1
2
3
4
5
6
7

26- Phẩm Hủy Hoại Thứ Hai Mươi Sáu

Xá Lợi Phất bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn: nếu có người vì Bồ Tát mà thuyết một bài kệ bốn câu để chỉ dạy sự lợi lạc, giúp đạt đến thành Phật được phước đức vô lượng. Nếu có người vì muốn phá hoại tâm Bồ Tát, ngăn cản làm trở ngại phải nói cho người ấy biết có bao nhiêu tội. Tại sao thế? Vì cố ý phá hoại nên loạn động dấy lên, nghe tội như thế phải sửa đổi ngay

Phật bảo Xá Lợi Phất, nếu người nào phá hoại tâm Bồ Tát thì bị vô số tội. Như người muốn phá viên ngọc vô giá, chính kẻ ấy đã mất vô số tài lợi. Như thế thì, này Xá Lợi Phất, nếu người phá hoại tâm Bồ Tát thì làm hủy diệt luôn vô lượng pháp bảo. Này Xá Lợi Phất, ví như trồng cây thuốc rồi có kẻ đốn chặt làm cho cây không lớn nổi, kẻ ấy cũng phá luôn những cách trị liệu bịnh cho vô số chúng sanh, làm cho phần nhiều chúng sanh bịnh tình càng thêm nguy kịch. Như thế, Xá Lợi Phất, nếu người muốn phá hoại tâm Bồ Tát – tâm đại an lạc – thì diệt luôn tâm phương thuốc đại trí của vô số chúng sanh mang bịnh khổ. Người ấy cũng làm cho vô lượng vô số chúng sanh vì những món tham-sân-si-kiêu mạn, keo kiệt, ghét ganh, dèm pha, không biết hổ, chẳng biết thẹn thì, bị những cơn bịnh phiền não làm hại; cũng như làm cho vô số chúng sanh trong a tăng kỳ kiếp mất chỗ trụ an ổn ở Niết Bàn. Xá Lợi Phất, nếu người phá hủy ao A Nậu Ðạt là giết đại long vương, nên biết rằng kẻ ấy làm hủy hoại chúng sanh hai chân, bốn chân khao khát nước tám công đức. Như thế Xá Lợi Phất, nếu người quấy loạn tâm Bồ Tát cũng hủy diệt luôn vô số chúng sanh đang thèm khát nước bát thánh đạo. Này Xá Lợi Phất, nếu có người phá hủy mặt trời người ấy làm tiêu luôn ánh sáng của chúng sanh trong bốn châu thiên hạ. Như thế Xá Lợi Phất, nếu có người quấy nhiễu tâm Bồ Tát, nên biết rằng người ấy cũng hủy diệt luôn ánh sáng giác ngộ của tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới. Xá Lợi Phất, như người phá hủy chất ngọc báu, nên biết kẻ ấy cũng phá luôn vô số trân bảo của chúng sanh. Như thế Xá Lợi Phất nếu người quấy nhiễu tâm Bồ Tát, nên biết rằng kẻ ấy phá luôn phần pháp bảo của vô số chúng sanh; cũng như làm hủy diệt hết các kinh điển làm cho không còn lưu hành nữa. Này Xá Lợi Phất, cũng như từ ngọc báu làm ra đủ món đồ cung cấp cho chúng sanh. Cũng thế Xá Lợi Phất, tâm chư Bồ Tát là tánh pháp bảo; từ pháp bảo sanh Phật pháp không thể suy cùng thần thông trí lực. Vì thế, Xá Lợi Phất, ông nên biết rằng, phá hoại tâm Bồ Tát tạo vô lượng vô biên tội báo sâu dày. Xá Lợi Phất, như có kẻ ác tâm làm cho thân Phật chảy máu, hoặc có người phá giới không tin nên hủy hoại, xa lià tâm Bồ Tát tội càng sâu dày.

Xá Lợi Phất, kẻ dùng ác tâm làm cho thân Phật ra máu, ta gọi đủ là phạm năm tội vô gián (19), nếu người hủy hoại tâm Bồ Tát tội còn nặng hơn thế nữa. Tại sao thế? Vì tạo năm tội vô gián chỉ phá hoại pháp của một đức Phật; còn người hủy hoại tâm Bồ Tát là làm đoạn diệt Phật pháp. Xá Lợi Phất, như người giết bò là làm tiêu hủy mở bò và sữa bò. Như thế Xá Lợi Phất, nếu người phá hủy tâm Bồ Tát là làm đoạn diệt Phật tuệ. Vì thế, Xá Lợi Phất, nếu người phá giới không tin, mắng rủa làm hủy hoại tâm Bồ Tát thì, nên biết rằng tội đây còn hơn năm tội vô gián kia. Xá Lợi Phất, tội vô gián là nếu có một người nào trong bốn châu thiên hạ giết hại các bậc A La Hán. Ý ông nghĩ sao? Người ấy đắc tội có nặng không?

– Rất nặng, thưa Thế Tôn, Xá Lợi Phất nói.

– Phật bảo: Nay ta cho ông hay, nếu người nào làm hại quấy loạn Bồ Tát làm cho tín tâm họ xa lià tâm Bồ Tát là làm mất Phật tuệ, nếu đem so với tội trước thì trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn vạn phần không bằng một, cho đến dùng thí dụ cũng không thể sánh bằng. Tại sao thế? Tuy giết bậc A La Hán như thế mà không làm cản trở mười lực của Phật, bốn vô sở úy (20), bốn trí vô ngại (21), 18 pháp bất cộng, đại từ đại bi chẳng hư hạnh Phật, không làm trở ngại phép quán vô kiến đảnh tướng, như sư tử hùng mãnh tượng vương của Như Lai, không làm ngăn cản tiếng thổi trăm ngàn loại pháp cụ của Phật, cũng không làm phương hại đến việc truyền bá chánh pháp vô thượng, không làm cản trở thần lực thánh chúa tự tại; cũng không làm cản trở trí huệ nhận biết các căn lợi, độn (22) của chúng sanh có mỗi mỗi dục lạc khác nhau.

Này Xá Lợi Phất, như Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Ðề thành Ðại Thừa bằng thệ nguyện kiên cố trang nghiêm, nếu có kẻ đến quấy phá làm lui sụt đạo tâm thì, kẻ ấy làm cản trở mười lực của Phật làm cho không thể biết được mọi dục nhiễm của chúng sanh. Xá Lợi Phất, bốn châu trong khắp tam thiên đại thiên thế giới có các bậc A La Hán như cỏ cây, lúa mè, rừng cây mà có một người tới đoạt mạng các vị ấy thì, ý ông nghĩ sao? Người ấy đắc tội có nặng chăng? Rất nhiều, thưa Thế Tôn. Xá Lợi Phất, lại có kẻ mang tâm sân hận, khinh mạn, phá giới không tin, quấy loạn tâm Bồ Tát kẻ ấy đắc tội chỉ có Phật mới biết được. Tại sao thế? Vì kẻ ấy quấy phá tâm Bồ Tát cũng hủy diệt luôn cả Phật pháp và đoạn dứt Phật chủng. Tại sao thế? Vì nếu không có Bồ Tát sơ tâm làm sao có Phật tuệ, Phật lực tự tại xuất hiện ở đời. Vì thế, Xá Lợi Phất, so sánh tâm vô thượng, đại tâm, thâm tâm, tâm Bồ Tát, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà (23), nhơn, phi nhơn… hết thảy thế giới đều nên kính lễ. Tại sao? Vì người có tâm Bồ Tát thì biết chắc sẽ là vị Phật tương lai. Xá Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Như Lai tán thán tâm Bồ Tát như thế, có phân biệt thứ loại tên gọi chúng sanh như dòng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, đại cư sĩ, dòng vua Chuyển luân thánh vương, trời Tứ thiên vương, trời Thích Ðề Hoàn Nhân hoặc trời Ðao Lợi, Diệm Ma thiên, Ðâu Suất Ðà thiên, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa, trời Tự Tại hay Phạm Thiên vương chăng? Không thể có, thưa Thế Tôn. Tại sao thế? Vì Thế Tôn chỉ nói với tâm thanh tịnh, đại tâm, thâm tâm như thế thôi. Ý ông nghĩ sao? Nếu ta tán thán tâm ấy có thể nói hoặc đại lực sĩ có sức mạnh phi thường… hoặc trẻ, già, giàu, nghèo, có người cao quí, kẻ hạ tiện chăng? Không thể có, thưa Thế Tôn.

Này Xá Lợi Phất, ông thấy tâm trụ ở một chỗ nên phân biệt có trẻ, già, giàu, nghèo, kẻ có thế lực, người không thế lực, các vị đều nên tôn kính ủng hộ, trợ lực cho họ, vì hàng Thanh Văn báo ân vô thượng, đem giáo pháp ban rải giáo hóa cho Bồ Tát. Xá Lợi Phất, nếu chúng Thanh Văn làm được như thế là người cúng dường Như Lai một cách trọn vẹn, ấy là chỉ dạy làm cho chư Bồ Tát không thối tâm vô thượng Bồ Ðề. Xá Lợi Phất bạch Phật: bạch đức Thế Tôn: Bồ Tát có ba loại tâm: một là tâm ban đầu, hai là chuyển tâm và ba là tâm thành thục. Trong ba loại tâm ấy đức Thế Tôn tán dương, ủng hộ tâm nào? Phật bảo: như vậy, như vậy. Như lời ông nói, Bồ Tát có ba loại tâm: tâm ban đầu, chuyển tâm và tâm thành thục. Này Xá Lợi Phất trong các tâm ấy Như Lai tán thán nhiếp hộ tâm ban đầu và chuyển tâm làm cho tâm ấy được thành tựu. Tại sao thế? Nếu có người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác đều không còn thối chuyển ở quả Thanh Văn hay Bích Chi Phật. Vì tâm không còn lui sụt nên dần dần thành tựu được tâm vô thượng Bồ Ðề. Vì thế, Bồ Tát phát tâm Bồ Ðề nên quán xét cái “không tướng” của tâm ấy. Xá Lợi Phất, tâm ấy là tâm gì? Và thế nào là không tướng? Xá Lợi Phất, tâm gọi là ý thức, tức là cái biết tiềm tàng; ý vào tâm ý. Không tướng là tâm vô hình tướng, không ai tạo tác. Tại sao thế? Nếu có kẻ tạo tác có kẻ kia làm, người này nhận. Còn tâm tự tạo tác cũng chính do tâm tự thọ. Này Xá Lợi Phất, tâm vô hình tướng, không ai tạo tác, không ai sai sử; không có tác giả cũng không có tướng tạo tác. Nếu ta bàn suông cái tướng của tâm cũng chỉ nói tới cái vô tướng trống rỗng mà thôi. Nếu chỉ bàn tới cái không tướng trống rỗng vô ích kẻ kia cùng tranh luận với Như Lai, mà cùng với Như Lai tranh luận nên biết là kẻ ấy rơi vào vực thẳm. Kẻ đã rơi trong vực thẳm thì gọi là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, và thấy các cõi âm, thấy ta, thấy người, thấy chúng sanh… Này Xá Lợi Phất, nói một cách ngắn gọn trong Phật pháp có cái thấy tăng thêm và cái thấy Niết Bàn; thấy như thế đều gọi là có chỗ thấy. Những cái thấy ấy là nguồn gốc của ác thú, do chúng sanh tham chấp nên mới có ra những cái thấy ấy, là nguyên nhân đọa vào vực thẳm; cũng như làm hại kẻ khác rơi vào vực thẳm mà kẻ ở vực thẳm gọi là ở trong năm đường sanh tử vậy.

Lúc bấy giờ trong chúng hội có một người ăn xin tên là Tuyển Trạch từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay cung kính bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn: con nay không muốn đọa vào vực thẳm, cũng không muốn tranh cải với Như Lai. Con từ xưa đến nay phát tâm là muốn đạt được đạo vô thượng Bồ Ðề, nên lại nghĩ xưa con là một người nghèo gặp bao nhiêu khổ nạn, đời sống rất là vất vả. Ðây là những dòng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, cư sĩ có thế lực còn chưa có thể tu tập đạo vô thượng Bồ Ðề, huống gì con là kẻ ăn xin nghèo khổ hạng bét. Nay được nghe Phật tán thán sơ tâm của Bồ Tát mà trong đó không đề cập tới dòng đại Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, cư sĩ thế lực, và trời Tứ Thiên Vương, Thích Ðề Hoàn Nhân, trời Ðao Lợi, Diệm Ma Thiên, Ðâu Suất Ðà Thiên, trời Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại; cũng không nói tới trời Phạm Thế và Phạm Thiên Vương, cũng không đề cập đến nghèo giàu, sang hèn. Kể từ hôm nay, con quyết định phát tâm vô thượng Bồ Ðề, không dám khinh mình nữa. Phật bảo: lành thay, Tuyển Trạch! Nay ông có thể theo học pháp Như Lai nên quyết định phát tâm vô thượng như thế.

Lúc bấy giờ Tuyển Trạch ở trước Phật liền nói bài kệ:

Con không cầu tán dương

tán dương chẳng xứng đáng

mà chỉ mong ý sáng

được Phật trí vô thượng

Phật ở nơi vô lượng

các cảnh giới vô thượng;

trong chúng sanh khổ não

để làm chỗ tựa nương.

Phật chứng pháp vô lậu

nhiệm mầu sạch khó lường.

Thương chúng sanh nói pháp

sanh tử khổ độ thoát.

Thần lực Phật phổ quát

hào quang tỏa vô cùng

được trí huệ không ngằn

phước đức cao tột cùng.

Thế Tôn: bổn tâm con

là mong được thành Phật

tâm lại sanh lui sụt

ai cho kẻ nghèo hèn

được như vua, cư sĩ,

thích, phạm, các tôn thần

uy đức như trời, người

mà còn chưa thể được

huống phận kẻ nghèo hèn

xin ăn nuôi thân mạng.

Trí Phật, trí vô thượng

làm sao đạt thấu đặng?

Thế Tôn rõ tâm con

bảo Xá Lợi Phất rằng:

Ta nói phát tâm bằng

không nghèo, giàu, sang, hèn

cũng không Sát Ðế Lợi

Bà La Môn, cư sĩ,

chúng trời, rồng, thần, quỉ.

Kẻ phát tâm bền chí

nay nghe Phật diễn nói

tâm con được lợi lớn

quyết chắc sẽ thành Phật

nên phát tâm chân thật.

Ðổi thay luật trời đất

núi Tu Di tan tác

hư không dù biến diệt

tâm con khó chuyển dời.

Nếu chúng sanh mọi loài

tất cả đều là ma

ắt đến quấy phá ta.

Tâm con định bất động

Có người trước mặt con

tự ý bèn phát ngôn:

Phật trí thật khó tròn

không ai cho kẻ hèn.

Con nghe xong đáp liền:

ngươi chính kẻ bần tiện.

Vì không có tín tâm

được làm Phật là lầm.

Chư Phật vô hữu tánh

cũng không hình nhất định

chỉ nhiếp tâm hồi hướng

đạo Ðại Thừa vô thượng

ấy là Phật tánh tướng

cũng giống Như Lai chủng

Nhất tâm cầu Phật lực

cúng dường được thành Phật.

Con chẳng tiếc thân mạng

cũng chẳng ham vui đời

chí cầu vô thượng đạo

chúng sanh thảy khắp độ.

Nay trước đấng pháp vương

chẳng sợ xin tỏ tường,

nếu có phải lỗi lầm

mong Phật thương chỉ dùm…

Lúc bấy giờ Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:

Ông phát tâm vô thượng

vô thượng thừa quá lượng

Không sai lầm tánh tướng

nên thành đấng pháp vương.

Tuyển Trạch nghe Phật tường

lòng hoan hỷ khôn lường

Nhờ thiện tâm thanh lương

vượt hơn bảy dặm đường.

Thế Tôn nhìn mỉm cười

miệng: năm sắc quang tươi

sáng soi khắp trời, người.

Thu về nơi đảnh thượng

A Nan liền hiệp chưởng

muốn hỏi lưỡng túc tôn,

trí vô ngại tuyệt vời

đây đâu phải không nhơn?

Ở thành Vương Xá hiện

có kẻ xin bần tiện

đang ở trong không trung

chấp tay lễ Phật xong.

Nay trời, chúng long vương,

dạ xoa, nhơn phi nhơn…

đều chấp tay kính ngưỡng

chấp tay lễ người nghèo.

Dám hỏi Thế Tôn rằng:

tại sao cười, phóng quang?

Phật đạo ai chuyên tâm

mà muốn thọ ký sang?

Ai trong Phật đạo sáng

chuyên phát tâm vô thượng

chứng đắc huệ khôn lường

độ sanh, già, bịnh, chết?

Ngồi đạo tràng ai được

chúng ma quân phá diệt

đạt thành vô thượng đạo

chuyển pháp bảo huyền vi?

Ai được thành đại trí

đủ vô lượng thần thông

Trí rộng biết vô ngần

phân biệt chúng sanh tâm?

Ai được tiếng phạm âm

nói ra điều kỳ diệu

chân trí thuần vô ngại

diễn nói không hề sai.

Ai chứng đạo Như Lai

trụ thiền định hòa hài

Thấu rõ tâm ba cõi

thương giáo pháp mà nói.

Ai nghe pháp học hỏi

trời, người, chúng hân hoan.

Bất hư hạnh vẹn toàn

phép tượng vương hồi quán.

Ai dẫn đường đại chúng

nghiêm tịnh cõi thế gian

xa lìa bao chướng nạn

Ðạo tịch diệt lạc an

Ðại hiền đức Thế Tôn,

con muốn hỏi việc trên;

nguyên nhân Ngài mỉm cười

mong đáp khiến chúng mừng…

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo A Nan rằng, Như Lai do người ăn xin Tuyển Trạch này nên mỉm cười phóng hào quang rực rỡ thì, liền đó trong chúng hội cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, khẩn na la, ma hầu la dà, nhơn và phi nhơn… có tám mươi ức na do tha chúng đều phát tâm vô thượng Bồ Ðề. Ta vì những chúng sanh đây mà thọ ký đạo vô thượng Bồ Ðề.

Lúc đó đức Thế Tôn muốn cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Lúc Như Lai thuyết nhân duyên này

tám mươi ức na do tha đây

chúng sanh phát tâm vô lượng thảy

Thứ tự đều thành Phật đạo cả.

Nay Tuyển Trạch đây người trí sâu

hoan hỷ chấp tay tựa cúi đầu

Cung kính tán dương cúng dường Phật

mong mỏi chóng ngộ được như Phật

Do phước đức nhân duyên hoàn tất

đường ác thú trọn không đọa lạc;

kiếp kiếp xa lìa tám nạn tai

đời đời mong gặp được Như Lai

Gặp Phật rồi tịnh giới, trì trai

chứng đạo mầu vô thượng chẳng sai

đem bảo cái, phan lọng, hương hoa

cúng dường Phật tâm niệm thiết tha.

Tu hành lịch kiếp Phật trải qua

cung cấp y đẹp và mọi thứ:

giường gối, ngọa cụ, thuốc thang cả

cung cấp đầy đủ và tối đa

thứ tự gặp Phật Di Lặc ra.

Vì cầu Phật tâm càng thêm kính;

lấy bảy mươi ức na do tha

ngọc báu ma ni cúng dường Ngài.

Mỗi chuỗi trân châu rực ánh vàng

sáng soi đến tám mươi do tuần

Gom nhóm châu này càng thêm sáng

tỏa chiếu nơi nơi khắp thế gian.

Lại dùng bảy báu tạo tháp miếu

hơn bảy mươi ức na do tha.

Tháp cao rộng lớn đến cả ngàn

đem các vật báu kết trang hoàng.

Y phục, chiếu giường và gối nệm

bảy mươi ức do tha sẵn sàng

đem vật cụ sửa sang nghiêm tịnh

dâng Phật Di Lặc cùng tăng chúng

an cư ba tháng nguyện dâng cúng.

Chẳng hề mỏi mệt trải trăm năm;

sau người kia hạnh ngộ xuất gia.

Trong pháp Di Lặc tu tịnh hạnh

tâm phấn khởi với niềm cung kính.

Càng muốn cúng dường Di Lặc hơn

Thứ lớp tu hành Bồ Tát đạo

được thấy chư Phật hiền kiếp đáo.

Từ đấy lại được gặp Phật luôn

nhiều vô số như cát sông Hằng.

Gặp Phật xong tâm càng thanh tịnh

muốn cúng dường cùng cách tu hành

Tâm thanh tịnh nhờ phước báu sanh.

Ta nay lược nói không hết đặng;

Quả báo không lường khó sánh bằng.

Ai nghe Phật quả chẳng cầu nên

người ấy qua lại chốn tử sanh

hằng sa số kiếp Phật nguyện thành.

Trí vô thượng phát sanh đời mạt.

Tập Kiên Thật rõ hiệu Phật danh

tuổi thọ qua nghìn kiếp rành rành.

Thế giới ấy tịnh thanh nghiêm cụ

cõi Diêm Phù đầy đủ sáng soi

như đỉnh Tu Di, trời Ðao Lợi.

Thế Tôn Tập Kiên Thật

nhóm đại hội Thanh Văn

nghìn ức na do tha

như cát sông Hằng hà.

Số người đến tham dự

mỗi đại hội tối đa

đều thành La Hán quả

với thần thông phép lạ

nhờ thông hiểu ba tạng

nên hiểu các vấn nạn.

Như ta, Xá Lợi Phất

trí huệ vào bậc nhất

mở đại hội Bồ Tát,

còn nhiều hơn số trên.

Ðại Bồ Tát, Phật kia

cũng tên A Dật Ða

chư Bồ Tát chúng đã

được pháp nhẫn vô sanh

chuyển thân các nước sanh.

Tùy chỗ Phật đắc thành

trong mỗi một đại hội

số Bồ Tát gấp bội

được Phật kia thọ ký

nên thành vô thượng trí.

Sau khi Phật tịch diệt

pháp trụ hơn một kiếp

Xá Lợi lưu truyền khắp

cũng như sau ta diệt

xá lợi Tập Kiên Thật

trời, người muốn cúng dường

Tùy chúng sanh mến tưởng

thị hiện lực thần thông

chùa tháp tôn xá lợi.

Do bảy báu tạo nên

lan can và trụ báu,

hương hoa với tràn phan

toàn đồ báu trang hoàng

trang nghiêm tháp Phật vàng

đem tháp miếu sẵn sàng

làm đẹp cõi Diêm Phù.

Người đem đủ hương hoa

cúng dường tháp Phật tòa

liền biến thành hoa lớn

có thần lực như thế.

Tập Kiên Thật Thế Tôn

hình tượng tháp khắp chốn

tùy chúng sanh cảm mến

mỉm cười phóng hào quang

rực rỡ soi sáng lạn.

Rồi thâu về chớp nhoáng

Nhập vô kiến đảnh tướng

biết được Phật thọ ký.

Nếu sáng từ miệng vào

thế nào cũng Duyên Giác.

Sáng vào nơi rốn khác

chứng đạt quả Thanh Văn.

Hình tượng Thế Tôn kia

có đủ sức thần thông

như thế một kiếp hơn.

Kiếp hết pháp mới diệt

vô thường, hữu vi biến

nên cần hành tinh tấn.

Lúc bấy giờ Xá Lợi Phất bạch Phật, lành thay Thế Tôn! Người ăn xin Tuyển Trạch nghèo khổ như thế mà tâm đạt được pháp bảo tối thượng, tại sao có kẻ trí lại dám khinh thường? Phật bảo Xá Lợi Phất: đúng thế, đúng thế! Thật đúng như lời ông nói, sao có kẻ trí lại khinh miệt người nghèo; trừ người phàm phu không nghe, không biết! Này Xá Lợi Phất, suy từ nghĩa đó nên trong kinh ta nói: kẻ trí không nên khinh thường người khác. Khinh thường người khác là tự làm thương tổn chính mình. Xá Lợi Phất, ý ông có cho rằng người ăn xin Tuyển Trạch này vốn đã làm cho trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ma hầu la dà, nhơn và phi nhơn… lễ bái chăng? Không, thưa Thế Tôn. Tại sao? Vì người nghèo ấy lúc Như Lai chưa thọ ký không ai kính lễ cả. Nay được Như Lai thọ ký nên được cả trời, người, a tu la đều lễ kính. Xá Lợi Phất, đấy là chư Phật đời vị lai thấy biết không bị ngăn ngại, không như hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. Vì thế, Xá Lợi Phất, các đệ tử của ta tin nhận lời Phật, hoặc lúc diễn nói pháp cho chúng sanh, trước hết nên xưng dương công đức của Phật. Chúng sanh nghe xưng tán Phật có thể hoặc phát tâm cầu Phật tuệ; nhờ phát tâm nên không mất Phật chủng. Xá Lợi Phất, tất cả thế giới ít có chúng sanh vì cầu lợi mình, lợi người thật hết sức khó. Xá Lợi Phất, cầu lợi vì kẻ khác thật ra trong số chúng sanh phần nhiều hay ưa tự lợi nên quả thật là khó. Tại sao thế? Vì người phàm phu muốn cầu tự lợi nên tự làm tổn thương. Tại sao thế? Xá Lợi Phất! Ta không thấy người nào làm hại kẻ khác mà không làm tổn thương mình cả. Vì thế ông nên biết, nhân bám theo tự lợi là điều chướng nạn. Hơn nữa trong tự lợi mà có lợi tha thì thật là khó. Này Xá Lợi Phất, như kẻ phá hoại người phát tâm Ðại Thừa kẻ ấy không có tự lợi, cũng không thể lợi tha, như thế không thể gọi là người tu hành đạo đức được. Xá Lợi Phất, người ngu si kia hành tà đạo làm mất tự lợi, cũng như mất cả lợi tha. Do nguyên nhân ấy người kia phải bị tám pháp làm tổn hại. Những gì là tám?

1- Mất sự yêu kính

2- Bạn bè, thân quyến làm hại

3- Cõi nước biến loạn

4- Tài sản cửa nhà bị hỏa hoạn thiêu hủy

5- Bị quan huyện áp bức

6- Các căn thiếu khuyết

7- Chết đọa địa ngục

8- Bị ngục tốt khảo tra hạch sách.

Ðó là tám việc, ngoài ra còn có tám pháp đại bất an nữa. Những gì là tám?

1- Sanh vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là đại bất an

2- Nếu được thân người, sanh nhằm nơi biên địa, không biết thiện ác

3- Không gặp nơi có Phật pháp và Thánh chúng là đại bất an

4- Ðã được thân người, không được sanh vào giữa nước là đại bất an

5- Ðui mù, câm ngọng, tàn tật trăm thứ bịnh hoạn là đại bất an

6- Tuy sanh nhằm trung quốc thân người đầy đủ, lại có tâm che dấu, ưa việc gièm pha, dối trá, ngoa ngụy là đại bất an

7- Tin theo ngoại đạo, thích luận việc tà, tà kiến, hạnh xấu, làm cho ba nghiệp: thân, khẩu, ý bất tịnh. Chư Phật, chư hiền thánh không thể cứu độ, đó cũng là pháp đại bất an

8- Nếu sanh nhằm trung quốc thân người được đầy đủ mà chết đi trong đêm Phật đắc đạo không gặp được Phật pháp, cũng là một điều đại bất an.

Ðó là tám pháp bất an, ông nên biết người này, nếu sanh trong địa ngục chắc chắn đọa vào đại địa ngục A Tỳ mang thân hình to lớn chịu các thống khổ liên tục, vì đã tạo trọng tội. Nếu đọa vào súc sanh làm loài độc trùng, ác thú thường bị cái khổ đói khát nên tước đoạt mạng sống loài khác, ăn thịt tàn hại nhau để tự nuôi sống. Tùy nơi sanh ra ở đâu lại tiếp tục tạo thêm tội. Hoặc sinh nhằm loài dưới nước làm cá mập, cá heo, cá voi, cá kình… bị người vây bắt, sống bị dao cắt xẻ phải chịu mọi khổ bức có mong chết cũng không được, hoặc sanh nhằm loài trên đất như lạc đà, trâu, dê, heo, chó. Nếu làm trâu lừa bị người xỏ mũi, thường phải chở nặng, bị roi vọt đánh đập đau đớn rên la lớn tiếng không ai cứu giúp, đi đường mệt mỏi không thể bước tới nữa, mạng sống chưa lìa – hơi thở vẫn còn – mà bị người cắt xẻo ăn thịt; đều do tội mắng chửi, ăn thịt làm hại mình. Xá Lợi Phất, ông chớ cho rằng người kia do nghiệp tội như ta đã biết hoặc đã nói, từ kiếp này sang kiếp khác cũng không hết được.

Xá Lợi Phất, nói một cách vắn gọn, nếu người nào hủy hoại tâm Bồ Tát mà tránh khỏi tám nạn là điều không thể có được. Tại sao thế ? Vì người làm ác cứ tiếp tục tạo các nghiệp tội. Các Thầy nên biết rằng được thoát các nạn là tự cứu mình.

Chú thích:

(1) Bốn đại hay bốn yếu tố kết hợp thành thân thể. Ðó là đất (địa) như da thịt lông móng, răng tóc…, nước (thủy): chất lỏng gồm nước tiểu, nước miếng, nước mắt, nước mũi, máu mũ…, hỏa là chất ấm hay nhiệt lượng trong cơ thể và gió (phong) như hô hấp trong bộ máy tuần hoàn, tức là hơi thở ra vào giúp con người tồn tại.

(2) Tâm sở: tâm có hai phần là tâm vương và tâm sở. Tâm vương làm chúa tẻ sai sử, có quyền như ông vua ra lệnh; tâm sở tùy thuộc như các quan tùy tùng như các phiền não, kiến chấp, tham, sân, si v.v… tạo ra lỗi lầm, gây xấu ác.

(3) Tám khổ: sanh, già, bệnh, chết là bốn cái khổ lớn nhất trong đời không ai tránh khỏi, và bốn cái khổ chất chồng khác là: yêu nhau mà phải xa lìa, cầu mong không được toại nguyện, thù ghét nhau mà phải đối đầu, chung đụng nhau và đeo theo sắc thân, cảm thọ, tưởng tượng, hành vi tạo tác, ý thức bộc phát hẫy hừng thiếu quân bình gây ra cho thân tâm bất an.

(4) Giáo hạnh: chỉ dẫn, thể hiện hạnh trong sạch (hạnh lành) trong nghĩa giáo hóa cho người khác noi theo.

(5) Pháp phục: y áo của giới tăng sĩ dùng trong việc lễ bái, cầu nguyện, còn gọi là pháp y hay đạo phục.

(6) Bình bát, tích trượng: cái bình sành, đất nung hay nhôm của nhà sư dùng đựng thức ăn, hình tròn quả bí, vòng kính chừng 20 cm, chiều cao cũng gần giống nhau. Bình bát còn gọi là đồ pháp khí, nhờ đó người tu hành có phương tiện nuôi thân tâm để làm tăng trưởng trí huệ; tích trượng: cây gậy chống hay để làm hiệu lệnh thiền của các vị tăng niên trưởng trong các tăng viện.

(7) Hiền kiếp hay thiện kiếp là kiếp lớn hiện tại, trong đó có nhiều bậc Thánh hiền xuất thế, nên gọi là hiền kiếp. Kiếp đã qua gọi là quá khứ trang nghiêm, kiếp hiện tại hay hiền kiếp và kiếp vị lai hay tinh tú kiếp.

(8) Xá lợi: hài cốt của Phật sau khi hỏa thiêu còn lưu lại chất tinh ba lẫn trong tro tàn, được hàng đệ tử chia nhau phụng thờ.

(9) Ðời mạt pháp: giáo pháp được chia làm 3 thời kỳ: chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Thời kỳ chót của giáo pháp sắp bị tiêu diệt. Công cuộc truyền giáo bị bức hại, đàn áp, khủng bố; Tăng, tín đồ thiếu tự do hành đạo. Ðó là thời kỳ sau khi Phật diệt độ 2000 năm trở lui, người tu chứng hầu như thưa vắng, mối giềng của đạo bị lỏng lẽo, bị thế quyền xâm lấn v.v…

(10) Pháp vương tử (Xem chú thích ở trước)

(11) Năm đường hay năm loài qua lại lên xuống trong các ngã luân hồi là cảnh giới người, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

(12) Tứ đế: bốn chân lý chân thật do đức Phật Thích Ca thuyết minh đầu tiên tại vườn Lộc Uyển cho 5 người bạn đồng tu với Ngài lúc trước về chân nghĩa kiếp người là khổ, tập, diệt, đạo. Người tu hành quán chiếu tự nội để thấy rõ chân ý nghĩa cuộc đời, con người trong vũ trụ vạn hữu.

(13) Bốn chánh cần: bốn pháp chánh yếu cần hành là: điều ác chưa sanh đừng cho sanh, điều ác đã sanh khiến cho tiêu diệt, điều thiện chưa sanh làm cho phát sanh, điều thiện đã sanh khiến cho tăng trưởng.

(14) Bốn như ý túc: bốn điều biết đủ như ý là ham muốn biết đủ, suy nghĩ, tinh tấn, thiền định phải thỏa đáng những điều tri túc của thân tâm.

(15) Ngũ căn, ngũ lực: năm căn là tín, tấn, niệm, định, huệ là cái gốc rễ cội nguồn tiềm tàng bên trong con người; và năm lực là sức mạnh hay năng lực của năm căn tác động mạnh mẽ trên sự vật.

(16) Thất Bồ Ðề phần hay 7 pháp trợ đạo Bồ Ðề là chọn pháp tu, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định và xã (không bận buộc, vướng mắc)

(17) Tám ngọn gió làm lay động đời sống chúng ta trong mọi trường hợp. Ðó là lợi, hủy (nói xấu), ai (thương), dự (khen), xưng (tán dương), cơ (chê), khổ (hoạn nạn), lạc (vui thú).

(18) Lậu tận: lậu là rỉ, lọt, rơi rớt, thắm rịn… chỉ cho phiền não đã hết sạch

(19) Tội ngũ nghịch: năm tội nghịch phải đọa địa ngục: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp tăng và làm cho thân Phật chảy máu.

(20) Tứ vô sở úy: bốn đức tánh không sợ sệt, chỉ chư Phật và Bồ Tát mới có. Bốn trí của Phật: 1) có trí biết tất cả nên không sợ, 2) dứt hết các phiền não nên không sợ, 3) nói rõ chỗ ngăn ngại đạo nên chẳng sợ gì cả, 4) giảng dạy đạo dứt hết mọi sự khổ nên không sợ sệt; bốn trí của Bồ Tát: 1) giữ trọn chẳng quên, thuyết pháp chẳng sợ, 2) biết món thuốc pháp lý và biết căn tánh dục của chúng sanh, nên thuyết pháp chẳng sợ, 3) tái vấn đáp giỏi nên thuyết pháp không sợ, 4) Có thể trừ các mối nghi của chúng sanh, nên thuyết pháp chẳng sợ (Xem thêm chú thích 33, Q1).

(21) Tứ vô ngại trí: bốn trí không ngại của Phật và của Bồ Tát. Ðó là: 1) Pháp vô ngại trí: trí biết các pháp và diễn giải không ngăn ngại, 2) Nghĩa vô ngại trí: trí biết nghĩa lý của các pháp, tùy tên mỗi pháp mà giảng nghĩa không bị ngăn ngại, 3) Từ ngại trí: trí biết các danh tự, ngôn từ một cách không ngăn ngại, 4) Nhạo thuyết vô ngại trí: trí biết căn tánh chúng sanh, ưa thuyết không bị chướng ngại, không lui, không sợ trở ngại chi cả.

(22) Lợi, độn: lợi là bén nhạy, độn là cùn lụt hay thông minh lanh lợi và đần độn ngu si.

***

27. Phẩm Tạp Thứ Hai Mươi Bảy

Phật bảo Xá Lợi Phất rằng có bốn pháp cứu độ. Những gì là bốn?

1) Chúng sanh sợ hãi Như Lai cứu độ

2) Kẻ rơi vào đường tà, bậc Thánh cứu độ

3) Những người tạo nghiệp ác nhờ bốn niệm xứ để cứu dộ

4) Những người ở trong tám nạn, Bồ Tát có thể cứu độ. Ðó là bốn pháp.

Xá Lợi Phất có bốn pháp an lạc. Những gì là bốn?

1) Sanh ra đời được gặp Phật

2) Sanh ra nơi không các chướng nạn

3) Chánh tín Phật pháp

4) Ðủ chánh kiến thánh thiện. Ðó là bốn pháp.

Xá Lợi Phất, lại còn bốn pháp có thể tạo nên sự nghiệp. Những gì là bốn?

1) Bốn đại điều hòa làm cho thân thể an lạc

2) Có chánh kiến nên tâm được thanh tịnh chất trực

3) Thấy Phật phát niệm tin, vì người tạo nhân an lạc

4) Phát tâm vô thượng nên trừ được các phiền não của vô số chúng sanh. Ðó là bốn pháp có thể thành sự nghiệp.

Lại này Xá Lợi Phất, ở đời có bốn điều nguyện ước. Những gì là bốn?

1) Người bịnh héo hắt (lo sầu) mong được khỏi

2) Ðói khát dằn vặt mong được ăn uống

3) Khổ não bức ngặt mong muốn thoát ra

4) Kẻ đi đường xa mong được an ổn. Ðó là bốn điều mong ước.

Này Xá Lợi Phất, trong thế giới có bốn chỗ tham chấp, do tham chấp nên đọa vào đường ác. Những gì là bốn?

1) Một là tiếc thân mạng

2) Hai là muốn sống lâu

3) Ba là tham tư lợi, tài sản

4) Bốn là đắm mê sắc dục.

Ðó là bốn tham chấp.

Này Xá Lợi Phất, có bảy chỗ chứa gọi là chứa hơi, chứa sống, chứa chín, chứa lạnh, chứa nóng, chứa thấy, chứa dục; trong các chỗ chứa ấy, chứa dục là sâu thẳm hơn hết. Dục này nương vào gì? Dục đây nương nước mắt, nước bọt, đờm, dãi, mũ, máu, gân, xương, da, thịt, tim, gan, ngũ tạng, ruột già, bao tử, bàng quang (bọng đái)…

Lúc bấy giờ trong chúng có một người cư sĩ tên là Tuyển Trạch, có vợ tên là Diệu Sắc, diện mạo đẹp đẽ, hình dung đĩnh đạc. Cư sĩ luôn luôn yêu mến vợ nên phiền não dẫy đầy. Khi nghe Phật nói thế, liền bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn: đừng nói thế. Tâm dục chỉ khởi ở đường bàng quang. Tại sao? Vì vợ con đẹp đẽ không một vết nhơ nào cả. Phật biết ông cư sĩ tham đắm dục tình sâu nặng, tức thì hóa thành một phụ nữ đẹp đẽ nhan sắc giống như Diệu Sắc, khoan thai từ từ bước vào nhập chúng. Cư sĩ trông thấy nghĩ rằng, vợ ta tại sao vào trong chúng đây? Nghĩ xong bèn hỏi: có việc gì em lại tới đây? Ðáp rằng: muốn nghe đức Thế Tôn thuyết pháp. Cư sĩ liền vén y ngồi xuống. Phật dùng thần lực khiến cho người đàn bà vẩy phẩn dơ vào áo cư sĩ, làm ông ta không thể chịu nổi được mùi hôi thối, nên dùng tay bịt mũi ngoáy nhìn sang bên phải. Hỏi: người này là ai? Lúc đó ngài Bạt Nan Ðà ngồi bên phải, hỏi cư sĩ: tại sao ông bịt mũi nhìn tôi là nổi gì? Cư sĩ đáp: chỗ này thật là bất tịnh.

Phật dùng thần lực làm cho Bạt Nan Ðà và đại chúng trông thấy người đàn bà trây phẩn dơ trên áo cư sĩ. Lúc đó Bạt Nan Ðà bảo cư sĩ rằng, ông hãy xem vợ ông đang trây mùi hôi hám kìa! Cư sĩ đáp: tôi không tin điều đó. Vợ tôi sạch sẽ, thân thể không hề dơ bẩn. Nếu người nào nghi nên tự xét lấy; báo cho Bạt Nan Ðà biết, theo ý tôi thì chính ông làm dơ uế đó.

Lúc đó Bạt Nan Ðà phát cáu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bảo Tuyển Trạch: ông không biết hổ thẹn, ai cho tên ông là cư sĩ đa? Phải gọi ông là cư sĩ đái mế mới đúng! Tại sao không lấy tay lột áo trên của vợ ông ra? Lúc vợ ông ngồi đã có mùi phẩn xông lên rồi. Ông ngồi tiểu dải ra đó dơ dáy đã không biết xấu hổ, lại còn muốn vu khống cho người ta. Lúc đó trong chúng đồng hô to lên: ông cư sĩ đái mế này nên dan ra khỏi chúng. Họ chỉ vào ông mà bảo: người nhơ nhớp không nên ở trong chúng, rồi lấy tay lôi ông ra khỏi. Lúc đó Tuyển Trạch càng ngờ vực bảo vợ: tôi thương mến bà nên cho mặc y pháp. Bà là pháp của bậc đại nhân có xứng đáng làm vậy không? Vợ liền đáp: ông đại tiện ra đấy thì phải nhận chớ?

Lúc đó cư sĩ phát chán nãn muốn cởi bỏ áo dính phẩn để khỏi bẩn thân thể. Cư sĩ hỏi ngài Bạt Nan Ðà: có cách gì làm cho hết mùi hôi thối không? Bạt Nan Ðà nói: phẩn dãi không trực tiếp làm dơ uế thân ông mà có những thứ làm cho suy não từng phần thân thể. Nếu muốn xa lìa thì nên đi xa, vì vợ ông trây trắc phẩn làm cho đại chúng nhức đầu, phiền toái. Cư sĩ đáp rằng, các Ngài dòng họ Thích nên dũ lòng lân mẫn, các vị nở nào nặng lời như thế sao? Bạt Nan Ðà nói: như ông làm sao có thể thương xót được, lời Phật nói còn dám trái nghịch; ông cho vợ ông đẹp, không có điểm xấu nào. Nay ông nên tự xét việc tinh khiết không nên chê bai ta. Lúc đó cư sĩ gọi vợ bảo rằng, bà nên trở về đi, rồi xoay qua nói với Bạt Nan Ðà: tôi thấy rõ ràng, người đàn bà này ưa nịnh hót có quá nhiều lỗi lầm, bất tịnh không thể tưởng, nên tôi quyết lánh xa muốn theo Phật xuất gia làm đạo. Bạt Nan Ðà nói: hình thể ông đang nhơ nhớp thế kia, nếu dùng dầu thơm xoa phải trong nhiều năm, may ra mới có thể kham nổi việc xuất gia được. Cư sĩ trả lời rằng, nếu tôi bôi dầu thơm trong nhiều năm, cái thân vô thường hoặc Phật diệt độ mất có phải làm hỏng nhân duyên xuất gia cầu đạo của tôi không? Nay nếu thấy nghe mà được xuất gia tôi quyết không trở lại thành ấp, xóm làng nữa. Lấy tăng phòng, tịnh xá làm chỗ tịnh tu, đi xin ăn, mặc áo nạp (1), ở nơi vắng vẽ ai nghe biết tiếng xấu của tôi đâu.

Phật nghe thế bảo: này cư sĩ, ông muốn xuất gia theo giáo pháp của ta, phải không?

– Mong thay, đức Thế Tôn!

– Phật bảo: lành thay! ông muốn làm sa môn tu hành giới hạnh thanh tịnh, tức thì râu tóc cư sĩ tự nhiên trụi nhẵn, thân mặc áo ca sa (2), mang bình bát như hình dáng các thầy tỳ kheo.

Phật vì ông nói pháp: khổ, tập, diệt, đạo. Nghe được pháp tứ thánh đế cư sĩ được pháp nhãn thanh tịnh, chứng quả Tu Ðà Hoàn. Phật vì ông thuyết pháp giáo hóa, dần dần ông được quả Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, trãi qua đêm đó, ông mang y, cầm bình bát vào thành Vương Xá theo thứ lớp đi khất thực. Khi đến cổng chính, ông đứng bên ngoài. Lúc đó bà vợ Diệu Sắc trông thấy chồng mình cạo đầu, mặc áo tu, bà liền hỏi: ông theo đúng pháp xã bỏ tất cả để làm sa môn chăng? Tuyển Trạch đáp: hôm qua bà trây trét trên áo tôi đồ dơ uế làm bẩn cả thân tôi. Diệu Sắc nói: ông làm tỳ kheo mà đi vu khống người ta hả? Tôi từ nhà thân phụ đến nhà ông chưa thấy cửa ngoài huống gì đi tới Trúc Viên vào chỗ đại chúng?

Lúc bấy giờ tỳ kheo bảo Diệu Sắc rằng, có Bạt Nan Ðà là người trong đại chúng thấy và đuổi ta ra khỏi. Lúc đó có một ác ma theo sát Tuyển Trạch và bảo rằng, người ông thấy hôm qua đó không phải là Diệu Sắc đâu mà do sự biến hóa ra để mê hoặc tâm ông đấy, nay thì ông có thể trở lại vui trong ngũ dục. Sa môn Cù Ðàm (3) khinh dễ ông đến thế sao! Ông chỉ giả dối không phải là tỳ kheo thật. Sa môn Cù Ðàm thường dùng thuật này làm mê hoặc nhiều người, khiến người xuất gia như nay đang dối gạt ông đây. Tuyển Trạch tỳ kheo chứng được chân pháp nên biết ma hiện ra, liền bảo ác ma: ngươi biến hóa, ta cũng biến hóa, Diệu Sắc đây cũng đều biến hóa. Phật thuyết pháp không có biến hóa.

Lúc bấy giờ Diệu Sắc nghe pháp xong liền xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, dứt hết nghi ngờ, không tin theo lời khác, ở nơi Phật pháp được sức vô úy, nói với Tuyển Trạch: thật lành thay! Nay đối với Phật pháp, muốn tu phạm hạnh, nên tôi cũng muốn xuất gia hành đạo.

Phật bảo Xá Lợi Phất rằng, nếu người phát tâm cầu đạo Bồ Ðề phải xa lìa bốn pháp. Những gì là bốn?

1) Xa lánh bạn bè phe nhóm ác, và những người ác tri thức, không có hạnh lành. Ðó là pháp đầu tiên phải nên xa lánh.

2) Người phát tâm cầu đạo Bồ Ðề phải nên xa lánh không nên đắm mê nữ sắc, không làm việc chung đụng với người đời. Ðó là pháp thứ hai phải nên xa lánh

3) Người phát tâm Bồ Ðề phải xa lánh sách luận ngoại đạo, sách về lõa thể, sách của phái Lộ Già Da (4), Mạt Già Lợi… không phải là những lời Phật nói, không nên gần gủi, nghe nhận, đọc tụng. Ðó là pháp thứ ba cần phải xa lánh.

4) Nếu người phát tâm cầu đạo vô thượng không nên gần gủi tà kiến, ác kiến. Ðó là pháp thứ tư cần phải xa lánh.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai không thấy có pháp nào khác ngăn trở lớn Phật đạo bằng bốn pháp này. Vì thế Bồ Tát phải nên xa lià. Xá Lợi Phất, nếu muốn chóng đạt được đạo vô thượng Bồ Ðề phải tu bốn pháp. Những gì là bốn?

1) Bồ Tát nên theo thiện tri thức, vì bậc thiện tri thức ấy chính là chư Phật. Nếu Thanh Văn làm cho Bồ Tát trụ trong pháp thâm sâu của trí huệ, cũng là thiện tri thức của Bồ Tát, nên gần gủi, kính lễ.

2) Bồ Tát nên thân cận người xuất gia, cũng như nên gần gủi pháp vắng lặng

3) Nên lìa xa nữ sắc

4) Phải nên thân cận tu tập pháp không, chánh kiến, xa lìa tà kiến.

Xá Lợi Phất, nếu chư Bồ Tát muốn chóng đạt được vô thượng Bồ Ðề phải thân cận bốn pháp như thế.

Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Xa lánh hẳn người nữ

Và cả tri thức dữ

cũng xa luận ngoại đạo

Tà kiến tránh xa ráo.

Nếu gần gủi người nữ

và kẻ tri thức dữ

Xét luận ngoại đạo nữa

tà kiến hẳn tăng trưởng.

Vì tà kiến bám vướng

đọa ác nạn lẽ thường

Tám nạn (5) khó lìa được

cũng khó tin Phật pháp.

Như người ưa làm ác

nên chuyên tạo ác hạnh

thì ác thú chuyển sanh.

Người cầu đạo hiểu rành

nữ sắc chớ có gần

phải xa lánh thì hơn;

Quán xét như chuồng heo.

Ác tri thức chớ theo

rơi vào nơi phi pháp.

Nếu làm điều xấu ác

khiến niềm tin người mất.

Nếu ngoại đạo ưa gần

bọn Ni Kiền luận sư

lời lẽ tuy nghiêm từ;

nhưng chứa bao ác sự.

Quyết xa lìa chúng dữ

thì tránh khỏi tà sư.

Ta nói bốn pháp như

lại qua bờ sanh tử

đoạn lìa pháp tệ hư.

Tập gần hạnh khiêm từ

như ta trong quá khứ

thực hành pháp chân như.

Xuất gia phạm hạnh giữ

thiện tri thức gần gũi.

Chư đệ tử, Phật lực

khiến ta nương Phật đức

thường tu hạnh “không nhàn”

trống vắng và rãnh rang.

Tuy thực hành pháp không

mà chẳng chút bận tâm

như pháp và sở đắc

cả hai chẳng phải không

ấy thật là “chân không”

Thế gian khó đo cùng

ta vì Phật đạo dùng

các pháp thông tu tập.

Pháp thông thật tinh vi

trí phàm phu khó bì.

Lúc ta cầu Bồ Ðề

kinh pháp đều được nghe

trong tâm tự nghĩ suy

chẳng theo tà thuyết khác.

Ta tự hiểu thấu đạt

diễn nói nhiều người khác

ấy là đạo chánh chân.

Không, vô ngại, tịnh thanh

trong không, chẳng có sanh

và già cũng không thành.

Trong không cũng chẳng tử

ấy là tướng thường trụ

và là pháp thật tướng

đạo mầu thấu triệt được

dẹp phá chúng ma binh

được đạo quả vô sanh

Ðem chỗ ta đắc pháp

ra diễn nói cho người

chứng đạo vô thượng rồi,

thì không còn chuyển tướng.

Nếu muốn đạt Phật hướng

và ngồi tòa đạo tràng

phá dẹp chúng ma vương

tu pháp quán “không” thường.

Nếu có người muốn chuyển

pháp luân vô thượng truyền

Ðộ chúng sanh vô biên

nên học pháp không huyền.

Muốn nương mười lực Phật

vô sở úy bốn bậc

như tiếng sư tử rống

phải học các pháp không.

Muốn nghe nhiều hiểu rộng

truyền bá khắp mười phương

chính tâm tu tập thường

hiểu rõ pháp không nương

Chư Bồ Tát bậc trí

theo học pháp không tướng

đạt Bồ Ðề vô thượng

bậc trí tuệ cao vọi,

Tỳ kheo ni, tỳ kheo

nếu theo học hạnh ta

cũng chứng đắc đạo quả,

như ta chẳng lạ xa.

Chẳng phải hai chúng đây

tu hành pháp ‘không’ nầy

mà tất cả chúng sanh

Phật đạo được viên thành.

Ta vào thẳng đạo tràng

tu tập pháp không nhàn

hiểu rõ tướng thế gian.

Chứng vô thượng chánh giác

nhờ tu hành đúng pháp

nên được trí vô ngại

Chư Phật chứng chân đạo

do tập hạnh ‘pháp không’

Chư Bồ Tát một lòng

vì lợi ích chúng sanh

nên phải học pháp tông

gọi là các ‘Pháp Không’

Này Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát còn có bốn pháp đời đời chuyển thân sanh ra không mất chánh niệm theo đúng pháp tu hành. Ðối với các pháp có tâm quyết định được biện tài vô ngại, luận giỏi, luận sâu và biện bác tuyệt luân. Chư Phật biết rõ nên gia trì thần thông lực cho đời sau được ủng hộ Phật pháp. Những gì là bốn?

1) Thường ưa xuất gia đời đời tu tập pháp xuất thế, vì lợi ích chúng sanh. Tâm cầu pháp không chán, thuyết pháp không hề mỏi mệt. Tu pháp không nương vào các tướng hoại diệt. Thường tinh tấn tu niệm Phật tam muội, ở trong mọi duyên mà không tranh luận. Ðó là pháp thứ nhất không mất chánh niệm.

2) Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát tự cầu Phật đạo, nhiếp hóa chúng sanh khiến trụ trong giáo pháp, thường hay tán dương công đức chư Phật. Ðó là pháp thứ hai không mất chánh niệm.

3) Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát đạt được pháp vô sanh vi diệu. Ðó là pháp thứ ba không mất chánh niệm.

4) Bồ Tát lúc mạng chung tâm không tán loạn, thường niệm Phật và các pháp nhiệm mầu. Ðó là pháp thứ tư được pháp nhẫn vi diệu không mất chánh niệm.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Bồ Tát hằng cầu pháp

pháp bố thí rộng khắp.

Vì thế trong các pháp

chánh niệm trọn không mất.

Vô số chúng độ tận

khiến trụ nơi đạo Phật.

Ðời đời lúc chuyển thân

chánh niệm thường chẳng mất

xưng tán được gần Phật

vắng lặng pháp thậm thâm.

Vì thế Bồ Tát chúng

được pháp ‘vô sanh nhẫn’;

cũng chẳng tưởng ‘vô sanh’

Vô sanh tức không sanh

do tu pháp ‘nhẫn’ thành

nên chẳng mất niệm chánh

Hàng Bồ Tát bậc trí

chẳng tán tâm lúc mất

thường chuyên niệm hiệu Phật.

Nhiệm mầu trong Phật pháp

người kia lúc hối hấp

tâm tư không lui sụt;

đời đời chuyển đổi thân

chánh niệm vẫn hằng còn.

Vì thế nếu có người

muốn thành đạo chánh chân

tu tập phải nhất tâm

như bốn pháp trên đây

là pháp hay bậc nhất

xưng tán từ chư Phật.

ta cũng ngợi khen thật.

Các vị phải tu tập

là niệm Như Lai pháp.

Tất cả vì lợi ích

đại chúng Phật diễn thuyết

chẳng riêng diễn cho ai.

Nếu ông cầu Phật trí

phải tu pháp Như Lai.

Tu học đạo nhiệm mầu

từ đây sanh Phật tuệ.

Người nào tâm biếng trễ

ý định lui ngưng trệ

trọn chẳng nên Phật đạo

phải tránh xa việc hão…

Nương tâm ta người nào

không theo chúng sanh tưởng.

Nếu dựa pháp bám nương

thành Phật khó mong được.

Phải lìa tâm kia trước

Tu tập pháp không tướng

diệt hết thảy loạn tưởng

trí sâu muốn đạt được

cũng chớ có dựa nương

nương tức loạn động vướng.

Vì ưa pháp như thế

qua lại trong tử sanh.

28. Phẩm Thần Diệu Thứ Hai Mươi Tám

Phật bảo Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp có thể đạt được tất cả pháp vi diệu. Những gì là bốn?

1) Như người phát tâm Ðại Thừa, thấy pháp sắp diệt, vì muốn cho tồn tại lâu dài nên phải có sự nỗ lực tinh tấn cầu pháp không biết mỏi mệt. Hoặc thấy chùa tháp Phật bị hư hại cần nên sửa sang lại để được lâu dài. Vì mến giáo pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thấy chúng sanh đau khổ sanh lòng đại bi, thực hành tinh tấn, phát nguyện thế này: lúc nào còn tu tập Phật đạo phải thuyết pháp để trừ diệt mọi nổi thống khổ.

2) Ðại Bồ Tát cầu pháp không chán. Vì cầu pháp nên phát tâm sâu xa để đạt được điều nguyện mong muốn. Ðại Bồ Tát vì cầu đại trí nên có uy đức vô cùng, phá tâm kiêu mạn. Ðại Bồ Tát ở trong chúng sanh làm hạnh từ tâm. Vì muốn làm lợi ích nên nghĩ rằng: những chúng sanh này không ai cứu giúp, duy chỉ một mình ta. Ðại Bồ Tát vì không sân hận, nên tu pháp đại bi. Ðại Bồ Tát vì không ganh ghét, làm cho chúng sanh được chân trí huệ. Ðại Bồ Tát, vì không keo kiệt nên thường đem pháp hóa độ chúng sanh. Ðại Bồ Tát là người đại thí nên đem thâm tâm vui trong Phật đạo. Ðại Bồ Tát đối với các pháp tâm không tham chấp. Ðại Bồ Tát là người khéo nói, nét mặt hòa vui, thường hay mỉm cười, nên thấy chúng sanh đau khổ lại càng tinh tấn hơn. Ðại Bồ Tát mến ưa Phật pháp. Ðại Bồ Tát không hề sợ sệt, trong đại chúng oai như sư tử gầm. Ðại Bồ Tát vì không khiếp hãi nên duy trì được Phật pháp. Ðại Bồ Tát thường cần tinh tấn, tu tập các căn lành. Ðại Bồ Tát trong các xứ sở, thành ấp, xóm làng không bị vướng buộc. Ðại Bồ Tát thường phải giáo hóa tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới. Ðại Bồ Tát thông minh trí tuệ, thấu triệt các pháp. Ðại Bồ Tát cầu nghĩa chân thật để suy lường vạn pháp. Ðại Bồ Tát trong Phật pháp muốn thấu rõ nghĩa chân thật để tự cầu chứng vô thượng Bồ Ðề. Ðại Bồ Tát là người giác ngộ, khéo biết thời cơ giáo hóa chúng sanh.

3) Ðại Bồ Tát vì pháp phá vỡ những luận thuyết ngoại đạo. Ðại Bồ Tát trong tất cả các pháp là nghĩa quyết định. Ðại Bồ Tát vì Phật pháp. Ðại Bồ Tát vì ruộng phước để phát sanh pháp bảo. Ðại Bồ Tát như đại dương dung nhận được hết mọi vật. Ðại Bồ Tát như núi Thiết Vi ngăn che gió phiền não của vô số chúng sanh. Ðại Bồ Tát như nước đại dương, nói pháp không cùng tận. Tâm Ðại Bồ Tát thuần tịnh bao la như hư không. Ðại Bồ Tát là người vô tận sánh bằng hư không. Ðại Bồ Tát như núi Tu Di chứa các pháp lành. Ðại Bồ Tát như đất bằng nhận hết mọi ghét thương. Ðại Bồ Tát như ruộng tốt chứa hạt giống lành không để rơi rớt. Ðại Bồ Tát như mặt trời cho chúng sanh ánh sáng Phật pháp. Ðại Bồ Tát như ánh trăng thanh quét sạch hết mọi tối tăm. Ðại Bồ Tát như cây dù lớn che chở các sự dâm, giận, si, phiền não của chúng sanh. Ðại Bồ Tát như mây phủ làm an ổn hơi thở chúng sanh. Ðại Bồ Tát như cây đại thọ làm chỗ hướng về của chúng sanh. Ðại Bồ Tát làm người cứu độ thế giới, kẻ nương về, chỗ nương tựa, người thí không sợ. Ðại Bồ Tát là thầy của thế giới, trong mọi kỹ thuật đều thông suốt hết. Ðại Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh nên ban cho Niết Bàn an lạc đời này và đời sau. Ðại Bồ Tát vì thế mà tất cả chúng sanh đều nên kính lễ.

4) Nếu chúng sanh biết Bồ Tát vì các hạnh khổ khó làm như thế mà thay cho để gánh vác, vì nhân duyên cầu được an lạc. Như ta biết các chúng sanh ấy đáng được đội trên đầu hoặc vác trên vai. Từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, trong thời gian đó, tất cả chư thiên các cõi và loài người có những đồ dùng tốt nên đem cúng dường; cũng như thường đội họ trên đầu, không để đi dưới đất. Hoặc Bồ Tát ấy lúc đến đạo tràng nên đem đồ mặc tuyệt đẹp, hoặc dùng thiên y hình hoa sen rực rỡ trãi lên tòa cao cho tới đỉnh đầu, hoặc lấy áo thiên bảo che chở nắng gió. Khi đạt được đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, dùng hương hoa, tràng phan, ca nhạc, cũng như tự đích thân hầu hạ cung phụng. Những chúng sanh như thế đều đáng tôn kính cúng dường, vì không thể nào báo ân Bồ Tát hết được. Tại sao thế? Vì Bồ Tát ban cho chúng sanh đạo vô thượng an lạc, vô lậu thanh tịnh.

Này Xá Lợi Phất, đem cái dục lạc thế gian sánh với cái vui này trăm phần nghìn phần, trăm nghìn vạn phần không bằng một phần, cho đến dùng thí dụ cũng không thể sánh kịp. Tại sao? Vì chúng sanh cung cấp cho Bồ Tát những đồ dùng đều là của thế gian hữu lậu, hư dối, vô thường, biến hoại. Bồ Tát đã ban cho chúng sanh cái vui xuất thế vô lậu chân thật, không giận, không phiền, vô lượng, vô hạn rốt ráo thường lạc. Vì thế, Xá Lợi Phất, ông nên biết, chúng sanh đem tất cả đồ ưa thích cúng dường Bồ Tát cũng không thể báo ân được. Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát trong đám người ngủ mê mà làm kẻ giác ngộ; chỗ bọn phóng đảng làm người tinh tấn, nơi bọn cuồng loạn thường tu chánh niệm. Ở chỗ đám mù tối cho ánh sáng, giữa những người bịnh hoạn làm bậc đại y vương, trong bọn tà kiến, làm người chỉ rõ con đường ngay, nên đối với những chúng sanh chưa khởi thiện pháp làm cho phát khởi pháp lành. Ðối với những chúng sanh chưa tăng thiện pháp làm tăng pháp lành.

Xá Lợi Phất, nói một cách vắn gọn, không người nào có thể vì chúng sanh làm kẻ để chúng hướng về, kẻ cứu độ; người dẫn tới con đường cứu cánh. Chỉ có chư Phật, Phật pháp, pháp Như Lai, pháp tự nhiên không thể từ bên ngoài mà có, mà tất cả đều do Bồ Tát đạo phát sanh.

29. Phẩm Thuận Nghịch Thứ Hai Mươi Chín

Lúc bấy giờ Xá Lợi Phất bạch Phật rằng, hy hữu thay Thế Tôn! Bồ Tát đạo vi diệu vô cùng, nên có thể tự thanh tịnh và làm cho chúng sanh thanh tịnh. Như đức Thế Tôn ở cung trời Ðao Lợi cùng với những cây ba lợi chất đa, cây câu tỳ la nở hoa thoảng hương thơm đẹp, cũng như làm đẹp cho chư thiên cõi Ðao Lợi. Bồ Tát cũng như thế, đầy đủ Phật pháp, vì chứng được vô thượng Bồ Ðề nên tự trang nghiêm, cũng như làm chỗ nương tựa hướng về cho vô số chúng sanh, chứng quả Thanh Văn được năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chánh đạo, thiền định, nhờ đó được an lạc, giải thoát. Cũng như các cây kia trổ hoa trãi khắp chư thiên cõi trời Ðao Lợi để tự làm tươi đẹp.

Bạch đức Thế Tôn, tại sao có những người trí không nương theo thừa này? Chỉ vì chúng giải đãi (lười biếng) tin theo lời lẽ ngoại đạo, nên lúc nghe pháp sanh tâm an lạc rồi tự cho là đã được an lạc. Nay biết ra họ không có năng lực có thể làm cho một người ở trong trung đạo (6). Bạch đức Thế Tôn, con từ nay đã có chỗ thuyết pháp, trước nói Bồ Tát thừa, rồi sau nói các thừa Thanh Văn khác. Tại sao? Vì như thế là con muốn báo ân Phật, có thể làm cho một người phát tâm vô thượng mau thành chánh giác.

Phật bảo Xá Lợi Phất, lành thay, lành thay! Nay ông phát tâm như thế là muốn nói pháp Ðại Thừa giáo hóa hàng Bồ Tát. Tại sao? Vì trong đời vị lai phần nhiều người hay khinh thường pháp Ðại Thừa này. Như thế không có người tin nhận các kinh điển. Này Xá Lợi Phất, lúc bấy giờ trong đời, nếu có người thiện nam thiện nữ nào muốn cầu thiện pháp phải suy nghĩ chân chánh, y nghĩa, y giáo pháp, chớ y theo người. Tại sao thế? Vì lúc bấy giờ trong đại chúng không có người hành đạo, chỉ có chúng Thanh Văn tu hành, không khinh hủy pháp Ðại Thừa, huống gì là còn sanh tâm phản nghịch kinh pháp vi diệu, là những lời chư Phật nói. Tại sao? Nếu phản nghịch thị phi là tạo nghiệp, mà đã tạo nghiệp thị phi là nghiệp của phàm phu, không phải nghiệp của kẻ trí. Xá Lợi Phất, vì thế ông nên học cách tạo nghiệp của người trí; xa lánh nghiệp của phàm phu. Nếu có tỳ kheo lấy ta làm thầy thì nên làm theo như thế. Xá Lợi Phất, nếu ở đời sau có người cầu Phật đạo, thâm tín tu hành nhứt tâm tinh tấn, biết hổ thẹn, muốn cầu thiện pháp, hoặc bị người khinh chê nói rằng: ông là kẻ lười biếng không làm nên được trò gì. Trong hiện đời không thể làm được sa môn,vì thọ năm món dục nên làm được quốc vương, hiện thực hành pháp môn tự cho là Bồ Tát, nhận kẻ khác tán dương cung phụng. Những kinh pháp Ðại thừa như thế, Phật không cho đây là của người hành đạo.

Này Xá Lợi Phất, xét về người ngu đem chuyện nhỏ nhặt khinh hủy ta, ta cho kẻ ấy là chân hành giả, vì y lấy phải làm trái. Như Như Lai nói, người có hạnh tối thắng thì được giải thoát cũng tối thắng; còn người lấy thị phi làm điều thì không thể nào giải thoát được. Xá Lợi Phất, lúc đó có một người cư sĩ, vì đệ tử hắn tin theo lời Phật dạy, thấy chư Bồ Tát, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đọc tụng, tu tập các kinh điển nên sanh tâm thù oán. Xá Lợi Phất, người ngu ấy thì làm sao có thể giữ giới được. Như trong kinh ta đã nói, thấy cây cao vòi vọi như người không nên sân, huống gì là người hiểu biết. Người ác như thế ưa ôm lòng sân giận. Xá Lợi Phất, ông chớ xét thời thế đảo điên rồi tưởng pháp là phi pháp, hoặc phi pháp là pháp; thiện cho chẳng thiện, chẳng thiện cho là thiện. Trong khi thực hành tưởng chẳng thực hành; chẳng thực hành tưởng là thực hành. Trong giải thoát tưởng chẳng giải thoát, chẳng giải thoát tưởng được giải thoát. Nên biết rằng kẻ ấy không thể gọi là hành giả, cũng không thể gọi là người giải thoát. Vì không hiểu pháp, cũng như không biết điều thiện, nên không thể theo kịp những lời Phật dạy. Người si mê như thế bị sân hận làm mờ tối, bị tham lam, ganh ghét ngăn che, tự đề cao mình mà nhục mạ người. Bị tham giận, ngu si làm hại, nhiễm sâu điều ác, xa lià việc thiện.

Này Xá Lợi Phất như ta đã nói, lỗi lầm của người này cứ tiếp tục gia tăng nghiệp tội không thể cứu chữa được. Phải xa lánh người ngu như tránh trâu điên vậy. Xá Lợi Phất, Như Lai là thầy kẻ nào biết tàm quí, không phải kẻ không biết hổ thẹn; thầy người tin thọ, không phải với kẻ không tin. Thầy thuận giáo pháp, không phải kẻ phá hoại Phật pháp; thầy của người tinh tấn, không phải của kẻ biếng lười. Thầy kẻ nhiếp tâm, không phải của người loạn tưởng, thầy kẻ trí, không phải của người ngu si…

Xá Lợi Phất, người ngu si như thế chẳng phải đệ tử ta, ta cũng không là thầy hắn. Ông xem người ấy đối với Phật quả – trí tuệ Như Lai – phải tu trong bao nhiêu lâu? Phải tu học dài lâu mới đạt đại trí huệ, thành đạo vô thượng, tức là đem pháp này giảng cho Bồ Tát, nghĩ thế này: nếu có Bồ Tát theo học pháp ấy, tu tập trí huệ Phật, nên chóng đạt được đạo vô thượng Bồ Ðề để cứu độ chúng sanh thoát ly sanh tử, không đoạn mất Phật chủng. Như Lai cũng tôn trọng pháp này, còn người ngu khinh hủy không tin, thật là điều bất thiện trong những bất thiện. Ðó là điều khó nên các thầy phải nương pháp thực hành, chớ nương tựa vào người mà nên tự nương mình, đừng dựa vào kẻ khác. Xá Lợi Phất, đó là giáo pháp của Như Lai. Tại sao tỳ kheo phải y pháp thực hành mà không y người? Phải tự nương mình, không nên dựa vào người khác. Xá Lợi Phất, tỳ kheo phải biết xa lià, tùy thuận Niết Bàn, tu bốn niệm xứ. Sao gọi là niệm xứ? Vì thân thọ nhận, tâm nghĩ tưởng không xa lìa. Lại này Xá Lợi Phất, như thật thấy pháp thì không có tánh sở hữu. Trong các pháp giữ chánh niệm không sai lầm nên gọi là niệm xứ. Ấy là tỳ kheo nương theo pháp tu hành mà không dựa vào người khác; thường tự nương mình, chứ không dựa vào người. Xá Lợi Phất, nếu tu tập pháp niệm xứ như thế thì dứt trừ được tham chấp, gọi là bậc A La Hán, bậc lậu tận, kẻ không còn phiền não; người làm ruộng phước cho đời. Kẻ tự tại, người không nhiễm ô, gọi là bậc trí, kẻ tới bờ giác ngộ, là thầy dẫn đường, là Bà La Môn… Xá Lợi Phất, bậc A La Hán lìa tất cả ác, những pháp bất thiện, không ưa pháp hữu vi, diệt trừ ác nghiệp không cho phát sanh. Xá Lợi Phất, nếu A La Hán tạo nghiệp tội phước thì không có lẽ đó. Tại sao? Vì A La Hán đã xả ba món tham cầu (7) đổi thành chín việc thiện (8), nên đối với các pháp tâm không chấp trước; vượt khỏi cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, không khát ái, không giận, không phiền, tâm thanh tịnh như hư không, gọi là A La Hán. Xá Lợi Phất, gọi là kẻ lậu tận. Trong các pháp những phiền não đã dứt sạch không còn sót lại, đạt được rốt ráo không còn bị kết buộc. Tâm bậc A La Hán bản lai vốn không, vô cấu thanh tịnh, không bị nhiễm ô. Ở trong sáu trần (9) hoặc tốt, xấu, chê, khen, tâm không đổi khác, vì đã dứt trừ mọi hý luận. Kẻ làm ruộng phước cho đời, vì đã trừ hết phiền giận hay ban cho người pháp thanh tịnh bậc nhất. Gọi là người tự tại, vì thấy được mọi pháp đều không, không sở hữu. Trong pháp không ấy mà đạt đến giác ngộ, lìa mọi luận bàn hư vọng. Gọi là người Bà La Môn tự tại ngăn che các pháp ác, lìa tất cả mọi pháp không bị nhiễm ô. Là bậc đạo sư hay vì người mà thuyết pháp, dứt trừ sanh tử. Là kẻ trí, người biết nghiệp duyên, quả báo cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc đều do hư vọng, phân biệt mà sanh; ở trong đó mà được giải thoát. Là kẻ trí, người đến bờ kia, phá trừ ma chướng và, các kết buộc, đạt đến các pháp giải thoát, ra khỏi bùn lầy, yên ổn trên đất bằng, vì thế nên gọi là người đã đến bờ giác ngộ. Xá Lợi Phất, Như Lai có thể theo chỗ lậu tận của A La Hán có phước đức mà nói pháp không tăng không giảm, làm ruộng phước cho A La Hán, không còn xấu ác, cũng không bị hoạn họa và các chướng nạn. Xá Lợi Phất, nếu có người hủy báng bậc lậu tận A La Hán cũng không khởi nghĩ rằng, người này mắng ta; hay có kẻ xưng tán cũng không nghĩ, người này khen ta. Không còn niệm phân biệt, không có điểm nghi ngờ, khéo nhiếp phục sáu căn, trụ trong thiền định. Nương theo pháp thực hành, không nương theo người; nên tự nương mình, không nên dựa vào người khác. Vì thế Xá Lợi Phất, người thực hành như thế quyết không đi ngược lại đạo giác ngộ chư Phật, cũng không phải là người tạo nghiệp. Như thế chẳng là chỗ chê trách của người tu phạm hạnh, cũng như ra sức ủng hộ đạo pháp của chư Phật làm cho tồn tại lâu dài. Xá Lợi Phất, bậc A La Hán trong các pháp, tâm không nghi ngờ. Những việc làm đã xong, trụ trong chánh đạo. Xá Lợi Phất bạch Phật, bạch đức Thế Tôn: bậc A La Hán không đi ngược lại mà trụ trong Phật pháp. Vì sao? Vì nếu kẻ đi ngược lại là chỗ làm của phàm phu, không phải của bậc A La Hán.

Phật bảo: như thế Xá Lợi Phất, ngược lại giáo pháp chỉ có kẻ phàm phu làm vậy, còn người trí thì không làm thế. Như Lai vì đời sau có những tỳ kheo niên trưởng, hiểu biết nhiều, tâm được an trụ, xúc cảnh mà vẫn xa lánh, không gần gủi nữ sắc, nên tự cống cao cho rằng, ta là bậc A La Hán. Khiến trong đại chúng có nhiều người tin rằng, đó là A La Hán nên tôn kính cúng dường người ngu kia. Vì tham danh lợi nhận của cúng dường, tự dối cho rằng mình có phép A La Hán, không còn bị các kết sử (10) buộc nữa. Người kia chẳng biết, cũng không phân biệt được pháp, chỉ phân biệt theo niệm vui thích, lấy việc kết hợp hơi thở mà cho là đắc đạo. Như khi vào xóm làng giữ gìn oai nghi, còn ở chỗ chung đụng khác lại tự phóng túng (11), ỏ giữa đại chúng cũng làm bộ khác thường. Người kia thích trưởng dưỡng nhiều đệ tử, những kẻ có tri thức như quốc vương, đại thần đều muốn được họ cung phụng; tên tuổi đồn rộng được nhiều người nể kính. Các kết buộc dẫy đầy mà vẫn tự cho rằng không có ràng buộc kết chặt. Ðược nghe những kinh điển mầu nhiệm thích ứng giáo pháp như thế, những đệ tử quí của ta nên mến trọng chú ý lắng nghe thọ trì, mong thấu đạt nghĩa thú, rồi tôn kính tu hành pháp ấy. Còn người ngu thì ngược lại, không tin nhận lại cho rằng, đây không phải là lời Phật nói, chẳng phải của bậc đại sư dạy; không có pháp, chẳng có thiện. Ở trong giáo pháp mà cứ tưởng là phi pháp, trong phi pháp tưởng là pháp. Trong pháp bất thiện nghĩ là thiện, trong pháp thiện tưởng bất thiện.

Xá Lợi Phất, người ngu như thế theo chỗ hiểu pháp nên tự khen mình, chỗ không hiểu tự khinh rẽ, tự đại cống cao, khi dễ người khác. Người ngu như thế chỉ có trì giới nhiếp tâm một chỗ để dần dần nhiếp phục ác tâm thì nên đọc tụng, nghe nhiều… Nuôi nhiều đệ tử được người tôn trọng, khen ngợi, hết lòng kính phục lại sanh tâm kiêu mạn, ngã mạn, thượng mạn. Tùy chỗ nghe các kinh thâm diệu ấy mà khởi tạo các trọng tội.

Người ngu không biết mình có tội kiêu mạn sâu dày, tâm cứ ngu muội, đi ngược với kinh điển, nên khởi tạo các trọng tội (12) phải đọa vào đại địa ngục.

Chú thích:

(1) Áo nạp: áo chắp nhiều mãnh vãi ráp lại. Chiếc áo (hậu) của thầy tỳ kheo do nhiều mãnh vãi kết thành để cho không còn đẹp xinh nữa, tức là làm áo biến màu đi cho dễ việc tu hành, không bị quấy rầy.

(2) Cà sa: áo cà sa của tăng sĩ Phật giáo. Có ba loại: tăng già lê hay đại y gồm có 9 điều, 12, 17, 21 và 25 điều, uất đa la tăng là y 7 điều và an đà hội hay còn gọi là hạ y, tức y 5 điều.

(3) Cù Ðàm: hay Cồ Ðàm là một tên khác của đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế, chúng đệ tử xưng Ngài là sa môn Cù Ðàm.

(4) Phái Lộ Già Da, dịch nghĩa là thuận thế, một phái ngoại đạo có từ thời đức Phật, có nghĩa là thuận theo thế tục, nên không được xuất thế giải thoát.

(5) Tám nạn: tám thứ nạn chẳng may rơi vào trong đó là: 1) địa ngục, 2) ngạ quỉ, 3) súc sanh, 4) Bắc Cu Lô châu (vì sung sướng quá nên không tu hành được), 5) Cõi trời trường thọ, 6) đui, điếc, câm ngọng (manh, lung, ám á), 7) thế trí biện thông (thông minh biện bác theo thế gian nên không thể tu hành được), 8) sanh ra đời trước và sau Phật (cả hai thời kỳ ấy đều khó tu hành).

(6) Trung đạo: (midle way) là đạo lý trung dung không nghiêng lệch về một bên, nên không thái quá, chẳng bất cập. Chỉ có Phật giáo chủ trương như thế, là con đường đưa tới chân lý cứu cánh, giải thoát.

(7) Ba món tham cầu hay ba nhu cầu tất yếu của người đời là: ăn, mặc và chỗ ở. Người tu phải biết đủ về ba món này.

(8) Chín việc thiện hay chín điều lành do ba nghiệp: thân, khẩu, ý phát khởi. Thân có ba: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, khẩu có bốn: không nói dối, không nói lời trau chuốt, không nói đòn xóc nhọn hai đầu, không buông lời độc ác, chửi mắng, ý có hai: không sân và không si.

(9) Sáu trần: sáu cảnh sắc bên ngoài như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp hợp với 6 căn giúp ta phân biệt được sự vật dễ dàng.

(10) Kết sử hay kiết sử: những phiền não ràng rịt đan bện chặt lâu đời trong tâm tưởng chúng sanh khó mà cùng lúc dứt bỏ hết được.

(11) Phóng túng: buông lung quá đà, chỉ người không giữ giới dễ bị lôi cuốn bởi đời sống vật chất hào nhoáng bên ngoài.

(12) Trọng tội: tội nặng, tội sâu dày khó có thể giải kết được.

***

30. Phẩm Bất Thối Chuyển Thứ Ba Mươi

Phật bảo Xá Lợi Phất, nay Như Lai phải trừ nghi cho các vị, cũng như khiến người đọc tụng, diễn nói, thọ trì kinh này trong tương lai đều dứt hết nghi ngờ.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai là bậc trí sâu thấy rộng, là kẻ thuyết đạo, không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng hiểu, nên thấu suốt rõ ba đời không còn ngăn ngại. Xá Lợi Phất, Như Lai là bậc không ai sánh bằng, trong các pháp đều giải đúng, tự nhiên, tự tại không cần thầy. Nay Như Lai muốn vang lên tiếng gầm sư tử giữa đại chúng, để cho người ngu hành pháp tà đạo biết, chẳng cần nói rộng. Như có người thiện nam thiện nữ phát tâm vô thượng Bồ Ðề, ở trong giáo pháp ta phải nhất tâm thực hành. Tại sao? Phải nghĩ thế này: chư Phật đã tu tập pháp vô thượng Bồ Ðề trong vô số kiếp. Trong các pháp ấy nếu ta sanh tâm giải đãi thì chắc không thể tin; còn như đi ngược lại không thọ trì, thì không hiểu biết. Này Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hành bốn pháp sau là làm hủy hoại đạo vô thượng của chư Phật. Những gì là bốn?

1) Xa lánh bạn lành, tiếp xúc thân cận bọn ác tri thức, theo chỗ học mà phá pháp Ðại Thừa .

2) Bồ Tát có sở đắc, thấy được thân tâm mình, nghe kinh sâu mầu bèn sinh ra khiếp sợ, nên đọa vào đại địa ngục.

3) Bồ Tát học kinh luận phức tạp của ngoại đạo, giỏi việc tranh luận, được nhiều người tôn kính; không điều phục được tâm, cũng không điều phục được pháp. Vì không điều phục được nên không thực hành pháp Ðại Thừa.

4) Bồ Tát phá hủy các giới cấm Phật chế không theo kịp nổi. Nghe những giới thanh tịnh vi diệu tuyệt vời ấy tâm không hiểu thấu nên không tin; ngược lại, không thọ trì.

Bồ Tát bị bốn pháp ấy nên không thể tin thọ, còn làm phá hủy đạo Bồ Ðề. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nếu gần ác tri thức

làm theo chúng thất đức

nên không ưa Phật pháp

hủy diệt đạo vô thượng.

Học kinh điển ngoại đạo

ưa giỏi việc tranh luận.

Nếu có kẻ phát ngôn

đều là bọn phá hoại.

Dù tự xưng người trí

kỳ thật lại ngu si.

Nhân duyên đó là vì

không tin đạo Bồ Ðề.

Như người tham chấp ngã

theo chỗ hiểu biết đã

nghe pháp nhiệm mầu này

sanh tâm sợ hãi ngay;

chẳng hiểu một mảy may:

pháp thật không, tịnh thảy.

Không hiểu Bồ Ðề đạo

nên không niệm tin tưởng.

Do vì phá giới tướng

nên tạo nghiệp tội chướng

không thể theo học được,

những giới cấm Phật lược.

Ác khẩu và lưỡng thiệt

ưa nêu lỗi của người.

Kẻ bất thiện dẫy đầy

không ác nào chẳng tạo;

vì thế nên tránh xa.

Ðạo Bồ Ðề thiết tha

thuận pháp ta xưng tán

học tu chuyên tinh tấn.

Như người muốn thấy Phật

muốn hiểu pháp như thật

nên giữ giới cẩn mật

từ đó được trí Phật.

Nếu người tịnh giới luật

tâm Bồ Ðề cao tột

do giữ giới tịnh thanh

hay diệt ác quán lành.

Nên người cầu đạo giác

phải tịnh tu giới luật.

Khi ấy trong Phật pháp

không còn thấy điểm nghi.

Lại nữa, Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp để hộ trì Phật pháp. Những gì là bốn ?

1) Tự giữ giới thanh tịnh, phát tâm an trú trong giới,

2) Rộng nghe giáo pháp, không bàn tạp luận

3) Nghe kinh pháp của Phật chuyên cần trì tụng

4) Thường ưa ở một mình, thích hạnh thanh tịnh.

Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hoàn thành bốn pháp ấy có thể hộ trì Phật pháp. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

Bồ Tát chuyên giữ giới

không lấy giới tự cao

để cầu pháp nhiệm mầu

quyết định nghĩa thẩm sâu.

Pháp tịnh đệ nhứt này

cầu vô thượng Bồ Ðề.

Chỉ tu chánh pháp Phật

luận ngoại đạo chẳng tập;

và cũng không tụng đọc

kinh điển Lộ Già Da

chẳng thích luận trích qua.

Phật pháp hộ thiết tha

thường tu nơi vắng lặng

thích ở chỗ không nhàn.

Các sắc dục không còn

làm não loạn tâm thần.

Nay ta đã tán dương

bốn pháp vi diệu này

vì muốn Phật đạo thành.

Các vị gắng tu hành

ta trong nối tiếp đời

đều thực hành pháp ấy

ủng hộ Phật pháp thảy

sớm đạt thành đại trí

Phật pháp luôn hộ trì.

Ác nạn chẳng đọa vào

thường sanh nơi tôn quí

làm chỗ để dựa nương

nên được đại giàu sang

tâm vẫn chẳng phế hoang

sớm tạo phước nghiệp đoàn.

Biết của cải vô thường

bố thí là một phương

nên cho chẳng giữ thường.

Thân ta và tài sản

lúc chết đều thỏng buông.

Chỉ người thiện quyến thuộc

cùng kẻ thiện tri thức

cha mẹ và thân tộc

khiến họ tin Phật pháp.

Thích thực hành việc tốt

cũng như khiến người tin.

Nhờ đó đại vui mừng

để tu hành chánh pháp.

Ðược sanh trong thế gian

dòng quí tộc giàu sang

tâm vẫn không phóng đãng

ưa làm việc thiện sáng

với thân mạng, tài sản

chẳng nghĩ tưởng tiếc tham.

Gặp chư Phật thậm nan

chỗ không nạn cũng vậy

Gặp Phật hết nạn thảy

lợi ích thật lớn thay!

Tâm hằng tưởng xuất gia

trí huệ phát sanh là

đại hoan hỷ thuần hòa.

Cầu trí huệ cao vời

ở trong pháp an thường

phát sanh đạo vô thượng.

Này Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp tâm thường hoan hỷ tu hành an ổn, nên biết chắc sẽ thành Phật, danh đồn khắp mười phương. Những gì là bốn?

1) Có những sở hữu trong (thân thể), ngoài (của cải) đều vui lòng bố thí

2) An trụ trong giới, tu các công đức lành

3) Trong hàng tri thức, là người được tôn kính hơn cả

4) Vì hiểu giáo pháp mầu nhiệm nên không tiếc thân mạng. Nếu có ai đọc tụng kinh này thì nên gia tâm lễ bái cúng dường ủng hộ. Ðầy đủ bốn pháp như thế thì tâm thường vui vẽ, nên tự tìm được niềm an lạc, ta tin chắc vị ấy thành Phật, danh đồn khắp mười phương.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

Quyết bỏ mọi tài sản

an trụ trong tịnh giới

hơn hẳn trong người trí

chẳng ngờ pháp vắng lặng.

Nếu thấy người đọc tụng

hành trì và diễn nói

kinh điển nghĩa thâm huyền

đem mọi vật cúng dường.

Ðây là Bồ Tát tướng

tâm hằng vui bố thí

làm Phật được thọ ký

trong đời đáng được tôn

hoặc quá khứ, vị lai

cùng chư Phật hiện tại

thọ ký được giác ngộ

ngươi sớm thành Phật ngay.

Nếu người tu pháp này

chính lời chư Phật dạy.

Bồ Tát nên biết thế

an trụ đạo Bồ Ðề.

Pháp này Phật xưng tán

Chư Bồ Tát thực hành.

Người nào trụ trong ấy

vị lai Phật ắt thành

Ví như lấy bình sốp

từ cao thả xuống đất

khoảng giữa chẳng chi ngăn

biết chắc vỡ tan hoang.

Bồ Tát cũng như thế

chuyên tu hành đạo giác

khoảng giữa không chi ngăn

được thành Phật chắc chắn.

Giống người dệt cửi hẳn

đường ngang dọc ngay thẳng

khoảng giữa chẳng dự phòng

mà vải vẫn thành công.

Bồ Tát cũng như thế

thường tu đạo Bồ Ðề

tâm không hay biếng trễ

Phật quả được chứng nên.

Như người có ruộng tốt

trồng tỉa lúa mạ lên

luôn luôn năng tưới bón

xanh tươi hạt chắc bền.

Tùy thời lo giữ gìn

lạnh nóng, gió khó gần

cây dần dần lớn mạnh

mùa lúa kết sung thạnh

nhờ che chở mát sạch

cho người được nghỉ ngơi

hạt chắc cấp chúng xơi

là công việc ích lợi.

Bồ Tát cũng như vậy

đầu phát tâm Bồ Ðề

dần tu Bồ Tát đạo;

muốn hiểu rộng thấu đáo

tùy thực hành huệ thí

thường giữ gìn cấm giới,

các pháp giải thoát thời

cũng chẳng hề biếng lười.

Thực hành theo lớp lang

được ngồi tòa đạo tràng

trừ diệt chúng ma quân

chứng vô thượng Bồ Ðề

tùy thời chuyển pháp luân.

Không ngăn ngại thế gian

để độ thoát chúng sanh

dẫn đạo vô số chúng

bậc trí huệ xứng đáng

phát tâm vô thượng quang

đời đời không lui hàng

cho đến khi thành Phật.

Vì thế các vị nay

nên tu pháp diệu này

chắc được thành Phật ngay

tùy thời chuyển pháp luân.

Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp trọn đời không thối chuyển đạo vô thượng Bồ Ðề, xã thân làm được chuyển luân thánh vương phước đức tự tại, thân thể cường tráng như đại lực sĩ. Làm chuyển luân vương bỏ bốn châu thiên hạ mà xuất gia, khi đã xuất gia thường được tự tại tu bốn phạm hạnh. Sau khi chết được sanh lên cõi trời Phạm Thế làm Ðại Phạm Thiên. Những gì là bốn?

1) Nếu Bồ Tát thấy chùa tháp hư nát nên ra sức sửa sang lại, dù chỉ còn một đống hay tan ra từng mãnh vụn. Ðó là pháp thứ nhất, cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.

2) Nếu Bồ Tát ở giữa con đường thông sang bốn bên có nhiều người qua lại mà lập chùa tháp hay hình tượng Phật. Làm việc Phật, tạo công đức ấy, hoặc chuyển pháp luân và xuất gia, hoặc ngồi đạo tràng, phá diệt ma quân, hoặc hiện thần thông hay nhập Niết Bàn, hoặc từ thiên thượng hiện xuống trần… là pháp thứ hai, cho đến khi được làm Phạm Thiên Vương.

3) Nếu Bồ Tát thấy tỳ kheo tăng tan rã, hai chúng tranh tụng, hiềm giận đôi co nhau lỗi quấy. Lúc đó Bồ Tát phải có cách khéo léo làm cho họ hòa hợp. Ðó là pháp thứ ba cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.

4) Nếu Bồ Tát thấy Phật pháp sắp hoại diệt thường phải tụng kinh, thuyết pháp dù một bài kệ bốn câu, làm cho giáo pháp không mất; tinh tấn tu hành để hộ trì Phật pháp, cúng dường pháp sư, một lòng hộ pháp không tiếc thân mạng. Ðó là pháp thứ tư, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp như thế đời đời chuyển thân làm vua chuyển luân, thân tướng cao lớn như đại lực sĩ. Bỏ cả bốn châu thiên hạ mà xuất gia. Khi xuất gia thì tùy ý tu bốn phạm hạnh. Khi chết được sanh lên cõi trời Phạm Thế làm vua Ðại Phạm Thiên.

Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nếu thấy tháp Phật hư

ra công tu bổ lại

Bồ Tát làm như vậy

nên được thân cao đại

Ở giữa bốn ngã đường

tạo lập chùa, tháp, tượng

biểu hiện Phật đức tướng

khiến chúng tâm thanh tịnh

được đại phước báu sinh

danh vang khắp lưu truyền.

Với quyến thuộc đông vầy

được nhiều người xưng tán.

Hoặc thấy tăng ly tan

cốt chỉ lo tranh tụng

chước khéo làm họ hối

cho hòa hợp ở chung.

Nhờ phước đức nhân duyên

sức mạnh không ai bằng

thân cao lớn đẫy đà

đại lực sĩ khác nào…

Thấy Phật pháp tiêu hao

không có người tín thọ

nên nhứt tâm ủng hộ

chẳng mến tiếc thân mạng.

Thấy ai hộ trì pháp

thêm cung phụng kính trọng

làm chư thiên hộ vệ

nên chư Phật gia bị.

Giúp chấn hưng Phật lý

nên làm được quốc vương

dạo đi khắp bốn phương

đem pháp dạy chư cường

Tuy trị quốc an dân

tâm chẳng chút buông lung.

Hay khéo đè các dục

xuất gia lìa tổ quốc

chuyên tu tập tứ thiền

đủ thần thông thiên biến

bốn phạm hạnh tu tiến

thường ưa điều phước thiện

cho đến lúc mạng diệt

được sanh lên Phạm Thiên

các cõi trời Phạm Thế

được làm Tự Tại Vương

Bốn pháp đây tối thượng

chư Phật đều tán dương.

Xưa ta là Bồ Tát

cũng thân cận tu thường

theo chỗ thấy nghe pháp

như thuyết tu học tường

được đến bờ giác ngộ

sớm thành đạo vô thượng.

Nếu người chuyên tu dưỡng

thực hành pháp của ta

đời đời được tôn quí

sức mạnh khó chuyển lay

thường được người kính lạy.

Các vua trời Ðao Lợi

trong cõi dục cũng vậy

được làm Tự Tại vương

và ngay cõi sắc được

làm Tự Tại quốc vương

khắp nơi đều tôn ngưỡng.

Ai chẳng tu chánh đạo

giữ giới cấm thanh tịnh.

Tâm luôn biết hổ thẹn

đều thành tựu sở nguyện

trụ nơi điều phước thiện

tinh tấn không trễ biếng.

Tập nhẫn nhục, tu thiền

được trí huệ vô biên

hiểu thông tất cả pháp.

Hằng trăm nghìn vạn ức

pháp phương tiện không lường

thảy đều thông suốt cả

thấu rõ nghĩa tinh tường.

Chỉ trong mỗi một câu

diễn nghĩa mầu vô lượng

Khéo biết các thuật hay

vượt hơn hẳn trong đây

là được đại trí huệ.

Biện luận giỏi vô ngại

chuyên tu đạo giác ngộ.

Xã bỏ trí huệ thừa

thường giữ tâm ngay thẳng

khéo tu tập chánh kiến

nên được gặp Như Lai

lìa xa bao chướng ngại

Ấy là thừa trọng đại

chư Phật đều ngợi khen.

Trong thừa vi diệu đây

chẳng còn các lỗi quấy

Chẳng hạn người mù thảy

cũng chẳng hạn điếc ngây

Lưng gù trăm hoạn nạn

câm, ngọng, xấu xí thay.

Cũng chẳng hạn bần cùng

Và người mất phước báu.

Chẳng hạn tạo nghiệp dữ

nhân duyên đọa ác thú.

Ai nghe khen thừa ấy

chẳng tạo điều ác quấy

mà cũng chẳng học tu

chỉ trừ kẻ ác tâm.

Người trí nên chuyên cần

cầu Phật tuệ quyết lòng

tu tập trí huệ này

Giác ngộ đạt đến bờ

Ta sanh ra đời đời

thường trong dòng tôn quí

tướng đẹp sức bền bỉ

đầy đủ quyến thuộc thảy.

Lúc đầu ta chẳng trể

chuyên tu hành tinh nhuệ

giữ gìn tịnh giới để

nhất tâm cầu trí huệ.

Ðời quá khứ như thế

do tu tập pháp lành.

Nay được thọ nhận tốt.

Các vị chớ có xét

qua trăm nghìn vạn ức

vô số na do tha

thế giới như hà sa

trí ta đều thông suốt;

cũng biết rõ mồn một

tâm niệm của chúng sanh

còn biết việc chúng hành

và thâm tâm chúng muốn.

Ta biết tìm phương kế

giáo hóa Bồ Ðề phần;

cũng biết điều phục tâm

làm cho không phừng cháy.

Ta dùng Phật nhãn thấy

thế giới tâm chúng sanh

giáo hóa phải có cách

gốc sanh tử nhổ sạch

tùy thời mà thuyết pháp,

dạy bảo hướng dẫn đường

hiển hiện sức thần thông

khiến chúng đều vui mừng.

Nếu chúng ưa tham chấp

tài sản và thân sắc;

chỉ rõ các lỗi thất

để đạt đến Niết Bàn.

Nếu kẻ bị buộc ràng

vấn vương các tà kiến

cũng làm cho trông thấy

khiến họ biết lỗi lầm.

Tùy chúng được quí tôn

tướng hình thân đủ loại.

Ta liền theo biến hóa

chánh đạo chỉ rõ cho.

Người kia đắc pháp rồi

tâm hân hoan gấp bội.

Nói, nghĩ tức Phật ngôi

ta thương giáo hóa đời;

quy y ta tức thời.

Cũng nương theo Thánh pháp

rồi sau dần chứng đắc;

phiền não khổ nhổ bạt

vì người mà thuyết pháp

khiến được đạo tịch diệt.

Người ấy nghe pháp ta

Niết Bàn đạt không xa

như ta trong hiện tại;

các pháp đều vô ngại.

Quá, hiện và vị lai

trí huệ chẳng còn ai (hơn)

Thân Phật thật cao đại

không thể có hạn lượng.

Kẻ thần thông đạt được

còn chưa thể thấy nghe

Phật lực nhiệm mầu thay

không biên cương giới hạn

đem Phật lực vô lượng

che chở cõi Hằng sa

Những gì của Như Lai

sắc tướng thân hiện tại

chúng sanh trong các loại

không còn có hạn lượng.

Nếu chúng sanh nào tưởng

muốn thấy Phật sắc tướng

thì nhìn đủ loại thân

không có định tướng hình

Thấy Phật thân biến liền

tâm hân hoan khôn xiết.

Chúng nhiệt liệt khen ta

đều là sai lầm cả.

Loài chúng sanh hết thảy

Phật thân khó thấy rõ

thậm chí dùng thiên nhãn

cũng khó có thể tường.

Các vị nay thấy được

là Phật lực thần thông

thân tướng Phật trang nghiêm

thật khó thể nghĩ cùng.

Phật ở mỗi chân lông

biến hóa sức thần thông

vì lợi ích chúng sanh

còn khó thể bàn suông.

Trong mỗi lỗ chân lông

phóng vô số hào quang

hơn số các sông Hằng

các thế giới đâu bằng.

Ta được các vị khen

an tọa giữa chúng tăng

trong mười phương thế giới

cũng xưng tán như đây.

Ta dùng trí hết thảy

Phật lực trí huệ bày

còn chưa hết được thay

huống gì được nghe thấy.

Phật còn khó bàn vậy;

Pháp xét nghĩ khó hơn.

Nếu ai tin hết lòng

quả báo được khó lường.

Lúc bấy giờ trong chúng có một đồng tử (1) bảy tuổi tên là Tuyển Trạch từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay hướng về đức Phật nói bài kệ rằng:

Thế Tôn, con phát tâm

mong mỏi đấng pháp vương (2)

nghe pháp khó nghĩ lường

trang nghiêm tâm cao thượng.

Vì chúng sanh thương tưởng

lập pháp thí (3) hội trường

làm tiếng sư tử gầm

như đã nói tất thành.

Thế Tôn, con từ nay

không tham gia quyến thảy.

Theo y lời Phật dạy

xuất gia tu chánh đạo,

tinh tấn hành chu đáo

thiền định và trí não

chánh giác sớm đạt vào.

Nay con tu học dạo

vì nhiễm sâu dục hão

mong sớm được xuất gia

cạo tóc, mặc cà sa;

thường tu hành thượng pháp.

Nên dùng sức hiểu biết

chọn lựa ở thế gian

Thế Tôn nên vì con

mong mỏi cho xuất gia.

Con không tưởng chúng sanh

vì nghĩ tưởng khó thành

tức giáo pháp hiểu rành

nên vì chúng sanh thuyết

chúng ma quân phá diệt;

làm ngoại đạo tê liệt

lưới tà kiến trừ dẹp

làm lợi chúng tốt đẹp.

Con hành đạo an lạc

chân Niết Bàn tu đạt

vô hình tướng đạo giác

nên khó thể nghĩ bàn.

Ðoạn mê si loạn cuồng

pháp sáng soi thế gian.

Pháp chân thật truyền giảng

tùy theo pháp tánh tướng

đại thần thông đạt được

hy hữu hiện các việc.

Chúng sanh được thấy nghe

đoạn dứt những mối nghi…

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Tuyển Trạch rằng: hay thay, hay thay đồng tử! Con ở trong pháp ta mà muốn xuất gia chăng? Mong thay Thế Tôn! Như Lai liền nói bài kệ rằng:

Tuy đang mặc nhiễm y (4)

mà tâm không đắm nhiễm

thì trong Phật pháp thảy

mới chân thật xuất gia.

Trang sức tuy chưa xã

mọi mối buộc lìa xa.

Không kết, tâm không mở

ấy là chân xuất gia.

Tuy không thọ giới cấm

Tâm xa hẳn ác tà

mở định huệ công đức

ấy là chơn xuất gia

Tuy không thọ giới cấm

mà phá pháp chẳng chấp

lìa hết thảy mọi pháp

ấy là chân xuất gia.

Nếu chẳng phân biệt ngã

cũng không chúng sanh thảy

mà tâm bất thối chuyển

ấy là chân Bồ Ðề.

Nếu phát tâm Bồ Ðề

chẳng đạt hết tướng tâm

không được mà chẳng động

là người không thể mất.

Lúc bấy giờ Xá Lợi Phất nghĩ như thế này: đồng tử đây từ khi phát tâm đến nay cũng đã lâu, Phật vì đồng tử thuyết pháp mầu. Lúc đó Xá Lợi Phất dùng kệ hỏi Phật rằng:

Ðồng tử Tuyển Trạch đây

đã thực hành đa thiểu

nhờ nghe pháp thâm diệu

mà tâm không kinh sợ.

Người ấy đời quá khứ

từng thấy bao đức Phật

nghe pháp thâm diệu này.

Nay nghe Thế Tôn nói

phát tâm tín thọ ngay

Tùy theo chư Như Lai

nghe pháp thâm diệu này

tâm chẳng chút đổi thay?

Liền đó đức Thế Tôn dùng bài kệ đáp rằng:

Ðồng tử Tuyển Trạch đây

từng ở thế giới này

theo hầu vô số Phật

được nghe vi diệu pháp.

Ðồng tử như ta biết

ở Ương Già Ma quốc

đã nghe qua Phật pháp

tu hành đạo Bồ Tát

và hiểu rõ thông đạt

ấm giới cùng các nhập

biết ba môn giải thoát

là xứ hay phi xứ

Ca Thi, Kiều Tất La

nơi đây pháp nghe qua

ta thảy đều thấy biết

cũng như hai xứ trên.

Ðồng tử Tuyển Trạch đây

bờ giác thẳng tiến lên

pháp lành càng tăng thêm

được trí huệ thuần thiện

toán số, kỹ thuật tiến

văn từ thế gian thiển

hiểu rõ việc như trên

thảy đều chẳng mất quên.

Hết thảy trí thế gian

cũng khó làm phế vong

trí huệ xuất thế thông

nên gọi các pháp ‘không’.

Nếu kẻ am hiểu tường

hết thảy pháp không tướng

trải số kiếp vô lượng

trọn chẳng mất trí này

Ðại trí huệ là đây

hay trừ mọi phiền não.

người thích trí không này

trong pháp chẳng lo buồn.

Lúc đó Xá Lợi Phất hỏi đồng tử rằng, ông ở trong Phật pháp muốn xuất gia chăng? Ðồng tử đáp: chẳng muốn xuất gia nữa. Nay tôi đã xuất gia rồi. Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi rằng:

Nay tôi không thấy ông

mặc pháp phục nơi thân

cũng chẳng cạo râu tóc

sao gọi xuất gia được?

Ông cũng chẳng hợp pháp

được Hòa Thượng (5), Xà Lê (6)

giới cấm chưa truyền trao

sao gọi nghĩa xuất gia?

Thọ giới chúng ở đâu?

Ai bạch pháp yết ma (7) ?

theo đúng pháp Phật đà

hợp qui cách xuất gia.

Việc này ông chưa qua

xuất gia làm sao được.

Nên phải thật tâm đáp

những câu hỏi như trên.

Lúc đó đồng tử Tuyển Trạch nói kệ trả lời rằng:

Dù không mặc ca sa

hay có mặc chăng là

không bỏ, không thọ pháp

danh chính thật ca sa.

Tôi thọ pháp xuất gia

chẳng khởi tạo phiền hà

là áo sạch vô cấu.

Tôi thường mặc áo ấy

mọi buộc kết đoạn xa

Cạo râu tóc đây là

gươm huệ cắt đứt lìa

sau này chẳng thọ sanh.

Tài tôi khó nghĩ cùng

thọ nhận các pháp mầu

không vơi cũng không đầy.

Thường tu thiện pháp này

tôi thực hành thế ấy

trọn chẳng thọ pháp quấy

Tự thành đầy đủ trí

là thọ giới hoàn bị (8)

Phật, thầy ta yết ma

Do quán pháp như kia

Phật đạo chẳng tách lìa

Tùy thuận nơi Phật đà

ấy là ta xuất gia.

Cũng là giới của ta

thì là y bát cả

đó là pháp yết ma.

Ta thực hành sâu xa

trọng pháp tạo chánh nghiệp

từ một cõi Phật ra

lại đến một cõi khác

ở yên nơi đạo tràng

bố thí khó nghĩ bàn

nên cùng vô số chúng

thọ thực chẳng riêng màng…

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn quán sát rất kỹ đồng tử, thì đồng tử tự nhiên râu tóc trụi hết, áo cà sa mặc vào như người mới cạo tóc. Qua bảy ngày sau chứng được 5 phép thần thông, lúc đó tự nhiên không ai còn trông thấy đồng tử đâu cả. Bấy giờ cả thế giới này đại địa đều chấn động, chúng sanh khiếp hãi, trống trời tự nhiên vang, trăm nghìn nhạc khúc đồng thời trổi lên, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trời đất.

Lúc Phật mỉm cười, từ miệng phóng ra muôn tia hào quang đủ màu sắc rực rỡ, xoay quanh thế giới ba vòng rồi thâu về nơi đỉnh đầu. Lúc đó A Nan trịch áo bày vai bên mặt chấp tay hướng về phía Phật dùng kệ hỏi rằng:

Thầy cao tột trong chúng ai hơn

tu hành phước đức sùng sùng tôn

trí huệ rõ suốt không chướng ngại

Bậc vô thượng trí giác hỏi Ngài

Nhân duyên gì Như Lai mỉm cười?

Phật mỉm cười đây hẳn có nhân

thọ ký từ Phật ai được phần?

Mong Thế Tôn giải rõ cho con.

Thế Tôn miệng phóng đại hào quang

ánh sáng chiếu soi khắp thế gian

vòng quanh thế giới lớp lớp hàng

thâu về đảnh thượng khó ai trông

vì người nào thành công lợi ích?

Ai nơi Phật huệ thích thọ ký

khiến Thế Tôn phấn chí mỉm cười?

Phóng hào quang Phật chiếu khắp nơi

rực rỡ trang nghiêm các thế giới

Hết thảy chúng sanh đều phấn khởi

được tâm an tịnh khó nghĩ ngợi.

Ấy nhờ Phật lực hiện thần thông.

Phật bảo A Nan rằng, nay ông có trông thấy đồng tử Tuyển Trạch thân đang mặc pháp phục rồi bỗng nhiên trong chúng đây biến mất không? A Nan đáp: thưa con đã trông thấy. A Nan ông nên biết rằng, đồng tử đang biến ở đây, nhưng hiện ở thế giới Diệu Hỷ, nơi cõi Phật A Súc. Ðồng tử dốc lòng chuyên tu phạm hạnh nên thân thọ mạng dài lâu như Thiên Ðế, Thích Ðề Hoàn Nhân và trong hiện thân tăng thêm tuổi thọ. Ðồng tử Tuyển Trạch dùng thân ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, cũng như nơi các cõi khác tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Dần dà trải qua vô số kiếp chưa bao giờ rời xa Phật, ở chỗ chư Phật dùng hiện thân với tuổi thọ mạng dài lâu trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, rồi sau mới đạt được vô thượng Bồ Ðề, tức thành Phật hiệu là Ðại Trí Tuyển Trạch. Thế giới của Phật Ðại Trí tên là Thường Chiếu Minh.

Này A Nan, chúng sanh ở cõi đó không thọ thai mà do hóa sanh, đều ngồi kiết già trên hoa sen báu. Ở cõi Phật ấy đầy đủ phước đức trang nghiêm tuyệt vời như thế. Này A Nan, Bồ Tát có bốn pháp khi chuyển thân được làm thiện lai (9) tỳ kheo, không thọ thai nữa mà do hoa sen hóa sanh, tức là hiện thân tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Những gì là bốn?

1) Bồ Tát ưa thích xuất gia, cũng như khuyến khích người khác xuất gia và giúp đỡ người xuất gia, tức xuất gia xong thuyết pháp giáo hóa làm lợi lạc chúng sanh.

2) Bồ Tát chuyên cần tinh tấn cầu học Phật, cũng như khuyên người khác tinh tấn cầu pháp.

3) Bồ Tát thực hành nhu hòa, nhẫn nhục, cũng như khuyên người khác nhẫn nhục.

4) Bồ Tát tự tu tập các phương tiện, phát nguyện rộng lớn, cũng như khuyên người khác thực hành phương tiện và phát đại nguyện.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy khi chuyển thân được làm tỳ kheo chân chánh, không còn thọ thai mà do hoa sen hóa sanh, tức là thân hiện tại tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Lại này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp sau đây, sẽ đạt vô thượng Bồ Ðề, không còn thối tâm lui sụt nữa. Những gì là bốn?

1) Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Ðề kiên cố.

2) Thường ưa trông thấy Phật

3) Thích nghe pháp không chán

4) Hay nói lời chân thật, không lừa dối.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy, không còn thối chuyển đạo vô thượng Bồ Ðề. Liền khi đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Phát tâm sâu kiên thật

thường ưa trông thấy Phật

nghe pháp không nhàm chán.

Luôn nói lời chân thật

thấy chúng sanh khổ não

hay đem tâm thương xót

tâm chúng đều suốt biết

tùy thời mà nói pháp.

Người kia nghe thọ nạp

thân tâm không mỏi mệt

hành tinh tấn trước hết

trí huệ càng phát kết.

Vì người giữ niềm tin

nói lời lẽ chân thành.

Có nói ra điều gì

sai lầm không hề bị.

Như trong bốn pháp đây

tu học nên tùy nghi

Phật quả đắc thành ngay

chuyển pháp luân vô thượng

Ta nói qua pháp này

quả báo thật lớn thay.

Ai nghe được pháp ấy

mà chẳng muốn tập tu.

Lại nữa A Nan, còn có bốn pháp, nếu thành tựu cho đến khi thành đạo vô thượng không quên mất được chư thiên, long thần đều trợ lực, nên thường không rời xa phước điền thánh hiền. Nếu không có thánh hiền ở trong chúng hội tự tạo phước điền. Những gì là bốn?

1) Ðại Bồ Tát chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh khiến phát tâm vô thượng Bồ Ðề.

2) Tinh tấn không giải đãi cúng dường Như Lai để cầu pháp

3) Ðem tâm cung kính hầu hạ pháp sư

4) Nếu thấy chúng sanh bị khủng bố, khổ não, ban cho sự vô úy.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy đời đời không lui sụt tâm Bồ Ðề.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Cung phụng chư Phật

tôn kính Phật pháp

nhất tâm kính trọng

qui thuận pháp sư

thấy chư phiền não

vây hãm chúng sanh

ban cho vô úy

cứu bao khổ lụy.

Ðích thị thiện căn

thấy Phật thường hằng

Thiên Thần khuyên nhắc

tu hành tấn đắc.

Nếu chẳng thấy Phật

đệ tử chúng tất

Bích Chi Phật thành

Nhờ thánh phước điền

xuất gia tu hành

đạt trí tịnh thanh

thiền định thực hành

được năm phép thông.

Thần thông đã đạt

dạo chơi chư quốc

vào các làng mạc

khiến chúng hiểu pháp.

Chúng nghe lợi lạc

xa bạt bất thiện

nghiệp ác chẳng tiến

được người thuận kính

chúng sanh tưởng tin

an lạc vững bền

vì tôn trọng pháp.

Ta cũng tôn theo.

Tự người tu pháp

nên được phước đức

lợi kỷ, lợi tha

ai chẳng bỏ qua

cầu thành Phật đà

nên hành pháp bảo

quả Phật không xa

thật là đại trí…

Ta vốn tu pháp ấy

vượt khỏi qua bờ giác

pháp nhờ đã thấu đạt

được vô thượng Bồ Ðề

Ta là đấng Thế Hùng

các cõi chẳng ai bằng

ban cho các thế giới

trí huệ vĩnh thường hằng.

Này A Nan, vì nhân duyên đó, ông nên biết Bồ Tát thực hành giáo pháp lợi lạc chúng sanh phải tu tập Phật pháp đầy đủ. A Nan, lui về quá khứ dài lâu vô số kiếp, lúc đó cõi Diêm Phù Ðề này có một vị đại quốc vương tên là Phương Âm Vương, bà phu nhân sinh được một thái tử. Lúc đó có các thiên thần đồng thanh xướng rằng: người thực hành thiện pháp nay đã ra đời. Nhà vua nghe thế lấy làm lạ không biết việc gì. Những gì gọi là pháp? Những gì là phi pháp?

Này A Nan, thái tử con vua Phương Âm dần dần khôn lớn tới năm lên bảy bèn đến chỗ vua cha, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên. Thái tử hỏi vua cha rằng: pháp là gì? Thế nào là phi pháp? Lúc đó nhà vua dùng kệ trả lời rằng:

Bố thí giữ giới, đoạn ái dục

tu hành phước thiện do nhẫn nhục

lìa sát sanh, tà dâm, trộm cắp

pháp Thánh hiền chư Phật tán dương.

Lúc đó thái tử dùng kệ hỏi rằng:

Như cha đã nói pháp

Nếu ở đời trị quốc

có nghe nhiều rộng khắp?

Rõ nghĩa này mong đáp:

thế nào hành chẳng hành?

mong mỏi đáp thật tình.

Lời thật xa nẻo ác

không sợ đọa địa ngục

nói dối rơi ác thú

thọ các khổ không dứt.

Vì thế chớ nói sai

chân thật giải con nghe.

Lúc đó vua Phương Âm dùng kệ đáp rằng:

Nếu ở đời trị quốc

không thể đủ biện pháp.

Dao gậy hãm hại người

làm sao có pháp lành?

Nếu người không tuân mệnh

ta sân buông lời ác

tài sản cưỡng chiếm đoạt

bít lối thêm thâm độc.

Nếu ta đi thị sát

dân chúng sợ tán loạn

nghĩ rằng: vua ngoại xuất

chắc họ làm gì ác?

Nếu ta xử chánh tòa

tội nhân hỏi xét tra

trước mặt ta phân trần

nói: vua cư xử phân

ta xét thấy lỗi lầm

liền gia hình án tội

chỉ tại người lầm lỗi

mình tự tạo nghiệp thôi.

Có biến phải phòng ngừa

đất nước loạn diệt suy.

Ta khổ tâm cai trị

dân đồ thán lâm ly.

Nói: vua thế lực lớn

kỳ thật chẳng từ tâm

trong nước ai người dân

dám chẳng tuân mệnh lệnh.

Lúc thái tử phát nguyện

nghe vua thuyết xong kệ

tâm nhàm chán thưa rằng:

con muốn quyết tu hành

nên chẳng ham vương vị.

Vì người tạo thêm tội

nên xa lìa cha mẹ

xuất gia tu Phật đạo.

Nếu vua không thuận hão

con phải tự hủy thân

độc dược hoặc nhảy cao

hay tự sát bằng dao.

Vua nghe con thề xong

bảo rằng, buồn trong lòng

tùy ý con tự chọn

việc nước cha lo trị

muốn tài sản cho con

dạo chơi khắp non sông

tại sao lại xuất gia

làm trò cười thiên hạ

tuổi xuân thọ dục thỏa

già, hẳn tính xuất gia

thân khó mong bảo trọng

khuyên chớ có chán xa.

Ðáp rằng: vui tạm giả

không, chán, thêm giận phiền

xuất gia lìa ác duyên

thường tu hành trí huệ

riêng ở nơi vắng vẽ

an lạc vui tịnh cảnh

nương về đạo tràng để

giữ giới tu hạnh sáng.

Vua có chí xuất gia

làm sao dân lợi ích?

Vì người tạo nghiệp ác

tự thọ khổ địa ngục

nhai nuốt vòng sắt nóng

và uống nước đồng sôi

tà hạnh tạo nghiệp tội

phải rơi vào ngục tối

đinh sắt đóng vào mình

sắt nóng dí quanh thân

dùng trâu sắt kéo cày

bới xoi hủy thân này

đáng sợ bọn ngục tốt

mắt xanh, vàng đầu tóc

dắt người tới vạc sôi

tỏa khắp thân chói lòa

trải qua nghìn vạn năm

thọ nhận các khổ quả

tội nghiệp sâu khó tả

cầu chết chưa được thỏa.

Nếu từ vạc sôi ra

lại rơi hầm lửa dữ

thân cháy xém nhuyễn nhừ

như tre khô cháy lan.

Nếu hầm lửa vừa tàn

liền rơi vào núi lửa.

Từ hỏa sơn ra khỏi

lại vào hầm phẩn sôi

đang sùng sục bốc hơi

móc nhọn câu móc thân

vô lượng nghìn ức năm

chìm ngập trong tối tăm

hoặc được thoát khỏi đây

lại rơi rừng chông nhọn

lửa bừng cháy cao ngọn

tro nóng thiêu đốt thân

lúc ở trong hầm chông

bốn bề gió lớn thổi

khua động những cây chông

đâm chích vào nơi thân.

Hoặc từ đó được ra

lại rơi vào rừng dao

bốn bề gió mạnh thổi

mũi nhọn đỗ mưa xối

cắt xẻo thân rã rời

xối đao kiếm thế rồi

cắt xẻ thân từng phần

trải qua nghìn ức năm

khổ não hết chịu nổi

hoặc được thoát ra khỏi

lại rơi vào sông tro

da thịt hầm dày vò

chỉ còn xương cốt trơ

qua vô số năm dài

thọ các khổ não nề.

Hoặc từ đó khỏi rồi

lại vào sông đồng sôi

nước đồng tràn khắp nơi

chạm nhau tiếng lớn vang

xoáy quanh trăm nghìn vòng

sóng mòi cuốn ba đào

chảy qua địa ngục hào

rước tội nhân vào đó.

Lúc rơi vào trong ấy

sóng cuộn vây phủ che

không biết đâu bờ mé

tấp dạt giữa dòng sâu

hoặc từ đây được thoát

nằm trên bờ la liệt

răng dài và vàng mắt

hoàn toàn bị trói chặt

trói xong hỏi cộc lốc:

mi muốn cầu điều chi?

Ðáp rằng: tôi đói khát

chỉ cần ăn trước nhất.

Liền đó ác la sát

đè sắt nóng bên trên

buộc nuốt hoàn sắt liền

ngũ tạng cháy như thiêu

trong ngoài rã tan hoang.

Ngoáy trông đại sông tàn

gọi là suối băng lạnh.

Ném thân vào bỏ chạy

nếu thoát khỏi nơi đó

lại vào ao phẩn nóng

núi dao và hầm lửa

các thống khổ không dừng

vua, giàu có, vô thường

chẳng bao lâu biến hoại

thân mạng còn chưa quí

Phật nói đều vô thường.

Nghe lời ta tỏ tường

xuất gia nuôi chí hướng

khi chết sanh thiên thượng;

và khổ não lìa xa

nơi vắng vẽ xuất gia

chuyên tu giới định đã

từ bi hạnh nhẫn hòa

tịnh tu: không vắng lặng.

Bấy giờ tự biết rõ

không ai cho việc đó

được vắng lặng lạc an

cũng như Ðại Phạm Vương.

Thái tử nói tận tường

thời vua và hoàng hậu

thần dân cùng tể tướng

không ai cản ngăn đường.

Thái tử xuất gia được

cầu pháp, thiền định thường

được năm phép thần thông.

Vì chúng diễn pháp âm

tu hành tâm vắng lặng

thích pháp ‘không’, vô ngã.

Không bị pháp trói, mở

nên nói pháp như thế.

Mọi người cùng một thể

nhứt tâm chánh quán về

ấm, giới và lục nhập

sao còn ngã, ngã chấp?

Chúng sanh trăm nghìn ức

nghe pháp quyết xuất gia

Mẫu hậu cùng vua cha

cũng bỏ tục lìa nhà.

Mấy người xuất gia xong

phát thệ nguyện một lòng

cầu pháp theo vương tử

mong mỏi được hiểu thông

theo học đạo thậm thâm

Bồ Tát hạnh phát tâm

theo chỗ nói và làm

thành Phật nhập Niết Bàn.

Vương tử, kìa A Nan

độ mẹ cha thoát nạn

khiến trụ Phật Pháp tạng.

Ông cho ai lạ chăng?

A Nan chớ nghi xằng

ấy chính thân ta đây

vì chúng làm lợi đầy

khiến ở trong Phật đạo

Từ ngày ta phát khởi

cầu pháp nhất tâm mãi

tinh tấn lực bền vững

trọn không hề giải đãi.

Ta thường tu pháp ấy

tâm không hề chán mỏi

nên chẳng niệm nghi ngờ

thường được Phật đạo chăng?

chí cầu đạo Bồ Ðề

tinh tấn không biếng trễ.

Ðem tâm vui cầu pháp

nên được tối thắng huệ

nên tu học như thế

đạo tâm luôn bất thối

thành Phật chuyển pháp luân.

    Xem thêm:

  • Kinh Bi Hoa – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hoa Chánh Pháp - Kinh Tạng
  • Truyện Ký Kinh Hoa Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Du Già Liên Hoa Bộ - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Đại Tì Lô Xá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Liên Hoa Thai Tạng Bi Sanh Mạn Đồ La Quảng Đại Thành Tựu - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Tự Tại Thành Tựu Du Già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Liên Hoa Nhãn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Trọn bộ 4 tập) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 2 - Kinh Tạng
  • Những Truyện Cảm Ứng Về Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Kinh Tạng