1
2
3
4
5
6
7

QUYỂN 2

PHẨM 3: THÍ DỤ

Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử vui mừng hớn hở, liền đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng Tôn nhan, rồi bạch Phật rằng:

“Con nay nghe được Pháp âm này từ Thế Tôn, cõi lòng vui khôn xiết và được điều chưa từng có.

Vì sao thế? Bởi vào thuở xưa, con đã nghe Pháp như vầy từ Đức Phật và thấy chư Bồ-tát đắc thọ ký thành Phật. Tuy nhiên, đối với việc đó thì chúng con không có phần tham dự. Con cảm thấy đau xót vô cùng vì con đã đánh mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai.

Thưa Thế Tôn! Con thường một mình ở dưới gốc cây trong rừng, hoặc ngồi hay đi kinh hành, con luôn nghĩ như vầy:

“Chúng ta đều đồng nhập Pháp tánh. Tại sao Như Lai dùng Pháp Tiểu Thừa để hóa độ? Đây là lỗi của chúng ta chớ chẳng phải lỗi của Thế Tôn.”

Vì sao thế? Bởi nếu chúng con chờ đợi nghe thuyết giảng về nhân duyên thành tựu của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì chắc chắn rằng chúng con đã được độ thoát bởi Pháp Đại Thừa. Tuy nhiên, chúng con đã không hiểu lời nói phương tiện tùy nghi. Cho nên, khi mới bắt gặp và nghe Phật Pháp, chúng con liền tín thọ, tư duy, và chứng quả.

Thưa Thế Tôn! Từ bấy lâu nay, suốt cả ngày lẫn đêm, con cứ luôn tự trách. Bây giờ, con nghe được Pháp mà chưa từng nghe qua. Thế nên, con đoạn trừ tất cả mối nghi, khiến thân tâm an lạc và được bình an thanh thản. Mãi đến hôm nay, con mới biết rằng mình là đệ tử chân chánh của Phật, sanh ra từ miệng của Phật, hóa sanh từ Pháp, và được một phần trong Phật Pháp.”

Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

“Con nghe Pháp âm này

Được điều chưa từng có

Cõi lòng vui khôn xiết

Lưới nghi đều đã trừ

Xưa nhờ ơn Phật dạy

Không mất đi Đại Thừa

Tiếng Phật rất hy hữu

Khéo trừ chúng sanh khổ

Con đã đắc lậu tận

Nghe cũng trừ ưu não

Con trú nơi sơn cốc

Hay ở dưới gốc cây

Hoặc ngồi hay kinh hành

Luôn tư duy việc này

Than ôi! Lòng tự trách

“Sao tự lừa dối mình?

Chúng ta cũng Phật tử

Đồng nhập Pháp vô lậu

Nhưng vị lai chẳng thể

Diễn nói vô thượng Đạo

Sắc vàng ba hai tướng

Thập Lực các Giải Thoát

Đồng cộng trong một Pháp

Nhưng không được việc này

Tám mươi loại vẻ đẹp

Mười Tám Pháp Bất Cộng

Các công đức như thế

Con đây đều đã mất

Khi một mình kinh hành

Thấy Phật ở đại chúng

Danh vang khắp mười phương

Rộng lợi ích chúng sanh

Tự thấy mất lợi đó

Và tự lừa dối mình

Con suốt ngày lẫn đêm

Luôn tư duy việc này

Muốn thỉnh vấn Thế Tôn

“Đã mất hay vẫn còn”

Con luôn thấy Thế Tôn

Ngợi khen chư Bồ-tát

Cho nên suốt ngày đêm

Suy ngẫm việc như thế

Nay nghe Phật âm thanh

Tùy nghi mà thuyết Pháp

Vô lậu chẳng nghĩ bàn

Dẫn họ đến Đạo Tràng

Con xưa chấp tà kiến

Làm thầy Bà-la-môn

Thế Tôn biết tâm con

Phá tà giảng Niết-bàn

Con trừ sạch tà kiến

Chứng đắc nơi không pháp

Thế rồi lòng tự mãn

Rằng đã đến diệt độ

Nhưng nay mới tỉnh ngộ

Đó chẳng thật diệt độ

Đến khi nào thành Phật

Đầy đủ ba hai tướng

Trời người quỷ dạ-xoa

Chúng long thần cung kính

Lúc đó mới thể nói

“Vĩnh tận diệt vô dư”

Phật ở giữa đại chúng

Nói con sẽ thành Phật

Nghe Pháp âm như thế

Mọi điều nghi diệt trừ

Khi mới nghe Phật nói

Trong lòng thật kinh nghi

“Có phải ma giả Phật

Đến não loạn tâm ta?”

Phật dùng mọi nhân duyên

Thí dụ lời thiện xảo

Lòng họ yên như biển

Con nghe lưới nghi đoạn

Phật nói thuở quá khứ

Vô lượng diệt độ Phật

An trụ trong phương tiện

Cũng đều thuyết Pháp này

Hiện tại vị lai Phật

Số ấy vô hạn lượng

Cũng dùng các phương tiện

Diễn nói Pháp như vầy

Như hôm nay Thế Tôn

Đản sanh đến xuất gia

Đắc Đạo chuyển Pháp luân

Cũng dùng phương tiện nói

Thế Tôn giảng chân Đạo

Ác Giả không hề làm

Thế nên con biết chắc

Chẳng phải ma giả Phật

Bởi con sa lưới nghi

Cho là do ma làm

Nghe tiếng Phật dịu êm

Vi diệu xa thăm thẳm

Diễn sướng Pháp thanh tịnh

Lòng con vui khôn xiết

Nghi vấn đã vĩnh trừ

An trụ trong thật trí

Con quyết sẽ thành Phật

Bậc trời người cung kính

Chuyển vô thượng Pháp luân

Giáo hóa chư Bồ-tát”

Lúc bấy giờ Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:

Nay Ta ở giữa đại chúng với hàng trời người, Sa-môn, và Bà-la-môn mà tuyên cáo rằng: vào thuở xưa, ta đã từng ở nơi của 20.000 ức Phật, vì cầu Đạo vô thượng, ta đã luôn giáo hóa ông. Suốt đêm dài, ông cũng theo ta học tập. Ta đã dùng phương tiện dẫn đạo để ông sanh vào trong Pháp của ta.

Này Xá-lợi Tử! Thuở xưa, ta đã dạy ông phát nguyện chí thành nơi Phật Đạo. Thế nhưng, giờ đây ông đã hoàn toàn quên mất mà tự cho rằng mình đã đắc diệt độ. Ta nay vì muốn khiến ông nhớ lại bổn nguyện lúc ông tu hành Phật Đạo và lại cũng vì hàng Thanh Văn, nên thuyết giảng Kinh Đại Thừa này đây với tên gọi là Diệu Pháp Liên Hoa, là Pháp để giáo hóa Bồ-tát và được Phật hộ niệm.

Này Xá-lợi Tử! Trải qua vô lượng vô biên bất khả tư nghị số kiếp ở vào đời vị lai, khi đã cúng dường và phụng trì Chánh Pháp của vài ngàn vạn ức Phật, ông sẽ viên mãn Bồ-tát Đạo và thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Quốc độ tên là Ly Cấu. Nơi ấy bằng phẳng, thanh tịnh trang nghiêm, an bình thịnh vượng, và có rất đông hàng thiên chúng. Đất làm bằng lưu ly và có tám con đường cắt ngang ở một chỗ. Những sợi dây vàng kim được giăng trên đường lộ để phân chia các hàng cây bảy báu. Trên cây luôn có hoa với trái.

Đức Hoa Quang Như Lai cũng sẽ dùng ba thừa để giáo hóa chúng sanh.

Này Xá-lợi Tử! Khi Đức Phật kia xuất thế, mặc dù không phải là đời ác, nhưng do bổn nguyện nên Ngài sẽ dạy giáo Pháp của ba thừa. Kiếp đó tên là Đại Bảo Trang Nghiêm.

Vì sao tên là Đại Bảo Trang Nghiêm? Bởi vì trong cõi nước ấy, Bồ-tát được xem là đại bảo. Số lượng của chư Bồ-tát kia nhiều vô lượng vô biên bất khả tư nghị. Cho dù dùng toán số thí dụ thì cũng không thể lường được. Ngoại trừ trí tuệ lực của Phật, không một ai có thể biết.

Khi họ muốn đi, hoa báu sẽ nâng đỡ bàn chân. Chư Bồ-tát này không phải là những vị sơ phát tâm mà sẽ là các bậc đã từng gieo trồng thiện căn từ thuở xa xưa nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, tịnh tu Phạm hạnh, và thường được chư Phật ngợi khen. Họ luôn tu Phật tuệ, đầy đủ đại thần thông, khéo biết tất cả Pháp môn, chánh trực không hư ngụy, và có chí niệm kiên cố. Có chư Bồ-tát như thế đầy khắp quốc độ kia.

Này Xá-lợi Tử! Thọ mạng của Đức Phật Hoa Quang sẽ là 12 tiểu kiếp. Đây không tính thời gian lúc ngài hãy còn là hoàng tử và vẫn chưa thành Phật. Thọ mạng của nhân dân trong cõi nước đó là 8 tiểu kiếp.

Sau 12 tiểu kiếp, Đức Hoa Quang Như Lai sẽ thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho Kiên Mãn Bồ-tát. Ngài sẽ bảo các vị Tỳ-kheo rằng:

“Vị Kiên Mãn Bồ-tát này sẽ kế đến thành Phật, hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước của Đức Phật đó cũng giống như đây vậy.”

Này Xá-lợi Tử! Sau khi Đức Phật Hoa Quang diệt độ, Chánh Pháp sẽ trụ thế 32 tiểu kiếp. Tượng Pháp cũng sẽ trụ thế 32 tiểu kiếp.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

“Vị lai Xá-lợi Tử

Thành Phật Phổ Trí Tôn

Danh hiệu là Hoa Quang

Sẽ độ vô lượng chúng

Cúng dường vô số Phật

Cụ túc Bồ-tát hạnh

Thập Lực mọi công đức

Sẽ chứng vô thượng Đạo

Trải qua vô lượng kiếp

Kiếp tên Đại Bảo Nghiêm

Thế giới tên Ly Cấu

Thanh tịnh không vết xấu

Đất làm bằng lưu ly

Dây vàng giăng đường lộ

Cây tạp sắc bảy báu

Luôn có bông hoa trái

Bồ-tát cõi nước kia

Chí niệm luôn kiên cố

Thần thông Độ Vô Cực

Thảy đều đã cụ túc

Ở chỗ vô số Phật

Khéo học Bồ-tát Đạo

Các Đại sĩ như thế

Hoa Quang Phật giáo hóa

Khi ngài làm hoàng tử

Bỏ nước rời vinh hoa

Trụ ở thân tối hậu

Xuất gia thành Phật Đạo

Hoa Quang Phật trụ thế

Thọ mười hai tiểu kiếp

Dân chúng trong nước đó

Sống lâu tám tiểu kiếp

Sau khi Phật diệt độ

Chánh Pháp sẽ trụ thế

Dài ba hai tiểu kiếp

Rộng cứu độ chúng sanh

Lúc Chánh Pháp diệt tận

Tượng Pháp ba hai kiếp

Xá-lợi phân chia khắp

Trời người rộng cúng dường

Phật sự Đức Hoa Quang

Việc đó là như vậy

Lưỡng Túc Thánh Tôn ấy

Tối thắng không ai hơn

Ngài chính là ông đây

Thế nên hãy mừng vui”

Lúc bấy giờ hàng tứ chúng, gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cũng như hàng đại chúng với trời, rồng, dạ-xoa, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, và đại mãng xà, khi họ thấy ngài Xá-lợi Tử ở trước Phật được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong lòng vui mừng khôn xiết và hân hoan vô lượng, rồi mỗi vị cởi phần trên của y phục đang khoác ở nơi thân để cúng dường Phật.

Thiên chủ Đế Thích, các vị vua Phạm Thiên, và vô số thiên tử cũng dùng y phục vi diệu cõi trời, hoa thích ý cõi trời, hoa thích ý lớn, và những vật khác để cúng dường Phật. Y phục cõi trời mà chư thiên rải lên, chúng lơ lửng giữa hư không và tự động xoay chuyển. Khi ấy ở trong hư không, cùng một lúc có trăm ngàn vạn loại âm nhạc cõi trời đồng thời trỗi vang. Họ mưa xuống các thiên hoa và nói lời như vầy:

“Thuở xưa ở vườn Nai, Đức Phật đã sơ chuyển Pháp luân. Cho đến bây giờ, Ngài mới chuyển vô thượng tối đại Pháp luân.”

Lúc bấy giờ các vị thiên tử muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

“Thuở xưa ở vườn Nai

Chuyển Tứ Đế Pháp luân

Phân biệt giảng các pháp

Sanh diệt của năm uẩn

Nay lại chuyển tối diệu

Vô thượng đại Pháp luân

Pháp này rất thâm áo

Ít ai có thể tin

Chúng con từ xưa nay

Thường nghe Thế Tôn nói

Nhưng chưa từng nghe Pháp

Thâm diệu cao như thế

Thế Tôn thuyết Pháp này

Chúng con đều tùy hỷ

Đại trí Xá-lợi Tử

Nay được Phật thọ ký

Chúng con cũng như vậy

Tất sẽ đắc thành Phật

Khắp tất cả thế gian

Tối tôn không ai bằng

Phật Đạo chẳng nghĩ bàn

Phương tiện tùy nghi nói

Bao phước nghiệp chúng con

Hiện đời và quá khứ

Cùng công đức thấy Phật

Tận hồi hướng Phật Đạo”

Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Bây giờ chính con ở trước Phật được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên không còn có điều gì để hoài nghi. Thế nhưng, tuy tâm của 1.200 vị Tỳ-kheo đang hiện diện nơi đây đã đắc tự tại, và lúc họ vẫn còn ở hàng Hữu Học, Phật luôn giáo hóa mà bảo rằng:

“Pháp của Ta có thể thoát ly sanh lão bệnh tử và đạt tới cứu cánh Niết-bàn.”

Lẫn hàng Hữu Học và những vị Vô Học, ai nấy cũng đã xa rời cái thấy của ngã, cái thấy của có và không, cùng những cái thấy khác, và cho rằng mình đã đắc Niết-bàn. Tuy nhiên nay ở trước Thế Tôn, khi nghe những điều chưa hề nghe, họ đều rơi vào nghi hoặc.

Lành thay, thưa Thế Tôn! Con ngưỡng mong Ngài hãy vì hàng tứ chúng mà nói về các nhân duyên ấy để khiến họ thoát ly sự nghi ngờ và điều hối tiếc.”

Lúc bấy giờ Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:

“Trước kia chẳng phải Ta đã nói qua rằng, chư Phật Thế Tôn dùng mọi nhân duyên, thí dụ ngôn từ, và phương tiện để thuyết Pháp, thảy đều là vì Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải không? Tất cả lời giảng dạy đó đều là vì để giáo hóa Bồ-tát.

Tuy nhiên, Xá-lợi Tử! Bây giờ Ta sẽ lại dùng một thí dụ để làm sáng tỏ thêm về nghĩa lý này. Qua thí dụ đó, những ai có trí tuệ thời sẽ hiểu được.

Này Xá-lợi Tử! Giả sử ở quốc gia, thành thị, hay trong một thôn xóm nọ có một đại trưởng giả già yếu với tài phú vô lượng. Ông ta có rất nhiều cánh đồng, nhà cửa, và những người đầy tớ trẻ.

Nhà đó rộng lớn và chỉ có một cánh cửa, nhưng có rất nhiều dân chúng–100, 200, hay cho đến 500 người–đang trú ở trong ấy.

Đại sảnh đường đã cũ kỹ; vách tường rạn nứt. Cột trụ mục nát; cây kèo ngang xiêu vẹo và rất nguy hiểm.

Bỗng nhiên đồng một lúc có cơn hỏa hoạn khởi lên xung quanh và đốt cháy căn nhà.

Các đứa con của ông trưởng giả, hoặc 10, 20, hay đến cả 30 đứa hiện đang ở trong căn nhà đó.

Khi thấy đám lửa phừng phừng bốc cháy từ bốn phía, ông trưởng giả kinh hoàng khiếp sợ và liền nghĩ như vầy:

“Mặc dầu xuyên qua cánh cửa đang thiêu cháy này, ta có thể an toàn rời khỏi, nhưng các con thì vẫn còn ham vui chơi trong căn nhà lửa. Chúng chẳng hay chẳng biết và cũng chẳng kinh chẳng sợ. Tuy ngọn lửa lan tới thiêu cháy và hành hạ thân xác, nhưng trong lòng chúng chẳng hề màng đến và hoàn toàn không có ý định muốn thoát ra.”

Này Xá-lợi Tử! Ông trưởng giả đó suy nghĩ như vầy:

“Thân thể và cánh tay của mình có sức mạnh. Hay là bỏ chúng vào bao hoặc đặt chúng lên bàn, rồi đưa ra khỏi nhà.”

Ông lại suy nghĩ thêm:

“Ngôi nhà này chỉ có một cánh cửa mà còn vừa nhỏ vừa hẹp. Các con của mình thì quá non dại và không biết điều gì. Cứ mải mê vui chơi ở nơi đó thì chúng sẽ có thể rơi xuống và bị lửa thiêu đốt. Ta phải nói cho chúng biết về việc hãi hùng này, rằng căn nhà đã cháy và phải mau ra ngoài thì mới khỏi bị lửa thiêu đốt.”

Nghĩ vậy xong, ông liền nói tường tận cho các con về điều mà mới vừa suy tư:

“Các con ơi, hãy mau ra đi!”

Tuy người cha thương xót vô vàn và đã dùng lời dụ dỗ khéo léo, nhưng mà tất cả các con của ông thì vẫn mải mê vui chơi và chẳng chịu tin. Chúng chẳng kinh chẳng sợ và hoàn toàn không có ý định muốn thoát ra. Lại cũng chẳng biết lửa là gì, nhà là gì, hay mất đi nghĩa là sao. Mặc dù đã trông thấy cha, nhưng chúng chỉ chạy rong chơi khắp nơi.

Lúc bấy giờ ông trưởng giả liền nghĩ như vầy:

“Nhà này đã bị lửa lớn thiêu cháy. Nếu ta và các con không kịp thời rời khỏi thì tất sẽ bị đốt. Ta nay sẽ thiết lập phương tiện để khiến các con được thoát miễn cơn hỏa hoạn này.”

Người cha biết trong lòng của mỗi đứa con ưa thích các đồ chơi trân quý hoặc những vật kỳ lạ nào, thế nên ông bảo họ rằng:

“Những đồ chơi mà các con sẽ ưa thích, chúng rất quý hiếm và khó có được. Nếu không lấy thì về sau các con sẽ phải hối tiếc. Những vật đó như là: xe dê, xe hươu, và xe trâu. Bây giờ chúng đang ở ngoài cửa và các con có thể lấy chơi. Các con hãy mau ra khỏi căn nhà lửa này đi, rồi cha sẽ tùy theo sở thích của mỗi đứa và đều sẽ ban cho các con.”

Lúc vừa nghe cha mình nói về những đồ chơi trân quý với đúng như điều ước mong của chúng, thì lòng ai nấy vui mừng rối rít. Chúng chen lấn lẫn nhau và cùng tranh đua chạy ra khỏi căn nhà lửa.

Khi ông trưởng giả thấy tất cả các con của mình đã bình yên rời khỏi, lại thấy chúng đều ngồi trên đất ở ngã tư đường và không còn nguy hiểm nữa, thì trong lòng thanh thản và vui mừng hớn hở.

Lúc đó tất cả các con của ông đều thưa với cha rằng:

“Thưa cha, hồi nãy cha hứa là sẽ có các đồ chơi tốt đẹp, như là xe dê, xe hươu, và xe trâu. Bây giờ xin cha hãy ban cho chúng con.”

Này Xá-lợi Tử! Lúc bấy giờ ông trưởng giả đều ban cho mỗi đứa con một cỗ xe lớn bằng nhau.

Xe ấy cao rộng và được trang trí xen kẽ với những loại châu báu. Trên xe có lan can xung quanh và ở bốn phía treo chuông. Lại nữa, ở phía trên có lọng che bao phủ và chúng cũng được trang nghiêm với những kỳ trân tạp bảo. Có những sợi dây báu quấn quanh lọng che và có các sợi dây tua bằng hoa gắn trên ấy.

Cỗ xe lót các tấm thảm dày mềm mại và an trí những gối đệm đỏ. Ở đầu xe có con trâu trắng. Màu sắc của nó thanh khiết, thân hình đẹp đẽ, và vạm vỡ lực lưỡng. Bước chân của nó ung dung, lướt nhanh như gió, và còn có rất nhiều kẻ hầu đi theo hộ vệ.

Tại sao ông trưởng giả cho những cỗ xe này? Đó là vì ông đại trưởng giả này giàu sang vô cùng và tất cả kho tàng đều tràn ắp châu báu.

Ông nghĩ như vầy:

“Tài vật của ta nhiều vô số kể. Ta không nên cho các con của ta loại xe nhỏ thấp kém. Những đứa trẻ thơ này đều là con ta và ta thương chúng như nhau. Thêm nữa, ta có vô lượng cỗ xe lớn bằng bảy báu như thế. Với tâm bình đẳng, ta nên cho mỗi đứa bằng nhau không khác.

Vì sao thế? Bởi tài vật của ta, dẫu đem cho hết cả nước thì cũng chẳng thiếu hụt, huống nữa là ta chỉ cho các con của ta.”

Trong lúc đó thì mỗi đứa con của ông đều cưỡi xe lớn. Chúng được điều chưa từng có và vượt hơn sự mong mỏi ban đầu.

Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ thế nào? Ông trưởng giả đó ban cho các con những cỗ xe lớn bằng trân bảo giống nhau, có phải ông ta đã lừa dối?”

Ngài Xá-lợi Tử thưa:

“Dạ không, thưa Thế Tôn! Ông trưởng giả đó chỉ muốn làm sao cho các con của ông được thoát khỏi nạn lửa và bảo toàn thân mạng của chúng. Đây không phải là lừa dối.

Vì sao thế? Bởi nếu bảo toàn thân mạng thì chúng sẽ được những đồ chơi tốt đẹp. Huống chi ông lại còn dùng phương tiện để cứu vớt họ ra khỏi căn nhà lửa kia.

Thưa Thế Tôn! Giả như ông trưởng giả đó, dù cả một cỗ xe nhỏ cũng không cho họ, thì vẫn còn không phải là lừa dối.

Vì sao thế? Bởi trước đó ông trưởng giả đã nghĩ thế này:

“Ta sẽ dùng phương tiện để khiến các con được ra khỏi.”

Do nhân duyên này nên không phải là lừa dối. Hà huống là ông trưởng giả tự biết mình giàu sang vô cùng, ông vì muốn làm lợi ích đến các con nên đều đồng ban cho chúng những cỗ xe lớn.”

Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:

Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai cũng lại như vậy, là cha của hết thảy thế gian. Đối với các sự hãi sợ, đau đớn, phiền não, ưu lo, hay hoạn nạn, Như Lai đã vĩnh viễn đoạn trừ, một chút cũng chẳng còn. Ngài thành tựu vô lượng tri kiến, lực, và vô sở úy. Như Lai có đại thần lực, trí tuệ lực, đầy đủ phương tiện, Trí Độ, đại từ đại bi, không bao giờ mệt mỏi, luôn cầu việc lành, và làm lợi ích đến tất cả. Cho nên Ngài mới sinh ra ở trong căn nhà lửa mục nát của Tam Giới, là vì để cứu độ chúng sanh ra khỏi ngọn lửa của sanh lão bệnh tử, ưu sầu khổ não, ngu si mê muội, và ba thứ độc. Như Lai giáo hóa và khiến họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Như Lai thấy các chúng sanh bị thiêu đốt bởi sanh lão bệnh tử và ưu sầu khổ não. Do bởi ngũ dục, tài vật, và lợi dưỡng mà họ phải chịu đủ mọi thống khổ. Lại nữa, do vì tham trước và truy cầu nên hiện đời phải thọ lấy muôn vàn khốn khổ. Đời sau sẽ thọ khổ nơi địa ngục, trong loài bàng sanh hay ngạ quỷ. Nếu sanh lên trời hay ở tại chốn nhân gian, họ sẽ chịu bần cùng khốn khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, và đủ mọi các loại khổ như thế. Mặc dù vậy, chúng sanh chìm đắm trong đó, vui vẻ rong chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ. Họ cũng không nhàm chán và không cầu giải thoát. Ở trong căn nhà lửa của Tam Giới, họ chạy đông rảo tây. Tuy gặp lắm khổ ách nhưng họ vẫn không màng đến.

Này Xá-lợi Tử! Khi đã thấy việc đó rồi, Phật liền nghĩ như vầy:

“Ta là cha của chúng sanh. Ta nên bạt trừ các khổ nạn đó và ban cho vô lượng vô biên trí tuệ an lạc của Phật để họ vui chơi.”

Này Xá-lợi Tử! Như Lai lại nghĩ như vầy:

“Nếu Ta vì các chúng sanh mà chỉ dùng thần lực cùng trí tuệ lực nhưng bỏ đi phương tiện, rồi tán thán Như Lai tri kiến, lực, và vô sở úy thì chúng sanh sẽ không thể nào được độ thoát bởi cách này.

Vì sao thế? Bởi những chúng sanh này chưa thoát khỏi sanh lão bệnh tử và ưu sầu khổ não, nên phải bị thiêu đốt trong căn nhà lửa của Tam Giới. Vậy thì làm sao mà họ có thể thông hiểu trí tuệ của Phật?”

Này Xá-lợi Tử! Đây ví như ông trưởng giả kia. Mặc dù thân thể và cánh tay có sức mạnh nhưng ông đã không sử dụng. Ông chỉ ân cần dùng phương tiện để cứu các con thoát khỏi hoạn nạn trong căn nhà lửa. Sau đó ông cho mỗi đứa một cỗ xe lớn bằng trân bảo.

Như Lai cũng lại như vậy. Tuy có lực và vô sở úy nhưng Ngài đã không sử dụng. Như Lai chỉ dùng trí tuệ và phương tiện để cứu vớt chúng sanh ra khỏi căn nhà lửa của Tam Giới. Ngài thuyết giảng ba thừa, gồm có: Thanh Văn, Độc Giác, và Phật Thừa. Như Lai bảo họ như vầy:

“Các ông chớ có ưa thích sống trong căn nhà của Tam Giới. Cũng đừng tham sự thô kệch của sắc thanh hương vị xúc pháp. Nếu tham trước thì sẽ phát sanh yêu thích, tức sẽ bị chúng thiêu đốt. Các ông hãy mau ra khỏi Tam Giới thời sẽ được ba thừa: Thanh Văn, Độc Giác, và Phật Thừa.”

Ta nay bảo đảm việc này với các ông là tuyệt đối không có hư dối. Các ông chỉ cần tinh tấn tu hành. Như Lai đang dùng phương tiện này để khuyến dụ và sách tấn chúng sanh.

Ngài lại bảo rằng:

“Các ông nên biết đây là Pháp của ba thừa mà chư thánh đều ngợi khen. Chúng sẽ khiến các ông tự tại, không bị ràng buộc, và không có nơi để mong cầu hay để nương tựa. Cưỡi trên ba thừa này thì sẽ có các căn vô lậu, lực, giác, Đạo, thiền định, giải thoát, và chánh định. Các ông sẽ tự vui sướng và liền đắc vô lượng an ổn vui vẻ.”

Này Xá-lợi Tử! Nếu có chúng sanh nào với căn tánh trí tuệ và khi nghe Pháp từ Đức Phật Thế Tôn mà tín thọ, chuyên cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi Tam Giới và cầu đắc Niết-bàn cho bản thân, đây gọi là Thanh Văn Thừa. Họ ví như các đứa con vì mong cầu xe dê mà rời khỏi căn nhà lửa.

Nếu có chúng sanh nào khi nghe Pháp từ Đức Phật Thế Tôn mà chuyên cần tinh tấn, cầu trí tuệ tự nhiên, thích một mình nơi tĩnh mịch, và biết thâm sâu các pháp nhân duyên, đây gọi là Độc Giác Thừa. Họ ví như các đứa con vì mong cầu xe hươu mà rời khỏi căn nhà lửa.

Nếu có chúng sanh nào khi nghe Pháp từ Đức Phật Thế Tôn mà tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất Thiết Trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, Như Lai tri kiến, lực, vô sở úy, từ mẫn ban an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích trời người, và độ thoát tất cả, đây gọi là Đại Thừa. Do bởi họ cầu thừa này nên gọi là đại Bồ-tát. Họ ví như các đứa con vì mong cầu xe trâu mà rời khỏi căn nhà lửa.

Này Xá-lợi Tử! Đây ví như khi ông trưởng giả kia thấy tất cả các con của mình đã an toàn rời khỏi căn nhà lửa và đến được nơi thảnh thơi, ông xem xét tài phú vô lượng của mình và ban các cỗ xe lớn cho các con.

Như Lai cũng lại như vậy, là cha của hết thảy chúng sanh. Nếu thấy vô lượng ngàn ức chúng sanh đáng được dùng cánh cửa của Phật để giáo hóa, khiến họ xa rời điều sợ hãi và hiểm đạo của sự thống khổ trong Tam Giới và đắc an lạc của Niết-bàn, ngay lúc đó Như Lai sẽ nghĩ như vầy:

“Ta có vô lượng vô biên trí tuệ, lực, vô úy, và chư Phật Pháp tạng. Hết thảy những chúng sanh này đều là con Ta. Ta phải nên cho chúng đồng một cỗ xe lớn và đừng khiến chúng đắc diệt độ một mình. Ta sẽ dùng Như Lai diệt độ để chỉ họ diệt độ. Khi thoát khỏi Tam Giới, những chúng sanh này đều sẽ được ban cho các đồ vật vui chơi, như là thiền định và các môn giải thoát của chư Phật. Tất cả thảy đều một tướng và một loại mà chư thánh ngợi khen là có thể sanh ra niềm an lạc, thanh tịnh, và vi diệu đệ nhất.”

Này Xá-lợi Tử! Đây ví như ông trưởng giả kia. Ban đầu ông đã dùng ba loại cỗ xe để dẫn dụ các con, rồi sau đó ông chỉ cho chúng một loại cỗ xe lớn. Loại cỗ xe này có vật báu trang nghiêm, thật an lạc và bình yên vô cùng. Cho nên ông trưởng giả kia không có phạm lỗi lừa dối. Như Lai cũng lại như vậy: không có lừa dối. Lúc ban sơ thuyết giảng ba thừa để dẫn đạo chúng sanh, rồi sau đó chỉ dùng Đại Thừa mà độ thoát họ.

Vì sao thế? Bởi Như Lai có vô lượng trí tuệ, lực, vô sở úy, cùng bí tạng của các Pháp, và có thể ban cho hết thảy chúng sanh Pháp Đại Thừa. Tuy nhiên, không phải chúng sanh nào cũng có thể tiếp thọ.

Này Xá-lợi Tử! Ông phải biết rằng chư Phật vì nhân duyên này nên ở trong một Phật thừa mà phân biệt nói có ba.”

Khi ấy Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

“Ví như ông trưởng giả

Có một căn nhà lớn

Nhà ấy đã cũ kỹ

Mà còn sắp sửa sụp

Đại sảnh cao nguy hiểm

Cột trụ nhà mục nát

Cây kèo ngang xiêu vẹo

Móng nền bị hư hoại

Vách tường thì rạn nứt

Mảnh vôi rụng rơi rớt

Mái tranh lật nghiêng ngả

Cây xà ngang lỏng leo

Vật cách ngăn cong queo

Đồ dơ bẩn đầy rẫy

Hiện có năm trăm người

Đang trú ở trong đó

Cú diều hâu kên kên

Quạ tu hú bồ câu

Rắn độc cùng bò cạp

Rết rít với muỗi nhặng

Tắc kè vật nhiều chân

Nào chồn cáo chuột nhắt

Loài sâu bọ ác độc

Chạy rong ruổi qua lại

Chỗ phân hôi nước tiểu

Bất tịnh chảy lai láng

Bọ hung các loài trùng

Tụ tập bò trên ấy

Chó sói cáo dã can

Gặm nhấm nuốt giẫm đạp

Cắn xé mấy xác chết

Thịt xương nằm ngổn ngang

Rồi thì tới bầy chó

Vồ chụp chạy đến tranh

Gầy đói thật hung hăng

Tìm thức ăn khắp nơi

Tranh giành cấu xé nhau

Gầm hú sủa inh ỏi

Hãi hùng trong nhà ấy

Việc xảy ra như thế

Khắp mọi nơi mọi chốn

Có sơn tinh yêu quái

Dạ-xoa chúng ác quỷ

Đang ăn nhai thịt người

Loài sâu bọ ác độc

Bầy cầm thú dữ tợn

Nở trứng sản sinh con

Chúng tự bảo vệ lấy

Dạ-xoa rượt chạy đến

Tranh nhau bắt lấy ăn

Khi đã ăn no nê

Ác tâm càng mạnh mẽ

Tiếng tranh cãi của chúng

Thật đáng sợ hãi hùng

Các loài quỷ úng hình

Ngồi chồm hổm trên đồi

Có lúc rời khỏi đồi

Nhảy một thước hoặc hai

Chúng rảo tới rảo lui

Tha hồ mà vui thích

Bắt chó tóm hai chân

Đập đến hết la ó

Bẻ chân cuộn quanh cổ

Chó sợ còn chúng vui

Lại có các loài quỷ

Thân nó rất to lớn

Trần truồng gầy đen thui

Luôn sống ở trong đó

Phát ra tiếng dữ tợn

Gào thét tìm thức ăn

Lại có các loài quỷ

Cổ chúng nhỏ như kim

Lại có các loài quỷ

Đầu chúng như đầu bò

Có con ăn thịt người

Hoặc lại xé ăn chó

Đầu tóc rối bù xù

Hung tàn thật hiểm ác

Bị đói khát giày vò

La ó chạy long nhong

Nào dạ-xoa ngạ quỷ

Các chim thú dữ tợn

Đói quá hướng tứ phía

Ngóng nhìn qua song cửa

Các hoạn nạn như thế

Kinh hoàng nhiều vô lượng

Nhà này đã mục nát

Nó thuộc của một người

Người ấy mới ra ngoài

Thời gian không bao lâu

Thì ở đằng sau nhà

Lửa bỗng nhiên bốc cháy

Bốn bên đồng một lúc

Đều bị lửa cháy phừng

Cây kèo ngang cột trụ

Chấn nứt vang tiếng nổ

Bẻ gãy rụng rơi rớt

Vách tường sập ngổn ngang

Tất cả chúng quỷ thần

La ó kêu thảm thiết

Nào kên kên diều hâu

Các loài quỷ úng hình

Chạy loạn xạ kinh hoàng

Không thể tự ra khỏi

Ác thú loài trùng độc

Ẩn náu trong lỗ hang

Loài quỷ hút tinh khí

Cũng trú ở trong đó

Do bởi phước đức mỏng

Chúng bị lửa bức bách

Tương tàn hại lẫn nhau

Uống máu và ăn thịt

Khi bầy thú dã can

Đều đã bị chết rồi

Các loài thú hung ác

Tranh nhau đến xé ăn

Mùi hôi thối nồng nặc

Xông khắp ở tứ phía

Rết rít với muỗi nhặng

Cùng với loài rắn độc

Chúng bị lửa thiêu đốt

Tranh chạy ra khỏi hang

Các loài quỷ úng hình

Tùy ý mà bắt ăn

Lại có các ngạ quỷ

Trên đầu lửa bốc cháy

Đói khát nóng não hại

Chạy rong ruổi khổ bức

Nhà ấy là như thế

Thật đáng sợ kinh hoàng

Nào độc hại hỏa tai

Chúng nạn không chỉ một

Khi ấy ông chủ nhà

Đang đứng ở ngoài cửa

Nghe có người bảo rằng

“Tất cả con của ngài

Hồi nãy vì vui chơi

Nên đã vào nhà đó

Trẻ thơ ngây bồng bột

Yêu thích ham vui sướng”

Ông trưởng giả nghe rồi

Kinh hoàng vào nhà lửa

Ông nghĩ cách giải cứu

Khiến chúng không bị đốt

Dẫn dụ bảo các con

Nói các việc hoạn nạn

“Nào ác quỷ trùng độc

Hỏa tai cháy lan tràn

Khổ này đến ách kia

Liên tục không gián đoạn

Xà độc rắn hổ mang

Với chúng quỷ dạ-xoa

Các loài quỷ úng hình

Chồn cáo chó dã can

Diều hâu cú kên kên

Loài trùng rết nhiều chân

Bị đói khát não loạn

Thật quả đáng khiếp sợ

Nơi này lắm khổ nạn

Huống nữa có lửa lớn

Con ông bởi vô tri

Tuy nghe cha cảnh báo

Nhưng do quá yêu thích

Ham chơi không tạm rời

Bấy giờ ông trưởng giả

Lại suy nghĩ như vầy

“Các con như thế ấy

Làm ta thêm sầu khổ

Giờ ở trong nhà đó

Không thứ gì đáng vui

Nhưng mà các con ta

Ham vui chơi say đắm

Nếu không vâng lời ta

Sẽ bị lửa làm hại”

Khi liền nghĩ như thế

Bèn lập các phương tiện

Rồi bảo các con rằng

“Cha có đủ mọi thứ

Món đồ chơi trân quý

Xe báu đẹp lộng lẫy

Nào xe dê xe hươu

Và cỗ xe trâu lớn

Giờ chúng ở ngoài cửa

Các con hãy ra đi

Cha đã vì các con

Chế tạo các xe đó

Tùy ý như sở thích

Mà có thể vui chơi”

Các con nghe nói có

Những cỗ xe như thế

Lập tức chen lấn nhau

Bôn ba vội chạy ra

Đi đến chỗ đất trống

Lìa xa mọi khổ nạn

Khi trưởng giả thấy con

Ra khỏi căn nhà lửa

Đứng ở ngã tư đường

Ông ngồi tòa sư tử

Vui mừng tự bảo rằng

“Bây giờ ta rất vui

Tất cả các con đây

Nuôi nấng khó lắm thay

Trẻ thơ dại vô tri

Nên vào nhà nguy hiểm

Gặp nhiều loài trùng độc

Quỷ quái thật đáng sợ

Lửa phừng phừng cháy rực

Bốn phía đều bốc cháy

Nhưng mà các con đây

Tham luyến thích vui chơi

Khi ta đã giải cứu

Khiến thoát khỏi tai nạn

Cho nên giữa bao người

Bây giờ ta vui vẻ”

Lúc đó tất cả con

Biết cha đã an tọa

Đều đến chỗ của cha

Mà thưa với cha rằng

“Xin hãy cho chúng con

Ba loại cỗ xe báu

Như trước đã hứa rằng

“Nếu các con ra khỏi

Cha sẽ cho ba xe

Tùy sở thích mong muốn”

Nay chính là lúc này

Xin hãy cho chúng con”

Ông trưởng giả rất giàu

Có rất nhiều kho tàng

Nào vàng bạc lưu ly

Xa cừ và mã não

Dùng những báu vật đó

Tạo các cỗ xe lớn

Trang trí rất trang nghiêm

Có lan can xung quanh

Ở bốn phía treo chuông

Sợi dây vàng quấn quanh

Và màn lưới trân châu

Giăng bủa ở trên ấy

Dây tua hoa vàng kim

Treo lủng lẳng khắp nơi

Đồ trang sức nhiều màu

Trang trí treo xung quanh

Lụa êm bông gòn mềm

Dùng để làm gối đệm

Bao gối mịn thượng diệu

Trị giá cả ngàn ức

Trắng thanh tịnh lấp lánh

Lấy phủ ở trên chúng

Có con trâu trắng lớn

Tròn trĩnh rất dũng mãnh

Thân hình nó đẹp đẽ

Được dùng kéo xe báu

Có rất nhiều kẻ hầu

Đi theo để hộ vệ

Xe vi diệu như thế

Ông ban cho các con

Lúc đó các đứa con

Lòng vui mừng hớn hở

Cưỡi cỗ xe báu này

Du hành ở bốn phương

Chúng rong chơi vui vẻ

Tự tại vô chướng ngại

Phải biết Xá-lợi Tử

Ta cũng lại như vậy

Là chư Thánh Trung Tôn

Là cha của thế gian

Hết thảy các chúng sanh

Đều là con của Ta

Chìm đắm lạc thế gian

Và không có trí tuệ

Khắp Tam Giới không an

Ví như căn nhà lửa

Lắm khổ ách đầy rẫy

Thật quả đáng sợ hãi

Luôn có hoạn nạn sầu

Của sanh lão bệnh tử

Các thứ lửa như thế

Cháy hừng hực chẳng thôi

Như Lai đã lìa xa

Căn nhà lửa Tam Giới

Tịch nhiên sống an nhàn

Nơi núi rừng đồng quê

Bây giờ Tam Giới đó

Đều là thuộc về Ta

Chúng sanh ở trong ấy

Chính là con của Ta

Nhưng giờ ở nơi này

Có rất nhiều hoạn nạn

Duy chỉ một mình Ta

Mới có thể cứu hộ

Tuy chỉ dạy kỹ càng

Nhưng họ chẳng tín thọ

Do tham chấp quá nặng

Nơi ham muốn nhiễm ô

Dùng các phương tiện này

Ta thuyết giảng ba thừa

Khiến cho các chúng sanh

Biết nỗi khổ Tam Giới

Ta khai thị diễn nói

Phật Đạo xuất thế gian

Hết thảy các con đây

Nếu tâm tánh kiên định

Sẽ đầy đủ Tam Minh

Và đắc Sáu Thần Thông

Có người chứng Duyên Giác

Hoặc bất thối Bồ-tát

Phải biết Xá-lợi Tử

Ta vì các chúng sanh

Mà dùng thí dụ này

Để nói một Phật Thừa

Nếu các ông có thể

Tín thọ lời dạy đây

Vị lai tất cả đều

Sẽ đắc thành Phật Đạo

Cỗ xe này vi diệu

Thanh tịnh tối đệ nhất

Ở trong khắp thế gian

Không gì cao quý hơn

Là nơi Phật hoan hỷ

Hết thảy các chúng sanh

Đều phải nên xưng tán

Cúng dường và lễ bái

Vô lượng muôn ngàn ức

Các lực với giải thoát

Thiền định và trí tuệ

Cùng Pháp khác của Phật

Đắc ở thừa như vầy

Khiến tất cả con Ta

Ngày đêm nhiều số kiếp

Luôn du hí vui chơi

Với các vị Bồ-tát

Và Thanh Văn đại chúng

Cưỡi lên thừa báu này

Thẳng tiến đến Đạo Tràng

Do bởi nhân duyên đó

Dẫu cầu khắp mười phương

Cũng không thừa nào khác

Duy trừ Phật phương tiện

Phải biết Xá-lợi Tử

Tất cả các ông đây

Đều là con của Ta

Còn Ta chính là cha

Các ông từ nhiều kiếp

Gặp lắm khổ thiêu đốt

Và Ta đều cứu bạt

Dẫn ra khỏi Tam Giới

Tuy trước đó Ta nói

Các ông đã diệt độ

Nhưng chỉ đoạn sanh tử

Đó không phải thật diệt

Bây giờ hãy nên cầu

Duy nhất Phật trí tuệ

Nếu có Bồ-tát nào

Ở giữa đại chúng này

Có thể nhất tâm nghe

Chư Phật chân thật Pháp

Dẫu chư Phật Thế Tôn

Mặc dù dùng phương tiện

Nhưng chúng sanh giáo hóa

Họ đều là Bồ-tát

Nếu những ai trí nhỏ

Chấp sâu nơi ái dục

Vì hạng người như thế

Ta thuyết giảng Khổ Đế

Chúng sanh tâm hoan hỷ

Được điều chưa từng có

Phật thuyết giảng Khổ Đế

Chân thật không dị biệt

Nếu có chúng sanh nào

Chẳng biết gốc của khổ

Chấp sâu nơi nhân khổ

Không thể chút tạm xả

Vì hạng người như thế

Phương tiện thuyết giảng Đạo

Nhân của tất cả khổ

Tham dục là cội gốc

Nếu diệt trừ tham dục

Khổ không chỗ cậy nương

Diệt tận trừ các khổ

Gọi là Đệ Tam Đế

Vì tu tập Diệt Đế

Họ thực hành Đạo Pháp

Rời các khổ ràng buộc

Gọi là Đắc Giải Thoát

Họ đã từ điều gì

Mà chứng đắc giải thoát?

Chỉ rời xa hư vọng

Nên gọi là Giải Thoát

Kỳ thật còn chưa đắc

Pháp giải thoát tất cả

Phật nói những người ấy

Chưa phải thật diệt độ

Ta không có ý muốn

Dẫn họ đến diệt độ

Bởi vì họ vẫn chưa

Chứng đắc vô thượng Đạo

Ta làm bậc Pháp Vương

Tự tại trong mọi Pháp

An ổn chúng quần sanh

Nên mới hiện ở đời

Phải biết Xá-lợi Tử

Pháp ấn này của Ta

Nói ra là vì muốn

Lợi ích cho thế gian

Du hành bất cứ đâu

Chớ hư vọng truyền dạy

Nếu như có ai nghe

Tùy hỷ đảnh lãnh thọ

Ông phải biết người này

Là vị bất thối chuyển

Nếu có ai tín thọ

Giáo Pháp trong Kinh này

Thì người ấy đã từng

Thấy chư Phật quá khứ

Cung kính với cúng dường

Và cũng nghe Pháp này

Nếu ai như có thể

Tín thọ lời ông nói

Họ tất sẽ thấy Ta

Cũng như thấy ông đây

Cùng các vị Tỳ-kheo

Và với chư Bồ-tát

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Giảng cho người trí sâu

Kẻ nông cạn khi nghe

Mê muội không tín giải

Tất cả hàng Thanh Văn

Cùng với các Độc Giác

Nghĩa lý trong Kinh này

Sức họ không thể thọ

Phải biết Xá-lợi Tử

Ông đối với Kinh này

Do tín mới vào được

Huống nữa Thanh Văn khác

Hàng Thanh Văn khác đó

Do tín thọ lời Phật

Nên tùy thuận Kinh này

Nhưng trí họ không thấu

Lại nữa Xá-lợi Tử

Kẻ kiêu mạn biếng lười

Tính toán thấy cái tôi

Thì chớ giảng Kinh này

Phàm phu trí nông cạn

Bám sâu nơi ngũ dục

Nghe nhưng không thể hiểu

Thì cũng đừng thuyết giảng

Nếu ai không tín tâm

Và hủy báng Kinh này

Tức sẽ đoạn tất cả

Thế gian Phật chủng tánh

Hoặc lại buồn rười rượi

Họ nghi ngờ mê muội

Ông hãy nghe Ta nói

Tội báo của người này

Nếu Phật còn tại thế

Hoặc sau khi diệt độ

Nếu có ai phỉ báng

Các Kinh điển như vầy

Họ thấy người đọc tụng

Thọ trì biên chép Kinh

Mà khinh khi ganh ghét

Rồi ôm lòng thù hận

Tội báo của kẻ đó

Ông nay nghe lần nữa

Khi người ấy mạng chung

Vào Địa ngục Vô Gián

Suốt trọn đến một kiếp

Kiếp hết lại sanh tiếp

Họ triển chuyển như thế

Cho đến vô số kiếp

Khi ra khỏi địa ngục

Sẽ đọa làm bàng sanh

Như là chó dã can

Thân hình chúng gầy mòn

Đen sạm hủi ghẻ lở

Bị người xua đánh đuổi

Lại khi được làm người

Thân hạ tiện xấu ác

Luôn khốn khổ đói khát

Gầy héo da bọc xương

Sống đau đớn trúng độc

Chết bị ngói đá vùi

Bởi đoạn Phật chủng tánh

Phải chịu tội báo này

Nếu đọa làm lạc đà

Hoặc sanh trong bầy lừa

Thân luôn mang đồ nặng

Bị gậy đập roi quất

Chỉ nghĩ nước và cỏ

Ngoài ra không biết gì

Do hủy báng Kinh này

Nên gặp tội như thế

Có kẻ làm dã can

Chúng đi vào xóm làng

Thân thể đầy ghẻ lở

Lại mất đi một mắt

Còn bị bọn trẻ nít

Đánh đập lấy đá ném

Chịu mọi điều thống khổ

Cho đến chết mới thôi

Ở nơi đó chết rồi

Lại làm thân mãng xà

Thân nó to và dài

Đến năm trăm do-tuần

Ngu ngốc điếc không chân

Uốn éo trườn bụng đi

Bị các loài trùng nhỏ

Chích táp rỉa ăn thịt

Thọ khổ suốt ngày đêm

Không lúc nào thôi nghỉ

Do hủy báng Kinh này

Nên gặp tội như thế

Nếu được sanh làm người

Các căn tánh ám độn

Lùn xấu què khập khiễng

Tai điếc mù gù lưng

Họ có nói điều chi

Thì chẳng ai tin gì

Hơi thở luôn hôi hám

Quỷ quái đột nhập thân

Bần cùng và hạ tiện

Bị người khác sai khiến

Lắm bệnh gầy héo hon

Không chỗ nào tựa nương

Tuy thân cận nhờ người

Chẳng ai thèm để ý

Nếu họ được điều chi

Liền sẽ bị mất ngay

Nếu học về y thuật

Theo phương thuốc trị bệnh

Bệnh nhân càng trầm trọng

Hoặc còn hại chết luôn

Nếu họ tự mắc bệnh

Không ai cứu chữa giùm

Dẫu có uống lương dược

Thì chỉ thêm kịch liệt

Nếu gặp bọn đạo tặc

Họ sẽ bị cướp bóc

Người với tội như thế

Chuốc lấy tai ương đó

Những tội nhân như vậy

Vĩnh viễn chẳng thấy Phật

Bậc vua của chư thánh

Giáo hóa thuyết giảng Pháp

Những tội nhân như vậy

Luôn sinh chốn hoạn nạn

Tai điếc tâm điên cuồng

Vĩnh viễn chẳng nghe Pháp

Trải qua vô số kiếp

Nhiều như cát sông Hằng

Lúc sinh ra câm điếc

Các căn không vẹn toàn

Luôn sống ở địa ngục

Như dạo ở lâm viên

Hoặc tại ác đạo khác

Xem như nhà của họ

Lạc đà lừa chó heo

Là nơi họ tiến đến

Do hủy báng Kinh này

Nên gặp tội như thế

Nếu được sanh làm người

Thì mù điếc câm ngọng

Nghèo mạt gia cảnh suy

Mà lấy để trang nghiêm

Phù thũng thân khô héo

Ghẻ hủi bị ung thư

Các chứng bệnh như thế

Để mà làm y phục

Thân luôn toát mùi hôi

Dơ bẩn thật bất tịnh

Chấp sâu vào cái tôi

Sân khuể càng tăng trưởng

Lòng dâm dục hẫy hừng

Chẳng khác gì cầm thú

Do hủy báng Kinh này

Nên gặp tội như thế

Phải biết Xá-lợi Tử

Ai hủy báng Kinh này

Nếu Ta nói tội họ

Trọn kiếp chẳng tận cùng

Do bởi nhân duyên này

Ta mới căn dặn ông

Chớ thuyết giảng Kinh này

Cho người không trí tuệ

Nếu ai có lợi căn

Với trí tuệ sáng suốt

Học rộng trí nhớ dai

Và chí cầu Phật Đạo

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Nếu ai đã từng thấy

Trăm ngàn ức chư Phật

Gieo trồng mọi căn lành

Tâm kiên cố thâm sâu

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Nếu có ai tinh tấn

Luôn tu tập lòng từ

Chẳng luyến tiếc thân mạng

Mới có thể thuyết giảng

Nếu có ai cung kính

Không có tâm nào khác

Xa lìa kẻ ngu dốt

Một mình nơi núi đầm

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Lại nữa Xá-lợi Tử

Nếu thấy có người nào

Rời bỏ ác tri thức

Thân cận bạn bè tốt

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Nếu thấy Phật tử nào

Trì giới luật thanh tịnh

Thanh tịnh như minh châu

Chí cầu Kinh Đại Thừa

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Nếu ai không sân hận

Chánh trực tâm nhu hòa

Luôn thương xót hết thảy

Và cung kính chư Phật

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Lại có Phật tử nào

Ở giữa hàng đại chúng

Mà với tâm thanh tịnh

Dùng đủ mọi nhân duyên

Thí dụ và ngôn từ

Thuyết Pháp vô chướng ngại

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Nếu có Tỳ-kheo nào

Vì cầu Nhất Thiết Trí

Đi bốn phương cầu Pháp

Chắp tay đảnh lãnh thọ

Chỉ yêu thích thọ trì

Các Kinh điển Đại Thừa

Cho đến chẳng thọ trì

Một bài kệ Kinh khác

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Nếu ai tâm chí thành

Khẩn cầu Phật xá-lợi

Hoặc cầu Kinh như vầy

Khi được đội trên đầu

Người này sẽ chẳng còn

Mong muốn Kinh điển khác

Cũng chẳng bao giờ nghĩ

Sách điển của ngoại đạo

Thì những người như thế

Mới có thể thuyết giảng

Phải biết Xá-lợi Tử

Ta nói đặc tướng này

Của người cầu Phật Đạo

Suốt kiếp cũng chẳng hết

Những hạng người như thế

Mới có thể tín giải

Thời ông hãy thuyết giảng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”

***

PHẨM 4: TÍN GIẢI

Lúc bấy giờ, khi Tuệ mạng Thiện Hiện, Tôn giả Đại Văn Sức, Tôn giả Đại Ca-diếp, và Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghe được Pháp chưa từng có từ Đức Phật. Lại nghe được Thế Tôn thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho Xá-lợi Tử, các ngài cảm thấy rất hy hữu và trong lòng vui mừng hớn hở. Họ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, trịch áo lộ hở vai, gối phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay, rồi cung kính cúi mình, chiêm ngưỡng Tôn nhan, và bạch Phật rằng:

“Ở trong hàng xuất gia, chúng con là những thượng thủ và có tuổi thọ cao thâm. Chúng con tự nghĩ rằng mình đã đắc Niết-bàn và chẳng còn việc gì phải lo nên không còn tiến cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Thuở xưa khi Thế Tôn thuyết Pháp, tuy lúc đó chúng con cũng ngồi nghe nhưng thân thể mỏi mệt, chỉ niệm không, vô tướng, vô tác. Đối với các Pháp của Bồ-tát, như là thần thông du hí, thanh tịnh Phật độ, và thành tựu chúng sanh thì lòng chẳng mấy vui thích.

Vì sao thế? Bởi Thế Tôn đã dẫn chúng con ra khỏi Tam Giới để chứng đắc Niết-bàn. Thêm nữa, giờ tuổi tác chúng con đã cao, nên khi nghe Phật giáo hóa Bồ-tát về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì tâm chúng con chẳng hề sanh một niệm yêu mến.

Nay ở trước Phật, khi chúng con nghe Như Lai thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho hàng Thanh Văn thì lòng vô cùng hoan hỷ và được điều chưa từng có. Chúng con chẳng thể nào tin rằng, nay lại bỗng hốt nhiên nghe được Pháp hy hữu này. Cõi lòng mừng rỡ khôn xiết và đạt được lợi ích lành. Đây ví như tự nhiên có vô lượng trân bảo mà chẳng cần phải mong cầu.

Thưa Thế Tôn! Bây giờ chúng con muốn nói một thí dụ để làm rõ nghĩa lý này.

Đây ví như có người lúc còn thơ ấu đã bỏ cha chạy trốn và lưu lạc rất lâu ở tha phương, hoặc 10, 20, hay cho đến 50 năm. Khi đã trưởng thành, cuộc sống càng thêm khốn đốn và phải long đong khắp nơi để tìm miếng cơm manh áo. Lần lần người ấy lang thang về cố hương.

Lúc trước cha của anh ta ra đi để tìm con nhưng vẫn không sao gặp được. Thế rồi người cha đã dừng chân ở giữa trung tâm của một thành phố nọ. Người cha rất giàu sang và trong nhà có vô lượng tài bảo, nào là vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, trân châu, và những châu báu khác. Các kho chứa đều tràn ắp đồ vật. Lại có nhiều đầy tớ, quản gia, và người giúp việc, cùng voi ngựa xe cộ và vô số bò dê. Việc kinh doanh mang đến nhiều lợi nhuận và còn phát triển sang đến nước khác. Chúng thương gia và khách hàng cũng có rất nhiều.

Khi ấy, kẻ cùng tử đi lang thang qua các xóm làng và thành ấp của các nước. Cuối cùng thì đi đến một thành phố mà cha của anh ta đang ở.

Mặc dù phụ tử đã biệt ly hơn 50 năm nhưng người cha luôn nhớ về con mình. Đối với việc này, ông chưa từng nói cho ai biết và chỉ ấp ủ một mình với lòng tràn đầy hối hận mà thầm nghĩ:

“Ta giờ đã già nua. Tuy có nhiều tài sản, vàng bạc trân bảo, và các kho chứa tràn ắp đồ vật, nhưng tiếc thay ta lại không có con. Một mai chết đi thì tài sản sẽ tiêu tan và chẳng ai thừa kế.”

Đây là tại sao mà người cha luôn tha thiết nhớ về con mình. Người cha lại nghĩ như vầy:

“Nếu gặp được đứa con, ta sẽ ủy phó tài vật cho nó. Như thế ta sẽ vui vẻ và không còn ưu lo gì nữa.”

Thưa Thế Tôn! Lúc bấy giờ kẻ cùng tử đi làm thuê hết chỗ này đến chỗ khác và bất chợt đến nhà của người cha. Đứng ở cổng, hắn từ xa trông thấy người cha ngồi chễm chệ trên giường sư tử và chân gác lên ghế báu. Hàng Bà-la-môn, vua chúa, và cư sĩ đều cung kính vây quanh. Các chuỗi anh lạc trân châu trị giá hàng ngàn vạn được trang nghiêm trên thân. Kẻ hầu người hạ cầm cây phất trần màu trắng và đứng hầu ở hai bên. Ở phía trên có màn che báu phủ trùm và trên ấy treo bông hoa và cờ xí. Trên đất rưới nước hương và rải các thứ hoa quý hiếm. Báu vật được sắp thành hàng để ông kiểm duyệt. Với đủ mọi thứ trang nghiêm như thế, uy đức của người cha rất thù đặc và tôn quý. Khi kẻ cùng tử thấy người cha có uy thế lớn, hắn liền kinh hãi và hối hận đã đến nơi đây, rồi thầm nghĩ rằng:

“Đây chẳng lẽ là vua, hoặc là người ngang bằng với vua. Đây không phải là nơi mà ta có thể làm thuê. Ta tốt hơn nên đi đến xóm nghèo. Ở đó sẽ có nơi mướn ta và dễ dàng kiếm sống. Nếu còn nán lại đây nữa thì ta sẽ có thể bị cưỡng bức đi làm khổ sai.”

Nghĩ như thế xong, hắn vội chạy đi. Khi ông trưởng giả giàu sang đang ngồi ở trên tòa sư tử thấy cùng tử, ông liền nhận ra đó là con mình, lòng ông vui mừng vô cùng và lập tức nghĩ như vầy:

“Bây giờ thì tài vật và kho tàng của ta đã có người giao phó. Ta luôn nhung nhớ đứa con này nhưng vẫn không sao thấy được. Bất chợt giờ nó tự đến, điều mong ước của ta sắp được mãn nguyện. Mặc dù ta đã già suy nhưng ta vẫn nhớ mong.”

Nghĩ vậy xong, người cha liền sai hạ nhân cấp tốc đuổi theo để dẫn hắn về. Khi ấy, các hạ nhân liền chạy nhanh đến bắt cùng tử. Cùng tử hốt hoảng và kêu la thảm thiết:

“Tôi có phạm tội gì đâu mà sao lại bắt tôi?”

Các hạ nhân lại càng cầm chặt hơn và lôi kéo hắn về. Lúc đó kẻ cùng tử tự nghĩ rằng:

“Ta vốn vô tội mà giờ bị bắt giam, chắc ta phải chết mất.”

Khi ấy, kẻ cùng tử càng thêm kinh hoàng và té xỉu trên đất. Người cha từ xa thấy thế nên ra lệnh các hạ nhân rằng:

“Ta không cần người này nữa. Đừng cưỡng bắt hắn tới đây nữa. Hãy tạt nước lạnh lên mặt để khiến hắn tỉnh dậy và chớ nói thêm với hắn điều gì.”

Vì sao thế? Bởi người cha biết ý chí hạ liệt của con ông và biết rằng sự hào quý của chính mình sẽ làm con ông khó mà tin được. Khi đã biết chắc đó là con mình, ông dùng phương tiện và chẳng nói cho một ai biết rằng đó là con của ông.

Khi ấy, các hạ nhân nói với cùng tử rằng:

“Giờ ta phóng thích ngươi. Ngươi muốn đi đâu thì tùy ý.”

Cùng tử vui mừng khôn xiết và được điều chưa từng có. Hắn từ dưới đất đứng dậy, rồi đi đến xóm nghèo để tìm miếng cơm manh áo.

Lúc bấy giờ ông trưởng giả vì muốn dẫn dụ con mình nên bèn lập phương tiện. Ông bí mật sai hai người với dáng vẻ tiều tụy và chẳng có uy đức gì, rồi nói với họ rằng:

“Các người hãy đi đến chỗ của kẻ bần cùng kia, rồi từ tốn bảo hắn rằng:

“Có nơi này làm việc và sẽ kiếm được gấp hai lần tiền công mà anh đang làm.”

Nếu kẻ bần cùng đó đồng ý, các người hãy dẫn về làm việc. Nếu hỏi sẽ làm công việc gì thì bảo rằng:

“Anh được mướn về đổ phân. Hai chúng tôi cũng sẽ cùng với anh làm việc.”

Lúc ấy, hai hạ nhân liền đi tìm cùng tử. Khi đã gặp, họ tường trình sự việc như trên.”

Lúc bấy giờ kẻ cùng tử nhận trước tiền công rồi cùng họ đổ phân. Khi người cha thấy con mình, lòng thương cảm thắm thiết.

Lại một ngày khác, nhìn qua khung cửa sổ, ông trưởng giả từ xa thấy con mình gầy gò héo hon, phân ô uế và bụi bặm bất tịnh dính trên thân. Thấy vậy, ông liền cởi xuống xâu chuỗi anh lạc, y phục mềm mại, và đồ trang sức. Rồi thay vào áo vải thô, rách rưới, và dơ bẩn. Lại trét bùn đất lên thân và cánh tay phải cầm cái xẻng xúc phân. Với dáng vẻ ghê rợn, ông bảo các người làm rằng:

“Các người hãy siêng làm việc và chớ có lười biếng.”

Nhờ bằng vào cách này, người cha đã gần gũi được với đứa con. Về sau trong một dịp nọ, ông nói với kẻ cùng tử rằng:

“Nè chàng thanh niên! Cậu hãy làm việc luôn ở đây và đừng đi nơi khác nữa. Tôi sẽ tăng lương cho cậu. Mọi thứ cậu cần, như là: xoong nồi, gạo, bột, muối, giấm, hay những vật dụng khác. Cậu chớ lo nghĩ thêm về việc này mà làm khổ chính mình. Tôi cũng có một người đầy tớ già xấu, nếu cậu cần tôi sẽ cấp cho. Cậu hãy an lòng đi. Giờ tôi như người cha của cậu. Vậy cậu đừng lo lắng thêm gì nữa.

Vì sao thế? Bởi tôi đã rất già mà cậu thì trẻ trung tráng kiện. Ở mọi lúc làm việc, cậu chưa hề khi nào lừa dối, lười biếng, giận giữ, hay có lời than oán. Tôi chưa từng khi nào thấy cậu phạm các việc ác như mấy kẻ khác. Từ nay về sau, tôi sẽ coi cậu như là con của tôi.”

Rồi thì ông trưởng giả liền đặt tên và gọi cùng tử là con của mình. Dẫu khi ấy kẻ cùng tử vui mừng khôn xiết đối với việc này, nhưng vẫn tự cho mình như kẻ làm hạ tiện ở ngoài. Cho nên suốt 20 năm, hắn vẫn luôn đi đổ phân. Sau thời gian đó, hắn đã bắt đầu có lòng tin tưởng và khi ra vào không còn ái ngại nữa. Tuy nhiên, hắn vẫn ở chỗ cũ như lúc trước.

Thưa Thế Tôn! Lúc bấy giờ ông trưởng giả lâm bệnh và tự biết không bao lâu nữa thì sẽ chết, nên ông nói với kẻ cùng tử rằng:

“Hiện tại cha có rất nhiều vàng bạc trân bảo và các kho chứa tràn ắp đồ vật. Con nên biết tường tận số lượng và khoản thu chi của chúng. Đó là điều mà cha đang ấp ủ trong lòng và hy vọng rằng con sẽ lãnh hội được ý này.

Vì sao thế? Bởi giờ giữa cha và con không có gì xa lạ. Con phải nên thận trọng hơn nữa và đừng để mất mát thứ gì.”

Lúc bấy giờ kẻ cùng tử liền vâng lời dạy bảo và quản lý tất cả tài vật, vàng bạc trân bảo, cùng các kho tàng. Tuy nhiên, hắn không hề khởi ý niệm chiếm giữ dù nhỏ như một bữa ăn. Hắn vẫn tiếp tục ở chỗ cũ và cũng chưa có thể bỏ đi tâm tưởng thấp kém.

Ít lâu sau, người cha biết tâm ý con mình đã dần dần thông thái, thành tựu đại chí, và khinh bỉ cách suy nghĩ của chính mình lúc trước. Khi sắp gần mạng chung, ông bảo con mình triệu tập thân bằng quyến thuộc, quốc vương, đại thần, vua chúa, và hàng cư sĩ. Khi đã đều tập họp đông đủ, ông liền nói với họ rằng:

“Tất cả các vị nên biết đây là con của tôi, do chính tôi sinh ra. Tại một thành phố nọ cách đây 50 năm, nó bỏ tôi mà chạy trốn, lưu lạc nơi tha phương, và chịu nhiều khốn khổ. Con tôi lúc xưa tên là, còn tên của tôi là vậy đó. Tại một thành phố nọ trên quê hương xưa, tôi đã bôn ba đi tìm. Bỗng ở tại xứ này, tôi đã tìm được. Đây đích thật là con tôi và tôi thật sự là cha của nó. Bây giờ tất cả tài sản của tôi sẽ đều thuộc về con tôi. Mọi việc làm ăn trong ngoài của gia tộc, giờ đây con tôi cũng đã biết.”

Thưa Thế Tôn! Khi cùng tử nghe lời nói như thế từ người cha, hắn liền vui mừng khôn xiết và được điều chưa từng có, rồi nghĩ rằng:

“Lòng ta vốn không có một ý niệm mong cầu, nhưng giờ thì bảo tàng này tự nhiên đến.”

Thưa Thế Tôn! Ông đại phú trưởng giả tức là Như Lai. Chúng con đều là hàng Phật tử và Đức Như Lai cũng luôn bảo rằng chúng con là con của Ngài.

Thưa Thế Tôn! Do bởi tam khổ nên ở trong sanh tử chúng con phải thọ các khổ não bức bách, mê muội vô tri, ưa thích và chấp trước nơi Pháp nhỏ.

Hôm nay Đức Thế Tôn đã khiến chúng con khởi tâm tư duy để trừ sạch thứ phân hí luận của các pháp. Chúng con ở trong Phật Pháp đã chuyên cần tinh tấn và kiếm được một ngày tiền lương của Niết-bàn. Khi đã có được, tâm sanh đại hoan hỷ, trong lòng mãn nguyện mà liền tự bảo rằng:

“Do bởi chuyên cần tinh tấn nên điều chúng ta đạt được ở trong Phật Pháp thật quả là nhiều.”

Tuy nhiên, Thế tôn đã biết trước tâm chúng con tham chấp vào điều mong muốn thấp kém và ưa thích nơi Pháp nhỏ, nên vẫn để chúng con tự đi con đường của mình và đã không chỉ rõ rằng:

“Các ông đều sẽ có một phần trong bảo tạng của Như Lai tri kiến.”

Thế Tôn dùng sức phương tiện để thuyết giảng trí tuệ của Như Lai. Chúng con tu học từ Đức Phật và kiếm được một ngày tiền lương của Niết-bàn, rồi cho là đã được lợi ích lớn nên ở trong Pháp Đại Thừa này không có tâm tha thiết cầu mong. Thêm nữa, nhân do chúng con biết rằng trí tuệ của Như Lai là để khai thị diễn nói cho chư Bồ-tát. Thế nên, đối với Pháp này chúng con không có lòng khát ngưỡng.

Vì sao thế? Bởi Phật biết tâm chúng con ưa thích Pháp nhỏ nên đã dùng sức phương tiện mà tùy nghi thuyết giảng. Thế nhưng chúng con đã không biết rằng mình thật sự là con của Phật. Nay chúng con mới tỏ ngộ ra rằng, Thế Tôn không hề bỏn xẻn đối với trí tuệ của Phật.

Vì sao thế? Bởi từ xưa đến nay, chúng con đích thật là con của Phật. Thế nhưng chúng con chỉ ưa thích Pháp nhỏ. Nếu chúng con có tâm yêu mến Pháp lớn thời Phật sẽ thuyết Pháp Đại Thừa. Ở trong Kinh này duy chỉ nói Nhất Thừa. Xưa kia ở giữa chư Bồ-tát, Thế Tôn đã khiển trách những vị Thanh Văn ưa thích nơi Pháp nhỏ, nhưng thật ra Phật đang dùng Đại Thừa để giáo hóa họ.

Vì vậy, chúng con mới nói rằng lòng chúng con vốn không có một ý niệm mong cầu điều chi, nhưng giờ thì bảo tàng của Pháp Vương tự nhiên mà đến. Đây là điều mà người Phật tử nên được, giờ chúng con đều đã được.”

Lúc bấy giờ Đại Ca-diếp muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

“Ngày hôm nay chúng con

Nghe tiếng Phật dạy bảo

Vui mừng lòng hớn hở

Được điều chưa từng có

Phật nói hàng Thanh Văn

Sẽ đắc thành Phật quả

Có vô lượng trân bảo

Không cầu mà tự được

Ví như đứa trẻ nít

Bồng bột tánh non dại

Bỏ cha chạy trốn đi

Đến tít nơi tha phương

Lang thang qua các nước

Suốt hơn năm mươi năm

Người cha buồn lo nhớ

Bôn ba tìm khắp nơi

Đến khi đã mệt mỏi

Dừng nghỉ thành phố nọ

Rồi xây dựng nhà cửa

Có ngũ dục vui sướng

Nhà rộng lớn giàu sang

Nhiều vàng bạc trân bảo

Xa cừ với mã não

Trân châu ngọc lưu ly

Nào voi ngựa bò dê

Kiệu xe kẻ đón đưa

Tôi tớ người nông phu

Cùng dân chúng rất đông

Kinh doanh mang lợi nhuận

Phát triển sang nước khác

Chúng thương gia khách hàng

Không nơi nào chẳng có

Ngàn vạn ức dân chúng

Họ cung kính vây quanh

Lại có hàng vua chúa

Luôn nhớ thương mến mộ

Quần thần hàng quý tộc

Thảy đều đồng tôn trọng

Do các nhân duyên này

Người vãng lai rất nhiều

Sang giàu như thế ấy

Và có uy thế lớn

Nhưng ông đã già nua

Lòng nhớ con tha thiết

Ngày đêm nghĩ như vầy

“Ta sắp phải ra đi

Con dại đã bỏ ta

Hơn năm mươi năm qua

Kho tàng các tài bảo

Phải xử lý thế nào?”

Khi ấy kẻ cùng tử

Tìm miếng cơm manh áo

Thôn này đến thôn khác

Nước này đến nước khác

Hoặc đôi lúc có ăn

Hoặc đôi lúc chẳng có

Đói khát thân gầy mòn

Mình mẩy sanh mụn nhọt

Lần lần đi lang thang

Đến thành cha anh ở

Triển chuyển làm thuê mướn

Cuối cùng đến nhà cha

Lúc đó ông trưởng giả

Ở bên trong cổng nhà

Màn che báu bao phủ

Ngồi trên tòa sư tử

Hàng quyến thuộc vây quanh

Kẻ hầu người hộ vệ

Hoặc có người tính đếm

Vàng bạc các vật báu

Tài sản trong với ngoài

Biên ghi vào sổ sách

Khi cùng tử thấy cha

Hào quý thật tôn nghiêm

“Đây chẳng lẽ là vua

Hoặc ngang bằng với vua?”

Kinh sợ rồi tự trách

“Tại sao đến nơi này?”

Lại tự suy nghĩ rằng

“Nếu ta còn ở đây

Có thể bị cưỡng bức

Bắt đi làm khổ sai”

Khi đã nghĩ như thế

Liền vội bỏ chạy đi

Đến xóm nghèo rong hỏi

Muốn làm thuê làm mướn

Khi đó ông trưởng giả

Ngồi trên tòa sư tử

Từ xa thấy cùng tử

Liền nhận ra con mình

Tức khắc sai hạ nhân

Đuổi theo dẫn hắn về

Cùng tử kêu hốt hoảng

Té xỉu ngay trên đất

“Những kẻ này bắt ta

Chắc ta sẽ phải chết

Vì miếng cơm manh áo

Sao lại đến nơi đây?”

Ông trưởng giả biết con

Ngu si ý hạ liệt

“Sẽ không tin lời ta

Không tin mình là cha”

Liền dùng sức phương tiện

Sai các hạ nhân khác

Mù một mắt lùn xấu

Không có uy đức gì

Các người nói với hắn

“Có nơi này làm việc

Dọn dẹp đổ phân dơ

Gấp hai tiền anh làm”

Khi cùng tử nghe xong

Vui vẻ đi theo về

Rồi đổ phân ô uế

Quét dọn các phòng xá

Nhìn qua khung cửa sổ

Ông trưởng giả thấy con

Ý hạ liệt ngu si

Ưa thích làm việc kia

Khi ấy ông trưởng giả

Mặc áo dơ thô xấu

Tay cầm xẻng xúc phân

Đi đến chỗ con ông

Nhờ phương tiện gần gũi

Ông bảo “hãy siêng làm

Sẽ tăng cậu tiền lương

Cho cậu dầu thoa chân

Đầy đủ đồ uống ăn

Và giường nệm êm ấm”

Ông nói cứng rắn rằng

“Cậu phải siêng làm việc”

Lại từ tốn bảo rằng

“Cậu như con của tôi”

Ông trưởng giả có trí

Dần dần cho ra vào

Trải qua hai mươi năm

Quản lý công việc nhà

Chỉ nơi cất vàng bạc

Trân châu và pha lê

Thu chi của mọi việc

Khiến cùng tử đều biết

Nhưng hắn vẫn ở ngoài

Sống trong căn nhà lá

Tự nghĩ mình bần cùng

“Không vật nào của ta”

Người cha biết lòng con

Dần dần đã rộng lớn

Muốn cho con tài vật

Liền tụ họp thân tộc

Gồm có các quốc vương

Đại thần và cư sĩ

Ở giữa đại chúng ấy

Nói “đây là con tôi

Bỏ tôi đi nơi khác

Trải qua năm mươi năm

Nay thấy nó tự đến

Hai mươi năm ở đây

Xưa ở một thành nọ

Tôi mất đứa con này

Bôn ba khắp nơi tìm

Cuối cùng đến nơi đây

Mọi thứ của tôi có

Nào nhà cửa hạ nhân

Thảy phó chúc cho nó

Tùy ý mà sử dụng

Cùng tử nghĩ xưa nghèo

Ý chí lại hạ liệt

Nhưng nay ở chỗ cha

Có được trân bảo quý

Cùng nhà cao cửa rộng

Và hết thảy tài vật

Lòng vui mừng khôn xiết

Được điều chưa từng có

Phật cũng lại như vậy

Biết chúng con thích nhỏ

Nên chưa hề nói rằng

“Các ông sẽ thành Phật”

Mà chỉ bảo chúng con

Chứng đắc các vô lậu

Thành tựu nơi Tiểu Thừa

Là Thanh Văn đệ tử

Phật giáo sắc chúng con

Thuyết giảng tối thượng Đạo

Những ai tu tập đó

Sẽ đắc thành Phật quả

Chúng con vâng Phật dạy

Vì chư đại Bồ-tát

Dùng những việc nhân duyên

Cùng đủ mọi thí dụ

Nhiều ngôn từ lời nói

Để nói vô thượng Đạo

Khi các Phật tử đó

Nghe Pháp từ chúng con

Rồi ngày đêm tư duy

Tinh cần gắng tu tập

Giữa lúc ấy chư Phật

Liền thọ ký cho họ

“Ông vào đời vị lai

Sẽ đắc thành Phật quả”

Pháp này là bí tạng

Của tất cả chư Phật

Chỉ dành cho Bồ-tát

Diễn nói sự thật này

Không phải vì chúng con

Mà nói chân Pháp yếu

Như kẻ cùng tử kia

Được gần gũi cạnh cha

Tuy biết các tài vật

Lòng chẳng mong chiếm giữ

Đây cũng lại như vậy

Chúng con dẫu thuyết giảng

Phật Pháp bảo tạng mầu

Nhưng không chí nguyện cầu

Chúng con đắc nội diệt

Tự cho đã đủ rồi

Khi việc đó đã xong

Chẳng làm thêm việc gì

Cho dù chúng con nghe

Thanh tịnh cõi nước Phật

Giáo hóa độ chúng sanh

Nhưng đều không vui thích

Bởi vì nguyên nhân gì?

Hết thảy tất cả pháp

Thảy đều vốn không tịch

Chẳng sanh cũng chẳng diệt

Bất đại cũng bất tiểu

Vô lậu cũng vô vi

Khi tư duy như thế

Chẳng sanh niệm an vui

Chúng con suốt đêm dài

Đối với Phật trí tuệ

Không tham cũng không chấp

Lại cũng không khát ngưỡng

Nhưng lại đối với Pháp

Tự cho đã cứu cánh

Chúng con suốt đêm dài

Chỉ tu tập không pháp

Chứng đắc thoát Tam Giới

Lìa khổ não hoạn nạn

Trụ ở thân tối hậu

Nơi Hữu Dư Niết-bàn

Tu tập lời Phật dạy

Đắc Đạo thật chẳng hư

Liền cho đã chứng đắc

Đền đáp ân của Phật

Mặc dầu tuy chúng con

Vì các hàng Phật tử

Thuyết giảng Pháp Bồ-tát

Để họ cầu Phật Đạo

Nhưng đối với Pháp này

Chưa bao giờ yêu mến

Do quán tâm chúng con

Đạo sư vẫn để yên

Lúc đầu chẳng khuyến khích

Nói lợi ích chân thật

Như trưởng giả giàu nọ

Biết con chí thấp hèn

Nên dùng sức phương tiện

Điều phục tâm tánh con

Sau rồi mới phó thác

Hết thảy mọi tài vật

Phật cũng lại như vậy

Thị hiện việc hiếm có

Biết những ai thích nhỏ

Bèn dùng sức phương tiện

Điều phục tâm ý họ

Rồi mới dạy đại trí

Ngày hôm nay chúng con

Được điều chưa từng có

Trước đó chẳng cầu mong

Mà nay tự chứng đắc

Như kẻ cùng tử kia

Được vô lượng trân bảo

Thế Tôn nay chúng con

Đã đắc thành Đạo quả

Ở trong Pháp vô lậu

Chứng đắc Pháp nhãn tịnh

Chúng con suốt đêm dài

Nghiêm trì Phật tịnh giới

Mãi cho đến hôm nay

Mới đắc quả báo này

Trong Pháp của Pháp Vương

Từ lâu tu Phạm hạnh

Bây giờ đắc vô lậu

Vô thượng quả báo lớn

Ngày hôm nay chúng con

Là Thanh Văn chân chánh

Dùng âm thanh Phật Đạo

Khiến tất cả nghe hay

Ngày hôm nay chúng con

A-la-hán chân chánh

Ở trong các thế gian

Giữa trời người ma Phạm

Ở khắp nơi trong ấy

Xứng tiếp thọ cúng dường

Đại ân của Thế Tôn

Dùng việc hy hữu này

Xót thương giáo hóa độ

Làm lợi ích chúng con

Suốt vô lượng ức kiếp

Ai có thể báo đáp?

Dù bố thí tay chân

Đầu đảnh lễ cung kính

Tất cả mọi cúng dường

Đều chẳng thể đáp đền

Nếu để Ngài trên đầu

Hoặc vác lên hai vai

Trải qua Hằng sa kiếp

Lòng hết mực cung kính

Lại dùng món ngon lạ

Vô lượng y phục báu

Cùng tất cả gối nệm

Và muôn loại thuốc thang

Hương ngưu đầu chiên đàn

Cùng với các trân bảo

Mà khởi xây tháp miếu

Y báu trải làm đất

Các việc như thế ấy

Để làm việc cúng dường

Suốt cả Hằng sa kiếp

Cũng chẳng thể đáp đền

Chư Phật rất hy hữu

Có vô lượng vô biên

Có bất khả tư nghị

Sức thần thông quảng đại

Đắc vô lậu vô vi

Là vua của các pháp

Khéo vì kẻ thấp kém

Nhẫn chịu làm việc này

Phàm phu chấp nơi tướng

Ngài tùy nghi thuyết giảng

Chư Phật ở các pháp

Đắc tự tại tột cùng

Biết rõ các chúng sanh

Mọi dục lạc điều vui

Cùng ý chí nguyện lực

Tùy khả năng lãnh thọ

Dùng vô lượng thí dụ

Để thuyết Pháp cho họ

Tùy theo mỗi chúng sanh

Thiện căn ở đời trước

Lại biết ai thành thục

Ai còn chưa thành thục

Muôn sự việc như thế

Phân biệt biết rõ ràng

Ở trong Đạo Nhất Thừa

Tùy nghi nói có ba”

***

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Cú – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Nguyên Thuận dịch (1) - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Nguyên Thuận dịch (2) - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Lão Nữ Nhân – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Du Già Liên Hoa Bộ - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Tự Tại Thành Tựu Du Già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Pháp Môn - Kinh Tạng