưng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Không tương ưng với khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Không ương ưng với nam căn, nữ căn, ý căn, mạng căn. Không ương ưng với tín… năm Căn, và không tương ưng với ba căn vô lậu.

15.Không tương ưng với mỗi loại hữu tình trong năm thú ba cõi. Cũng không tương ưng với sự phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa của Phật, Pháp, Tăng bảo.

16.Không tương ưng với sự phân biệt của tâm ý, như: không phân biệt chân đế, tục đế; hữu vi, vô vi, hữu trí, vô trí; có thức, không thức; tác ý, không tác ý; tánh hữu thể, tánh vô thể; hữu tướng, vô tướng.

Từ Thị nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa không nhiễm, không vướng mắc, không có các phân biệt; nó bình đẳng, thanh tịnh, là một tướng, một vị, không tương ưng với tất cả pháp sai biệt như vậy.

Này Từ Thị! Với phương tiện thiện xảo, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì phải trụ vào Chỉ và Quán, thân trụ trong tịch tĩnh, hiểu rõ nhân duyên các pháp như huyễn như hóa, thuận theo thắng nghĩa đế, lìa hữu, lìa vô, không thường, không đoạn, đều tùy thuận với nhân quả, không có tướng ngã, tướng nhân, là chân thật bất động, không mất oai nghi. Trụ vào ba cửa giải thoát nhưng không chấp đã chứng, không động không tịnh, đó là thiền của Như Lai. An trú thần thông, thâm nhập sâu vào thực tế, không ở mãi trong sinh tử, không nhập vào Niết-bàn, không chấm dứt hữu vi, không trụ trong vô vi. Mặc dù quán vô tướng nhưng không xả bỏ đại Bi. Mặc dù ở trong ba cõi nhưng luôn xuất ly. Tuy biết đúng về vô nhiễm nhưng không tu chứng. Tuy xa lìa các hý luận nhưng thích bàn luận về Chánh pháp.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gần gũi bạn lành, nghe Chánh pháp, đầy đủ tám mươi bốn loại tâm tối thượng thì mới có thể phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thù thắng vi diệu. nghĩa là trụ vào tướng chân thật, tướng rất vi diệu, tướng tương ưng với Bát-nhã, tướng bạn lành, tướng lìa kiêu mạn, tướng cung kính, tướng đi nhiễu bên phải, tướng vô lượng, tướng lời nói hoàn hảo, tướng chí thành, tướng tác ý hoàn hảo, tướng không loạn, tướng vô định, tướng tốt đẹp quý báu, tướng thuốc hay, tướng trừ bệnh, tướng pháp khí, tướng chỉ dẫn, tướng nhập trí tuệ, tướng nghe pháp, tướng không chán, tướng tăng trưởng xả, tướng khéo điều phục voi ngựa, tướng kính thờ bậc đa văn, tướng thích nghe pháp vi diệu, tướng quán thân tịch diệt, tướng thanh tịnh vui thích, tướng nghe pháp không mệt mỏi, tướng nghe nghĩa, tướng nghe pháp, tướng lời nói đi đôi với việc làm, tướng nói pháp cho người, tướng nghe những điều chưa nghe, tướng nghe thần thông, tướng không tìm cầu thừa khác, tướng thích nghe Bát-nhã, tướng thích nghe Bồ-tát tạng, tướng thích nghe phương tiện quyền xảo, tướng bốn Nhiếp pháp, tướng nghe phạm hạnh, tướng niệm chánh định, tướng hay sinh thiện xảo vô sinh, tướng tâm đại Từ bi, tướng duyên khởi, tướng vô thường, tướng khổ, tướng không, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng tịch tĩnh, tướng Không, tướng Vô tướng, tướng Vô nguyện, tướng không có hạnh bất thiện, tướng thắng nghĩa đế, tướng không hư hoại, tướng tự tại, tướng hộ tâm mình, tướng không bỏ tinh tấn, tướng tư duy pháp vi diệu, tướng đối trị phiền não, tướng tôn trọng Chánh pháp, tướng đối trị tà kiến, tướng đạt được Thánh tài, tướng trừ bỏ nghĩa khổ, tướng người trí khen ngợi, tướng người trí rất vui, tướng những điều người trí ưa thích, tướng tôn trọng bậc hiền thiện, tướng thấy bốn Đế, tướng quán lỗi lầm của uẩn, tướng tai hoạn của hữu vi, tướng căn cứ vào pháp, tướng căn cứ vào nghĩa, tướng căn cứ vào trí, tướng căn cứ vào kinh liễu nghĩa, tướng căn cứ vào kinh bất liễu nghĩa, tướng không tạo các điều ác, tướng tự mình làm lợi ích, tướng làm lợi ích cho người, tướng tạo thiện tốt đẹp, tướng không phiền não, tướng thắng hạnh, tướng đạt tất cả pháp môn của chư Phật.

Từ Thị nên biết! Người nghe pháp đầy đủ tâm thù thắng như vậy thì có thể nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, biết tất cả pháp không có ngã, không có người, xưa nay thanh tịnh. Sinh tử và Niết-bàn đều bình đẳng không hai.

Lại nữa, Đại Bồ-tát quán năm Căn: mắt,… các thọ khổ, vui… ý căn, mạng căn hay khởi lên phiền não làm căn bản cho sinh tử. Tín,… năm Căn và ba căn vô lậu hay xả bỏ phiền não. Đó là nhân Niết-bàn. Biết tánh phiền não từ xưa đến nay không sinh không diệt, tánh tướng thường trụ. Người nào tu tập như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát đã tu thắng hạnh tương ứng và không tương ứng với trí tuệ, không có phân biệt, hai trí đều bình đẳng, không xả bỏ chúng sinh mà luôn có lòng Từ bi, che chở tất cả được thanh tịnh bất động. Ai tu tập như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đức Phật dạy Từ Thị:

–Câu nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghĩ bàn. Đó là câu tương ưng, câu như lý, câu như lượng, câu lời Phật, câu hiểu rõ nhân duyên, câu không chướng ngại, câu không diệt, câu đại xả, câu bất động, câu tất cả bất động, câu không y chỉ, câu bình đẳng, câu không khó, câu không cao thấp, câu thật tế, câu không biến đổi, câu không chấp trước, câu không trụ, câu không chỗ trụ, câu đối trị, câu tịch tĩnh, câu rất tịch tĩnh, câu khắp nơi tịch tĩnh, câu không hý luận, câu vô khởi, câu tức chân, câu không khiếm khuyết, câu không thừa, câu không giới hạn, câu không đối trị, câu tối thắng, câu chân thật, câu như như, câu tuyệt ngôn, câu không phân biệt, câu không bỉ thử, câu ba đời bình đẳng, câu không ba đời, câu không trụ vào năm uẩn, câu không trụ vào sáu giới, câu không trụ vào mười hai xứ, câu không trụ vào mười tám giới, câu căn cứ vào pháp, câu căn cứ vào nghĩa, câu căn cứ vào trí, câu căn cứ vào liễu nghĩa.

Với câu nghĩa như vậy tức là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghĩ bàn. Vì lìa ngôn thuyết, vì chân thắng nghĩa, vì không thể nghĩ bàn, vì không ví dụ, không so sánh, vì vô thượng, vì tự lợi và lợi tha, vì rất hy hữu, chỉ có Phật với Phật mới có thể chứng tri, ngoài ra không ai biết được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa không có tánh, không có tướng, không so sánh, không ví dụ, chỉ có Phật Như Lai mới có thể biết tận.

Này Từ Thị! Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải uẩn xứ giới, không chỗ nương tựa, không sinh không diệt, không trong không ngoài, không ở chặng giữa, cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghĩ bàn.

Nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa này, Bồ-tát Từ Thị rất vui mừng, sung sướng nói kệ khen:

Thế Tôn Đại Hùng trí Vô thượng

Mười Lực, Vô úy, Chân giải thoát

Quảng đại thần thông không giới hạn

Nào ai có thể so lường được.

Quá khứ gần gũi vô lượng Phật

Đạt được trí vi diệu sâu xa

Vô số kiếp tu hạnh khó hành

Do đó thành Bậc Điều Ngự Sư.

Phật chứng tự nhiên Nhất thiết trí

Trụ trong tịch tĩnh khó nghĩ lường

Chỉ Phật Như Lai tự chứng biết

Hiện trong vô số cảnh giới Phật.

Tánh pháp chân thường lìa hai bên

Vô vi tịch tĩnh thoát ba cõi

Khổ nghiệp phiền não đều diệt trừ,

Pháp thân thanh tịnh chân giải thoát

Đạo tràng Bồ-đề thành Chánh giác

Chỉ có chư Phật mới chứng tri.

Thanh tịnh y nhiên, không đi, đến

Không tướng, không làm, không nói năng

Niết-bàn không sánh, không ví dụ

Phàm phu Nhị thừa không thể lường,

Đẳng giác Bồ-tát không thể biết,

Riêng Phật Thế Tôn mới hiểu rõ.

Các chúng Thanh văn trong hội Phật

Chứng đắc tự lợi, Như Lai khen,

Hết sinh hữu lậu, thân sau cùng

Họ cũng không biết cảnh giới Phật.

Tất cả Bích-chi-phật lợi trí

Nhiều khắp mười phương như lúa mè

Cùng tư duy trăm ngàn vạn kiếp

Không sao biết được trí tuệ Phật.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Bí Mật Bát Danh Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Nhơn Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh Pháp Nghi Quĩ Niệm Tụng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Pháp Nghi Quỹ Tôn Thắng Phật Đỉnh Tu Du Già - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Nhứt Thiết Như Lai Kim Cang Thọ Mạng - Kinh Tạng
  • Đại luân Kim Cang Tổng Trì đà-ra-ni kinh - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Kinh Tâm Phật - Kinh Tạng
  • Nghi quỹ Đà-la-ni Tùy Cầu Tức Đắc Thần biến gia trì thành tựu Kim cang đảnh Du-già tối thắng Bí mật thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Kinh Đồng Tử Tô Bà Hô Thưa Hỏi - Kinh Tạng