1
2
3
4
5
6
7

CUỐN 4

Phẩm 8: Năm Trăm Đệ Tử Tiếp Nhận Thọ Ký

Lúc ấy tôn giả Phú lâu Na, từ nơi đức Thế Tôn, được nghe sự tùy nghi thuyết pháp của tuệ giác và phương tiện, nghe trao cho chư vị đại đệ tử lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, nghe sự tương quan từ bao đời trước, nghe thần lực đại tự tại của đức Thế Tôn, nên được sự chưa từng có, tâm trí trong sáng, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, bước đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, rồi đứng lui một khoảng, chiêm ngưỡng dung nhan của ngài mà mắt không tạm thời rời ra, trong lòng nghĩ rằng đức Thế Tôn rất kỳ lạ, việc ngài làm thật hiếm có. Ngài thích ứng với bao nhiêu thành phần của thế gian, sử dụng tuệ giác và phương tiện mà thuyết pháp cho họ, kéo họ ra khỏi mọi chỗ tham đắm vướng mắc. Đối với đức tính của đức Thế Tôn, lời nói chúng ta không thể nói hết. Chỉ có đức Thế Tôn mới biết ước nguyện căn bản trong tâm lý sâu xa của chúng ta.

Vào lúc ấy đức Thế Tôn bảo, chư vị tỷ kheo, chư vị thấy tôn giả Phú lâu Na đây không? Như Lai thường ca tụng tôn giả là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại thường tán dương công đức của tôn giả tinh tiến duy trì và góp sức tuyên dương đối với chánh pháp của Như Lai: có năng lực ở trong bốn chúng mà trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng cho họ, giải thích phong phú chánh pháp của Như Lai mà ích lợi lớn lao cho những người đồng hành phạn hạnh. Ngoại trừ Như Lai, không ai cùng tận được sự biện thuyết của tôn giả.

Chư vị đừng nói tôn giả Phú lâu Na chỉ có năng lực duy trì và tuyên dương chánh pháp của Như Lai mà thôi. Nơi chín mươi ức chư Phật quá khứ, tôn giả cũng đã duy trì và tuyên dương chánh pháp của các ngài. Trong những người thuyết pháp của các ngài, tôn giả cũng đứng bậc nhất. Tôn giả rõ ràng thấu suốt về Không mà chư Phật ấy nói, được bốn trí thông suốt, thường xuyên thuyết pháp một cách xác tín, trong sạch, không còn nghi hoặc.

Tôn giả có đủ thần lực bồ tát, và sống lâu bao nhiêu thì thực hành phạn hạnh bấy nhiêu. Người của mọi thời kỳ chư Phật ấy ai cũng nói vị này thật là thanh văn, và tôn giả cũng đem phương tiện như vậy mà ích lợi vô số trăm ngàn chúng sinh. Tôn giả lại giáo hóa vô lượng vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng. Nói tóm, vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà tôn giả thường làm việc Phật làm, là giáo hóa chúng sinh.

Chư vị tỷ kheo, trong thời kỳ bảy đức Phật, tôn giả Phú lâu Na cũng là người đứng bậc nhất trong những người thuyết pháp. Thời kỳ chư Phật đương lai trong Hiền kiếp này, tôn giả cũng vẫn là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, cũng vẫn duy trì và tuyên dương chánh pháp của chư Phật ấy. Thời kỳ vị lai sau đó nữa, tôn giả cũng duy trì và tuyên dương chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật, cũng giáo hóa ích lợi vô số chúng sinh cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng, cũng vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà thường xuyên tinh tiến giáo hóa chúng sinh. Khi hoàn bị dần dần về đường đi như vậy của bồ tát, qua vô lượng thời kỳ vô số rồi, tôn giả Phú lâu Na sẽ ở chính nơi quốc độ này mà thành tựu tuệ giác vô thượng, danh hiệu là Pháp Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu.

Pháp Minh Như Lai lấy những đại thiên thế giới nhiều bằng cát sông Hằng mà làm một cõi Phật của mình, đất là bảy chất liệu quí báu, bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe suối, ngòi lạch, hang hóc. Lầu đài bằng bảy chất liệu quí báu thì tràn đầy cõi Phật ấy. Cung điện chư thiên thì ở gần trong không gian, nên người với trời giao tiếp, hai bên thấy nhau được cả. Cõi Phật ấy không có đường dữ, nữ nhân cũng không. Mọi người đều sinh ra bằng sự biến hóa, không có dâm dục. Ai cũng có thần thông quảng đại, thân phát ánh sáng, bay đi tự tại, trí nhớ vững chắc, tinh tiến, trí tuệ. Thân người nào cũng màu hoàng kim, tự trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt.

Cả cõi Phật ấy ai cũng thường ăn bằng hai sự ăn: ăn bằng cái vui chánh pháp và ăn bằng cái vui thiền định. Có chúng chư bồ tát nhiều đến hàng ức trăm triệu, đều được thần thông quảng đại và bốn trí thông suốt, khéo léo giáo hóa các loại chúng sinh. Còn chúng chư thanh văn thì toán số không thể xác định, vị nào cũng trọn vẹn sáu thần thông, ba minh trí và tám giải thoát. Cõi Phật của đức Pháp Minh Như Lai sẽ có vô lượng thành quả trang nghiêm như vậy. Thời kỳ của ngài tên là Bảo Minh, cõi Phật của ngài tên là Thiện tịnh, và ngài sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số, giáo pháp tồn tại cũng cực kỳ lâu dài. Ngài nhập diệt rồi, những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu được xây dựng lên khắp cả cõi Phật.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Chư vị tỷ kheo,

hãy nghe cho kỹ:

con Phật hoàn thành

đường đi của mình

với những phương tiện

đã khéo học tập,

cho nên khó thể

nghĩ bàn về họ.

(2) Thấu hiểu chúng sinh

thích giáo pháp nhỏ

và rất e sợ

tuệ giác vĩ đại,

nên các vị ấy

chính là bồ tát

mà làm thanh văn

hay làm duyên giác.

(3) Áp dụng vô số

cách thức phương tiện,

các vị giáo hóa

đủ loại chúng sinh,

trong khi tự xưng

mình là thanh văn

cách biệt xa vời

tuệ giác của Phật.

(4) Các vị hóa độ

vô lượng các chúng,

làm cho ai nấy

đều được thành thục:

dẫu ai lúc đầu

ưa thích thấp nhỏ

và hơi biếng nhác,

nhưng rồi các vị

dần dần làm cho

sẽ thành Phật cả.

(5) Ở trong cất chứa

phẩm chất bồ tát

bề ngoài hiện ra

hình dáng thanh văn,

các vị tỏ ra

ít sự ham muốn

chán sự sống chết,

nhưng thật các vị

tự làm trong sạch

cõi Phật của mình.

(6) Lại còn tỏ ra

có tham sân si,

tỏ ra thích nghi

hình thức tà kiến.

(7) Đệ tử Như Lai

làm đến như vậy

để mà phương tiện

hóa độ chúng sinh.

Như Lai nói hết

những sự biểu hiện

giáo hóa như vậy,

chúng sinh nghe đến

tất có những người

hoài nghi lầm lẫn.

(8-Ngày nay tôn giả

9) Phú lâu Na đây,

nơi ngàn ức Phật

trong thì quá khứ

đã siêng thực hiện

đường đi của mình:

tuyên dương duy trì

chánh pháp chư Phật

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

Nên tôn giả đã

ở nơi chư Phật

làm người đứng đầu

trong hàng đệ tử

về sự đa văn

cùng với trí tuệ,

thuyết pháp một cách

không có e sợ,

có thể làm cho

các chúng hoan hỷ.

Tôn giả chưa từng

chán nản mỏi mệt

trong sự hổ trợ

việc làm của Phật.

(10) Tôn giả vượt đến

thần thông rộng lớn,

lại có đủ cả

bốn trí thông suốt,

biết rõ mọi người

trình độ lanh chậm,

rồi thường tuyên thuyết

về pháp trong sáng.

(11) Phô bày thích thú

nghĩa của pháp ấy,

giáo hóa chúng sinh

nhiều ngàn vạn ức

cho họ ngồi vào

cỗ xe vĩ đại,

và bằng cách ấy

mà tôn giả này

tự làm trong sạch

cõi Phật của mình.

(12) Trong thì vị lai

tôn giả lại còn

phụng sự vô số

chư Phật Như Lai,

duy trì tuyên dương

chánh pháp các ngài,

cũng để tịnh hóa

cõi Phật của mình.

(13) Thường xuyên vận dụng

các cách phương tiện,

tôn giả thuyết pháp

không sợ gì cả,

hóa độ các chúng

không thể tính kể

cho họ thành đạt

tuệ giác hoàn toàn.

(14) Phụng sự chư Phật

bằng cách kính giữ

kho tàng chánh pháp

quí báu bậc nhất,

sau đó tôn giả

được thành Phật đà

với danh hiệu là

Pháp Minh Như Lai.

(15-Cõi Phật của ngài

16) tên là Thiện tịnh

do bảy chất quí

kết hợp mà thành.

Thời kỳ của ngài

tên là Bảo minh.

Chúng chư bồ tát

rất là đông nhiều,

số lượng đạt đến

vô số vạn ức,

toàn đã đạt được

thần thông quảng đại,

uy đức năng lực

hoàn bị đầy đủ,

những vị như vậy

đầy cõi của ngài.

(17) Chúng chư thanh văn

cũng là vô lượng,

đủ ba minh trí

và tám giải thoát,

lại còn có được

bốn trí thông suốt,

những vị như vậy

lấy làm Tăng bảo.

(18) Toàn cõi Thiện tịnh

tất cả mọi người

đã đoạn trừ hết

những cách dâm dục,

thuần nhất như nhau

sinh bằng biến hóa,

ba mươi hai tướng

trang hoàng thân thể.

(19) Vui đẹp về pháp

vui đẹp về định,

người Thiện tịnh ăn

bằng hai sự ấy,

không còn tưởng đến

những cách ăn khác.

Cõi Phật như vậy

không có nữ nhân,

các nẻo đường dữ

cũng không còn có.

(20) Vị đại tỷ kheo

Phú lâu Na này,

mọi phẩm chất Phật

thành mãn cả rồi

sẽ được cõi Phật

trong sạch như vậy.

Nơi đó rất nhiều

chư vị hiền thánh

và vô lượng việc

cùng loại như thế,

nay đây Như Lai

chỉ nói sơ lược.

Lúc ấy một ngàn hai trăm vị La hán, những bậc tâm đã tự tại, đều nghĩ rằng chúng ta rất hoan hỷ, được sự chưa từng có. Nếu chúng ta được đức Thế Tôn thọ ký cho như các vị đại đệ tử của ngài thì thật thích thú. Đức Thế Tôn biết rõ ý nghĩ trong lòng của chư vị ấy nên bảo tôn giả Đại ca Diếp, một ngàn hai trăm vị La hán này, Như Lai nay tuần tự trao cho họ lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng.

Đại ca Diếp, trong chúng La hán này, đại đệ tử của Như Lai là tỷ kheo Kiều trần Như sẽ phụng sự sáu vạn hai ngàn ức chư Phật, sau đó thành Phật với danh hiệu Phổ Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Năm trăm vị trong số một ngàn hai trăm vị La hán, đại loại như các tôn giả Tần loa ca Diếp, Già da ca Diếp, Na đề ca Diếp, Ca lưu đà Di, Ưu đà Di, A nâu lâu Đà, Ly bà Đa, Kiếp tân Na, Bạc câu La, Châu Đà, Sa già Đà, đều sẽ được tuệ giác vô thượng và cùng một danh hiệu Phổ Minh Như Lai.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(21-Vị đại tỷ kheo

22) Kiều trần Như này

sẽ gặp vô lượng

chư Phật Như Lai,

trải qua thời kỳ

nhiều đến vô số

mới thành một bậc

Biết khắp và đúng.

(23) Thường xuyên phóng ra

ánh sáng rất lớn,

đầy đủ hết thảy

các thần thông lực,

danh tiếng vang động

khắp cả mười phương,

hết thảy chúng sinh

ai cũng tôn kính,

và thường tuyên thuyết

tuệ giác vô thượng,

vì vậy mà được

danh hiệu Phổ Minh.

(24-Quốc độ trong sạch,

25) bồ tát dũng mãnh,

ai cũng lên ngự

lầu đài đẹp đẽ,

bay dạo khắp cả

mười phương quốc độ,

đem những cúng phẩm

giá trị tối thượng

cung kính hiến lên

chư Phật Như Lai.

(26) Hiến cúng thế rồi

lòng rất hoan hỷ,

giây lát về lại

quốc độ của mình:

thần lực họ có

đến như thế ấy.

(27) Phổ Minh Như Lai

sống lâu đến số

sáu vạn thời kỳ,

giáo pháp nguyên chất

tồn tại gấp đôi

thì gian sống lâu.

(28) Giáo pháp tương tự

lại tồn tại đến

gấp đôi thì gian

giáo pháp nguyên chất.

Và khi giáo pháp

ẩn mất không còn

thì cả trời người

đều rất lo buồn.

(29) Còn năm trăm vị

tỷ kheo khác nữa

đều sẽ tuần tự

mà thành Phật đà,

và cùng danh hiệu

Phổ Minh Như Lai.

(30) Chư Phật như vậy

triển chuyển tuần tự

thọ ký cho nhau,

rằng khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

vị này kế vị

làm Phật giáo chủ,

giáo hóa thế gian

y như Như Lai

giáo hóa hiện giờ.

(31-Đến như quốc độ

32) đẹp sạch ra sao,

năng lực thần thông

quảng đại thế nào,

thanh văn bồ tát

nhiều đến bao nhiêu,

giáo pháp nguyên chất

giáo pháp tương tự

cùng với đời sống

nhiều ít thế nào,

hết thảy đều như

ở trên đã nói.

(33) Này Đại ca Diếp,

tôn giả đã biết

về năm trăm vị

Tâm tự tại rồi,

còn các vị khác

trong chúng thanh văn

tất cả cũng được

thọ ký như vậy.

Vị nào vắng mặt

trong đại hội này,

tôn giả truyền đạt

cho vị ấy biết.

Năm trăm vị La hán đối trước đức Thế Tôn được thọ ký rồi, hoan hỷ, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, hối lỗi, tự trách, bằng cách thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con thường có ý nghĩ tự cho đã được niết bàn cuối cùng. Ngày nay mới biết ý nghĩ ấy thật như một kẻ vô trí. Tại sao, vì chúng con phải được tuệ giác của Phật, vậy mà tự cho tuệ giác nhỏ mọn đã là đầy đủ.

Bạch đức Thế Tôn, ví như có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ. Bấy giờ người bạn sắp đi việc công, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của người ấy. Cho như vậy rồi đi. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ khác. Vì cơm áo mà ra sức làm lụng rất cực nhọc. Và kiếm được chút ít thì tự cho đã đủ. Về sau người bạn thân gặp lại, thấy mà phải kêu lên, quái lạ cho một kẻ nam nhi, sao lại vì cơm áo mà đến nông nỗi này! Trước đây, tôi muốn làm cho anh yên vui sung sướng, mặc ý hưởng thụ năm thứ dục lạc, nên ngày tháng năm ấy, tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của anh. Nay đang còn kia. Sao anh không biết, để phải khó nhọc, lo lắng kiếm cách mới sống. Anh thật khờ dại. Bây giờ anh hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì luôn luôn vừa ý, không còn thiếu thốn gì nữa.

Đức Thế Tôn cũng vậy. Khi ngài làm bồ tát, đã giáo hóa chúng con phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác của bậc Toàn giác, nhưng chúng con quên ngay, không hay biết gì hết. Được đạo quả La hán là tự cho đã niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc nên chỉ được chút ít mà tự cho đã đủ. Trong khi đó chí nguyện về tuệ giác của bậc Toàn giác vẫn còn y nguyên, không mất đi đâu cả.

Ngày nay đức Thế Tôn thức tỉnh chúng con, bằng cách dạy rằng, chư vị tỷ kheo, cái mà chư vị được chưa phải niết bàn cuối cùng. Như Lai từ xưa đã dạy cho chư vị gieo trồng gốc rễ điều lành của Phật; chỉ vì phương tiện nên Như Lai nói cái chư vị được là niết bàn, vậy mà chư vị lại cho là thật được niết bàn. Bạch đức Thế Tôn, ngày nay chúng con mới biết mình thật là bồ tát, được nhận lời ghi về tuệ giác vô thượng. Do vậy mà chúng con cùng cực hoan hỷ, được sự chưa từng có.

Tôn giả Kiều trần Như, và các vị đồng đẳng, lặp lại ý nghĩa đã thưa bằng những lời chỉnh cú sau đây:

(34) Chúng con nghe được

âm thanh tối thượng

của đức Thế Tôn

an ủi thọ ký,

lòng rất vui mừng

được chưa từng có.

Chúng con chí thành

kính lạy Thế Tôn,

một bậc Tuệ giác

không có giới hạn!

(35) Ngày nay chúng con

đối trước Thế Tôn

xin tự sám hối

lầm lỗi ngày xưa.

Vàng ngọc Thế Tôn

thật là vô lượng,

chúng con chỉ được

ít phần niết bàn,

mà đã in như

một kẻ vô trí

tự cho mình được

đầy đủ cả rồi.

(36) Như kẻ nghèo nàn

đến nhà bạn thân.

Bạn giàu có lớn

đãi đủ cỗ bàn;

(37) đem ngọc vô giá

buộc vào áo trong,

yên lặng biếu cho

để đó mà đi,

trong khi người nghèo

say ngủ không biết.

(38) Người nghèo thức dậy

lang thang xứ khác,

tìm kiếm cơm áo

để tự nuôi mình.

Kiếm sống như vậy

rất là cực nhọc.

(39) Và được chút ít

đã hài lòng rồi,

không còn ước nguyện

ưa thích gì nữa.

Không biết áo trong

có ngọc vô giá.

(40) Người bạn cho ngọc

sau gặp người nghèo,

trách mắng nghiêm khắc

rồi chỉ cho anh

viên ngọc vô giá

đã buộc áo trong.

(41) Người nghèo được ngọc

lòng rất vui thích.

Viên ngọc làm anh

giàu có của cải,

năm thứ dục lạc

mặc sức thụ hưởng.

(42) Chúng con cũng vậy.

Thế Tôn từ xưa

đã từng thương tưởng

giáo hóa chỉ dạy,

gieo vào chúng con

chí nguyện tối thượng.

(43) Chúng con vô trí

không hay không biết;

chỉ mới đạt được

ít phần niết bàn,

đã tự thỏa mãn

không cầu gì nữa.

(44) Ngày nay Thế Tôn

thức tỉnh chúng con:

cái chúng con được

chưa thật niết bàn;

đạt được tuệ giác

vô thượng của Phật,

bấy giờ mới là

niết bàn chân thật.

(45) Ngày nay chúng con

từ đức Thế Tôn

nghe sự huy hoàng

ngài thọ ký cho,

nghe sẽ tuần tự

thọ ký cho nhau,

thì cả thân tâm

tràn đầy hoan hỉ.

***

Phẩm 9: Thọ Ký Cho Các Vị Tu Học Tiếp Tục Và Tu Học Hoàn Tất

Lúc ấy các tôn giả A nan Đà và La hầu La đều nghĩ, chúng ta tự xét nếu được đức Thế Tôn trao cho lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì thích thú biết bao. Các tôn giả ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài và cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, trong việc thọ ký chúng con cũng đáng có phần, chỉ có đức Thế Tôn là đấng chúng con nương tựa. Chúng con được thế giới này, kể cả chư thiên, nhân loại và tu la, ai cũng biết đến.

Họ biết A nan Đà con đây thường làm thị giả của đức Thế Tôn, coi giữ kho tàng chánh pháp của ngài; còn La hầu La con đây là con trai của đức Thế Tôn khi ngài chưa xuất gia. Nếu đức Thế Tôn trao cho chúng con lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì ước nguyện của chúng con đã đạt mà ước vọng của các chúng cũng thỏa.

Bấy giờ hai ngàn vị đệ tử thanh văn của đức Thế Tôn mà sự tu học đang tiếp tục hay đã hoàn tất, cũng đều đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, vai bên phải trần pháp y, cùng đến trước đức Thế Tôn, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng, cùng biểu lộ sự ước nguyện như ước nguyện của các tôn giả A nan Đà và La hầu La, rồi đứng cách một khoảng.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả A nan Đà, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự sáu mươi hai ức chư Phật, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, sau đó thực hiện tuệ giác vô thượng, giáo hóa bồ tát nhiều bằng nhiều ức hằng sa, làm cho thành thục tuệ giác vô thượng. Quốc độ tên là Ngọn cờ siêu việt thường dựng cao lên, toàn cõi trong sạch, đất bằng lưu ly.

Thời kỳ tên là Âm thanh tinh túy vang dội khắp cả. Sơn hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai sống lâu vô số thời kỳ vô số, giả sử có ai tính kể trong ngàn vạn ức thời kỳ vô số cũng không biết được. Giáo pháp nguyên chất tồn tại thế giới gấp đôi thì gian sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tại thế giới gấp đôi giáo pháp nguyên chất. A nan Đà, Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai được nhiều ức hằng sa chư Phật ở khắp mười phương cùng nhau ca tụng tán dương thành quả của ngài.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Như Lai ngày nay

nói giữa chư Tăng,

rằng A nan Đà

người giữ chánh pháp,

tương lai phụng sự

chư vị Phật đà,

rồi thành một bậc

Biết đúng và khắp.

(2) Bậc ấy tên là

Sơn Hải Tuệ Vương.

Quốc độ trong sạch

và có tên là

Ngọn cờ Siêu việt

thường dựng cao lên.

(3) Ngài giáo hóa cho

chư vị bồ tát

số lượng nhiều bằng

cát của sông Hằng.

Uy đức ngài có

vô cùng lớn lao,

danh tiếng vang động

khắp cả mười phương.

(4) Vì thương chúng sinh,

ngài sống vô lượng.

Giáo pháp nguyên chất

gấp đôi sống lâu,

giáo pháp tương tự

gấp đôi nguyên chất.

(5) Hằng hà sa số

vô lượng chúng sinh

ở trong giáo pháp

của đức Phật ấy

gieo trồng nhân tố

tuệ giác Phật đà.

Bấy giờ trong đại hội, bồ tát mới phát tâm có tám ngàn vị cùng nghĩ rằng, đến như chư vị đại bồ tát mà chúng ta cũng không nghe thấy được thọ ký như vầy, vì nguyên nhân nào mà chư vị thanh văn lại được phán quyết như vậy?

Đức Thế Tôn biết ý nghĩ ấy của các vị bồ tát mới phát tâm nên bảo, chư thiện nam tử, Như Lai cùng với tôn giả A nan Đà, và các vị đồng hàng với tôn giả ấy, đã từng ở nơi đức Không Vương Như Lai, đồng thời phát ra tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng. Nhưng tôn giả A nan Đà thường thích đa văn, còn Như Lai thường siêng tinh tiến, nên Như Lai thành tựu tuệ giác vô thượng mà tôn giả A nan Đà coi giữ kho tàng chánh pháp của Như Lai. Tôn giả ấy cũng coi giữ kho tàng chánh pháp của chư Phật vị lai, giáo hóa tác thành chư vị bồ tát. Bản nguyện tôn giả ấy là như vậy nên được thọ ký như trên.

Tôn giả A nan Đà đối diện đức Thế Tôn, đích thân nghe được lời ghi nhận của ngài trao cho, nghe được sự huy hoàng của quốc độ tương lai của mình, thì ước nguyện thỏa mãn, lòng rất hoan hỷ, được sự chưa từng có, tức khắc nhớ được kho tàng chánh pháp của nhiều ức chư Phật quá khứ, thông suốt vô ngại như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản nguyện của mình.

Tôn giả thưa đức Thế Tôn với lời chỉnh cú sau đây:

(6) Thế Tôn quả thực

cực kỳ hiếm có:

làm con nhớ lại

kho tàng chánh pháp

của vô số Phật

thuộc thì quá khứ,

tựa như mới nghe

trong ngày hôm nay.

(7) Nay con không còn

nghi hoặc gì nữa;

đứng vững ở trong

tuệ giác Phật đà,

phương tiện mà làm

một vị thị giả

để được coi giữ

chánh pháp chư Phật.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả La hầu La, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự chư Phật bằng số vi trần của mười thế giới và y như đời này, tôn giả thường làm trưởng tử của các ngài. Sự huy hoàng của quốc độ, số lượng thời kỳ của sự sống lâu, đệ tử được giáo hóa, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả điều này của đức Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai đều giống như của đức Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, không khác gì cả. Tôn giả cũng sẽ làm trưởng tử của ngài, và qua thì gian ấy rồi sẽ được tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(8) Thì gian Như Lai

còn làm thái tử

thì La Hầu La

là vị trưởng tử,

Như Lai thành Phật

thì La Hầu La

tiếp nhận chánh pháp

mà làm pháp tử.

(9) Trong thì vị lai

tôn giả gặp được

vô số ức Phật,

cũng làm trưởng tử

chuyên tâm mà cầu

tuệ giác Phật đà.

(10) Hạnh nguyện kín đáo

của La Hầu La,

chỉ có Như Lai

mới thấu hiểu được,

thị hiện mà làm

trưởng tử Như Lai

là để khải thị

cho bao chúng sinh.

(11) La Hầu La đây

có vô số lượng

vạn ức công đức

không thể tính kể.

Tôn giả sống trong

chánh pháp Như Lai

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

Đức Thế Tôn lại thấy hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất tâm ý của họ mềm dịu, vắng lặng, trong suốt, chuyên chú nhìn ngài, nên ngài bảo tôn giả A nan Đà, tôn giả thấy hai ngàn vị còn học và học xong này chăng? Con thấy, bạch đức Thế Tôn. A nan Đà, các vị này sẽ phụng sự chư Phật nhiều bằng vi trần của năm chục thế giới, cung kính, tôn trọng, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, và cuối cùng thì đồng thời thành Phật ở khắp mười phương quốc độ, với danh hiệu đồng nhất là Bảo Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Lại cùng sống lâu một thời kỳ. Sự tráng lệ của quốc độ, chúng thanh văn và chúng bồ tát, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả cũng đồng đẳng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(12) Hai ngàn thanh văn

trước Như Lai đây,

Như Lai phán quyết

vị lai thành Phật.

(13) Chư Phật Như Lai

mà các vị ấy

sẽ được phụng sự

thì như vi trần

mà Như Lai đã

so sánh ở trên.

Các vị coi giữ

kho tàng chánh pháp

của chư Phật ấy,

và rồi cuối cùng

được thành một bậc

Biết đúng và khắp.

(14) Tại các quốc độ

khắp cả mười phương,

tất cả các vị

đồng một danh hiệu,

đồng thời cùng ngồi

nơi bồ đề tràng,

để cùng thành tựu

tuệ giác vô thượng.

(15-Danh hiệu Bảo Tướng,

16) quốc độ, đệ tử,

giáo pháp nguyên chất,

giáo pháp tương tự,

tất cả điều này

đồng đẳng không khác.

Lại cũng đồng đẳng

sử dụng thần lực

giáo hóa cứu độ

mười phương chúng sinh,

danh tiếng vang dội

lan tràn khắp cả,

và rồi dần dần

cùng lúc nhập diệt.

Bấy giờ hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất nghe đức Thế Tôn thọ ký cho như vậy, ai cũng hoan hỷ, phấn chấn, cùng nói lời chỉnh cú sau đây:

(17-Thưa đức Thế Tôn,

18) Ánh sáng đèn tuệ!

Chúng con nghe được

tiếng ngài thọ ký,

tâm thức chúng con

tràn ngập hoan hỷ,

y như được rưới

với nước cam lộ.

***

Phẩm 10: Người Diễn Giảng Pháp Hoa

Khi ấy đức Thế Tôn qua bồ tát Dược Vương mà nói với tám vạn đại sĩ, Dược Vương, đại sĩ hãy nhìn, đại hội này có vô lượng tám bộ, bốn chúng, những người cầu tuệ giác Thanh văn, cầu tuệ giác Duyên giác hay cầu tuệ giác Phật đà. Các chúng như thế này hiện ở trước Như Lai mà nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như Lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng. Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như Lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng.

Nếu có người nào đối với kinh Pháp Hoa, dẫu chỉ một bài chỉnh cú mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, hay sao chép ấn hành…; hoặc đối với cuốn kinh Pháp Hoa mà thôi mà biết kính và nhìn như kính và nhìn Như Lai, hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, vải lụa bao bọc, kịch nhạc, hay đến nỗi chỉ chắp tay tôn kính, thì Dược Vương, hãy coi những người này như đã phụng sự mười vạn ức chư Phật và thành tựu đại nguyện nơi chỗ các ngài, nguyện thương chúng sinh mà sinh trong loài người này.

Dược Vương, nếu ai hỏi người nào vị lai làm Phật, thì nên nói cho họ biết những người này vị lai quyết định làm Phật. Tại sao, vì nếu thiện nam hay thiện nữ nào đối với kinh Pháp Hoa, dầu chỉ một câu đủ nghĩa mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành…., biết hiến cúng cuốn kinh ấy bằng các loại hoa cho đến chắp tay tôn kính, thì người này tất cả thế gian nên chiêm ngưỡng tôn thờ, nên đem đồ hiến cúng Như Lai mà hiến cúng. Hãy coi người này như là vị đại bồ tát đang hoàn thành tuệ giác vô thượng, vì thương chúng sinh, nguyện sinh trong loài người này mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa.

Người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành chỉ một câu kinh Pháp Hoa, hay chỉ hiến cúng cuốn kinh ấy mà đã như vậy, huống chi người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành được cả bộ kinh ấy và hiến cúng đủ cả. Dược Vương, hãy coi người này như là người tự bỏ cái chỗ kết quả hành vi trong sạch của mình để, sau khi Như Lai nhập diệt, vì thương chúng sinh mà sinh trong thời kỳ dữ dội, diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa.

Lại nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ trên đây nếu có thể kín đáo nói cho một người về kinh Pháp Hoa, thì dầu chỉ nói được một câu đủ nghĩa mà thôi, cũng nên coi người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai phái đến để làm công việc của Như Lai. Kín đáo nói kinh Pháp Hoa cho một người và chỉ nói được một câu mà còn như vậy, huống chi có thể công khai ở giữa công chúng mà nói cho mọi người một cách rộng rãi về kinh ấy.

Dược Vương, nếu có kẻ độc ác đem tâm độc ác, suốt một thời kỳ đối diện xúc phạm Như Lai mãi, tội của kẻ ấy vẫn nhẹ. Nếu có kẻ đem một lời độc ác mà thôi mà phỉ báng người đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp Hoa, thì không kể người đọc tụng ấy tại gia hay xuất gia, tội của kẻ này mới rất nặng.

Dược Vương, ai đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp Hoa thì nên coi người ấy đem trang phục của Như Lai mà trang sức cho mình. Người ấy được Như Lai đem vai mang vác. Người ấy đến đâu thì nên hướng theo mà thi lễ, nên chuyên chú chắp tay mà cung kính hiến cúng tôn trọng tán dương, nên đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, y phục, cỗ bàn, diễn tấu kịch nhạc, nói tóm, nên đem đồ hiến cúng thượng hạng trong loài người mà hiến cúng; nên đem ngọc của chư thiên mà tung rải, cả đống ngọc thượng hạng của chư thiên cũng nên đem ra mà phụng hiến. Tại sao, vì người ấy hoan hỷ diễn giảng Pháp Hoa thì nghe trong chốc lát cũng mau được trọn vẹn tuệ giác vô thượng.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Muốn đặt mình vào

đường đi của Phật

để được thành đạt

tuệ giác tự nhiên

thì phải thường xuyên

nỗ lực hiến cúng

những người tiếp nhận

kính giữ Pháp Hoa.

(2) Những ai ước muốn

mau chóng đạt được

tuệ Biết tất cả

thì phải tiếp nhận

ghi nhớ Pháp Hoa,

và nên hiến cúng

những người tiếp nhận

kính giữ kinh ấy.

(3) Người nào có thể

tiếp nhận kính giữ

kinh Pháp Hoa này,

thì hãy nên coi

người ấy chính là

Như Lai phái đến,

vì thương chúng sinh

mà giảng kinh này.

(4) Người nào có thể

tiếp nhận kính giữ

kinh Pháp Hoa này,

thì hãy coi là

người tự rời bỏ

quốc độ trong sạch,

vì thương chúng sinh

mà sinh ở đây.

(5) Thì hãy nên coi

người ấy là người

đã được tự tại

chỗ họ muốn sinh,

có thể sinh trong

thời kỳ dữ dội

mà nói rộng rãi

Pháp Hoa tối thượng.

(6) Nên đem hoa hương

cùng với y phục

của hàng chư thiên,

lại đem cả đống

ngọc đẹp thượng hạng

cũng của chư thiên,

mà hiến cho người

diễn giảng Pháp Hoa.

(7) Sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

trong thời dữ dội

người nào có thể

tiếp nhận kính giữ

kinh Pháp Hoa này,

thì ai cũng nên

chắp tay kính lạy,

in như tôn kính

đối với Như Lai.

(8) Cỗ bàn thượng hạng

vật thực cam mỹ

y phục đủ loại

đều đem hiến cúng

con Phật như vậy,

và mong chốc lát

được nghe người ấy

diễn giảng Pháp Hoa.

(9) Thời dữ sau này

ai có năng lực

tiếp nhận kính giữ

kinh Pháp Hoa này,

người ấy là người

Như Lai phái đến

trong loài người này

làm việc Như Lai.

(10) Suốt một thời kỳ

thường mang ác ý

xúc phạm Như Lai

thì tội vô lượng.

(11) Nhưng có người nào

đọc xét văn nghĩa

tụng được thuộc lòng

kính giữ Pháp Hoa,

mà trong chốc lát

đem lời độc ác

đổ vào người ấy,

thì tội kẻ này

hơn cả kẻ ác

xúc phạm Như Lai.

(12) Có người cầu mong

tuệ giác Phật đà,

cho nên trải qua

trọn một thời kỳ,

đứng trước Như Lai

chắp tay tán dương

bằng vô số lượng

bài văn chỉnh cú.

(13) Tán dương như vậy

được phước vô cùng,

nhưng ai tán thưởng

người giữ Pháp Hoa,

thì phước họ được

hơn cả người kia.

(14-Trải qua thời kỳ

15) đến tám mươi ức,

đem cả sắc thanh

hương vị và xúc

loại quí trọng nhất,

hiến cúng cho người

kính giữ Pháp Hoa,

và hiến cúng rồi

được nghe chốc lát

người ấy diễn giảng

kinh Pháp Hoa này,

thì nên tự mừng

rằng mình nhận được

ích lợi lớn lao.

Dược Vương đại sĩ,

ngày nay Như Lai

tuyên cáo rõ ràng

để chư vị biết:

bao nhiêu kinh pháp

Như Lai tuyên thuyết,

trong kinh pháp ấy

Pháp Hoa hơn cả.

Khi ấy đức Thế Tôn lại bảo Dược Vương đại sĩ, bao nhiêu kinh pháp của Như Lai tuyên thuyết, đã tuyên thuyết đang tuyên thuyết và sẽ tuyên thuyết, có đến hàng vạn hàng ức. Nhưng trong tất cả kinh pháp ấy, kinh Pháp Hoa này rất khó tin khó hiểu. Dược Vương, kinh này là kho tàng bí yếu của chư Phật, không thể bủa ra mà trao cho người một cách bừa bãi.

Kinh này chư Phật giữ gìn, từ trước đến nay Như Lai chưa hề nói đến một cách minh bạch. Như Lai đang còn mà kinh này vẫn bị nhiều kẻ oán ghét, huống chi sau khi Như Lai nhập diệt. Cho nên Dược Vương, đại sĩ nên biết, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với kinh Pháp Hoa, ai có năng lực sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, tôn kính hiến cúng, giảng nói cho người…, thì người ấy được Như Lai đem pháp y mà che phủ, lại được chư Phật hiện tại ở các quốc độ khác cùng giữ gìn cho, nên người ấy có được sức mạnh của đức tin vĩ đại, sức mạnh của chí nguyện, và sức mạnh của các gốc rễ pháp lành. Nên biết người ấy cư ngụ cùng tăng xá với Như Lai, được Như Lai đưa tay xoa đầu.

Dược Vương, bất cứ chỗ nào có diễn giảng, có đọc tụng, có sao chép đối với kinh Pháp Hoa, có đặt để cuốn kinh ấy, thì những chỗ như vậy nên xây dựng ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu rất cao, rộng và đẹp, mà không cần tôn trí xá lợi vào trong ngôi tháp ấy, vì trong ngôi tháp ấy đã có toàn thân của Như Lai. Ngôi tháp ấy nên đem các loại hoa, vòng hoa, hương liệu, lọng dù, tràng phan, kịch nhạc và thi ca mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Ai thấy ngôi tháp ấy mà biết lễ bái hiến cúng, thì người này phải được coi là đến gần tuệ giác vô thượng.

Dược Vương, nhiều người, tại gia có, xuất gia có, đi theo đường đi của bồ tát mà không được thấy nghe, đọc tụng, sao chép, ghi nhớ và hiến cúng kinh Pháp Hoa, thì nên biết những người ấy chưa khéo đi theo đường đi của bồ tát. Nếu được thấy nghe cho đến hiến cúng kinh này mới là khéo đi theo đường đi của bồ tát. Những người cầu tuệ giác Phật đà mà thấy nghe kinh Pháp Hoa, thấy nghe rồi tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ, thì nên biết những người ấy đã được đến gần tuệ giác vô thượng.

Dược Vương, ví như có người đang khát, cần nước, nên ở chỗ cao nguyên đào đất mà tìm. Đào mà còn thấy đất khô thì biết nước còn xa. Ra công liên tục, dần dần thấy đất ướt rồi thấy đất bùn, thì lòng họ biết chắc đã gần đến nước. Bồ tát cũng vậy, chưa nghe, chưa hiểu, chưa được tu tập Pháp Hoa, thì nên biết người này còn cách xa tuệ giác vô thượng; nếu nghe, hiểu, tư duy và tu tập được Pháp Hoa, thì nên biết chắc chắn đã đến gần tuệ giác vô thượng.

Tại sao, vì tuệ giác vô thượng của hết thảy bồ tát tìm cầu đều ở trong Pháp Hoa. Pháp Hoa mở cửa phương tiện mà chỉ tính chân thật. Kho tàng Pháp Hoa sâu, chắc, kín và xa, không ai thấu được. Như Lai ngày nay vì giáo hóa tác thành cho các vị bồ tát mới mở ra, chỉ cho. Dược Vương, nếu bồ tát nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là bồ tát mới phát tâm chí; còn thanh văn nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.

Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào muốn diễn giảng Pháp Hoa cho bốn chúng, thì phải làm sao mới nên diễn giảng? Dược Vương, thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà của Như Lai, mặc áo của Như Lai và ngồi chỗ của Như Lai; phải như vậy mới nên diễn giảng Pháp Hoa cho bốn chúng một cách phong phú.

Nhà của Như Lai là lòng đại từ bi đối với hết thảy chúng sinh.

Áo của Như Lai là đức tính ôn hòa nhẫn nhục.

Chỗ của Như Lai là nguyên lý Không của tất cả các pháp.

Đặt mình vững vàng vào trong ba pháp như vậy, sau đó mới đem sự không biếng nhác mà diễn giảng một cách phong phú về Pháp Hoa cho chư vị bồ tát và tất cả bốn chúng. Dược Vương, Như Lai dẫu ở thế giới khác, vẫn phái những vị biến hóa tập hợp thính chúng cho người ấy, lại phái bốn chúng biến hóa đến nghe người ấy diễn giảng Pháp Hoa. Bốn chúng biến hóa này nghe Pháp Hoa của người ấy diễn giảng thì tin nhận, thích ứng, chứ không chống nghịch. Người ấy ở chỗ trống vắng, thì Như Lai phái đông đảo tám bộ đến nghe người ấy diễn giảng Pháp Hoa. Như Lai tuy ở thế giới khác mà thường thường làm cho người ấy được thấy thân Như Lai. Đối với Pháp Hoa, người ấy quên mất câu nào đoạn nào, thì Như Lai nói cho nhớ lại hoàn hảo.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(16) Hãy bỏ biếng nhác

mà nghe Pháp Hoa.

Pháp Hoa khó có

cơ hội được nghe,

nghe mà tin nhận

cũng là khó có.

(17-Như khát cần nước,

18) đào đất cao nguyên.

Đào thấy đất khô

biết nước còn xa.

(19) Đào tiếp thấy được

đất ướt rồi bùn,

thì biết chắc chắn

nước đã gần đến.

(20) Dược Vương đại sĩ,

ví dụ như vậy

để biết những người

không nghe Pháp Hoa

thì còn cách xa

tuệ giác Phật đà.

(21) Người nào nghe được

kinh sâu xa này

_ bản kinh xác quyết

cho các thanh văn,

bản kinh chúa tể

của các kinh pháp —

nghe rồi tư duy

một cách chắc chắn;

(22) đại sĩ nên biết

người như thế này

đã được đến gần

tuệ giác Phật đà.

(23) Người nào chí nguyện

diễn giảng Pháp Hoa,

người ấy cần phải

vào nhà Như Lai

mặc áo Như Lai

ngồi chỗ Như Lai,

thì giữa công chúng

không sợ gì nữa,

phân tích rộng rãi

cho họ kinh này.

(24) Nhà của Như Lai

là đại từ bi,

áo của Như Lai

là đức nhẫn nhục,

chỗ của Như Lai

là các pháp Không.

Hãy đặt mình vào

trong ba pháp ấy

mà nói Pháp Hoa

cho cả mọi người.

(25) Khi nói Pháp Hoa,

nếu có những kẻ

độc miệng mắng nhiếc

dao chém gậy đánh

ngói ném đá liệng,

thì người ấy nên

nghĩ đến Như Lai

và cần nhẫn nhịn.

(26) Như Lai ở tại

vạn ức quốc độ,

biểu hiện cái thân

trong suốt cứng chắc,

trải qua vô số

vạn ức thời kỳ,

tuyên thuyết chánh pháp

cho các chúng sinh.

(27-Tại quốc độ này,

28) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

ai có năng lực

diễn giảng Pháp Hoa,

thì Như Lai phái

bốn chúng biến hóa

là các tỷ kheo

và tỷ kheo ni

cùng với nam nữ

đức tin trong sáng,

cùng đến hiến cúng

người diễn giảng ấy,

lại còn hướng dẫn

bao nhiêu người khác

đến nghe Pháp Hoa.

(29) Kẻ nào muốn hại

người giảng Pháp Hoa,

sử dụng dao gậy

cùng với ngói đá,

thì Như Lai phái

những vị biến hóa

làm người hộ vệ

hộ vệ người ấy.

(30) Người ấy một mình

ở chỗ trống vắng

không có tiếng người,

đọc xét văn nghĩa

tụng được thuộc lòng

về kinh Pháp Hoa,

(31) Như Lai bấy giờ

hiện thân trong sáng;

người ấy nếu quên

câu nào đoạn nào,

Như Lai nói cho

được thông suốt cả.

(32) Người ấy đủ hết

ba pháp nói trên,

thì giảng Pháp Hoa

cho cả bốn chúng,

hay ở chỗ vắng

đọc tụng Pháp Hoa,

đều được nhìn thấy

thân thể Như Lai.

(33) Và khi người ấy

ở chỗ trống vắng,

thì Như Lai phái

chư thiên long vương

cùng với dạ xoa

và các bộ khác

đến với người ấy

làm người nghe pháp.

(34) Người ấy thích thú

diễn giảng Pháp Hoa,

phân tích rành rẽ

không có vướng mắc,

là vì thường được

chư Phật giữ gìn,

cho nên làm cho

các chúng hoan hỷ.

(35) Những ai gần gũi

pháp sư như vậy

thì chóng trở thành

những vị bồ tát,

tùy thuận mà học

pháp sư như vậy

thì sẽ gặp được

hằng sa Phật đà.

***

Phẩm 11: Bảo Tháp Xuất Hiện

Vào lúc bấy giờ, trước đức Thế Tôn, một ngôi bảo tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao năm trăm do tuần, chu vi hai trăm năm chục do tuần, từ đất vọt lên, đứng trong không gian. Bảo tháp được trang hoàng bằng đủ thứ bảo vật. Có năm ngàn lan can và hàng ngàn hàng vạn khám thất. Trang hoàng bằng vô số cờ phan, và mắc rũ xuống là những vòng hoa ngọc. Chuông nhỏ quí báu thì có cả vạn ức, cũng được treo lên. Mọi phía bảo tháp đều phát ra hơi thơm đàn hương, tỏa khắp thế giới này. Bảo cái có mắc phan phướn thì do bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy kết hợp tạo thành, và cao đến cung trời Tứ thiên vương. Chư thiên của tầng trời Đao lợi thì rưới hoa mạn đà của chư thiên mà hiến cúng bảo tháp. Tám bộ và ngàn ức chúng khác cũng hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương bảo tháp bằng các loại hoa, hương liệu, vòng hoa, cờ phan, lọng dù và kịch nhạc.

Từ trong bảo tháp xuất ra âm thanh rất lớn, tán dương rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài có thể tuyên thuyết cho đại hội các chúng như thế này về kinh Pháp Hoa của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Thật đúng như vậy, thưa đức Thích Ca Thế Tôn; những điều ngài tuyên thuyết toàn là chân thật.

Bấy giờ bốn chúng đã thấy bảo tháp vĩ đại đứng trong không gian, lại nghe âm thanh xuất ra từ bảo tháp ấy, thì ai cũng được sự vui đẹp về chánh pháp, và ngạc nhiên thấy là sự chưa từng có, nên cùng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, cung kính chắp tay mà đứng mãi với một tư thế ấy. Lúc này có vị đại sĩ danh hiệu là Đại lạc Thuyết, biết sự hoài nghi của chư thiên, nhân loại, tu la, và bao chúng khác trong thế giới này, nên thưa đức Thích Ca Thế Tôn rằng, bạch ngài, vì lý do nào mà ngôi bảo tháp như vầy từ đất vọt lên, và trong đó phát ra âm thanh vừa rồi?

Đức Thế Tôn bảo, Đại lạc Thuyết, trong ngôi bảo tháp này có toàn thân của một đức Phật đà. Thì quá khứ, ở phương dưới, trong nhiều con số vô số quốc độ, có một quốc độ tên là Bảo tịnh. Quốc độ ấy có đức Phật giáo chủ danh hiệu là Đa Bảo Phật đà. Khi còn đi trên đường đi của bồ tát,đức Đa Bảo Phật đà có phát lời nguyện trọng đại, nguyện rằng nếu được trở thành Phật đà thì sau khi nhập diệt, trong mười phương quốc độ, chỗ nào có Phật nói kinh Pháp Hoa, bảo tháp của Như Lai cũng sẽ xuất hiện trước chỗ ấy để nghe kinh ấy, và làm chứng cho kinh ấy bằng cách tán dương rằng tốt lắm. Khi thành Phật đà rồi, lúc sắp nhập diệt, đức Đa Bảo Phật đà ở giữa đại hội chư thiên nhân loại mà tuyên cáo chư vị tỷ kheo, rằng khi Như Lai nhập diệt rồi, ai muốn hiến cúng toàn thân của Như Lai thì nên chung nhau xây dựng một ngôi bảo tháp cho vĩ đại. Rồi đức Đa Bảo Phật đà vận dụng sức mạnh thần thông và sức mạnh đại nguyện, bất cứ chỗ nào trong mười phương quốc độ có Phật tuyên thuyết Pháp Hoa, bảo tháp của ngài cũng vọt lên, xuất hiện ở trước, và toàn thân của ngài ở trong bảo tháp tán dương rằng tốt lắm. Đại lạc Thuyết, hôm nay đức Đa Bảo Phật đà nghe Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa, nên bảo tháp của ngài từ đất vọt lên mà tán dương rằng tốt lắm.

Đại lạc Thuyết đại sĩ, lúc ấy, do thần lực của đức Thế Tôn nên thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con ước muốn được nhìn thấy toàn thân của đức Đa Bảo Phật đà. Đức Thế Tôn bảo, Đại lạc Thuyết, đức Đa Bảo Phật đà còn có lời nguyện sâu xa và trọng đại nữa, nguyện rằng khi bảo tháp của Như Lai xuất hiện trước các đức Phật để nghe Pháp Hoa, nếu đức Phật nào muốn đem toàn thân của Như Lai chỉ cho bốn chúng, thì chư Phật phân thân của đức Phật ấy đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp mười phương quốc độ đều qui tụ lại một chỗ, bấy giờ toàn thân của Như Lai mới xuất hiện. Đại lạc Thuyết, chư Phật phân thân của Như Lai hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở mười phương quốc độ, hôm nay Như Lai cũng nên chiêu tập. Đại lạc Thuyết đại sĩ thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng ước muốn được nhìn thấy chư Phật phân thân của đức Thế Tôn để lễ bái, hiến cúng.

Khi ấy đức Thế Tôn liền phóng một đường ánh sáng của tướng lông trắng, chiếu qua hướng đông. Cả đại hội tức thì thấy được chư Phật của cực nhiều hằng sa quốc độ ở hướng ấy. Các quốc độ này toàn là đất bằng pha lê, với những cây ngọc được trang hoàng bằng những dải vải đẹp. Vô số ngàn vạn ức bồ tát tràn đầy trong mỗi quốc độ, và được giăng khắp lên trên là những màn và lưới đính kết các thứ ngọc. Cả đại hội ai cũng nghe thấy chư Phật ở các quốc độ ấy thuyết pháp bằng âm thanh cực kỳ tinh túy, nghe thấy vô số ngàn vạn ức bồ tát khắp trong mỗi quốc độ cũng thuyết pháp cho các chúng. Hướng đông như vậy thì các hướng tây nam bắc, bốn góc và trên dưới, hướng nào ánh sáng của tướng lông trắng cũng chiếu đến, và cả đại hội ai cũng nghe thấy như đã nghe thấy về hướng đông.

Chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều bảo các vị bồ tát, chư thiện nam tử, Như Lai nay nên đến quốc độ Kham nhẫn, chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, để hiến cúng ngài và hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Bấy giờ quốc độ Kham nhẫn tức thì biến thành sạch sẽ, đất bằng lưu ly, cây ngọc trang trí, hoàng kim làm dây phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám. Không có thôn xóm, làng mạc, thành phố, thị trấn, sông biển, khe suối, núi non, rừng rú. Đốt lên hương liệu rất quí, và hoa mạn đà bủa khắp mặt đất. Màn lưới đính kết các thứ ngọc thì dăng che ở trên, và mắc vào đó còn có những cái chuông nhỏ quí báu. Chỉ để lại đại hội các chúng này, còn bao nhiêu nhân loại và chư thiên đều dời để ở quốc độ khác.

Bấy giờ chư Phật phân thân ngài nào cũng đem theo một vị đại bồ tát mà làm thị giả, cùng đến quốc độ Kham nhẫn này, và bước đến dưới các cây ngọc. Mỗi cây ngọc cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả đều có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc đều có một tòa sư tử, cao năm do tuần và trang sức bằng ngọc lớn. Chư Phật phân thân mỗi ngài ngồi xếp bằng trên một tòa sư tử ấy. Lần lượt như vậy, đầy cả đại thiên thế giới này mà chư Phật phân thân tại một phương hướng của đức Thích Ca thế tôn vẫn chưa hết.

Đức Thích Ca Thế Tôn muốn đủ chỗ ngồi cho chư Phật phân thân, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng biến hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ thành quốc độ sạch sẽ, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu la. Nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ này cũng lấy lưu ly làm đất và trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng các thứ ngọc. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ ấy thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn được treo lên. Đốt lên hương liệu rất quí. Các loại hoa quí của chư thiên rải khắp mặt đất.

Để đủ chỗ ngồi cho chư Phật phân thân sẽ đến nữa, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng đức Thích Ca Thế Tôn lại biến thêm hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ nữa, cũng thành quốc độ sạch sẽ, cũng không có địa ngục ngạ quỉ súc sinh và tu la. Bao nhiêu nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ lần này cũng lấy lưu ly làm đất, cũng trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng ngọc lớn. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ này, cùng với số ấy ở trước, thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên cũng là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn cũng được treo lên. Cũng đốt lên hương liệu rất quí. Và các loại hoa quí của chư thiên cũng được rải khắp mặt đất.

Lúc ấy phân thân của đức Thích Ca Thế Tôn ở hướng đông, tức chư Phật giáo chủ tại các quốc độ nhiều bằng cực nhiều hằng sa thuộc hướng ấy, ngài nào cũng hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở quốc độ của mình, và bấy giờ cùng đến qui tụ ở quốc độ Kham nhẫn này. Lần lượt như vậy, chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều đến qui tụ, ngồi vào tám phương hướng. Tám phương hướng này, bấy giờ mỗi phương hướng có đến bốn trăm vạn ức trăm triệu quốc độ, và chư Phật phân thân ngồi đầy trong đó. Ngài nào cũng ngồi trên tòa sư tử ở dưới cây ngọc, cùng phái vị đại bồ tát thị giả đến vấn an đức Thích Ca Thế Tôn. Các ngài cầm mà đưa hoa ngọc cho các vị ấy bưng đầy hai tay, bảo rằng Thiện nam tử, hãy đến Linh sơn, chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, thưa với ngài đúng như lời của Như Lai, rằng đức Thế Tôn ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng, các chúng thanh văn và bồ tát yên ổn cả chăng. Hãy rải hoa ngọc này mà hiến cúng ngài, và bạch rằng đức Thế Tôn của con danh hiệu như vậy, muốn được cùng đức Thế Tôn mở cửa bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Tất cả chư Phật phân thân cũng phái vị đại bồ tát với phong cách như vậy.

Khi ấy đức Thích Ca Thế Tôn thấy chư Phật phân thân đã qui tụ, cùng ngồi trên tòa sư tử, lại nghe chư Phật ấy muốn được cùng mở cửa bảo tháp, nên ngài đứng dậy, rời khỏi pháp tòa, đứng trong không gian. Tất cả bốn chúng, vốn đã đứng lên và chắp tay, bây giờ chăm chú mà nhìn đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn liền dùng ngón tay bên phải mở cửa bảo tháp làm bằng bảy chất liệu quí báu, làm phát ra âm thanh lớn như cửa thành lớn được tháo khóa chốt mà mở ra. Tức thì toàn thể đại hội các chúng đều được thấy đức Đa Bảo Phật đà ngồi trong bảo tháp, trên tòa sư tử, toàn thân không rã, y như đang nhập thiền định. Cả đại hội lại được nghe lời của đức Đa Bảo Phật đà nói, rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài đã tuyên thuyết một cách thích thú về kinh Pháp Hoa. Tôi đến đây là để nghe kinh ấy.

Bốn chúng cùng bao bộ chúng khác, nghe thấy đức Phật nhập diệt hàng ức thời kỳ rồi mà nói như vậy thì ai cũng ca tụng là sự chưa từng có. Cả khối hoa quí của chư thiên được họ đem tung rải trên đức Đa Bảo Phật đà và đức Thích Ca Thế Tôn. Còn đức Đa Bảo Phật đà thì ở trong bảo tháp để một nửa pháp tòa của mình nhường cho đức Thích Ca Thế Tôn mà nói rằng thưa ngài, mời ngài đến ngồi ở đây. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn vào trong bảo tháp, ngồi trên một nửa pháp tòa, cũng theo cách ngồi xếp bằng. Cả đại hội các chúng thấy hai ngài cùng ngồi xếp bằng trên pháp tòa sư tử ở trong bảo tháp, thì nghĩ rằng hai ngài ngồi cao xa quá, xin đức Thế Tôn dùng sức mạnh thần thông mà làm cho chúng con cũng được lên ở trên không gian. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn dùng sức mạnh thần thông mà tiếp cả đại hội các chúng cùng lên ở trên không gian, rồi đem âm thanh vĩ đại mà phổ cáo bốn chúng, rằng ai là người có thể ở trong quốc độ Kham nhẫn này mà giảng nói rộng rãi về kinh Pháp Hoa, thì bây giờ chính là lúc nên nói ra. Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập niết bàn. Như Lai muốn có người để phó thác kinh Pháp Hoa này.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Đa Bảo Phật đà,

vị chúa thánh triết

nhập diệt từ lâu,

thân ở trong tháp,

mà vì chánh pháp

còn hiện đến đây.

Như vậy các người

bởi lý do gì

không vì chánh pháp

mà cố nỗ lực?

(2) Đa Bảo Phật đà

nhập diệt đến nay

thì gian đã có

vô số thời kỳ,

còn hiện khắp chỗ

để nghe Pháp Hoa,

như thế là vì

Pháp Hoa khó gặp.

(3) Ngài vốn phát nguyện:

nhập niết bàn rồi,

Như Lai vẫn đến

tất cả mọi chỗ

để được thường xuyên

nghe nói Pháp Hoa.

(4) Và vô số Phật

nhiều bằng hằng sa,

vốn do Như Lai

phân thân biểu hiện,

cũng đến nơi này

để nghe Pháp Hoa

và để yết kiến

Đa Bảo Phật đà.

(5) Các ngài rời bỏ

quốc độ tốt đẹp,

các chúng đệ tử,

tám bộ thiên long,

bao sự hiến cúng,

muốn làm chánh pháp

tồn tại lâu dài

nên cùng đến đây.

(6) Để có đủ chỗ

chư Phật ngự tọa,

Như Lai vận dụng

sức mạnh thần thông,

di chuyển vô lượng

các loại chúng sinh,

biến quốc độ này

sạch sẽ rộng lớn.

(7) Chư Phật đi đến

dưới mỗi cây ngọc,

trông như hoa sen

làm đẹp hồ sạch.

(8) Những tòa sư tử

dưới mỗi cây ngọc,

chư Phật ngự tọa

thì sáng đẹp ra,

tựa như đêm tối

đuốc lớn đốt lên.

(9) Thân của chư Phật

phát ra hương thơm

tỏa khắp quốc độ

trong cả mười phương,

làm cho chúng sinh

cùng được xông cả,

và lòng say sưa

không tự chủ nổi,

như nhánh cây nhỏ

được thổi gió lớn.

Bao nhiêu phong cách

phương tiện như vậy

để làm chánh pháp

tồn tại lâu dài.

(10) Như Lai phổ cáo

toàn thể các chúng,

rằng khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

những ai có thể

kính giữ Pháp Hoa

bằng mọi pháp hạnh,

trong đó gồm có

nghiên cứu, diễn giảng….,

thì ngày hôm nay

đối trước Như Lai

hãy tự phát nguyện.

(11) Đa Bảo Phật đà

tuy đã nhập diệt

từ lâu lắm rồi,

mà do đại nguyện

vẫn phát âm thanh

như sư tử gầm,

chứng minh ca tụng

Diệu pháp Liên hoa.

(12) Đức Đa Bảo ấy,

cùng với Như Lai,

chư Phật phân thân

sẽ cùng chứng biết

cho ý nguyện ấy

của những con Phật.

Vậy những con Phật

ai kính giữ được

Diệu pháp Liên hoa,

hãy phát đại nguyện

nguyện làm pháp ấy

tồn tại lâu dài.

(13) Ai có năng lực

kính giữ Pháp Hoa

thì thế là đã

hiến cúng Như Lai;

cùng với hiến cúng

Đa Bảo Phật đà_

một đức Phật đà

ở trong tháp rồi

vẫn đến mười phương

chỉ vì Pháp Hoa.

(14) Cũng là hiến cúng

chư Phật phân thân _

những đấng làm cho

tráng lệ huy hoàng

hết thảy quốc độ

khắp cả mười phương.

(15) Ai có năng lực

diễn giảng Pháp Hoa,

thì thế tức là

thấy được Như Lai,

thấy đức Đa Bảo

thấy Phật phân thân.

(16) Chư thiện nam tử,

hãy suy nghĩ kỹ.

Đây là trách vụ

rất là khó khăn

mà các người nên

phát nguyện đảm nhận.

(17) Hằng sa kinh điển

ngoài kinh Pháp Hoa,

diễn giảng hết cả

chưa đủ là khó;

(18) đón núi Tu di

ném qua vô số

thế giới hướng khác

cũng chưa đủ khó;

(19) chỉ dùng ngón chân

mà hất đại thiên

văng xa cõi khác

cũng chưa đủ khó;

(20) trên đỉnh hiện hữu

đứng đó nói cho

tất cả bộ chúng

về các kinh khác

nhiều đến vô lượng

cũng chưa đủ khó;

(21) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

ở trong thời kỳ

dữ dội đáng sợ,

nói được Pháp Hoa

như vậy mới khó.

(22) Giả sử có người

nắm được hư không

mà đem đi dạo

cũng chưa đủ khó;

(23) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

sao chép ấn hành

giữ cho còn mãi

Diệu pháp Liên hoa,

và khuyên người khác

cũng làm tương tự,

như vậy mới khó.

(24-Đem cả địa cầu

25) để trên móng chân

vọt lên Phạn thiên

cũng chưa đủ khó;

(26) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

trong thời kỳ dữ

học được một lúc

kinh Pháp Hoa này,

như vậy mới khó.

(27) Gánh vác cỏ khô

vào lửa hoại kiếp

mà không bị cháy

cũng chưa đủ khó;

(28) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

ai giữ Pháp Hoa

kín đáo giảng được

cho một người thôi,

như vậy mới khó.

(29) Kho tàng chánh pháp

đến tám vạn tư,

và bao kinh pháp

mười hai thể loại,

nếu ghi nhớ hết

và giảng cho người,

(30) làm cho người nghe

được sáu thần thông,

dẫu là như vậy

cũng chưa đủ khó;

(31) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

đối với Pháp Hoa

nếu có năng lực

lắng nghe, tiếp nhận,

hỏi thấu nghĩa ý,

giảng nói cho người,

như vậy mới khó.

(32) Có ai thuyết pháp

làm cho vạn ức

vô số vô lượng

hằng sa chúng sinh

được thành La hán

đủ sáu thần thông,

ích lợi đến vậy

cũng chưa đủ khó;

(33) sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

ai có năng lực

diễn giảng kính giữ

Diệu pháp Liên hoa

như vậy mới khó.

(34) Vì cho chúng sinh

được tuệ giác Phật,

Như Lai ở trong

vô lượng quốc độ,

từ lúc mở đầu

cho đến hiện nay,

tuyên thuyết phong phú

bao nhiêu kinh pháp.

(35) Trong kinh pháp ấy

Pháp Hoa bậc nhất:

nếu có năng lực

giữ được Pháp Hoa,

tức là giữ được

toàn thân Như Lai.

(36) Chư thiện nam tử,

sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi,

ai có năng lực

tiếp nhận kính giữ

Diệu pháp Liên hoa

bằng mọi pháp hạnh

trong đó gồm có

đọc xét văn nghĩa,

tụng được thuộc lòng…,

nay trước Như Lai

hãy tự phát nguyện.

(37) Diệu pháp liên hoa

khó mà giữ nổi;

những ai giữ nổi

ít thì gian thôi,

Như Lai hài lòng,

chư Phật cũng vậy.

(38) Những ai giữ nổi

Pháp Hoa như vậy

thì thế là được

chư Phật tán dương,

thế là dũng mãnh,

thế là tinh tiến,

thế là giữ giới,

tu hạnh đầu đà,

thế là chóng được

tuệ giác vô thượng.

(39) Thời ác sau này

những ai có thể

học hỏi kính giữ

Diệu pháp Liên hoa,

người ấy chính là

con Phật đích thực,

đứng vào ở nơi

vị trí Thuần thiện,

sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi

vẫn lý giải được

nghĩa ý Pháp Hoa.

(40-Người ấy chính là

41) mắt của thế gian

trong đó có cả

chư thiên nhân loại.

Ở trong thời kỳ

khủng bố khiếp sợ,

người ấy nói được

Diệu pháp Liên hoa,

dầu chỉ có thể

nói trong chốc lát,

hết thảy trời người

đều nên hiến cúng.

***

Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa

Khi ấy đức Thế Tôn bảo chư vị bồ tát, bốn chúng và các chúng nhân loại chư thiên, rằng trong thì quá khứ, Như Lai đã cầu Pháp Hoa trong vô lượng thời kỳ, không biếng nhác, không mỏi mệt. Trong nhiều thời kỳ, Như Lai thường làm quốc vương, phát nguyện cầu tuệ giác vô thượng, lòng không thoái lui hay lệch khỏi mục đích ấy. Để hoàn thiện sáu pháp ba la mật nên quốc vương nỗ lực bố thí, lòng không tiếc lẫn gì hết về voi ngựa, bảy thứ quí báu, về quốc thành, thê tử, về tôi tớ, tùy tùng, về đầu mắt, tủy não, thân thịt, tay chân; tính mạng cũng không nuối tiếc. Bấy giờ dân chúng sống lâu vô lượng. Quốc vương vì cầu chánh pháp nên bỏ ngôi vua, ủy thác chính sự cho thái tử, rồi đánh trống truyền lịnh mà cầu chánh pháp khắp nơi, rằng ai có khả năng nói cho ta về pháp đại thừa thì ta sẽ cung phụng phục dịch suốt đời. Bấy giờ có một vị tiên đến tâu, tôi biết bản kinh đại thừa tên là Pháp Hoa. Quốc vương không trái ý tôi thì tôi sẽ dạy cho. Quốc vương nghe vị tiên nói, vui mừng rộn rã, tức thì đi theo vị ấy, cung phụng mọi sự vị ấy cần đến. Những việc hái trái, múc nước, nhặt củi, dọn ăn, đến nỗi đem thân làm giường làm ghế cũng không mỏi mệt cơ thể hay tâm trí. Quốc vương lúc ấy phụng sự như vậy đến cả ngàn năm, vì chánh pháp mà siêng năng một cách tinh chuyên, cung đốn hầu hạ không thiếu sót điều gì. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(42) Như Lai nhớ lại

trong thì quá khứ,

vì cầu cho được

chánh pháp vĩ đại,

nên dẫu làm vua

của cả một nước,

vẫn không đam mê

năm thứ dục lạc.

(43) Đánh chuông gióng trống

tuyên cáo khắp nơi,

rằng ai biết được

chánh pháp vĩ đại

mà đem giảng giải

thuyết trình cho ta,

thì ta đích thân

làm kẻ tôi tớ.

Bấy giờ vị tiên

tên là Vô Tỷ

đến tâu với vua

rằng tôi có biết

chánh pháp tinh túy

hiếm nhất thế gian.

(44) Vua thực hành được

thì tôi dạy cho.

Nghe vị tiên nói

vua rất vui đẹp,

tức thì đi theo

cung phụng cần dùng.

Ngay việc nhặt củi

kiếm trái hái rau

cũng vẫn kính cẩn

cung phụng đúng lúc.

(45) Dồn hết tâm tình

vào pháp tinh túy,

nên cả thân tâm

không nhác không mệt.

Khắp vì tất cả

bao loại chúng sinh

mà cố nỗ lực

cầu pháp vĩ đại,

chứ không vị gì

bản thân của mình,

cũng không cầu hồ

thú vui ngũ dục.

(46) Như Lai cố ý

làm đại quốc vương

siêng cầu cho được

chánh pháp vĩ đại,

do đó mà được

thành đức Phật đà,

và bây giờ đây

cố đem chánh pháp

vĩ đại như vậy

nói cho các người.

Đức Thế Tôn bảo chư vị tỷ kheo, quốc vương lúc ấy nay là Như Lai, còn vị tiên lúc ấy nay là Đề bà đạt Đa mà làm cho Như Lai hoàn bị sáu pháp ba la mật, bốn tâm vô hạn, ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn sự nhiếp hóa, mười tám sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc Biết khắp và đúng, hóa độ sâu rộng các loại chúng sinh, toàn là do người bạn tốt Đề bà đạt Đa.

Như Lai nay tuyên cáo với tất cả bốn chúng, Đề bà đạt Đa sau này qua vô lượng thời kỳ rồi, sẽ được thành Phật danh hiệu là Thiên Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài tên là Thiên Đạo. Ngài tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, tuyên thuyết cho chúng sinh một cách rộng rãi về chánh pháp tinh túy, làm cho hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng sa chúng sinh phát tâm Tuệ giác vô thượng, thực hiện tuệ giác Không sinh, đạt đến địa vị Không thối chuyển. Thiên Vương Như Lai nhập niết bàn rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, xá lợi toàn thân được xây dựng tôn thờ trong ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao sáu chục do tuần, chu vi bốn chục do tuần. Chư thiên, nhân loại, ai cũng đem bông hoa đa dạng, các hương liệu, vải vóc, vòng hoa, tràng phan, bảo cái, kịch nhạc, ca khúc và thi thơ mà lễ bái và hiến cúng bảo tháp tuyệt diệu như vậy, và sự lễ bái hiến cúng này làm cho vô lượng chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh được tuệ giác Duyên giác, không thể nghĩ bàn chúng sinh phát Tâm tuệ giác vô thượng, đến bậc Không thoái chuyển.

Chư vị tỷ kheo, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được phẩm Đề bà đạt Đa này của kinh Pháp Hoa mà lòng trong sáng, tin kính cẩn, không ngờ vực, không lầm lẫn, thì người ấy không sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh, mà lại sinh trong nhân loại chư thiên, hay sinh trước chư Phật ở bất cứ phương hướng nào. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe kinh Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu và hơn hết, còn sinh trước chư Phật thì hóa sinh bằng hoa sen.

Bấy giờ Trí Tích, vị bồ tát thị tùng đức Đa Bảo Phật đà, vốn ở phương dưới, bạch với ngài hãy trở về quốc độ của mình. Đức Thích Ca Thế Tôn bảo bồ tát Trí Tích, thiện nam tử, hãy chờ một lát. Quốc độ này có vị bồ tát tên là Văn Thù, các vị đáng gặp nhau, luận thuyết chánh pháp tinh túy rồi về. Lúc bấy giờ bồ tát Văn Thù ngồi trên hoa sen có cả ngàn cánh, lớn như bánh xe, các vị bồ tát tùy tùng cũng ngồi trên hoa sen quí báu, từ Diêm hải long cung trong biển cả, đột nhiên vọt lên, lên cao trong không gian, lướt đến Linh sơn, bước xuống hoa sen, lại chỗ đức Thích Ca Thế Tôn và đức Đa Bảo Phật đà, đem đầu mặt kính lạy ngang chân hai ngài. Làm sự tôn kính như vậy rồi, bồ tát Văn Thù bước qua chỗ bồ tát Trí Tích, hỏi thăm nhau và ngồi một bên. Bồ tát Trí Tích hỏi bồ tát Văn Thù, nhân giả đến long cung giáo hóa chúng sinh số lượng được mấy? Bồ tát Văn Thù nói, số lượng ấy vô lượng, không thể tính kể, không thể miệng nói hay trí lường mà biết được. Xin nhân giả đợi một chút, sẽ tự có chứng cứ. Nói chưa xong thì vô số bồ tát cũng ngồi hoa sen quí báu, từ biển vọt lên, lướt đến Linh sơn, ở trong không gian. Các vị bồ tát này toàn do bồ tát Văn Thù hóa độ, hoàn bị phong cách bồ tát, và cùng luận thuyết sáu pháp ba la mật. Gốc của các vị này là thanh văn, ở trong không gian mà nói về việc làm thanh văn, nhưng nay thì ai cũng thực hành nguyên lý Không của đại thừa. Bồ tát Văn Thù nói với bồ tát Trí Tích, sự giáo hóa của tôi ở trong biển cả là như vậy. Bồ tát Trí Tích liền dùng những lời chỉnh cú sau đây vừa tán dương vừa hỏi bồ tát Văn Thù.

(47) Bậc đại trí đức

dũng mãnh tinh tiến!

bằng chánh pháp nào

ngài giáo hóa được

vô lượng bồ tát

mà đại hội này

và chính tôi đây

đã thấy như kia?

(48) Ngài giảng thật tướng,

thuyết minh thế nào

đối với giáo pháp

cỗ xe duy nhất,

hướng dẫn đầy đủ

các vị như vầy

làm cho chóng được

tuệ giác vô thượng?

Bồ tát Văn Thù nói, trong biển cả tôi chỉ thường xuyên tuyên thuyết Pháp Hoa. Bồ tát Trí Tích hỏi, kinh ấy cực kỳ sâu xa tinh túy, quí báu nhất trong các kinh, thế giới hiếm có; trong biển cả có hay không có người nỗ lực tinh tiến, thực hành được kinh ấy và thành Phật được một cách mau chóng? Bồ tát Văn Thù nói, có. Long Nữ của Diêm Hải long vương mới tám tuổi mà trí tuệ, lợi căn, khéo biết trình độ và hành vi của chúng sinh. Được pháp tổng trì, tiếp nhận và ghi nhớ đủ hết kho tàng bí yếu sâu xa của chư Phật tuyên thuyết. Vào sâu thiền định, thấu suốt các pháp. Trong khoảng đơn vị ngắn nhất của thì gian mà phát lộ Tuệ giác vô thượng, thành bậc Không cò thoái chuyển. Đủ các tài hùng biện. Thương chúng sinh y như thương con đỏ. Công đức hoàn hảo. Lòng nghĩ, miệng nói, toàn là tinh túy cao cả. Từ bi, khiêm nhượng, chí ý hòa nhã. Long Nữ ấy có đủ năng lực đạt đến Tuệ giác vô thượng. Bồ tát Trí Tích nói, tôi thấy đức Thích Ca Thế Tôn trải qua vô lượng thời kỳ, làm những khổ hạnh khó làm, chứa công dồn đức, cầu tuệ giác vô thượng không lúc nào ngừng nghỉ. Quan sát cả đại thiên thế giới này thì thấy không có chỗ nào, dầu chỉ bằng hạt cải mà thôi, mà không phải là chỗ ngài xả bỏ thân mạng vì chúng sinh, sau đó mới được thành tựu tuệ giác vô thượng. Tôi không tin Long Nữ nào đó chỉ trong khoảnh khắc mà thành được một bậc Biết đúng và khắp. Nói bàn chưa xong, Long Nữ đột nhiên xuất hiện trước mắt, đem cả đầu mặt lễ bái tôn kính đức Thế Tôn rồi đứng lui một khoảng, dùng lời chỉnh cú sau đây mà tán dương ngài.

(49) Thế Tôn thấu suốt

thật tướng tội phước,

ánh sáng của ngài

soi khắp mười phương.

Thân ngài: pháp thân,

tinh túy, trong suốt,

đủ ba mươi hai

tướng đại trượng phu.

(50) Pháp thân như vậy

còn được trang hoàng

bằng cả tám chục

vẻ đẹp tùy thuộc.

Nhân loại, chư thiên,

long vương, thiện thần,

ai cũng kính ngưỡng,

tất cả chúng sinh

ai cũng tôn thờ

như bậc đồng tông.

(51) Nghe đức Văn Thù

nói con chóng thành

tuệ giác vô thượng,

việc ấy chỉ có

Thế Tôn đại giác

chứng biết cho con;

con sẽ tuyên dương

chánh pháp đại thừa,

hóa độ giải thoát

chúng sinh đau khổ.

Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất nói với Long Nữ, thiện nữ nói thành đạt mau chóng tuệ giác vô thượng, việc ấy thật khó tin. Tại sao, vì thân thể nữ nhân dơ bẩn, không phải là vật dụng chứa đựng chánh pháp, thiện nữ làm sao mà thành được tuệ giác vô thượng _ Trong khi tuệ giác vô thượng của Phật thì xa xôi, mênh mông, trải qua vô số thời kỳ, siêng và khổ mà tích lũy công hạnh, thực hành đủ hết các pháp ba la mật, sau đó mới hoàn thành. Huống chi thân thể nữ nhân còn có năm sự bị cản trở, ấy là không được làm Phạn vương, Đế thích, Ma vương, Luân vương và Phật thân. Như vậy thân thể thiện nữ làm sao thành Phật, mà lại thành Phật mau chóng? Long Nữ có một viên ngọc quí, giá bằng cả đại thiên thế giới. Bấy giờ Long Nữ hai tay nâng viên ngọc ấy hiến lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận liền. Long nữ thưa bồ tát Trí Tích và tôn giả Xá lợi Phất, con hiến ngọc quí, đức Thế Tôn nhận cho con, việc này mau chóng không? Rất mau chóng; hai ngài trả lời như vậy. Long Nữ thưa, đem thần lực của các ngài nhìn sự thành Phật của con, thì sự ấy còn mau hơn việc này. Tức thì toàn thể đại hội các chúng lúc ấy cùng thấy, trong khoảnh khắc đột nhiên, Long Nữ biến thành nam tử, đầy đủ phong cách bồ tát, lướt qua thế giới hệ Vô cấu ở hướng nam, ngồi trên đài sen quí báu, thành bậc Biết đúng và khắp, với cái thân đủ hết ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, tuyên thuyết chánh pháp tinh túy cho chúng sinh mười phương. Tại quốc độ Kham nhẫn này, các vị bồ tát, các vị thanh văn, tám bộ thiên long, tất cả nhân loại và loài khác, từ xa thấy sự thành Phật và thuyết pháp của Long Nữ thì tâm thần người nào cũng rất hoan hỷ, vọng xa mà lạy. Thế giới hệ Vô cấu thì vô lượng chúng sinh nghe pháp đều lý giải, tỏ ngộ, được sự không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh nữa được nhận sự thọ ký về tuệ giác vô thượng, và thế giới hệ ấy chấn động đủ cả sáu cách. Thế giới hệ Kham nhẫn thì ba ngàn người đứng vào vị trí không thoái chuyển, ba ngàn người nữa phát triển tuệ giác vô thượng và được nhận sự thọ ký về tuệ giác ấy. Bồ tát Trí Tích, tôn giả Xá lợi Phất, và cả đại hội các chúng, đều yên lặng mà tin nhận.

***

Phẩm 13: Kính giữ Pháp Hoa

Lúc ấy Dược Vương đại sĩ, Đại lạc Thuyết đại sĩ, và hai vạn bồ tát tùy thuộc, cùng đối trước đức Thế Tôn mà phát nguyện như vầy: Kính xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Sau khi đức Thế Tôn nhập niết bàn, chúng con nguyện kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải… Con người trong thời kỳ dữ dội sau này gốc rễ điều lành thì ít dần, sự tăng thượng mạn thì nhiều lên, ham hố danh lợi và sự hiến cúng, tăng thêm bất thiện, tách xa giải thoát. Tuy khó giáo hóa, chúng con vẫn nổi dậy sức mạnh của sự ẩn nhẫn lớn lao mà kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải, sao chép, hiến cúng…. Chúng con không tiếc nuối thân mạng của chúng con trong việc kính giữ Pháp Hoa.

Trong đại hội, năm trăm vị La hán đã được thọ ký, lúc ấy cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng tự nguyện ở trong các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Tám ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất đã được thọ ký cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, thệ nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng sẽ ở tại các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Tại sao, vì trong quốc độ Kham nhẫn này con người phần nhiều tàn tệ độc ác, thượng mạn đầy lòng, công đức mỏng mảnh, giận ghét, dua nịnh, tâm không chắc thật.

Lúc ấy di mẫu của đức Thế Tôn là tỷ kheo ni Đại thắng sinh Chủ, cùng sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, cũng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mắt không rời ngài một thoáng. Đức Thế Tôn bảo, Đại thắng sinh Chủ, tại sao bà nhìn Như Lai với vẻ ưu tư? Bà nghĩ rằng Như Lai không gọi tên bà mà trao cho lời ghi về tuệ giác vô thượng chăng? Đại thắng sinh Chủ, trước đây Như Lai đã nói tổng quát, rằng hết thảy thanh văn đều được thọ ký. Nay bà muốn biết sự thọ ký ấy thì, vị lai, trong chánh pháp của rất nhiều ức đức Phật, bà sẽ làm nhà diễn giảng vĩ đại, sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất cũng làm những nhà diễn giảng, và bằng cách này mà bà hoàn thiện một cách đều đặn đường đi của bồ tát, trở thành một đức Phật đà với danh hiệu Nhất thế chúng sinh hỷ kiến Như Lai, đủ mười đức hiệu. Đại thắng sinh Chủ, đức Nhất thế chúng sinh hỷ kiến Như Lai sẽ cùng sáu ngàn bồ tát tuần tự thọ ký cho nhau mà thành tựu tuệ giác vô thượng.

Bấy giờ thân mẫu của tôn giả La hầu La là tỷ kheo ni Trì Dự, nghĩ rằng, trong sự thọ ký này đức Thế Tôn đặc biệt không đề cập đến ta. Biết rõ ý nghĩ ấy nên đức Thế Tôn bảo, Trì Dự, vị lai, bà sẽ ở trong chánh pháp của rất nhiều ức đức Phật mà làm việc làm của bồ tát, bằng cách cũng làm nhà diễn giảng vĩ đại, đều đặn và hoàn tất đường đi của Phật, rồi được thành Phật tại cõi Thiện quốc, với danh hiệu Cụ túc thiên vạn quang tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu, sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số.

Tỷ kheo ni Đại thắng sinh Chủ, tỷ kheo ni Trì Dự, cùng những người tùy thuộc, bấy giờ ai cũng hoan hỉ cùng cực, có được sự chưa từng có, tức thì đối trước đức Thế Tôn mà thưa ngài với lời chỉnh cú này.

(1) Bạch đức Thế Tôn,

bậc thầy lãnh đạo

đem lại an ủi

cho cả trời người!

Chúng con được nghe

lời ghi làm Phật,

trong lòng ổn định

thỏa mãn hoàn toàn.

Chư vị tỷ kheo ni thưa lời chỉnh cú ấy rồi lại nói, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng có thể ở các quốc độ khác mà tuyên thuyết rộng rãi về kinh Pháp Hoa.

Khi ấy đức Thế Tôn nhìn vào nhiều ức trăm triệu bồ tát đại sĩ. Các vị này toàn là những bậc Không thoái chuyển, có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không thoái chuyển bằng các pháp tổng trì mà các vị đã được hoàn thiện. Khi đức Thế Tôn nhìn vào, các vị liền đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước ngài, tập trung tâm trí, chắp hai tay lại, suy nghĩ như vầy: Nếu đức Thế Tôn phán bảo chúng ta duy trì và công bố Pháp Hoa, thì chúng ta sẽ làm đúng như lời ngài mà tuyên thuyết phong phú về kinh pháp ấy. Các vị lại nghĩ: Nhưng đức Thế Tôn yên lặng mà không phán bảo, vậy chúng ta phải làm gì? Kính thuận tình ý của đức Thế Tôn, lại muốn viên mãn tâm niệm của mình, nên các vị đối trước ngài, cất tiếng nói uy dũng như tiếng sư tử gầm mà phát nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ qua lại mười phương thế giới, đem hết năng lực mà làm cho chúng sinh, đối với kinh Pháp Hoa, biết sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng giải ý nghĩa, làm đúng kinh dạy, nhớ nghĩ chính xác… Chúng con làm được như vậy toàn là nhờ uy lực của đức Thế Tôn. Kính xin đức Thế Tôn dẫu ở quốc độ khác cũng vẫn chăm sóc che chở cho chúng con. Các vị đồng thanh mà nói những lời chỉnh cú sau đây.

(2) Kính xin Thế Tôn

khỏi phải lo nghĩ.

Sau khi Thế Tôn

nhập niết bàn rồi,

ở trong thời kỳ

khủng bố tàn ác,

chúng con thệ nguyện

sẽ cùng tuyên thuyết

một cách phong phú

về kinh Pháp Hoa.

(3) Những kẻ vô trí

độc miệng chưởi mắng,

sử dụng dao gậy

hành hung chúng con,

chúng con cũng nguyện

ẩn nhẫn hết thảy.

(4) Thời ác có kẻ

tự xưng tỷ kheo,

nhưng trí thì lầm

mà tâm lại dối,

chưa thật được gì

tự bảo là được,

cả người tràn ngập

tâm lý ngã mạn.

(5) Hoặc xưng lan nhã

quấn tấm vải vá

ở chỗ trống vắng,

tự cho mình làm

đạo hạnh chân thật,

khinh thị nhân gian.

(6) Hoặc vì tham lam

quan tâm lợi lộc,

họ bày thuyết pháp

cho người trần thế,

được người trần thế

kính như tôn kính

một vị La hán

đủ sáu thần thông.

(7) Những người như vậy

ôm giữ lòng ác,

thường xuyên nghĩ đến

những việc trần tục,

giả danh là kẻ

tu hạnh lan nhã

mà chỉ ưa thích

chỉ trích chúng con.

(8) Họ tuyên ngôn rằng

những tỷ kheo này

vì ham lợi lộc

nói thuyết ngoại đạo.

(9) Ngụy tạo kinh sách,

họ lừa thế nhân.

Và vì danh lợi,

họ cũng bày ra

diễn giảng Pháp Hoa,

ở giữa công chúng

thường chê chúng con

lấy thuyết của họ.

(10) Họ lại đi đến

quốc vương, đại thần,

đến bà la môn,

đến các cư sĩ

và tỷ kheo khác,

phỉ báng chúng con.

(11) Họ bảo chúng con

là kẻ tà kiến

diễn giảng lý thuyết

các phái ngoại đạo.

Kính thuận Thế Tôn,

cho nên chúng con

ẩn nhẫn tất cả

tệ ác như vậy.

(12) Bị họ mai mỉa

bằng cách nói rằng

các người toàn là

Phật đà cả đó!

Khinh ngạo đến thế

chúng con cũng nhẫn.

(13) Thời kỳ khủng khiếp

lắm kẻ đáng sợ,

quỉ dữ nhập vào

thân tâm của họ,

nên họ thóa mạ

hạ nhục chúng con.

(14) Thế nhưng chúng con

kính tin Thế Tôn,

nên mặc áo giáp

của sự nhẫn nhục,

nhẫn hết bao nhiêu

khó khăn tai nạn

để mà tuyên thuyết

Diệu Pháp Liên Hoa.

(15) Chúng con không tiếc

tính mạng chúng con,

chúng con chỉ tiếc

đạo pháp vô thượng.

Nên chúng con nguyện

trong thì vị lai

kính giữ Pháp Hoa

Thế Tôn ký thác.

(16) Như đức Thế Tôn

tự biết quá rõ,

trong thời vẩn đục

tỷ kheo bất hảo

đâu có thấu hiểu

về cách phương tiện

tùy nghi thuyết pháp

của đức Thế Tôn.

(17) Miệng dữ, mặt cáu,

họ đuổi chúng con

ra khỏi chùa chiền:

tàn tệ đến thế.

(18) Chúng con nhớ lời

Thế Tôn phán dạy,

ẩn nhẫn tất cả

sự tình như vậy.

(19) Thôn xóm thị thành

có ai cầu pháp,

chúng con cũng đến

mà nói cho họ

cái pháp Thế Tôn

đã đem ký thác.

(20) Là những sứ giả

của đức Thế Tôn,

chúng con không sợ

ở giữa công chúng.

Chúng con sẽ khéo

tuyên thuyết Pháp Hoa,

và cùng thỉnh nguyện

Thế Tôn yên tâm.

(21) Trước đức Thế Tôn

trước đức Đa Bảo

và chư Phật đà

đến từ mười phương,

chúng con ngày nay

thệ nguyện như vậy,

nguyện xin các ngài

biết cho chúng con.

***

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Phật Thuyết Kinh So Sánh Công Đức về Thần Chú Diệt Trừ Tội Chướng của 12 Danh Hiệu Chư Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Vua Ưu Điền Dùng Chánh Pháp Trị Nước - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Thích Nữ Như Phúc dịch - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Du Già Liên Hoa Bộ - Kinh Tạng