1
2
3
4
5
6
7
8
9

Phẩm 4: PHÁP MÔN

Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo:

-Bồ-tát đã quán sát về chủng tộc dòng họ như thế ở cõi trời Đâu-suất, có một cung điện lớn tên là Cao tràng, rộng lớn đến sáu mươi bốn do-tuần. Lúc đó Bồ-tát lên đại điện ấy nói với chư Thiên:

-Các vị nên vân tập hết đến đây nghe ta nói về pháp môn sau cùng. Pháp môn ấy có tên là Giáo giới tư duy thiên một phương tiện hạ sinh chi tướng (chỉ dạy, suy nghĩ về các hình tướng chuyển đổi biến hóa của phương tiện giáng sinh).

Tất cả các vị Thiên tử cùng Thiên nữ ở cõi trời Đâu-suất nghe Bồ-tát nói như thế thảy đều tề tựu đông đủ. Bồ-tát dùng thần lực biến cung điện ấy thành một đạo tràng cực kỳ rộng lớn, ước chừng như thâu tóm cả bốn châu thiên hạ, lại dùng lớp lớp châu báu tô điểm tăng thêm vẻ trang nghiêm cho cảnh đó, khiến ai trông thấy cũng đều hoan hỷ. Lúc đó các vị Thiên tử ở các cõi trời của Dục giới và Sắc giới trông thấy đạo tràng nguy nga ấy, nhìn lại cung điện của mình thật chẳng khác nào một đám gò mả nhỏ thấp. Bồ-tát với cội nguồn diệu lực của phước đức sẵn có, khéo tạo thành tòa Sư tử thắng diệu, dùng vàng bạc cùng các thứ châu báu quý hiếm khác để trang hoàng, dùng thứ Thiên y nhẹ mỏng, vô giá phủ lên, đốt các loại thiên hương, tung nhiều thiên hoa. Trong đạo tràng ấy có vô lượng trăm ngàn loại châu báu chiếu sáng rực rỡ; trên không thì giăng đầy lưới báu, chuông quý luôn lay động phát ra âm thanh hòa nhã, vô số dù lọng báu đủ màu sắc, cờ phướn phất phới nhiều vòng, nhiều lớp xen nhau, cùng với trăm ngàn loại hoa mượt mà tươi thắm làm tăng thêm vẻ đẹp muôn màu, có vô số trăm ngàn thể nữ của chư Thiên vây quanh ca múa cúng dường, các khúc Thiên nhạc ấy phát ra âm thanh vi diệu tán thán công đức vô lượng của Bồ-tát. Lại có vô số trăm ngàn Tứ đại Thiên vương ở khắp nơi ủng hộ. Lại có vô lượng trăm ngàn Thích Đề-hoàn Nhân ở khắp chốn đi nhiễu quanh. Lại có vô lượng trăm ngàn Đại phạm Thiên vương ở muôn phương ca ngợi. Vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha Bồ-tát cung kính nâng tòa Sư tử, lại được vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha chư Phật Như Lai ở khắp mười phương hộ niệm. Tòa Sư tử ấy do tích tụ phước đức tu tập các pháp Ba-la-mật trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp mới có được.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát ngồi nơi tòa Sư tử do thành tựu vô lượng công đức ấy, nói với chư Thiên: “Các vị hãy xem thân trang nghiêm tướng tốt tích tụ trăm ngàn phước đức của Ta.”

Lúc ấy đại chúng đều chiêm ngưỡng dung mạo của Đức Thế Tôn, mắt không hề rời, cũng thấy thân Bồ-tát biến khắp mười phương Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương, trên dưới, số lượng nhiều hơn cung điện nơi cõi trời Đâu-suất này, ở mỗi chỗ đều có thân tối hậu của Bồ-tát chuẩn bị giáng sinh, và có vô lượng chư Thiên cung kính nhiễu quanh. Các thân tối hậu của Bồ-tát đều diễn thuyết các hình tướng sắp biến hóa, nêu rõ các pháp môn tu tập. Lúc ấy đại chúng chiêm ngưỡng xong, tất cả đều sinh tâm Từ bi, hoan hỷ cung kính đảnh lễ Bồ-tát, tán thán:

-Lành thay! Chúng tôi đã chiêm ngưỡng sắc thân Tôn giả, lại được thấy vô lượng Bồ-tát như vậy, tất cả đều do diệu lực thần thông của Tôn giả.

Bồ-tát bảo:

-Các vị hãy lắng nghe, các vị Bồ-tát ấy, mỗi vị đều vì chư Thiên diễn nói về các hình tướng sắp biến hóa, nêu rõ các pháp môn, vỗ về trời người. Nay Ta cũng sẽ vì các vị nêu rõ các pháp môn. Có tất cả một trăm lẻ tám pháp môn, một trăm lẻ tám pháp môn ấy là những gì?

-Tín là một pháp môn vì khiến cho ý luôn được an vui không mất; tịnh tâm là một pháp môn vì diệt trừ mọi vọng động vẩn đục; Hỷ là một pháp môn vì khiến tâm được an ổn; Ái lạc là một pháp môn vì giúp tâm luôn được thanh tịnh; Thân giới là một pháp môn vì dứt ba nghiệp ác; Ngữ giới là một pháp môn vì giúp lìa bốn thứ tội lỗi; Ý giới là một pháp môn vì dùng để đoạn ba độc; niệm Phật là một pháp môn vì khiến tâm được thanh tịnh, gặp Phật; niệm Pháp là một pháp môn vì khiến thuyết pháp thanh tịnh; niệm Tăng là một pháp môn vì giúp đạt đến Phật đạo; niệm Xả là một pháp môn vì giúp thân tâm lìa bỏ tất cả mọi việc; niệm Giới là một pháp môn vì làm cho các thệ nguyện được hoàn tất; niệm Thiên là một pháp môn vì khiến phát khởi tâm rộng lớn; Từ là một pháp môn, vì ánh sáng vượt qua tất cả các việc phước đức; Bi là một pháp môn vì khiến cho tâm bất hại được tăng trưởng; Hỷ là một pháp môn vì giúp lìa được ưu não; Xả là một pháp môn vì giúp cho mình và người lìa bỏ năm dục; Vô thường là một pháp môn vì giúp diệt trừ được tham ái; Khổ là một pháp môn vì mọi mong cầu được dứt sạch; Vô ngã là một pháp môn vì giúp dứt bỏ chấp ngã; Tịch diệt là một pháp môn vì khiến cho tham dục không thể dấy khởi; Tàm là một pháp môn vì khiến cho nội tâm được thanh tịnh; Quý là một pháp môn vì giúp cho sự tiếp xúc bên ngoài được trong lành; Đế là một pháp môn vì khiến tâm không dối trá với người, trời; Thật là một pháp môn vì giúp cho mình dứt mọi khinh khi lừa dối; Pháp hành là một pháp môn vì khiến hành giả nương cậy vào giáo pháp; Tam quy là một pháp môn vì giúp vượt khỏi ba cõi ác; Tri sở tác là một pháp môn vì để giữ vững căn lành khỏi bị hủy hoại; Giải sở tác là một pháp môn vì để khỏi nhờ kẻ khác tạo nhân cho sự giác ngộ; Tự tri là một pháp môn vì giúp cho hành giả tự diệt trừ mọi kiêu căng; Tri chúng sinh là một pháp môn vì để khỏi khinh khi chế nhạo kẻ khác; Tri pháp là một pháp môn vì giúp hành giả tu tập theo đúng giáo pháp; Trì thời là một pháp môn vì giúp nhận thức không bị si mê che lấp; Diệt trừ kiêu mạn là một pháp môn vì giúp cho trí tuệ được đầy đủ; Tâm không bị chướng ngại là một pháp môn vì khiến tâm phòng hộ không phân biệt ta, người; Bất hận là một pháp môn vì do tâm không ăn năn, hối hận mà có; Thắng giải là một pháp môn vì dứt trừ mọi nghi ngờ, khúc mắc; Quán bất tịnh là một pháp môn vì đoạn hết tất cả mọi tưởng dục; Bất sân là một pháp môn vì giúp trừ mọi giận dữ; Vô si là một pháp môn vì diệt mọi thứ mê mờ lầm lạc; cầu pháp là một pháp môn vì giúp cho hành giả nương đúng vào nghĩa lý của giáo pháp; Lạc pháp là một pháp môn vì để chứng đạt các pháp một cách rõ ràng; Đa văn là một pháp môn vì để quán sát rõ vệ nghĩa lý của các pháp; Phương tiện là một pháp môn vì giúp cho việc tu hành thêm siêng năng chấn chỉnh; Bất tri danh sắc là một pháp môn vì để vượt qua khỏi mọi sự câu kết của tham ái chấp trước; Bạt trừ nhân kiến là một pháp môn vì là con đường đạt đến giải thoát; Đoạn tham sân là một pháp môn vì khiến dứt trừ mọi chấp trước của si mê câu nhiễm; Diệu xảo là một pháp môn vì làm cho việc thông suốt về sự khổ; Giới tánh bình đẳng là một pháp môn vì do đó đoạn trừ vĩnh viễn mọi tập nhiễm; Bất thủ là một pháp môn vì giúp tinh tấn tu chánh đạo; Vô sinh nhẫn là một pháp môn vì giúp diệt mọi tạo tác, chứng đạt quả vị; Thân niệm trụ là một pháp môn vì để giúp cho quá trình phân tích quán thân; Thọ niệm trụ là một pháp môn vì làm cho xa lìa tất cả Thọ; Tâm niệm trụ là một pháp môn vì giúp cho trí tuệ vượt mọi chướng ngại mờ tôì, Tứ Chánh cần là một pháp môn vì giúp cho hành giả dứt tất cả pháp ác và tu tất cả pháp lành; Tứ Thần túc là một pháp môn vì giúp cho thân tâm được khinh an, bay bổng; Tín căn là một pháp môn vì khiến cho khỏi bị các thứ tà đạo dẫn dắt; Tinh tấn là một pháp môn vì giúp cho tư duy thêm sắc bén; Niệm căn là một pháp môn vì chính là chỗ tạo tác mọi thiện nghiệp; Định căn là một pháp môn vì chính là đường đi của giải thoát; Tuệ căn là một pháp môn vì khiến hiện tại chứng được trí tuệ; Tín lực là một pháp môn vì giúp hành giả thắng vượt tất cả ma lực; Tinh tấn lực là một pháp môn vì giúp đạt pháp Bất thoái chuyển; Niệm lực là một pháp môn vì giúp cho các pháp không bị quên sót; Định lực là một pháp môn vì dứt bỏ được tất cả xúc tưởng; Tuệ lực là một pháp môn vì khiến cho trí tuệ không bị tổn hoại; Niệm giác phần là một pháp môn vì giúp hành giả an trụ ở pháp như thật; Trạch pháp giác phần là một pháp môn vì giúp cho hết thảy các pháp được viên mãn; Tinh tấn giác phần là một pháp môn vì khiến cho trí tuệ luôn dứt khoát quyết định; Hỷ giác phần là một pháp môn vì giúp cho pháp chánh định được an lạc; Khinh an giác phần là một pháp môn vì khiến cho các việc làm đều thành tựu; Định giác phần là một pháp môn vì là con đường dẫn đến sự giác ngộ về tính chất bình đẳng của các pháp; xả giác phần là một pháp môn vì khiến chán lìa mọi cảm thọ; Chánh kiến là một pháp môn vì đó chính là con đường đạt Phật đạo giải thoát; Chánh tư duy là một pháp môn vì đoạn trừ hẳn mọi phân biệt cố chấp; Chánh ngữ là một pháp môn vì đó là phương tiện dẫn tới giác ngộ về lẽ bình đẳng mọi thứ văn tự; Chánh nghiệp là một pháp môn vì dứt trừ mọi quả báo của nghiệp; Chánh mạng là một pháp môn vì dứt bỏ mọi thứ mong cầu xa vời; Chánh tinh tấn là một pháp môn vì là con đường chuyên cần đạt tới bờ giải thoát; Chánh niệm là một pháp môn vì là cửa ngõ vô niệm; Chánh định là một pháp môn vì làm chứng đạt pháp Tam-muội, an trụ giải thoát; Bồ-đề tâm là một pháp môn vì làm duy trì sự hưng thịnh của Tam bảo, không để bị mai một; Đại ý lạc là một pháp môn vì duyên với chánh pháp Vô thượng Bồ-đề; Phương tiện chánh hạnh là một pháp môn vì giúp cho hết thảy căn lành được viên mãn; Đàn ba-la-mật là một pháp môn vì thành tựu quốc độ Phật thanh tịnh cùng các tướng tốt để giáo hóa chúng sinh từ bỏ lòng keo kiệt bỏn sẻn; Thi ba-la-mật là một pháp môn vì giúp hành giả vượt qua tất cả các nẻo ác nạn, giáo hóa chúng sinh giữ giới cấm; sằn-đề ba-la-mật là một pháp môn vì đó là con đường vĩnh viễn lìa bỏ kiêu mạn, sân hận cùng hết thảy mọi phiền não, giáo hóa chúng sinh dứt trừ kết sử; Tỳ-lê-da ba-la- mật là một pháp môn vì ấy là con đường đưa đến sự thành tựu tất cả pháp lành, dạy dỗ làm cho chúng sinh trừ diệt các mầm móng biếng nhác; Thiền ba-la-mật là một pháp môn vì đó là cội nguồn làm phát sinh thần thông thiền định, giáo hóa chung sinh đang loạn ý; Bát-nhã ba-la-mật là một pháp môn vì giúp hành giả quét sạch vô minh, đạt tri kiến như thật, giáo hóa chúng sinh có ác tuệ đang ngu si mê muội; Phương tiện quyền xảo là một pháp môn vì ấy là phương pháp để chóng hiểu rõ căn tánh, chủng loại chúng sinh, tùy theo đó mà hiện các oai nghi và chỉ bày sự an trụ của tất cả Phật pháp; Tứ nhiếp sự là một pháp môn vì nhiếp hóa được tất cả chúng sinh hướng ý mong cầu đại pháp giác ngộ; Thành thục chúng sinh là một pháp môn vì là con đường từ bỏ an vui cá nhân để dốc lòng đem lại lợi ích cho người khác; Thọ trì chánh pháp là một pháp môn vì để dứt trừ mọi tạp nhiễm của chúng sinh; Phước đức tư lương là một pháp môn vì là ngọn nguồn đem lại lợi ích cho tất cả muôn loài; Trí tuệ tư lương là một pháp môn vì để đạt viên mãn trí tuệ mười phương; Xa-ma-tha tư lương là một pháp môn trí tuệ là phương tiện để chứng đạt Như Lai tam-muội; Tỳ-bát-xá-na tư lương là một pháp môn vì là cửa ngõ để đạt được Tuệ nhãn; Vô ngại giải là một pháp môn vì là cửa ngõ để đạt được Pháp nhãn; Quyết trạch là một pháp môn vì là đưa đến Phật nhãn thanh tịnh; Đà-la-ni là một pháp môn vì đó chính là sức mạnh để giữ gìn Phật pháp; Biện tài là một pháp môn vì đưa đến thiện xảo trong ngôn từ, lời nói, làm cho tất cả chúng sinh được đầy đủ hoan hỷ; Thuận pháp nhẫn là một pháp môn vì đó là con đường thuận theo pháp của tất xả Phật; Vô sinh pháp nhẫn là một pháp môn vì đó là pháp tu để đạt được sự thọ ký đặc biệt; Bất thoái chuyển địa là một pháp môn vì là con đường làm cho tất cả Phật pháp đều được viên mãn; Chư địa tăng tiến là một pháp môn vì làm cho đạt đến địa vị Nhất thiết trí; Quán đảnh là một pháp môn vì nêu rõ được từ cõi trời Đâu-suất Bồ-tát hạ sinh vào thai mẹ, sơ sinh, xuất gia, tu khổ hạnh đến Bồ-đề đạo tràng, hàng phục chúng ma, thành Phật, chuyển bánh xe Chánh pháp, thị hiện thần thông lên cõi trời Đao-lợi rồi xuống trần nhập Niết-bàn. Do vậy, khi Bồ-tát sắp hạ sinh, giữa Thiên chúng, Ngài nói rõ các pháp như thế.

Này các Tỳ-kheo, lúc Bồ-tát nói rõ các pháp môn ấy xong, có đến tám vạn bốn ngàn vị Thiên tử trong chúng hội phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có ba vạn hai ngàn Thiên tử đắc Vô sinh pháp nhẫn, có đến ba vạn sáu ngàn na-do-tha Thiên tử nương theo chánh pháp, xa lìa phiền não, đạt Pháp nhãn thanh tịnh. Chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất đều tung các thứ hoa đẹp quý đầy dẫy quanh chân Bồ-tát.

Này các Tỳ-kheo, Bồ-tát vì muốn cho tâm của chư Thiên được hoan hỷ hơn nữa, nên thuyết bài tụng:

Bồ-tát sắp giáng sinh

Ở cung trời Đâu-suất

Khuyên dạy chúng chư Thiên

Chỉ cần không phóng dật

Tâm liền được an vui

Báu vi diệu trang nghiêm

Do từ nhân tịnh nghiệp

Nay đạt quả tịnh diệu

Vậy nên nghĩ về báo

Không khiến nghiệp tiêu tan

Trầm luân trong cõi ác

Phải chịu khổ vô biên.

Ta nay chỉ các pháp

Nên sinh tâm quý trọng,

Tự mình gắng tu tập

Sẽ đạt lạc vô vi.

Tham dục đều vô thường

Hư giả như huyễn mộng

Như tia nắng ảo ảnh

Như điện chớp, bọt nước.

Tham dục không chán bỏ

Như khát uống nước mặn

Nếu đạt trí xuất thế

Mới có thể tri túc

Thiên nữ cùng chung vui

Ví như chốn hý trường

Gặp nhau trong thành ấp

Tạm tụ rồi lìa tan

Hữu vi đâu bạn thường

Cũng không là thiện hữu

Chỉ dứt trừ cấu nhiễm

Không còn mãi đuổi theo

Phải nên cùng hòa hợp

Tâm Từ bi lợi ích

Tinh cần cầu pháp lành

Để trừ hết phiền não.

Thường niệm Phật, Pháp, Tăng

Tâm chuyên không phóng dật.

Thí, giới học rộng, nhẫn

Tất cả đều viên mãn

Theo lý quán các pháp

Do nhân duyên hợp sinh

Vô thường cùng khổ, không

Vô chủ cũng vô ngã

Hãy quán thần lực ta

Trí tuệ cùng biện tài

Nghiệp lành, chẳng phóng dật

Trì giới và đa văn

Ta tu giới đa văn

Các vị nên theo học

Thí, giới và chế ngự

Tâm Từ, chẳng buông lung.

Nương nghĩa chớ chấp lời

Phụng hành theo lời dạy

Tu tập gắng bền chí

Lợi ích khắp muôn loài

Phải thường tự biết tội

Chớ ham xét người lỗi.

Không tạo, chẳng tự thành

Người tạo ta đâu nhận

Nên nghĩ kiếp xa xưa

Lưu chuyển sinh tử, khổ

Thường theo đường tà, vọng

Sinh tử khác Niết-bàn

Nay nên lìa các nạn

Sinh thiện gặp bạn lành

Được nghe pháp tối thắng

Trừ diệt các tham vọng.

Dứt kiêu mạn tự cao

Nên nhu hòa, ngay thật

Phải siêng tu chánh đạo

Quyết tâm đạt Niết-bàn,

Nên dùng đèn trí tuệ

Tiêu diệt mọi si mê

Dùng trí tuệ kim cang

Phá tùy miên phiền não

Ta đạt pháp vô biên

Sẽ vì các vị thuyết

Các pháp vô biên ấy,

Cần phải tận lực hành

Ta sẽ chứng Bồ-đề

Mưa cam lộ rưới khắp

Tâm các vị thanh tịnh

Ta sẽ trao Thắng pháp.

***

Phẩm 5: GIÁNG SINH

Lúc bấy giờ, Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát đã vì chư Thiên, loài người diễn nói chánh pháp, khuyến khích khai bày chỉ rõ khiến họ thêm phấn khởi.

Rồi Bồ-tát nói với Thiên chúng:

-Ta nên dùng hình tượng nào để giáng sinh xuống cõi Diêm-phù-đề?

Nhiều vị Thiên tử lần lượt lên tiếng, người thì cho là nên dùng hình tượng đồng tử, người thì bảo nên lấy hình tượng Thích, Phạm, người thì cho rằng nên chọn hình tượng như chư Thiên cõi trời thần diệu (Mahà ràji karùpa), người thì nói rằng phải dùng hình tượng như các thần A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… người thì cho là nên chọn hình tượng như chư Thiên Nhật Nguyệt, lại có người bảo nên dùng hình tượng như Kim sí điểu…, các vị Thiên tử đã đưa ra rất nhiều hình tượng như thế. Lúc ấy, trong hội chúng có một vị Thiên tử tên Thắng Quang, xưa kia đã từng ở cõi Diêm-phù-đề làm vị Bà-la-môn, đối với đạo pháp Vô thượng Bồ-đề tâm không hề thoái chuyển, lúc đó lên tiếng cho rằng, trong luận Vi-đà (Veda) đã nói rõ, Bồ-tát giáng sinh nên dùng hình tượng voi để nhập thai mẹ. Vị Thiên tử ấy liền nói bài kệ:

Bồ-tát giáng trần

Nên dùng hình voi

Đoan chánh oai đẹp

Đảnh đầu màu hồng

Trắng sạch thanh tịnh

Như pha lê trong

Gồm đủ sáu ngà

Vàng khắc tô điểm

Điềm lành tối thượng

Vi-đà đã nêu

Ba mươi hai tướng

Sắp sinh cõi người.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Bồ-tát lúc đó đang ở cõi trời Đâu-suất, vì sắp giáng sinh nên quan sát khắp cõi Diêm-phù-đề, thấy rõ nơi cung điện của vua Du-đầu-đàn hiện ra trước tám sự kiện tốt lành. Tám hiện tượng ấy là những gì? Một là trong vương cung bỗng nhiên trở nên trong sạch, không rưới nước quét dọn mà vẫn không hề có các thứ bụi bặm uế tạp, sỏi sạn bừa bãi cùng muỗi nhặng, ốc sên và các loại côn trùng… trái lại mọi nơi đều có hoa đẹp giăng rải nhiều vòng, mùi hương tỏa ra thơm ngát; hai là từ trong rặng Tuyết sơn, từng đàn chim bay về tụ tập, đủ loại chim lạ màu sắc khác nhau, lông cánh đều tươi đẹp, chúng tha hồ bay nhảy tung tăng khắp các cung điện lầu gác, mái hiên, cửa sổ, xà cột, kêu hót vui hòa thỏa thích; ba là cũng trong vương cung ấy, cây cỏ hoa lá như đồng loạt nở rộ xanh tươi; bốn là các ao hồ trong vương cung đều xuất hiện vô số hoa sen, hoa lớn như bánh xe có đến trăm ngàn cánh óng ánh che phủ trên mặt nước; năm là trong vương cung các vật dụng châu báu tự nhiên hiện ra rất nhiều, lại có cả bơ dầu, mật cùng nhiều loại có vị tuyệt ngon, đem dùng hầu như không bao giờ hết; sáu là trong vương cung, các thứ nhạc khí như ống tiêu, ống sáo, các loại đàn cầm, đàn sắt kiểu cũ kiểu mới, không gõ tấu mà phát ra các loại âm thanh vi diệu; bảy là trong vương cung các kho báu đều đầy ắp nào là vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, ma-ni, san hô…; tám là từ nơi vương cung tỏa ra một vầng ánh sáng lớn át hẳn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ai nhìn ngắm vầng sáng ấy thân tâm đều an lạc, cho là điều chưa từng có. Đó là tám hiện tượng tốt lành đã hiện ra nơi vương cung vua Du-đầu-đàn. Lúc này Hoàng hậu của vua là Thánh hậu Ma-da, tắm gội trang điểm, xoa các loại thiên hương, mặc y phục quý giá đẹp đẽ, các thứ châu báu mang theo nơi người làm tăng thêm vẻ đẹp trang nghiêm quý phái, hoan hỷ thư thái, thân tâm thanh tịnh, dẫn đoàn thể nữ tùy tùng một vạn người, đi dạo trong điện âm nhạc, đến thẳng chỗ vua Du-đầu-đàn, ở nơi phía phải nhà vua, nhẹ bước lên tòa lưới quý báu trang nghiêm. An tọa xong, Thánh hậu mỉm cười, nét mặt thật tươi tỉnh, đọc bài tụng:

Lành thay, Đại vương mong chấp thuận

Nay thiếp xin tỏ bày nguyện lớn

Tâm nhân từ theo đấy khởi luôn

Thiếp đang trì tám thanh tịnh giới

Chẳng hại muôn loài như yêu mình

Ba nghiệp, mười thiện thường an tĩnh,

Tâm xa lìa dua nịnh, ghét ganh.

Mong vua với thiếp đừng sinh nhiễm

Nghe giới cấm này chẳng vui lòng

Sợ vua nhiều kiếp thêm buộc khổ

Chỉ mong thuận cho thiếp ở riêng

Cung điện hương hoa tự tô điểm.

Thường vây quanh, có thể nữ hiền

Tấu nhạc đàn ca diễn pháp âm

Hết thảy kẻ ác truyền xa thiếp

Hương hoa dâm uế đều không hưởng

Tất cả tù tội được miễn, tha.

Các nhà ngục nay nên trống vắng

Mở đàn lớn bảy ngày bảy đêm

Cứu giúp nghèo đói được no đủ

Giáo hóa nẻo chánh, nhẹ lao dịch

Khiến mọi công đường dứt kiện tranh

Người người cùng hướng về từ tâm

Như lên Đao-lợi vườn Hoan hỷ

Thương xót thế gian như con mình

Pháp dạy như thế rất an lạc.

Vua nghe lời ấy, lòng vui thích

Mọi điều ước nguyện đều chấp thuận.

Truyền các quan tẩy tịnh hoàng cung

Cờ, lọng hoa hương khéo trang hoàng

Lại lệnh hai vạn quân dũng mãnh

Đủ cả kiếm kích theo phòng vệ.

Thể nữ đàn ca hầu giúp vui

Anh lạc châu báu tự trang điểm

Giường ngọc tòa báu phủ lụa là

Ngự nơi thắng điện như Thiên nữ.

Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Lúc ấy Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân và các vị Thiên chủ ở các cõi Dạ-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha Hóa tự tại thiên, Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Diệu quang thiên, Thiểu quang thiên, Quang nghiêm thiên, Tịnh cư thiên, A-ca-ni-trá thiên, Ma-hê-thủ-la thiên, vị chủ thế giới Ta-bà là Phạm Thiên vương… cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên chúng đều vân tập đông đủ đến chỗ Bồ-tát cùng nhau thưa:

-Bồ-tát hướng ý sắp sửa giáng sinh, chư Thiên chúng tôi không theo Ngài hầu hạ. Ngài xuống cõi thế, chúng tôi không biết khi nào Ngài quay lại và cũng không biết ân nuôi dưỡng sắp tới, ai sẽ có thể được nhận theo hộ vệ, hầu hạ Bồ-tát xuống cõi Diêm-phù-đề. Từ lúc Ngài vào thai mẹ, rời thai lớn lên, ở tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên trưởng thành vui chơi hưởng thụ, đến khi xuất gia tu khổ hạnh, rồi tới Bồ-đề tòa hàng phục ma quân, thành Phật, chuyển bánh xe Pháp, thị hiện thần lực diệu dụng, từ cõi trời Đao-lợi trở lại chốn Diêm phù, nhập Niết-bàn, chư Thiên chúng tôi sẽ xin hết lòng hộ vệ chẳng lúc nào rời.

Bấy giờ các vị Thiên tử cùng nhau đọc bài tụng:

Chúng tôi ai được nhận

Hoan hỷ theo Bồ-tát

Phước đức được tăng thêm

Cũng được danh dự lớn

Nếu cầu cõi Đao-lợi

Thắng diệu luôn an lạc

Các thể nữ quây quần

Nên theo Thanh tịnh nguyệt

Nếu cầu Diệu viên lâm

Xứ đẹp thường vui thích

Đất báu vàng, hoa điểm

Nên theo Ly cấu quang

Nếu cầu voi, ngựa, xe

Dạo nơi vườn Hoan hỷ

Chúng thể nữ quây quần

Nên theo Đại trượng phu.

Nếu cầu Dạ-ma thiên

Cùng cõi trời Đâu-suất

Nơi sinh thường cung kính

Nên theo Đại danh xưng

Nếu cầu Hóa lạc thiên

Tự tại chốn cung phòng

Du hý vui biến hóa

Nên theo bậc Công đức.

Nếu cầu làm Ma vương

Lìa bỏ mọi tâm độc

Thần biến khắp mọi cõi

Nên theo bậc Lợi ích.

Nếu cầu vượt Dục giới

Trụ Phạm cung thắng diệu

Tu tập bốn Đẳng tâm

Nên theo bậc Thiền định.

Nếu cầu sinh nhân gian

Thọ phước báo Luân vương

Bảy báu từ tâm đến

Nên theo bậc Ly dục

Nếu cầu bậc Vương vị

Trưởng giả cùng cư sĩ

Giàu sang không thù địch

Nên theo Vô thượng sĩ.

Nếu cầu đại phú quý

Đoan chánh và danh dự

Giáo lệnh đầy uy đức

Nên theo bậc Phạm âm

Nếu cầu báo Trời, Người

Ba cõi đều an ổn

Thiền cùng Tuệ vô lậu

Nên theo pháp tự tại

Nếu cầu dứt tham dục

Cùng diệt mọi sân si

Chí đạm bạc tịch tĩnh

Nên theo Bậc Điều Tâm

Nếu cầu Nhất thiết trí

Thanh văn cùng Duyên giác

Sư tử hống mười phương

Nên theo biển công đức

Nếu cầu khỏi nẻo ác

Mở các cửa cam lộ

Liền gặp Bát chánh đạo

Nên theo lìa đường hiểm

Nếu cầu thấy chư Phật

Lãnh hội pháp vi diệu

Cùng mong các phước báo

Nên theo công đức tạng

Nếu cầu lìa phiền não

Sinh già bệnh chết khổ

Thanh tịnh như hư không

Nên theo Bậc Lỵ Nhiễm

Nếu cầu được kính trọng

Đức hạnh tướng tốt đủ

Tự tha cùng hóa độ

Nên theo Bậc An Lạc

Nếu cầu Giới Định Tuệ

Pháp vi diệu khó đạt

Bậc trí mau giải thoát

Nên theo Đại Y Vương.

Nếu cầu vô lượng đức

Cứu cánh đều viên mãn

Cùng đạt cõi Niết-bàn

Nên theo thành tựu Trí.

Bấy giờ, chư Thiên trong chúng hội đều nghe rõ bài kệ ấy. Có đến bốn vạn tám ngàn vị trời ở cõi Tứ Thiên vương thiên, trăm ngàn vị trời ở cõi Đao-lợi thiên, trăm ngàn vị trời ở cõi Dạ-ma thiên, các cõi Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên cũng có số lượng chư Thiên như vậy, lại có sáu vạn Thiên ma vốn tích tụ phước đức từ kiếp trước, sáu vạn tám ngàn vị trời cõi Phạm chúng thiên, cho đến cõi A-ca-ni-trá thiên cũng có số lượng Thiên tử gần tới trăm ngàn vị. số Thiên tử như thế đã đến trước ở trong chúng hội. Ngoài ra, còn có chư Thiên các phương khác Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới với số lượng không tính hết cũng đều đến tụ hội. Lúc đó vị Thiên tử đứng đầu trong hội chúng đọc bài tụng:

Các vị nay nên nghe

Tâm ta đã quyết định

Bỏ dục cùng thần thông

Thiền Tam-muội an lạc

Cùng theo Bậc Tối Thắng

Giáng sinh nơi thai mẹ

Khiến ngăn chận mọi ác

Thường làm kẻ ủng hộ

Dùng âm nhạc diệu kỳ

Ca ngợi biển công đức

Khiến trời, người hoan hỷ

Khởi tâm đạo vô thượng.

Trời, người nghe lời ấy

Hoan hỷ dứt các nạn

Tung khắp hoa Mạn-đà

Cùng các thứ hoa quý

Lại xông hương trầm thủy

Cúng dường Bậc Phước Tịnh

Bồ-tát ở trong thai

Chẳng vướng ba cấu nhiễm

Vượt khỏi sinh, lão tử

Đạt được đạo tận cùng

Chúng ta giữ tâm tịnh

Cùng theo Bậc Tuệ Giác

Các Thiên vương Thích, Phạm

Lúc thấy bảy bước đi

Dùng tay nâng hương thủy

Tắm bậc Thánh vô cấu

Theo thế gian mà làm

Trời Người đạt phước lớn.

Chốn dục thường không nhiễm

Vượt thành bỏ ngôi báu

Chúng ta nguyện theo cảng

Lót cỏ ngồi Đạo tràng

Hàng ma thành Chánh giác

Giảng thuyết pháp Vô thượng

Phật sự thông ba cõi

Cam lộ thắm muôn loài

Cho đến nhập Niết-bàn

Luôn theo không rời bỏ.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Vô số Thiên nữ ở cõi Dục chiêm ngưỡng thân tướng vi diệu của Bồ-tát, đang chuẩn bị giáng sinh nên họ cùng bàn với nhau, bậc nữ nhân nào làm mẹ Bồ-tát tất phải đầy đủ thắng đức, mới kham nỗi việc mang thai bậc Tôn giả. Vị nữ nhân ấy hẳn được mọi người mến mộ, hết lòng yêu kính. Bồ-tát nhờ phước báo sẵn có đạt được thần thông, thân sinh theo ý mình. Từ cung trời Đâu-suất, chỉ trong một khoảng sát-Na là đến thành Ca-tỳ-la, kinh đô của vua Du-đầu-đàn. Kinh thành ấy chu vi rộng lớn, vườn cây ao hồ đều trang nghiêm thù thắng như cung điện của đức Đế Thích. Trong nội cung có một điện lớn tên Trì quốc, Thánh hậu Ma-da ngự ở cung điện ấy, mọi vật được bày trí trong đó đều trang nghiêm đẹp đẽ, như tỏa lên một sự thanh tịnh, không cấu nhiễm, trong sáng linh thiêng. Thánh hậu mặc Thiên y, đeo chuỗi Anh “ lạc đều là những thứ quý giá tăng thêm dáng vẻ quý phái đáng kính. Khi ấy các Thiên nữ đã tới cung điện đó, trụ nơi hư không, chiêm ngưỡng dung nhan Thánh hậu, phát ra lời kệ:

Các Thiên nữ Dục giới

Quán thân diệu Bồ-tát

Đều cùng nhau suy nghĩ

Mẹ Bồ-tát ra sao

Vòng hoa tay giữ chặt

Hương xông cùng xoa khắp

Hoan hỷ đến hoàng cung

Chắp tay lòng cung kính

Dung mạo rất xinh đẹp

Chân tay thật ưa nhìn

Thấy ngự nơi giường quý

Tâm lành, quán lý thật

Cõi trần diệu dường này

Trên trời chưa có được

Chúng tôi thường tự nghĩ

Thiên nữ là thù thắng

Nay thấy dung nhan này

Tự sinh lòng hổ thẹn.

Công đức rất trang nghiêm

Dung nhan thật đoan chánh

Nếu không có đức này

Đâu làm Bồ-tát mẫu.

Ví như ngọc vô giá

Đặt nơi vật báu tịnh

Mẹ Bồ-tát như vậy

Cưu mang Bậc Thắng Đức

Người gặp sinh hoan hỷ

Tâm luôn vui không chán

Diện mạo luôn đoan trang

Thân tướng như ngời sáng

Như trăng tại hư không

Nhìn người ý thanh tịnh

Như mặt trời rực sáng

Như vàng ròng tinh luyện

Chiêm ngưỡng mẹ Bồ-tát

Tướng hảo cũng như trên.

Tóc thơm lại mềm mại

Óng ánh màu ong huyền

Răng trắng màu sao trời

Mắt như lá sen xanh

Đi đứng thật uyển chuyển

Tay chân đều nghiêm chánh

Cõi trời có ai hơn

Nhân gian nào sánh được

Xem xét kỹ như thế

Nhiễu phải, tung hoa hương

Tán thán tên Phật mẫu

Trở về nơi cõi trời

Lúc ấy Tứ hộ thế

Thích phạm cùng Dục thiên

Và với Tám bộ chúng

Đều đến quanh mẹ Phật

Chư Thiên đều cùng thấy

Bồ-tát sắp giáng sinh

Cùng đem nhiều hương hoa

Vui mừng đến trước mặt

Chắp tay đảnh lễ thưa

Thời giáng sinh đã tới

Vua Sư tử hiện tại

Xót thương sinh cõi đời.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Lúc Bồ-tát sắp sửa giáng sinh, phương Đông có vô lượng trăm ngàn Bồ-tát, đều là bậc Nhất sinh bổ xứ cùng tới cung trời Đâu-suất để cúng dường Bồ-tát. Các phương Nam, Tây, Bắc bốn hướng trên dưới, tất cả các vị Bồ-tát như thế cũng đều đến đó để cúng dường. Rồi cả mười phương thế giới, các vị Thiên tử các cõi Tứ Thiên vương thiên, Tam thập tam thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên… mỗi vị đều dẫn theo bốn vạn tám ngàn Thiên nữ, trước sau lần lượt nhiễu quanh cung trời Đâu-suất, tấu nhạc đàn ca cúng dường Bồ-tát.

Bấy giờ Bồ-tát ngự tại Đại lâu các, ngồi nơi tòa Sư tử Chúng đức sở sinh thắng tạng (Kho tàng siêu việt sinh ra tất cả công đức), còn các vị Bồ-tát kia cùng với vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Thiên vây quanh cúng dường Bồ-tát, hết lòng cung kính tôn trọng ca ngợi.

Ngay khi ấy, Bồ-tát ở nơi cung trời Đâu-suất tối thắng liền giáng sinh xuống cõi Diêm-phù-đề.

Lúc Bồ-tát sắp giáng sinh, từ thân tướng phóng ra luồng ánh sáng chưa từng có, chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới, đến trong cõi u minh khiến cho ánh sáng cửa mặt trời mặt trăng lu mờ hẳn, chỉ còn luồng ánh sáng lớn ấy chiếu sáng mà thôi. Chúng sinh ở cõi u tối ấy đều trông thấy nhau, cùng bảo: “Do đâu mà bỗng dưng trong cõi này lại hiện ra các chúng sinh khác”. Cùng lúc khắp Tam thiên đại thiên thế giới hiện ra sáu cách chấn động, gồm đến mười tám hiện tượng. Đó là dao động, dao động mạnh, dao động rất mạnh; đánh gõ, đánh gõ mạnh, đánh gõ rất mạnh; di chuyển, di chuyển nhanh, di chuyển rất nhanh; vọt lên, vọt lên cao, vọt lên rất cao, phát ra âm thanh, phát ra âm thanh lớn, phát ra âm thanh rất lớn; cõi biên cử lên thì cõi giữa im lặng, cõi giữa cử lên thì cõi biên im lặng; phương Đông cử lên thì phương Tây im lặng, phương Tây cử lên thì phương Đông im lặng; phương Nam cử lên thì phương Bắc im lặng, phương Bắc cử lên thì phương Nam im lặng. Lúc đó tất cả chúng sinh khi nghe được các thứ âm thanh ấy đều vui mừng phấn chấn, yêu thích thanh tịnh, sung sướng tột độ, ca ngợi hết lời, không một chúng sinh nào kinh động sợ hãi. Cả đến Phạm thích hộ thế, ánh sáng mặt trời mặt trăng như không còn xuất hiện. Hết thảy chúng sinh ở các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh nhờ công đức ấy mà được an ổn, không một chúng sinh nào trong khoảng thời gian này bị lòng tham, sân hận, si mê cũng như các thứ phiền não bức bách. Trái lại, tất cả đều khởi lên tâm từ bi thương xót muốn đem lại lợi ích cho nhau, xem nhau như cha mẹ, anh em thân thuộc. Đồng thời, các thứ nhạc khí ở cõi trời, người chẳng tấu mà tự phát ra âm thanh. Vô lượng chư Thiên đầu đội, hai tay nâng cao những tòa lâu các vi diệu, lại có vô lượng trăm ngàn Thiên nữ vây quanh hòa tấu Thiên nhạc và trong lời nhạc đó phát ra bài kệ thâm diệu tán dương công đức của Bồ-tát:

Tôn giả tu tập qua nhiều kiếp

Các thứ tịnh nghiệp đều viên mãn

Trụ nơi lý chân chánh thù thắng

Nay được trời người đều cúng dường

Vô lượng câu-chi kiếp từ trước

Bố thí cả vợ con dấu yêu

Do phước thí nay đạt thắng báo

Nên được chư Thiên dâng hoa hương

Tự hại thân mình để bố thí

Tâm Từ cứu loài chim sắp chết

Lại nhờ hạnh thí được thắng báo

Thường khiến ngạ quỷ được no đủ.

Tôn giả trải qua vô biên kiếp

Kiên trì tịnh giới chưa từng rời

Do phước trì giới đạt thắng báo

Làm cho cõi ác dứt khổ đau.

Vô lượng kiếp tôn giả trải qua

Cầu giác ngộ nên hành nhẫn nhục

Do phước nhẫn nhục đạt thắng báo

Nên khiến Trời, Người cùng mến thương.

Tôn giả trải qua vô lượng kiếp

Trọn tu tinh tấn không ngừng nghĩ

Do phước tỉnh cần đạt thắng báo

Thân tướng đoan nghiêm như Tu-di.

Tôn giả trải qua vô lượng kiếp

Thường dứt kết sử, tu pháp định

Do phước thiền định đạt thắng báo

Nên khiến đời này dứt phiền não.

Tôn giả trải qua vô lượng kiếp

Tu tập trí tuệ dứt vọng mê

Do trí Bát-nhã đạt thắng báo

Khiến cho thanh tịnh thêm sáng ngời.

Áo giáp Từ bi trừ phiền nao

Vì thương thế gian nên giáng sinh

Chứng đắc Hỷ, Xả pháp thượng diệu

Được cả ba cõi cùng kính lễ

Dùng đuốc trí tuệ đầy ánh sáng

Tịnh trừ si ám cùng tội lỗi

Tam thiên đại thiên đều hướng về

Đại Tôn Sư Mâu-ni kính lễ

Thắng tuệ thần túc được viên thông

Thấy nghĩa chân thật nên thị hiện

Tự giải thoát, độ người giải thoát

Kính lễ Bậc Sư năng độ tận

Tùy thuận thế gian hiện thân trần

Nhưng chẳng bị thế pháp nhiễm hoặc.

Hết thảy chúng sinh nếu thấy nghe

Được mọi lợi ích không thể bàn

Huống chi được hiểu tôn diệu pháp

Vui tin tưởng sinh bao điều thiện

Cõi trời Đâu-suất như u ám

Cõi Diêm-phù vầng dương sắp hiện

Phiền não cùng nhiều thứ tối mê

Tôn giả độ cho đều tỉnh ngộ.

Thành Ca-tỳ-la càng hưng thạnh

Vô lượng chúng chư Thiên vây quanh

Thiên nữ mỹ miều tấu Thiên nhạc

Âm thanh vi diệu vang khắp thành

Mẹ Phật thân sắc càng nghiêm trang

Phước tường uy dung do tịnh nghiệp

Thánh tử đoan chánh kỳ diệu thay

Vầng sáng chiếu soi ba ngàn cõi

Chúng sinh ở những quốc độ ấy

Lìa mọi phiền não cùng luận tranh

Tâm Từ kính thuận cùng khởi phát

Đều từ uy lực Bồ-tát sinh

Dòng vua Du-đàn thêm hưng thịnh

Nối tiếp truyền thông Chuyển luân vương.

Kính thành với nhiều kho châu báu

Các thứ báu quý đều đầy ngập

Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà

Tu-la, Mật Tích cùng Thiên chúng

Bảo vệ nơi Bồ-tát ngự cư

Không lâu đều sẽ đạt giải thoát

Tất cả hướng về đạo Bồ-đề

Nguyện chóng như Ngài thành Chánh giác.

***

Phẩm 6: Ở TRONG THAI MẸ

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Mùa đông đã qua, vào ngày xuân phân, tháng Tỳ-xá-khư, hoa lá trong rừng đều tươi thắm đáng yêu, khí hậu không lạnh cũng không nóng, rất thích hợp với việc ra đời của các Bậc Thắng nhân trong ba cõi.

Bồ-tát quán sát cõi thế gian, đúng lúc trăng tròn sáng tỏ, ngay khi sao Phất-sa hợp với mặt trăng, Bồ-tát từ cõi trời Đâu-suất biến mất, nhập vào thai mẹ qua hình tượng voi trắng sáu ngà, các ngà của voi đều óng ánh kim sắc, đầu voi tỏa ánh sáng màu hồng, hình tướng các căn đều viên mãn. Voi trắng sáu ngà sáng suốt chánh niệm, dùng thần lực theo sườn hông phía phải của mẹ mà đi vào. Khi ấy Thánh hậu trong giấc điệp yên ổn, mộng thấy rõ các sự việc như vừa kể.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn lặp lại các ý nghĩa đó nên nói kệ:

Thắng nhân gởi sinh làm voi trắng

Trắng tinh như tuyết đủ sáu ngà

Mũi, chân đẹp lạ đầu hồng sáng

Các chi tiết khác đều viên mãn

Vào hông phải thân như dạo chơi

Mẹ Phật nhân đấy bao hoan hỷ

Việc chưa từng thấy chưa từng nghe

Thân tâm thư thái như thiền định.

Lúc bấy giờ Thánh hậu thân tâm phát sinh niềm vui vô biên, ở trên tòa cao lấy các thứ vật báu đẹp đẽ sửa soạn trang nghiêm lại thân, rồi cùng vô số thể nữ cung kính theo hầu rời khỏi cung điện đến thẳng vườn hoa Vô ưu. Tới nơi bà liền sai một thể nữ tín cẩn đến tâu với vua Du-đầu-đàn rằng bà muốn gặp nhà vua, xin nhà vua chớ chậm trễ. Vua nghe tâu rất vui vẻ liền rời khỏi ngai vàng cùng với các vị đại thần và quyến thuộc trước sau lần lượt đến vườn hoa Vô ưu. Vừa tới cửa vườn hoa, nhà vua cảm thấy thân thể mình như nặng nề không thể cất bước đi tiếp. Vua bèn nói bài kệ:

Xưa nhiều phen cự địch

Thân thể luôn gọn gàng

Nay bỗng dưng như thế

Biến này biết hỏi ai?

Vị Thiến tử cõi trời Tịnh cư lúc đó liền hiện ra nửa thân hình trong hư không, vì vua Du-đầu-đàn nói bài tụng:

Bồ-tát uy đức lớn

Cõi Đâu-suất hạ sinh,

Nhập thai nơi Thánh hậu

Làm Thái tử của vua

Các hạnh đều viên mãn

Trời, Người đều cung kính

Đủ trí tuệ từ bi

Quán đảnh nên thọ chức.

Vua Du-đầu-đàn nghe rõ bài kệ ấy liền chắp tay đảnh lễ, thưa: -Tôi nay thấy sự việc này thật là ít có.

Rồi nhà vua vào gặp Thánh hậu, tâm tự dứt mọi kiêu mạn, hỏi ngay Thánh hậu muốn điều gì cứ theo ý tâu bày. Thánh hậu nói kệ đáp:

Thiếp ngủ thấy trong mộng

Bạch tượng thân ngân sắc

Chói sáng vượt trời, trăng

Thật uy nghiêm thân tướng

Sáu ngà đầy uy lực

Khó hoại như kim cương

Thân hình rất khỏe đẹp

Đến nhập vào bụng thiếp.

Thiếp từng thấy lắm điềm

Mong vua hãy lắng nghe

Thiếp thấy khắp Tam thiên

Cảnh bao la thật đẹp

Thường khi trong giấc điệp

Chư Thiên đến khen thiếp

Tham, sân các phiền não

Kết sử đều tiêu tan

Tâm thiếp vui tịch tĩnh

Như trú trong cảnh thiền

Nên mời người giải mộng

Thâm hiểu luận Vi-đà

Thấu đạt tám pháp diệu

Biện rõ lẽ dữ lành

Gấp triệu người đó tới

Vì thiếp giải mộng kia.

Vua nghe qua lời ấy

Liền cho gọi chiêm gia

Truyền lệnh cho vị này

Gắng đoán mộng Thánh hậu.

Thánh hậu bảo vị này

Mọi điều ta nằm mộng

Người đã từng giỏi đoán

Nay ta sẽ nói rõ

Ta thấy voi như tuyết

Ánh sáng hơn nhật nguyệt

Sáu ngà thêm uy thế

Voi trông rất khỏe đẹp

Sắc sáng thật thuần tịnh

Rắn chắc như kim cang

Đến nhập vào bụng ta

Mộng ta là như thế.

Vị kia nghe Thánh hậu

Kể rõ mọi chi tiết

Thưa rằng nên an tâm

Mộng ấy là điềm lành

Tộc họ đang hưng thịnh

Tất sinh con quý tướng

Ở nhà làm Luân vương

Uy lực trùm khắp cõi

Xuất gia thành quả Phật

Thương xót đến muôn loài

Rưới khắp pháp cam lộ

Trời, Người đều cung kính.

Vua Du-đầu-đàn nghe vị Bà-la-môn giải rõ ý nghĩa giấc mộng của Thánh hậu Ma-da, trong lòng vô cùng hớn hở liền sai người đem tặng cho vị ấy nhiều y phục, đồ ăn uống quý giá để người ấy ra về.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Lúc ấy vua Du-đầu-đàn, nơi bốn cửa thành cũng như nơi các ngã tư trong kinh đô, vì sự kiện nhập thai của Bồ-tát, nên đã thiết lập các hội bố thí lớn, cấp phát thức ăn y phục cho đến hương hoa, đồ dùng để nằm ngồi cùng xe ngựa, nhà cửa, đất đai ai cần đến đều chu cấp đầy đủ. Vua lại suy nghĩ là nên chọn cung điện nào để Thánh hậu nghỉ ngơi yên ổn, tránh các mối lo buồn, tâm trí luôn được an lạc. Bấy giờ bốn vị Thiên vương đến nơi vương cung thưa với nhà vua:

-Mong đại vương hãy yên tâm đừng lo nghĩ về điều ấy, chúng tôi sẽ chọn cho Bồ-tát một cung điện nguy nga.

Cùng lúc vị Thiên tử ở cõi trời Đao-lợi là Đế Thích liền tới nơi vương cung, đọc bài kệ:

Thế cung bảo hộ kém

Thánh hậu chẳng nên ngự

Đao-lợi có thắng điện

Xin đem dâng Bồ-tát.

Cùng lúc, vị Thiên tử ở cõi trời Dạ-ma cũng đến vương cung đọc bài kệ:

Chúng tôi có thắng điện

Hơn hẳn cung Đao-lợi

Ở cõi trời Dạ-ma

Nay xin dâng Bồ-tát.

Cùng lúc, vị Thiên tử ở cõi trời Đâu-suất cũng tới vương cung, đọc bài kệ:

Đâu-suất cung điện đẹp

Bồ-tát đã từng ngự

Đó là chốn thù thắng

Lại đem dâng Bồ-tát.

Cùng lúc vị Thiên tử trời Hóa lạc cũng đến vương cung, đọc bài kệ:

Tôi có cung điện báu

Theo tâm mà sinh ra

Thật trang nghiêm kỳ diệu

Nguyện dâng cho Bồ-tát.

Cùng lúc vị Thiên tử ở cõi trời Tha hóa tự tại cũng tới vương cung, đọc bài kệ:

Cung điện tôi kỳ diệu

Hơn mọi trời cõi Dục

Trang nghiêm các bảo vật

Ý vui lòng thanh tịnh

Ánh sáng thật huy hoàng

Hương hoa xông tung khắp

Xin đem dâng Bồ-tát

Và Thánh mẫu được an.

Phật nói với các vị Tỳ-kheo:

-Lúc ấy các vị Thiên tử ở các cõi trời thuộc Dục giới vì muốn cúng dường nên tất cả các vị ấy đều đến vương cung vua Du-đầu-đàn nói về những cung điện ở các cõi trời của mình. Vua Du-đầu-đàn cũng vì Bồ-tát mà lập một cung điện lớn, trang hoàng cực kỳ đẹp đẽ tinh khiết, nhân gian không đâu có được.

Bấy giờ Bồ-tát dùng thần lực Đại nghiêm tam-muội khiến cho bên trong tất cả các cung điện ấy đều hiện rõ thân hình Thánh hậu Ma-da, cùng với Bồ-tát ngồi kiết già bên hông phải mẹ mình. Các vị Thiên tử xem thấy ai cũng cho là Bồ-tát chỉ an trụ nơi cung điện mình.

Đức Thế Tôn lại nói ý đó bằng kệ:

Đại nghiêm tam-muội

Thần hóa khó lường

Chư Thiên đẹp lòng

Vua cha hoan hỷ.

Lúc Phật nói đoạn kinh này, các vị Thiên tử trong chúng hội có vị nghĩ: “So với cõi trời Tứ Thiên vương thì cõi nhân gian đó đã đầy những ô nhiễm chẳng sạch, huống chi các cõi trời từ Tam thập tam thiên trở lên đến cõi trời Đâu-suất? Bồ-tát đã lìa cõi trời Đâu-suất xuống cõi người ở trong thai mẹ, trải qua đến mười tháng, thế thì làm sao được gọi là vật báu của thế gian tinh khiết thù diệu thanh tịnh hết mực?”

Bấy giờ Tôn giả A-nan nương theo uy lực của Phật, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn, thân thể người nữ vốn chứa nhiều dục, ác. Làm sao Như Lai lúc còn là Bồ-tát lìa cõi trời Đâu-suất nhập vào thai mẹ từ phía hông bên phải và an trụ ở đấy?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Thời gian Bồ-tát ở trong thai mẹ, không hề bị bất tịnh làm cho ô nhiễm, trái lại Bồ-tát thường an trụ nơi bảo điện trang nghiêm thanh tịnh đệ nhất. Bảo điện như thế các vị có muốn trông thấy không? Như Lai sẽ chỉ rõ các vị xem.

Tôn giả A-nan thưa với Phật:

-Bạch Thế Tôn, mong Đức Thế Tôn hiển bày chỉ rõ để cho mọi người trông thấy đều sinh tâm hoan hỷ.

Bấy giờ Đức Như Lai liền dùng thần lực khiến Phạm Thiên vương, vị chủ của thế giới Ta-bà cùng sáu mươi trăm ngàn ức (6.000.000.000) vị Phạm thiên xuống cõi Diêm-phù-đề đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ, đi nhiễu theo phía phải ba lần rồi đứng qua một bên. Lúc này Đức Thế Tôn nói với Phạm Thiên vương:

-Thời gian ta còn là Bồ-tát ở trong thai mẹ mười tháng, chỗ ta ở là bảo điện, hiện nay bảo điện đó ở tại đâu, ông nên đem tới đây.

Phạm Thiên vương thưa:

-Bảo điện ấy hiện ở tại cõi trời chúng con.

Rồi vị chủ thế giới Ta-bà liền cúi đầu lễ Phật và đột nhiên biến mất. Chỉ trong một sát-na Phạm Thiên vương lên tới Phạm cung gọi Thiên tử Diệu Phạm bảo:

-Ông phải lần lượt xuống đến cõi trời Tam thập tam thiên xướng lớn: Hôm nay Phạm Thiên vương muốn đem bảo điện, chỗ của Đức Như Lai ngự trong thời gian còn ở trong thai mẹ, đến chỗ Phật đang thuyết pháp. Vị nào muốn xem bảo điện ấy mau đến đó.

Khi ấy, Phạm Thiên vương liền đem bảo điện của Bồ-tát đặt vào trong Phạm điện, Phạm điện đó rộng lớn đến ba trăm do-tuần, cùng với tám vạn bốn ngàn câu-chi Phạm thiên cung kính nhiễu quanh. Rồi từ cõi Phạm thiên đưa bảo điện xuống cõi Diêm-phù-đề. Cùng lúc, vô lượng chư Thiên ở các cõi trời Dục giới đều tụ hội đến chỗ đạo tràng của Như Lai, dùng Thiên y vi diệu, các loại Thiên nhạc, vòng hoa hương thơm cõi trời hết sức trang nghiêm để cúng dường.

Lúc đó Thiên đế Thích cho tới vị Thiên tử cõi trời Tha hóa tự tại đều chẳng thấy được bảo điện của Bồ-tát, dù đã cố sức xem xét rất kỹ cũng không thể thấy. Tứ Thiên vương bèn hỏi Đế Thích:

-Bọn chúng ta làm cách nào mới có thể thấy được bảo điện của Bồ-tát?

Đế Thích đáp:

-Phải nên hỏi Như Lai thì mới có thể thấy.

Thiên đế Thích và Tứ Thiên vương đảnh lễ, hỏi Phật. Lúc đó Đại phạm Thiên vương cùng chư Phạm thiên nâng cao bảo điện của Bồ-tát đặt nơi trước chỗ Phật. Ba vòng xung quanh bảo điện ấy đều được trang hoàng bằng các thứ ngọc quý trong suốt, bảo điện được tạo thành bằng Ngưu đầu chiên-đàn Thiên hương là loại hương có giá trị nhất trong Tam thiên đại thiên thế giới, ánh sáng rực rỡ tỏa khắp, lại có những thứ châu báu ở cõi trời tô điểm tăng thêm vẻ trang nghiêm, các vật dụng nằm ngồi đều mang tên hiệu Bồ-tát, đẹp đẽ vi diệu mà cõi trời, cõi người không đâu có. Chỉ riêng cái hình tướng xoắn ốc của Bồ-tát cùng với tòa ngồi giống như màu nước ngâm áo Khâm-bà-la thì được Đại phạm Thiên vương dùng các thứ Thiên phục phủ lên trên. Vòng quanh ba lớp bên trong bảo điện ấy có nhiều loại thiên hoa kỳ diệu tinh khiết. Bảo điện đó hết sức bền chắc, không thể dùng thứ gì để hủy hoại được. Nếu có người va chạm nhẹ vào bảo điện đều sinh tâm an lạc diệu kỳ giống như chạm vào Ca-lân-đà y. Tất cả cung điện của chư Thiên ở Dục giới đều hiện ra bên trong bảo điện của Bồ-tát.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

-Trong đêm Bồ-tát nhập thai mẹ, dọc theo bờ các sông ngòi ao hồ đều hiện lên nhiều hoa sen. Hoa sen ấy xuyên qua tầng Địa luân, mọc cao lên đến cõi Phạm thế, rộng lớn đến sáu mươi tám Lạc-xoa do-tuần. Thứ hoa sen ấy không phải ai cũng có thể trông thấy, chỉ các Bậc Như Lai, Bồ-tát cùng vị Đại phạm Thiên vương mới nhìn thấy được. Trong hoa sen có các thức mỹ vị thanh tịnh hơn tất cả các loại mỹ vị trong khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới, ví như nước cam lộ hiện ra trong hoa đó. Đại phạm Thiên vương đã dùng bát Tỳ-lưu-ly đựng đầy vị cam lộ tịnh diệu ấy dâng cho Bồ-tát thọ dụng. Các Tỳ- kheo nên biết chúng sinh ở thế gian không thể nào có được thứ cam lộ ấy, chỉ trừ các vị Bồ-tát đã hoàn tất mười địa hiện còn mang lấy nhục thân sau cùng mới được thọ dụng. Này các Tỳ-kheo, Bồ-tát do căn lành nào mà nhận được những thứ mỹ vị ấy? Sở dĩ có được là nhờ trải qua nhiều kiếp tu hạnh Bồ-tát thường đem thuốc men cứu giúp bao kẻ khổ bệnh, mọi thứ mong muốn, ước nguyện của họ đều được thỏa mãn, tất cả các mối lo sợ đều được Bồ-tát dùng tinh thần vô úy mà bố thí, lại đem các thứ hoa quả thượng diệu để cúng dường các Đức Như Lai và đền tháp các Đức Phật, cũng như tất cả các bậc Thánh chúng, cha mẹ, tôn trưởng, chính nhờ bố thí và hiến cúng như thế mà sau này bản thân mới được thọ nhận. Do các phước báo ấy nên mới được Đại phạm Thiên vương thường xuyên hiến cúng cam lộ mỹ vị nơi bảo điện. Các loại y phục thượng diệu và đầy đủ mọi thứ vật dụng trang nghiêm thì do diệu lực của bản nguyện Bồ-tát mà hiện ra theo ý muốn.

-Này A-nan, tất cả bậc Bồ-tát lúc sắp nhập thai, nơi hông phải của người mẹ đều hiện trước bảo điện trang nghiêm như thế, sau đấy Bồ-tát mới từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, ngồi kiết già trong bảo điện ấy. Này A-nan, tất cả các bậc Thánh hậu như Ma-da trong mười phương thế giới đều nằm mộng thấy voi trắng đến và đều được Thích Đề-hoàn Nhân, Tứ Thiên vương cùng hai mươi tám đại tướng Dạ-xoa luôn luôn kề bên để giữ gìn, giúp đỡ. Lại có bốn vị Thiên nữ tên là Biển-khư-lê, Mâu-khư-lê, Tràng Chí và Hữu Quang cùng quyến thuộc đến để bảo hộ.

Bấy giờ Bồ-tát ở trong thai mẹ, thân tướng luôn tươi sáng, giống như trong đêm tối mà nơi đỉnh núi cao có ngọn đuốc lớn cháy sáng rực, cũng như vàng ròng ánh lên trong đá quý lưu ly, ánh sáng đó chiếu soi khắp các thế giới. Tứ đại Thiên vương, hai mươi tám vị đại tướng Dạ-xoa cùng với quyến thuộc vào mỗi buổi sáng sớm đều đến cung kính cúng dường thăm hỏi vấn an Bồ-tát. Bồ-tát khoan thai đưa cánh tay phải lên chỉ chỗ cho họ an tọa, lại vì họ mà thuyết pháp chỉ dạy những điều lợi ích, vui vẻ để họ đạt được các pháp chưa từng có. Lúc họ muốn trở về, Bồ-tát cũng khoan thai đưa cánh tay phải lên cho phép lui, họ đều đảnh lễ đi nhiễu quanh rồi từ tạ mà đi. Thích Đề-hoàn Nhân cùng với các vị Thiên tử ở ba mươi ba cõi trời, vào mỗi buổi trưa trong ngày đều đến cung kính cúng dường Bồ-tát, vì muốn được nghe thuyết pháp nên đều đến thăm hỏi vấn an Bồ-tát. Bồ-tát khoan thai đưa cánh tay phải lên chỉ nơi cho họ an tọa, vì họ thuyết pháp chỉ dạy những điều lợi ích vui vẻ để họ đạt được các pháp chưa từng có. Lúc họ muốn trở lui, Bồ-tát cũng khoan thai đưa cánh tay phải lên cho phép lui, họ đều đảnh lễ đi nhiễu quanh rồi từ tạ lui ra. Vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương, vào mỗi buổi chiều cùng với vô lượng trăm ngàn Phạm chúng Thiên tử đến cung kính cúng dường Bồ-tát, vì muốn được nghe thuyết pháp nên luôn đến thăm hỏi vấn an Bồ-tát. Bồ-tát khoan thai đưa cánh tay phải lên chỉ nơi cho họ an tọa, vì họ thuyết pháp chỉ dạy những điều vui vẻ lợi ích, khiến họ sinh tâm hoan hỷ đạt được các pháp chưa từng có. Lúc họ muốn trở về, Bồ-tát cũng khoan thai đưa cánh tay phải lên tỏ vẻ chấp thuận, họ cùng đảnh lễ, đi nhiễu quanh rồi từ tạ lui ra.

Này A-nan, vô lượng trăm ngàn Bồ-tát của các phương Đông, Tây, Nam, Bắc bốn hướng và phương trên, phương dưới khắp cả mười phương vào lúc mặt trời lặn mỗi ngày đã đến cung kính cúng dường Bồ-tát, vì muốn được nghe thuyết pháp mà vân tập tới đông đảo như thế. Bấy giờ Bồ-tát liền hóa hiện các tòa Sư tử trang nghiêm để cho các vị Bồ-tát an tọa cùng nhau hỏi đáp, biện luận phân tích giáo pháp thượng thừa. Chúng hội các vị Đại Bồ-tát cùng đến đó, các việc làm của họ chỉ có năng lực của Bồ-tát mới thấy biết, Thánh hậu Ma-da cũng không thể trông thấy. Tôn giả A-nan, thời gian Bồ-tát ở trong thai mẹ không hề khiến cho thân tâm Thánh hậu cảm thấy nặng nề hay bị các nỗi khổ sở bức bách. Trái lại thân tâm Thánh hậu luôn được thoải mái nhẹ nhàng, vui thích, sung sướng, không hề dấy lên các niệm tham dục, sân hận, si mê, nhiệt não; cũng không có các cảm giác về dục lạc, giận dữ, ác hại; cũng không hề vướng phải các trường hợp quá nóng, hoặc lạnh, đói khát, u mê, tội lỗi hay tâm lý hoảng loạn; cũng không bị các cảnh xấu ác về màu sắc, âm thanh, hương khí, mùi vị, tiếp xúc không được theo ý; cũng không hề gặp ác mộng trong giấc ngủ; cũng không có các phiền não, lỗi lầm tham lam, dối trá, dua nịnh, nhỏ nhen, ganh ghét…, của nữ nhân. Thánh hậu luôn thọ trì các giới cấm thanh tịnh, tu hạnh Thập thiện, không hề khởi tâm dục với người khác cũng không khiến cho kẻ khác vì mình mà dấy tư tưởng dục lạc. Khắp kinh thành Ca-tỳ-la cũng như các thôn xóm làng mạc trong cả nước, nếu có kẻ nam, nữ hay đồng nam đồng nữ nào bị quỷ thần ám hại gặp được mẹ Bồ-tát thì mọi việc được an lành ngay. Hoặc có chúng sinh nào bị các thứ bệnh như cảm gió ho đờm, mù lòa câm điếc, tê liệt hay răng bị sâu nhức, mụt nhọt khắp người, phong đơn lở loét, tiêu chảy, đậu mùa, bướu lác, u sẹo. Với tất cả các loại bệnh khổ, nếu được mẹ Bồ-tát đưa tay xoa đầu thì mọi thống khổ kia lập tức dứt hết. Trong trường hợp những chúng sinh mắc phải các chứng bệnh như thế mà tự mình không thể tìm đến mẹ Bồ-tát được, Thánh hậu sẽ ngắt các cọng cỏ thành những đoạn nhỏ mà ban cho họ. Những chúng sinh bị các bệnh khổ kia chỉ vừa cầm lấy thanh cỏ ấy thì mọi thứ bệnh đều tiêu tan, bình phục trở lại như trước. Những lúc Thánh hậu xem xét Bồ-tát đều thấy rõ Bồ-tát an trụ nơi hông phải trong bụng mình như thể nhìn vào tấm gương sáng, thấy rõ màu sắc hình ảnh nên thân tâm người được an nhiên thư thái vui thích.

Này A-nan, trong thời gian Bồ-tát ở trong thai mẹ, chư Thiên luôn hòa tấu Thiên nhạc, rưới bao thứ Thiên hoa cúng dường Bồ-tát. Lúc ấy đất nước yên ổn, khí hậu cảnh vật điều hòa, dân chúng an vui, ưa thích những việc ân đức, phước thiện. Các vị trong tộc họ Thích đều lìa bỏ việc ác, làm những việc lành. Đối với các ngày lễ hội truyền thống, dân chúng tham dự đông đảo vui chơi, thăm viếng khắp chốn, tận hưởng cảnh thái bình an lạc. Còn vua Du-đầu-đàn thì thuận theo đạo lý, không tham đắm các thú vui thế tục, bớt vướng bận về việc nước, như một nhà tu khổ hạnh.

Này A-nan, Bồ-tát trong thời gian ở nơi thai mẹ, với thần lực đã hiện hóa thành tựu như thế.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

-Các vị có muốn xem bảo điện trang nghiêm, nơi Phật trong thờ gian ở thai mẹ an trụ không?

Tôn giả A-nan thưa:

-Bạch Thế Tôn, chúng con rất muốn xem lại, mong Thế Tôn hiển bày chỉ rõ.

Lúc đó Đức Thế Tôn vì Tôn giả A-nan, Thích Đề-hoàn Nhân, bốn vị Hộ thế cùng đông đảo trời, người hiện rõ bảo điện trang nghiêm trong thời gian ỏ thai mẹ an trụ khiến mọi người trông thấy đều sinh tâm thanh tịnh, hoan hỷ chưa từng có. Sau khi hiện hóa xong, Đại phạm Thiên vương đưa bảo điện trở lại cõi Phạm thiên.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

-Thời gian Bồ-tát ở trong thai mẹ đã giáo hóa ba mươi sáu na-do-tha trời người, khiến họ an trụ nơi Tam thừa.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý đó, nên đọc bài kệ:

Thắng nhân tối thượng vừa nhập thai

Núi rừng đất đai đều chấn động

Kim sắc sáng trong trừ nẻo ác

Tất cả trời người đều hân hoan

Vì muốn thành Bậc Đại Pháp Vương

Nơi thai thị hiện bảo nghiêm điện

Bậc Đạo Sư ngự nơi bảo điện

Chiên-đàn hương diệu xông thơm ngát

Loại hương giá trị nhất Trời, Người

Hơn hẳn châu báu Tam thiên giới

Bờ nước xuất hiện hoa sen lớn

Hoa ấy vươn cao tới Phạm thiên

Trong hoa hứng lấy cam lộ vị

Phạm vương đem tới dâng Bồ-tát

Hết thảy muôn loài khắp thế gian

Dù một giọt chưa ai từng nếm

Chỉ riêng Bồ-tát thân tối hậu,

Mới được thọ dụng cam lộ ấy

Phước uy lực nhiều kiếp tiến thành

Nên thân tâm hiện được thanh tịnh

Đế Thích, Phạm vương, bốn Hộ thế

Đảnh lễ cúng dường Bậc Đạo Sư

Cung kính lễ bái nghe diệu pháp

Hoan hỷ nhiễu quanh rồi xin lui.

Cũng thế Bồ-tát khắp mười phương

Cùng đến để được nghe diệu pháp

An tọa nơi bảo sàng rực sáng

Nghe pháp Đại thừa tâm hoan hỷ

Hòa hợp cùng nhau thảy luận bàn

Ngợi ca vô lượng xong về nước

Khắp nơi nam tử và nữ nhân

Bị kiểm thúc trong vòng quỷ quái

Phơi trần đầu mình, cuồng loạn tâm

Nếu gặp mẹ Phật đều dứt hẳn.

Hoặc bị lao nặng cùng phong, điên

Mù điếc ngọng câm các tật này

Mẹ Phật đưa tay xoa lên đảnh

Mọi bệnh cùng lúc đều tiêu tan.

Hoặc bị ốm, khốn nơi phương xa

Ngắt cỏ làm thẻ ban bố cho

Thẻ đến bệnh nhân liền bình phục

Toàn cõi thế nhờ ân cứu giúp

Do Bậc Y vương nơi mẫu thai

Chúng sinh dứt khổ được an vui.

Thánh hậu thường ngắm thân Bồ-tát

Tợ như nhìn trăng sáng khoảng không

Tướng hình vi diệu thật nghiêm chánh

Tâm an trụ trú trong hỷ lạc.

Chẳng hề khởi niệm tham, sân, si

Cũng không ái dục, hại, ganh ghét

Nóng lạnh đói khát chẳng làm phiền

Thân tâm tĩnh lặng lìa ưu tưởng

Trời người khắp thế cùng chiêm ngưỡng

Âm nhạc không tấu vẫn xuất thanh

Đất nước mọi nơi đều yên ổn.

Quyến thuộc vui mừng dứt âu lo

Rồng trời theo đó tuôn mưa móc

Cỏ cây hoa quả đều tốt tươi

Ân huệ ban bố muôn nơi hưởng

Cung vua bảy ngày mưa châu báu

Khi ấy không còn kẻ đói nghèo

Giống như vườn Hoan hỷ Đế Thích

Vua tu theo pháp, trì tịnh giới

Sống nơi cung điện mà khổ hạnh

Do Bồ-tát nhập thai Thánh hậu

Mỗi lần vào cung đều thăm hỏi.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật Danh - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Lực Trang Nghiêm Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Sư Tử Trang Nghiêm Vương Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Trang Nghiêm Tâm Bồ Đề - Kinh Tạng
  • Kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni Chú - Kinh Tạng
  • Kim Cang Tràng Trang Nghiêm Bát Nhã Ba La Mật Đa Giáo - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Những Truyện Cảm Ứng Về Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhập Pháp Giới Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Quỹ Nghi Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 89 – Kinh Pháp Trang Nghiêm (Dhammacetiya sutta) - Kinh Tạng