1
2
3
4
5
6

Quyển Thứ Tư

7. Phẩm Hữu Tình

Khi ấy, Diệu Cát Tường hỏi Vô Cấu Xứng:

– Bồ tát quán các hữu tình như thế nào?

Vô Cấu Xứng trả lời:

– Ví như thầy ảo thuật quán sát những việc mình hóa ra. Bồ tát quán sát một cách thật đúng đắn về tất cả hữu tình cũng vậy.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Như người trí quán trăng trong nước, quán ảnh tượng trong gương; quán nước của sóng nắng; quán âm thanh vọng lại, quán thành, đài bằng mây giữa hư không; quán sự chắc thật đống bọt nước; quán bong bóng nước vừa nổi lên là tiêu mất ngay; quán phần lõi cứng của cây chuối; quán đại thứ năm; quán uẩn thứ sáu; quán căn thứ bảy; quán xứ thứ mười ba; quán giới thứ mười chín; quán các sắc ảnh tượng của cõi Vô sắc; quán hạt giống mục nát mà đâm mầm; quán áo quần làm bằng lông rùa; quán người chết yểu mà thọ dục vui chơi; quán quán quả Dự lưu mà có phân biệt thân kiến; quán quả Nhất lai thọ hữu thứ ba; quán quả Bất hoàn nhập vào thai mẹ; quán độc tham sân si của bậc A la hán; quán Bồ tát đắc nhẫn có tâm tham lam, san lận, phạm giới, sân, hại; quán tập khí tương tục của chư Như Lai; quán người mù bẩm sanh thấy các màu sắc; quán trụ diệt định có hơi thở ra vào; quán dấu chân chim giữa hư không; quán căn của người bán thạch ca có tác dụng; quán con của người thạch nữ có tạo nghiệp; quán điều Phật hóa ra có các trói buộc; quán các sự rốt ráo không có phiền não; quán những gì đã thấy sau cơn mộng; quán không có lửa mà bị đốt cháy; quán A la hán có những đời sau; Bồ tát nên quán sát tất cả hữu tình như vậy. Vì sao? Vì các pháp vốn không, chân thật, vô ngã, không có hữu tình.

Diệu Cát Tường nói:

– Nếu các Bồ tát quán tất cả hữu tình như vậy thì phải tu hành lòng từ bi như thế nào?

Vô Cấu Xứng trả lời:

– Sau khi Bồ tát quán hữu tình như vậy rồi, tự nghĩ vì các hữu tình mà ta phải nói pháp như vậy để họ hiểu rõ ràng. Đó gọi là tu hành lòng từ bi một cách chân thật, và các hữu tình hoàn toàn an lạc, Bồ tát ấy tu lòng từ tịch diệt vì không có các chấp thủ; tu lòng từ vô nhiệt vì lìa phiền não; tu lòng từ như thật vì ba đời bình đẳng; tu lòng từ không trái vì không đẳng khởi; tu lòng từ vô nhị vì lìa trong ngoài; tu lòng từ không hoại vì trụ rốt ráo; tu lòng từ kiên cố vì ý lạc tăng thượng như kim cang; tu lòng từ thanh tịnh vì bản tánh thanh tịnh; tu lòng từ bình đẳng vì đồng với hư không; tu lòng từ A la hán vì diệt trừ hẳn giặc kiết sử; tu lòng từ Độc giác vì không nhờ sự giúp đỡ của Thầy; tu lòng từ Bồ tát vì làm thành thục hữu tình không dừng nghĩ; tu lòng từ Như Lai vì giác ngộ tánh chơn như của các pháp; tu lòng từ đức Phật vì giác ngộ hữu tình đang ở trong mộng; tu lòng từ tự nhiên vì theo sự vận hành mà giác ngộ tánh của các pháp; tu lòng từ Bồ đề vì đồng một vị; tu lòng từ không thiên vị vì đoạn sự thương – ghét; tu lòng từ đại bi vì làm sáng rỡ đại thừa; tu lòng từ vô tránh vì quán vô ngã; tu lòng từ không nhàm chán vì quán tánh không; tu lòng từ pháp thú vì lìa sự luyến tiếc; tu lòng từ tịnh giới vì làm thành thục các hữu tình phạm giới; tu lòng từ kham nhẫn vì bảo hộ mình và người đừng làm cho tổn hại; tu lòng từ tinh tấn vì gánh vác khổ cho các hữu tình làm những việc lợi lạc; tu lòng từ tịnh lự vì không còn ái nhiễm; tu lòng từ Bát nhã vì lúc nào cũng đều hiện trí pháp; tu lòng từ phương tiện vì thị hiện khắp tất cả các môn; tu lòng từ diệu nguyện vì đã phát sanh vô lượng đại nguyện; tu lòng từ đại lực vì có thể làm tất cả việc rộng lớn; tu lòng từ Nhã na (trí) vì hiểu rõ tánh tướng của tất cả pháp; tu lòng từ thần thông vì không hoại tánh tướng của tất cả pháp; tu lòng từ nhiếp sự vì dùng phương tiện làm lợi ích các hữu tình; tu lòng từ vô trước vì có vô ngại nhiễm; tu lòng từ không dối trá vì ý lạc thanh tịnh; tu lòng từ không dua nịnh vì gia hạnh thanh tịnh; tu lòng từ không lừa gạt vì không hư dối; tu lòng từ tâm sâu xa vì lìa vết dơ; tu lòng từ an lạc vì làm cho chúng sanh có sự an lạc của chư Phật.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Đó là Bồ tát tu lòng đại từ.

Diệu Cát Tường nói:

– Bồ tát tu lòng đại bi như thế nào?

Vô Cấu Xứng trả lời:

– Tạo ra những căn lành tăng trưởng nào cũng đều đem cho các hữu tình, không tham tiếc gì cả. Đó gọi là Bồ tát tu lòng đại bi.

Diệu Cát Tường hỏi:

– Bồ tát tu hành lòng đại hỷ như thế nào?

Vô Cấu Xứng nói:

– Làm lợi ích cho các hữu tình đều hoan hỷ không hối hận. Đó gọi là Bồ tát tu lòng đại hỷ.

Diệu Cát Tường hỏi:

– Bồ tát tu lòng đại xả thế nào?

Vô Cấu Xứng nói:

– Làm lợi ích với tâm bình đẳng không trông mong quả báo. Đó là Bồ tát tu lòng đại xả.

Diệu Cát Tường hỏi:

– Nếu các Bồ tát sợ sanh tử thì phải nương vào đâu?

Vô Cấu Xứng nói:

– Nếu các Bồ tát lo sợ sanh tử phải luôn nương tựa vào đại ngã của chư Phật.

Lại hỏi:

– Bồ tát muốn trụ vào ngã phải trụ như thế nào?

Trả lời:

– Muốn trụ vào đại ngã phải trụ trong sự giải thoát bình đẳng của tất cả hữu tình.

Lại hỏi:

– Muốn làm cho tất cả hữu tình giải thoát nên trừ diệt những gì?

Trả lời:

– Muốn làm cho tất cả hữu tình được giải thoát phải diệt trừ phiền não của họ.

Hỏi:

– Muốn diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên tu những gì?

Trả lời:

– Muốn diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên tu như lý quán sát các tác ý.

Hỏi:

– Muốn tu như lý, quán sát tác ý nên tu như thế nào?

Trả lời:

– Muốn tu như lý, quán sát tác ý phải tu các pháp không sanh không diệt.

Hỏi:

– Pháp nào không sanh? Pháp nào không diệt?

Trả lời:

– Pháp bất thiện là không sanh, pháp thiện là pháp diệt.

Hỏi:

– Pháp thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?

Trả lời:

– Lấy thân làm gốc.

Hỏi:

– Thân lấy gì làm gốc?

Trả lời:

– Lấy tham dục làm gốc?

Hỏi:

– Tham dục lấy gì làm gốc?

Trả lời:

– Lấy phân biệt hư vọng làm gốc.

Hỏi:

– Phân biệt hư vọng lấy gì làm gốc?

Trả lời:

– Lấy điên đảo vọng tưởng làm gốc.

Hỏi:

– Điên đảo vọng tưởng lấy gì làm gốc?

Trả lời:

– Lấy vô trụ làm gốc.

Diệu Cát Tường hỏi:

– Như vậy vô trụ lấy gì làm gốc?

Vô Cấu Xứng nói:

– Hỏi như vậy là phi lý. Vì sao? Vì vô trụ tức là không có gốc cũng không có chỗ trụ. Do không gốc, không có chỗ trụ nên có thể kiến lập tất cả các pháp.

Khi ấy, trong nhà Vô Cấu Xứng có một thiên nữ ở lâu rồi, thấy mọi người nghe giảng pháp thì bừng sáng chưa từng có, vui mừng khôn xiết liền hiện thân của mình, dùng hoa trời rải cúng dường các Bồ tát và chúng đại Thanh văn. Khi hoa trời ấy đến thân Bồ tát thì hoa liền rơi xuống đất, còn đến thân đại Thanh văn thì hoa dính vào không rớt. Khi ấy chúng đại Thanh văn muốn phủi hoa, bèn dùng thần lực của mình nhưng vẫn không sao rớt xuống.

Bấy giờ, Thiên nữ hỏi tôn giả Xá Lợi Tử:

– Vì sao phải phủi hoa?

Xá Lợi Tử nói:

– Vì hoa không như pháp nên tôi phủi nó.

Thiên nữ nói:

– Thôi, ngài đừng cho rằng hoa ấy là không như pháp. Vì sao? Vì hoa ấy như pháp. Thưa tôn giả, chỉ có ngài là không như pháp. Vì sao? Vì hoa không phân biệt không phân biệt khác, chỉ có tôn giả tự có phân biệt, có phân biệt khác đó thôi. Đối với pháp lành trong Tỳ Nại Da, nếu người xuất gia có phân biệt, có phân biệt khác tức là không như pháp. Còn nếu không phân biệt, không phân biệt khác tức là như pháp.

Thưa Xá Lợi Tử! Thấy các Bồ tát hoa không dính vào đó đều do các vị ấy đã đoạn trừ hẳn tất cả phân biệt và phân biệt khác, thấy các Thanh văn mà hoa dính vào thân là vì chưa đoạn tận tất cả phân biệt và phân biệt khác.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Như khi nào người có sợ sệt thì phi nhân tìm đến làm hại. Nếu không sợ sệt thì tất cả phi nhân không làm hại được. Nếu ai sợ nghiệp phiền não sanh tử thì bị sắc, thanh, hương, vị, xúc… làm hại. Ai không sợ nghiệp phiền não sanh tử thì không bị sắc thanh hương vị xúc ở thế gian làm hại.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu ai chưa đoạn hẳn tập khí phiền não thì hoa ấy dính vào thân. Nếu ai đã đoạn hẳn tập khí phiền não rồi thì hoa ấy rơi xuống.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Thiên nữ ở nhà này đã bao lâu rồi?

Thiên nữ trả lời:

– Tôi ở nhà này cũng như thời gian Xá Lợi Tử đã trụ giải thoát.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Thiên nữ ở nhà này lâu như vậy ư?

Thiên nữ nói:

– Ngài trụ giải thoát cũng lâu như vậy sao?

Bấy giờ, Xá Lợi Tử im lặng không trả lời.

Thiên nữ nói:

– Tôn giả là đại Thanh văn đầy đủ đại huệ biện tài, hỏi một chút như vậy mà nín thinh không trả lời được.

Xá Lợi Tử nói:

– Người giải thoát thì xa lìa các danh ngôn, nên đối với điều đó tôi biết nói sao đây.

Thiên nữ:

– Văn tự mà được nói ra đều là tướng giải thoát. Vì sao? Vì tướng giải thoát này chẳng phải ở trong chẳng phải ở ngoài, chẳng phải chặn giữa mà có thể đắc được. Văn tự cũng như vậy, chẳng ở trong chẳng ở ngoài, chẳng ở chặn giữa mà có thể đắc được. Cho nên chẳng phải lìa văn tự mà nói giải thoát. Vì sao? Vì tánh giải thoát ấy và tánh của tất cả pháp đều bình đẳng.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Chẳng lẽ vì lìa tham sân si… mà được giải thoát sao?

Thiên nữ nói:

– Vì những người tăng thượng mạn mà đức Phật nói lìa tất cả tham sân si để được giải thoát. Nếu vì những người xa lìa tăng thượng mạn thì Ngài nói bản tánh của tất cả tham sân si… là giải thoát.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Lành thay này thiên nữ! Làm thế nào mà cô chứng được trí huệ biện tài như vậy?

Thiên nữ trả lời:

– Tôi không đắc không chứng trí huệ biện tài như vậy. Nếu nói rằng tôi có đắc có chứng tức là kẻ tăng thượng mạn trong thiện thuyết Tỳ Nại Da.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Đối với ba thừa, cô hướng về thừa nào?

Thiên nữ trả lời:

– Tôi hướng về cả ba thừa.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Cô dùng mật ý gì mà nói như vậy?

Thiên nữ nói:

– Vì thường giảng nói đại thừa để người khác mà tôi làm Thanh văn. Vì tự nhiên hiện giác ngộ tánh pháp chơn thật mà tôi làm Duyên giác. Vì không bỏ lòng đại từ bi mà tôi làm Đại thừa.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Vì giáo hóa độ các hữu tình cầu Thanh văn thừa nên tôi làm Thanh văn. Vì giáo hóa độ các hữu tình cầu Độc giác thừa nên tôi làm Độc giác. Vì giáo hóa độ các hữu tình cầu Vô Thượng Thừa nên tôi làm Đại thừa.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Như có người vào rừng Chiêm Bặc Ca chỉ ngửi mùi thơm của cây Chiêm Bặc Ca chứ không thích ngửi mùi thơm của cây cỏ khác. Cũng vậy, nếu ai ở nhà này thì chỉ thích mùi thơm công đức của đại thừa chứ không thích những mùi thơm công đức của Thanh văn, Độc giác. Vì trong nhà này luôn luôn được xông ướp mùi hương thơm công đức vi diệu của tất cả Phật pháp.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu có Thích, Phạm, Tứ Đại Thiên Vương, Na Dà, Dược xoa, A tố lạc… cho đến người và nhơn phi mà vào nhà này đều được chiêm ngưỡng đại sĩ và được gần gũi lễ kính cúng dường nghe đại pháp. Tất cả đều phát tâm đại Bồ đề, đều do mùi thơm công đức vi diệu của tất cả Phật pháp mà ra.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Tôi ở nhà này đã hơn mười hai năm rồi nhưng chưa hề nghe nói những ngôn luận tương ưng về Thanh văn, Độc giác, chỉ nghe các Bồ tát đại thừa hành ngôn luận tương ưng với diệu pháp đại từ đại bi bất khả tư nghì của chư Phật.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này thường hiện lên tám pháp thù thắng chưa từng có. Tám pháp ấy là gì? Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nghĩa là nhà này thường có ánh sáng màu vàng ròng chiếu rực rỡ khắp ngày lẫn đêm đều giống nhau không cần ánh sáng của mặt trời chiếu vào. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ nhất.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này thường có tất cả người và phi nhơn ở thế gian. Sau khi họ đã vào nhà này không bị tất cả phiền não làm hại. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ hai.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này thường có những Thích, Phạm, Tứ Đại vương… và các Đại Bồ tát ở thế giới khác tụ tập không bao giờ ngớt. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ ba.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này thường nghe ngôn luận tương ưng với sáu Ba-la-mật Bất thối chuyển của Bồ tát. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ tư.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này thường trỗi lên những âm nhạc của trời người. Trong những âm nhạc ấy diễn ra vô lượng trăm ngàn pháp âm. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ năm.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này có bốn kho báu lớn, trân bảo đầy ắp không bao giờ hết, đem cung cấp bố thí cho tất cả những người nghèo khổ, người đơn chiếc cô độc, người không chỗ nương tựa, người xin ăn, làm cho họ đầy đủ những trân bảo không bao giờ hết. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ sáu.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này có Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Vô Lượng Thọ Như Lai, Nan Thắng Như Lai, Bất Động Như Lai, Bảo Thắng Như Lai, Bảo Diệm Như Lai, Bảo Nguyệt Như Lai, Bảo Nghiêm Như Lai, Bảo Âm Thanh Như Lai, Sư Tử Hống Như Lai, Nhất Thiết Nghĩa Thành Như Lai… vô lượng đức Như Lai khắp mười phương như vậy. Nếu đại sĩ này phát tâm cầu thỉnh thì quí Ngài lập tức đến giảng nói tất cả pháp môn bí yếu của Như Lai. Nói xong thì quí Ngài đi ngay. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ bảy.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này luôn hiện tất cả cõi Phật trang nghiêm công đức và các trang sức lộng lẫy của cung điện trời. Đó là pháp thù thắng chưa từng có thứ tám.

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nhà này luôn hiện tám pháp thù thắng chưa từng có như vậy. Ai có pháp bất tư nghì này mà còn phát tâm thích cầu pháp Thanh văn, Độc giác sao?

Khi ấy, ngài Xá Lợi Tử hỏi thiên nữ:

– Sao cô không chuyển thân nữ này?

Thiên nữ trả lời:

– Tôi ở nhà này đã hơn mười hai năm, tìm cầu tánh người nữ mãi không được làm sao có sự chuyển?

Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ví như thầy ảo thuật hóa ra huyễn nữ. Nếu ai có hỏi cô: “Sao cô không chuyển thân nữ này?” Hỏi vậy có đúng không?

Xá Lợi Tử nói:

– Thiên nữ! Không đúng. Vì huyễn đã không thật thì sao mà chuyển!

Thiên nữ nói:

– Cũng vậy, tánh tướng của các pháp đều chẳng chân thật, giống như huyễn hóa, tại sao Ngài hỏi không chuyển thân nữ.

Ngay lúc đó Thiên nữ dùng sức thần thông biến Xá Lợi Tử giống như một Thiên nữ, rồi tự biến mình như Xá Lợi Tử, và hỏi Xá Lợi Tử rằng:

– Sao tôn giả không chuyển thân nữ đi?

Khi ấy với dáng Thiên nữ, Xá Lợi Tử trả lời:

– Tôi không biết chuyển làm mất thân nam để chuyển sanh thành nữ!

Thiên nữ lại nói:

– Nếu tôn giả có thể chuyển thân nữ này, thì tất cả thân nữ khác cũng sẽ có thể chuyển được. Như ngài Xá Lợi Tử thật chẳng phải là nữ mà hiện thành thân nữ. Tất cả thân nữ khác cũng lại như vậy. Mặc dầu hiện thân nữ nhưng thật sự chẳng phải nữ. Đức Thế Tôn y vào mật ý này mà nói tất cả pháp chẳng phải nam chẳng phải nữ.

Sau khi nói vậy xong, Thiên nữ thâu nhiếp thần lực trở lại và ai nấy đều hiện ra thân cũ của mình.

Thiên nữ hỏi Xá Lợi Tử:

– Tôn giả! Thân nữ nay ở đâu?

Xá Lợi Tử nói:

– Thân nữ của tôi không còn, không biến chuyển.

Thiên nữ nói:

– Lành thay! Lành thay! Tôn giả! Tất cả cũng như vậy không còn không chuyển, nói tất cả pháp không còn không chuyển đó chính là Phật ngữ.

Xá Lợi Tử hỏi Thiên nữ:

– Ở đây nếu cô chết rồi sẽ sanh ở đâu?

Thiên nữ nói:

– Chỗ Như Lai đã hóa sanh ở đâu thì sẽ sanh chỗ đó.

Xá Lợi Tử hỏi:

– Hóa Như Lai không chết không sanh. Vì sao nói sẽ có chỗ sanh.

Thiên nữ trả lời:

– Thưa tôn giả! Nên biết các pháp và hữu tình cũng như vậy, không diệt không sanh. Vì sao hỏi tôi sẽ sanh vào chỗ nào?

Xá Lợi Tử hỏi Thiên nữ:

– Bao lâu nữa, cô sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiên nữ trả lời:

– Nếu như Xá Lợi Tử trở lại làm phàm phu, đầy đủ pháp phàm phu thì tôi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lâu hay gần cũng thế.

Xá Lợi Tử nói:

– Không xứ sở, không địa vị, tôi sẽ trở thành phàm phu đầy đủ pháp phàm phu.

Thiên nữ nói:

– Tôn giả! Cũng vậy khi nào không có xứ sở không có địa vị thì tôi sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Vô Thượng Bồ đề không có chỗ trụ, cho nên cũng không chứng Bồ đề.

Xá Lợi Tử nói:

– Nếu vậy vì sao đức Phật nói hằng hà sa chư Phật hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đã chứng, sẽ chứng.

Thiên nữ nói:

– Thưa tôn giả! Đó đều là do ngôn ngữ văn tự thế tục mà nói có chư Phật ba đời chứng đắc, chứ chẳng phải nói Bồ đề có quá khứ vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì Vô Thượng Bồ đề vượt qua ba đời. Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ông đã chứng đắc A La Hán rồi sao?

Xá Lợi Tử nói:

– Không đắc mà đắc, đắc mà không chỗ đắc.

Thiên nữ nói:

– Thưa tôn giả! Bồ đề cũng thế, không chứng mà chứng, chứng mà không chỗ chứng.

Khi ấy Vô Cấu Xứng nói với tôn giả Xá Lợi Phất:

– Thiên nữ này đã từng cúng dường gần gũi tôn thờ hơn chín mươi hai trăm ngàn câu chi na do đa đức Phật, trí huệ thần thông đã tự tại, sở nguyện đã đầy đủ, đắc Vô sanh nhẫn, với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã vĩnh viễn bất thối chuyển, theo bổn nguyện lực, theo sở thích của mình, theo chỗ thích nghi mà làm thành thục chúng sanh.

***

8. Phẩm Bồ Đề Phần

Khi ấy, Diệu Cát Tường hỏi Vô Cấu Xứng:

– Với các Phật pháp, Bồ tát làm thế nào để đạt đến chỗ cứu cánh?

Vô Cấu Xứng nói:

– Nếu các Bồ tát hành phi thú thì mới đạt đến chỗ cứu cánh của Phật pháp.

Diệu Cát Tường hỏi:

– Bồ tát hành phi thú như thế nào?

Vô Cấu Xứng trả lời:

– Các Bồ tát mặc dầu hành cõi Ngũ vô gián nhưng không có tâm sân giận não hại; mặc dầu hành cõi Ma Lạc Ca (địa ngục) nhưng lìa tất cả trần cấu phiền não; mặc dầu hành các cõi bàng sanh nhưng lìa tất cả vô minh tăm tối; mặc dầu hành cõi A tố lạc, (ngạ quỉ) nhưng lìa tất cả cống cao ngã mạn. Mặc dầu hành cõi Diệm Ma Vương nhưng chứa nhóm tư lương phước huệ rộng lớn; mặc dầu hành cõi Vô sắc định nhưng không thích hướng về cõi đó; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh tham dục nhưng không thọ dục tất cả những gì ở trong đó, lìa tất cả sự đắm nhiễm; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh sân giận nhưng đối với tất cả cảnh giới hữu tình lìa các sân giận không có tâm tổn hại; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh ngu si nhưng với tất cả pháp đều viễn ly vô minh tăm tối, dùng ánh sáng trí huệ để tự điều phục mình. Mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh xan tham nhưng vứt bỏ những gì trong ngoài, không đoái hoài đến thân mạng mình; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh phạm giới nhưng sống an ổn trong tất cả giới; công đức đầu đà ít muốn biết đủ, trong một tội nhỏ cũng thấy rất sợ hãi; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh sân giận mà an trụ hoàn toàn vào từ bi tâm không não hại; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh biếng nhác nhưng siêng năng tu tập tất cả căn lành, tinh tấn không thay đổi; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh căn loạn nhưng luôn điềm nhiên lặng lẽ tịch tịnh; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh ác huệ nhưng hoàn toàn thông đạt tất cả tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, có lòng tin đạt cứu cánh huệ Ba-la-mật đa; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh dua nịnh dối trá nhưng hoàn thành phương tiện thiện xảo; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh phương tiện mật ngữ kiêu mạn, nhưng vì thành lập cầu đò để cứu giúp. Mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh tất cả phiền não của thế gian nhưng tánh thanh tịnh hoàn toàn không nhiễm. Mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh chúng ma, nhưng có trí huệ giác ngộ tất cả Phật pháp và tự chứng biết không nhờ vào người khác. Mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh Thanh văn nhưng giảng pháp chưa từng nghe cho các hữu tình; mặc dầu thị hiện hành cõi hạnh Độc giác nhưng vì hoàn thành đại từ đại bi làm thành thục chúng sanh; mặc dầu thị hiện ở cõi bần cùng nhưng được trân bảo của cải vô tận; mặc dầu thị hiện ở cõi khuyết căn nhưng đầy đủ tướng tốt đẹp đẽ. Mặc dầu hiện ở cõi ti tiện nhưng sanh vào nhà Phật dòng họ tôn quí tích tập tư lương phước huệ thù thắng; mặc dầu ở cõi gầy ốm xấu xí bị mọi người ghét nhưng được thân như Na La Diên đẹp đẽ, các hữu tình thích nhìn. Mặc dầu ở cõi già bệnh nhưng diệt trừ rốt ráo căn già bệnh vượt qua các sợ hãi chết. Mặc dầu hiện ở cõi cầu của cải địa vị nhưng tu tập nhiều quán tưởng vô thường, dứt các sự mong cầu. Mặc dầu hiện ở cõi cung thất kỹ nữ với các thú vui nhưng luôn vượt qua khỏi các dục bùn dơ, tu tập rốt ráo hạnh viễn ly. Mặc dầu hiện ở cõi đần độn nhưng đầy đủ trang nghiêm biện tài, đắc Đà la ni, trí huệ nhớ không mất. Mặc dầu ở cõi tà đạo nhưng lấy chánh đạo độ các hữu tình. Mặc dầu hiện ở cõi tất cả sanh nhưng thật sự đoạn hẳn tất cả thú sanh. Mặc dầu hiện ở cõi Bát Niết bàn nhưng luôn xả bỏ sanh tử tương tục. Mặc dầu thị hiện đắc diệu Bồ đề chuyển đại pháp luân, nhập Niết bàn nhưng luôn siêng năng tu tập các hạnh Bồ tát liên tiếp không gián đoạn.

Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát hành phi thú như vậy mới được gọi là đạt cõi cứu cánh của Phật pháp.

Bấy giờ, Vô Cấu Xứng hỏi Diệu Cát Tường:

– Những gì là chủng tánh của Như Lai? Xin Ngài lược nói cho.

Diệu Cát Tường nói:

– Tất cả chủng tánh của thân hư ngụy, là chủng tánh của Như Lai; tất cả chủng tánh vô minh hữu ái là chủng tánh của Như Lai; chủng tánh tham dục sân giận ngu si là chủng tánh của Như Lai; chủng tánh hư vọng điên đảo là chủng tánh của Như Lai. Như vậy tất cả chủng tánh năm uẩn, chủng tánh sáu xứ, chủng tánh bảy thức trụ, chủng tánh tám tà, chủng tánh chín não, chủng tánh mười nghiệp đạo bất thiện. Đó là chủng tánh của Như Lai. Nói tóm lại chủng tánh của sáu mươi hai kiến, tất cả phiền não, pháp ác bất thiện là chủng tánh của Như Lai.

Vô Cấu Xứng nói:

– Căn cứ vào mật ngữ nào mà Ngài nói như vậy?

Diệu Cát Tường trả lời:

– Chẳng phải người thấy vô vi đã nhập vào vị Chánh Tánh Ly Sanh thì có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác mà cốt yếu là trụ vào các hành hữu vi phiền não, người chưa kiến đế thì có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Ví như nơi cao đất khô cằn thì không thể sanh hoa Ôn bát la, hoa Bát đặc ma, hoa Câu mẫu đà, hoa Bôn trà lợi. Bốn loại hoa này chỉ mọc trong chỗ ẩm thấp có bùn dơ. Cũng vậy, chủng tánh Thanh văn, Độc giác đã thấy vô vi đã nhập chánh tánh ly sanh thì không thể phát tâm Nhất thiết trí. Chỉ ở trong các hành ẩm thấp bùn dơ phiền não mới phát sanh Nhất thiết trí. Vì ở trong ấy có thể sanh trưởng các Phật pháp.

Này thiện nam tử! Ví như trồng cây ở giữa hư không thì không bao giờ sanh trưởng, mà phải trồng nơi đất thấp ướt có phân mới sanh trưởng được. Cũng vậy, chủng tánh Thanh văn, Độc giác đã thấy vô vi, đã nhập vào vị chánh tánh ly sanh, thì không thể làm tăng trưởng các Phật pháp. Mặc dầu phát sanh thân kiến lớn như núi Diệu Cao nhưng có thể phát nguyện đại Bồ đề. Vì ở trong đó phát sanh các Phật pháp.

Này thiện nam tử! Nếu như người không vào biển cả thì không thể lấy được châu bảo phệ lưu ly vô giá, không vào biển cả sanh tử phiền não thì không bao giờ phát sanh trân bảo vô giá Nhất thiết trí. Thế nên biết rằng chủng tánh của tất cả phiền não sanh tử là chủng tánh của Như Lai.

Khi ấy tôn giả Đại Ca Diếp khen Diệu Cát Tường:

– Lành thay! Lành thay! Ngài nói rất hay là lời chân thật, lời thành thật, lời không khác. Đúng như ngài đã nói, tất cả chủng tánh phiền não sanh tử là chủng tánh của Như Lai. Vì sao? Vì trong tâm tương tục, chủng tánh sanh diệt của chúng tôi đã khô nát rồi thì không bao giờ phát tâm Chánh Đẳng Giác. Thà thành tựu nghiệp ngũ vô gián chứ không làm cho A la hán chúng tôi đạt đến giải thoát cứu cánh. Vì sao? Vì thành tựu nghiệp ngũ vô gián còn có năng lực làm tận nghiệp vô gián để phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, lần lần thành tựu tất cả Phật pháp. Còn các A la hán chúng tôi không bao giờ có khả năng như vậy. Ví như người bị khuyết căn thì không thể nào hưởng được năm dục. Cũng vậy, các A la hán lậu tận, đã dứt hẳn các kiết sử thì không thể làm gì được với Phật pháp. Lại không có ý chí cầu diệu pháp của chư Phật. Cho nên hàng phàm phu có thể báo ân Phật, còn hàng Thanh văn, Độc giác không thể nào báo ân được. Vì sao? Vì phàm phu sau khi nghe Phật pháp thì tăng trưởng công đức, làm Tam bảo không đoạn tuyệt, có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, dần dần thành tựu các Phật pháp. Còn hàng Thanh văn, Độc giác dù trọn đời nghe nói về vô úy, lực của Phật cho đến tất cả công đức bất cộng Phật pháp… cũng không bao giờ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ, trong chúng có Bồ tát tên Phổ Hiện Nhất Thiết Sắc thân hỏi Vô Cấu Xứng:

– Cư sĩ! Cha mẹ, vợ con, nô tỳ, tôi tớ, bạn bè quyến thuộc, thị vệ, voi ngựa xe cộ, người giữ ngựa ở đâu sao không thấy gì cả?

Vô Cấu Xứng nói kệ trả lời:

Huệ độ: Mẹ Bồ tát

Thiện phương tiện là cha

Những đạo sư thế gian

Đều do đây mà sanh.

Diệu pháp lạc là vợ

Từ bi là con gái

Pháp Chơn đế: Con trai

Thắng nghĩa không là nhà

Phiền não là đệ tử

Tùy ý mà chuyển hóa

Giác phần là bạn lành

Do đây thành Chánh Giác

Sáu độ là quyến thuộc

Bốn nhiếp là kỹ nữ

Kết tập chánh pháp ngôn

Để làm diệu âm nhạc

Tổng trì là vườn hoa

Đại pháp là cây rừng

Trang hoàng hoa giác phẩm

Quả giải thoát, trí huệ

Ao bát giải vi diệu

Nước định đầy, trong suốt

Trải đầy hoa Thất tịnh

Rửa sạch các bụi dơ

Voi ngựa là thần thông

Lấy đại thừa làm xe

Điều khiển: Tâm Bồ đề

Đi vào đường bát chánh

Trang hoàng bằng diệu tướng

Xen lẫn những tướng đẹp

Xấu hổ là y phục

Thắng ý lạc: vòng hoa

Chánh pháp là trân báu

Hiển bày là phương tiện

Hành đúng đắn thắng lợi

Hồi hướng Đại Bồ đề

Bốn tịnh lự là giường

Sống trong sạch là nệm

Niệm trí luôn giác ngộ

Luôn luôn ở trong định

Đã ăn, pháp bất tử

Lại uống mùi giải thoát

Tắm rửa tâm thanh tịnh

Xoa ướp bằng giới phẩm

Tiêu diệt giặc phiền não

Dõng mãnh không ai bằng

Chiến thắng bốn quân ma

Dựng thẳng cờ Bồ đề

Tuy thật không sanh diệt

Cho nên nghĩ thọ sanh

Đều hiện các cõi Phật

Như mặt trời chiếu khắp

Đem hết món thượng hạng

Cúng dường chư Như Lai

Với Phật và thân mình

Tất cả không phân biệt

Dù biết các cõi Phật

Và hữu tình đều không

Nhưng thường tu tịnh độ

Lợi vật không mệt mỏi

Tất cả các hữu tình

Sắc thanh và oai nghi

Bồ tát vô úy lực

Đều hiện trong chốc lát

Dù biết các nghiệp ma

Thị hiện chuyển theo đó

Đạt phương tiện cứu cánh

Tùy ý thành tựu cả

Hoặc thị hiện thân mình

Có những già bệnh chết

Làm thành thục hữu tình

Như du hí pháp huyễn

Hoặc hiện nổi kiếp thiêu

Trời đất đều cháy trụi

Vì hữu tình chấp thường

Chiếu để biết mau diệt

Ngàn câu chi hữu tình

Cùng đến mời Bồ tát

Nhận sự cúng dường ấy

Khiến họ hướng Bồ đề

Với những cấm chú thuật

Thư luận và kỹ nghệ

Đều biết rất hoàn hảo

Làm lợi lạc hữu tình

Các đạo pháp thế gian

Đều xuất gia trong đó

Theo phương tiện lợi sanh

Không rơi vào các kiến

Hoặc làm mặt trời, trăng

Phạm Vương chủ thế giới

Địa thủy và hỏa phong

Làm lợi ích hữu tình

Gặp kiếp bệnh truyền nhiễm

Hiện làm các thuốc hay

Diệt trừ các bệnh khổ

Để hướng đại Bồ đề

Nếu với kiếp đói khát

Hiện làm các thức ăn

Trước trừ đói khát ấy

Rồi nói pháp để vui

Nếu với kiếp đao binh

Thì tu từ bi tịnh

Để vô lượng hữu tình

Vui mừng không sân giận

Nếu gặp lúc đại chiến

Hiện bè đảng có sức

Đến giải hòa cho họ

Khuyến phát tâm Bồ đề

Các cõi Phật vô lượng

Địa ngục cũng vô biên

Đi ngay đến nơi ấy

Cứu khổ để an vui

Ở các cõi bàng sanh

Tàn hại ăn nuốt nhau

Đều thị hiện vào đó

Lợi lạc nói đời trước

Thị hiện thọ các dục

Nhưng luôn tu tịnh lự

Quấy loạn các ác ma

Để chúng không làm hại

Như hoa mọc trong lửa

Nói là việc hiếm có

Tu định mà hành dục

Càng hiếm có hơn đây

Hoặc hiện làm dâm nữ

Dụ những kẻ háo sắc

Trước rủ bằng tướng dục

Sau bảo tu trí Phật

Hoặc làm chủ thành ấp

Chủ buôn và quốc sư

Quan liêu đến giúp đỡ

Làm lợi lạc hàm thức

Vì những người khốn khổ

Hiện làm kho vô tận

Cung cấp hết nghèo khổ

Khiến hướng đại Bồ đề

Với những người kiêu mạn

Hiện làm đại lực sĩ

Bẻ gãy cống cao ấy

Để trụ nguyện Bồ đề

Với những người sợ hãi

Dùng cách an ủi họ

Sau họ hết sợ rồi

Để phát tâm Bồ đề

Hiện làm tiên Ngũ thông

Thanh tịnh tu phạm hạnh

Làm họ trụ an lạc

Trong giới, nhẫn, từ, thiện

Hoặc thấy các hữu tình

Hiện tại cần giúp đỡ

Vì họ làm tôi tớ

Đệ tử để giúp họ

Dùng đủ mọi phương tiện

Khiến ưa thích chánh pháp

Ở trong các phương tiện

Đều tu học hoàn hảo

Với vô biên hành động

Vô biên việc đã làm

Vô biên trí viên mãn

Độ thoát vô biên chúng

Giả sử tất cả Phật

Trụ trong trăm ngàn kiếp

Khen ngợi công đức ấy

Vẫn chưa thể cùng tận

Ai nghe pháp như vậy

Không nguyện đại Bồ đề!

Trừ hữu tình thấp kém

Và người không chút trí.

***

9. Phẩm Pháp Môn Bất Nhị

Bấy giờ, Vô Cấu Xứng hỏi khắp các Bồ tát ở trong chúng:

– Bồ tát ngộ nhập vào pháp môn bất nhị như thế nào? Theo khả năng biện tài của mình, các ngài nói tùy ý.

Khi ấy, các Bồ tát trong chúng hội theo sở thích của mình mà lần lượt nói.

Bồ tát tên Pháp Tự Tại nói:

– Sanh và diệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ các pháp xưa nay không sanh cũng không diệt. Chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Thắng Mật nói:

– Ngã và ngã sở phân biệt là hai. Vì do chấp ngã nên chấp ngã sở. Nếu hiểu rõ không có ngã cũng không có ngã sở. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Vô Thuấn nói:

– Hữu thủ và vô thủ, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ vô thủ không chỗ đắc. Vì không chỗ đắc nên không tăng, không giảm, không làm không nghỉ, không chấp trước vào tất cả pháp. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Thắng Phong nói:

– Tạp nhiễm và thanh tịnh, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tạp nhiễm và thanh tịnh không có hai thì không phân biệt, đoạn hẳn sự phân biệt, hướng đến dấu vết tịch diệt. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Diệu Tinh nói:

– Tán động và suy nghĩ, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ không bị tán động, không có đối tượng suy nghĩ thì không tác ý, trụ vào không tán động, không có đối tượng suy nghĩ thì không tác ý. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Diệu Nhãn nói:

– Một tướng không tướng, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ các pháp không có một tướng, không có tướng khác cũng không có không tướng, thì biết một tướng, tướng khác, không tướng ấy là bình đẳng. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Diệu Tý nói:

– Hai tâm Bồ tát và Thanh văn là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh của hai tâm là không như huyễn không có tâm Bồ tát, không có tâm Thanh văn. Tướng của hai tâm ấy bình đẳng đều như huyễn hóa. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Dục Dưỡng nói:

– Thiện và bất thiện, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh thiện và tánh bất thiện không có chỗ phát sanh. Tướng và vô tướng cả hai đều bình đẳng, không nắm bắt không buông xả. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Sư Tử nói:

– Có tội và không tội, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ có tội và không tội cả hai đều bình đẳng. Dùng Kim cang huệ mà thông đạt các pháp không buộc không mở. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Sư Tử Huệ nói:

– Hữu lậu và vô lậu, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh của tất cả pháp đều bình đẳng. Đối với lậu và vô lậu không có hai tưởng. Nếu không chấp vào hữu tưởng không chấp vào vô tưởng. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Tịnh Thắng Giải nói:

– Hữu vi và vô vi, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh hai pháp đều bình đẳng. Xa lìa các hành, giác huệ như hư không. Trí huệ thanh tịnh, không chấp lấy không xả bỏ. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Na La Diên nói:

– Thế gian và xuất thế gian, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ bản tánh của thế gian là không tịch, không nhập không xuất, không lưu chảy, không tản mác, cũng không chấp trước. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Điều Thuận Huệ nói:

– Sanh tử và Niết bàn, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh của sanh tử vốn là không, không có lưu chuyển cũng không tịch diệt. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Hiện Kiến nói:

– Hữu tận và vô tận, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ hoàn toàn không có hữu tận và vô tận. Chủ yếu làm hoàn toàn tận mới gọi là tận. Nếu hoàn toàn tận thì không còn tận đó gọi là vô tận. Nghĩa là trong từng sát na nhất định không có hữu tận tức là vô tận. Vì hữu tận không có nên vô tận cũng không có, biết rõ tánh của hữu tận và vô tận là không. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Phổ Mật nói:

– Hữu ngã và vô ngã, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ hữu ngã còn không thể đắc huống chi vô ngã, thấy tánh ngã và vô ngã không có hai. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Lôi Thiên nói:

– Minh và vô minh, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ bản tánh của vô minh là minh. Minh và vô minh cả hai đều không thể đắc, không thể tính lường vượt qua sự tính lường. Trong đó hiện quán bình đẳng không có hai. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Hỷ Kiến nói:

– Sắc, thọ, tưởng, hành và thức với không, phân biệt là hai. Nếu biết tánh của thủ uẩn vốn là không. Sắc ấy không chứ chẳng phải sắc diệt là không. Cho đến Thức uẩn cũng như vậy. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Quang Tràng nói:

– Bốn giới và không, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết bốn giới tức là tánh hư không. Tánh của bốn giới và không dù trước, giữa, sau đều không điên đảo ngộ nhập vào các giới. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Diệu Huệ nói:

– Nhãn – sắc, Nhĩ – thanh, Tỷ – hương, Thiệc – vị, Thân – xúc, Ý – pháp, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh của tất cả đều là không. Thấy tự tánh của nhãn đối với sắc không tham, không sân, không si. Như vậy cho đến thấy tự tánh của ý đối với pháp không tham, không sân, không si. Như vậy đều là không. Đã thấy như vậy rồi an trụ trong tịch tịnh. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Vô Tận Huệ nói:

– Tánh bố thí với hồi hướng Nhất thiết trí, phân biệt là hai. Như vậy, phân biệt tánh giới, nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã và hồi hướng Nhất thiết trí đều là hai. Nếu hiểu rõ tánh bố thí tức là đã hồi hướng Nhất thiết trí. Tánh hồi hướng Nhất thiết trí ấy tức là bố thí. Như vậy cho đến tự tánh của Bát nhã tức là tánh hồi hướng Nhất thiết trí. Tánh hồi hướng Nhất thiết trí ấy tức là Bát nhã. Nếu hiểu rõ một lý như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Thậm Thâm Giác nói:

– Không, vô tướng và vô nguyện, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ trong cái không ấy hoàn toàn không có tướng. Trong không tướng này cũng không có nguyện. Trong không nguyện này không có tâm, không có ý, không có thức để chuyển. Như vậy tức là một giải thoát môn. Thâu nhiếp tất cả vào ba giải thoát môn. Nếu thông đạt như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Tịch Tịnh Căn nói:

– Phật – Pháp – Tăng bảo, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tánh Phật là tánh Pháp – Pháp là tánh Tăng. Như vậy, Tam Bảo đều là tướng vô vi cũng đồng đẳng với hư không. Các pháp cũng như vậy. Nếu thông đạt như vậy, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Vô Ngại Nhãn nói:

– Thân kiến với diệt Thân kiến, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ Thân kiến tức là diệt Thân kiến. Biết rõ rốt ráo như vậy không khởi Thân kiến. Đối với Thân kiến và diệt Thân kiến không có phân biệt, không phân biệt khác, chứng đắc tánh diệt rốt ráo của hai pháp ấy không nghi ngờ, không sợ hãi. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Thiện Điều Thuận nói:

– Ba loại luật nghi của Thân, Khẩu, Ý, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ ba loại luật nghi ấy đều là tướng vô tác. Tướng ấy không có hai. Vì sao? Vì ba nghiệp đạo này đều là tướng vô tác. Tướng thân vô tác tức là tướng ngữ vô tác. Tướng ngữ vô tác tức là tướng ý vô tác. Tướng ý vô tác tức là tướng của tất cả pháp đều vô tướng. Nếu nhập vào tướng vô tạo tác, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Phước Điền nói:

– Tội hành phước hành và bất động hành, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ tội hành phước hành và bất động hành đều là tướng vô tác. Tướng ấy không có hai. Vì sao? Vì tánh tướng của pháp hành tội hành và bất động hành đều là không. Trong cái không ấy, không có sự khác nhau giữa ba hành tội phước và bất động. Thông đạt rõ như vậy tức là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Hoa Nghiêm nói:

– Tất cả hai pháp do ngã mà phát sanh. Nếu các Bồ tát biết thật tánh của ngã thì không khởi hai. Vì không phát khởi hai nên không liễu biệt. Vì không liễu biệt nên không có đối tượng để liễu biệt. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Thắng Tạng nói:

– Tất cả hai pháp do có sở đắc mà phát sanh. Nếu các Bồ tát biết rõ các pháp hoàn hoàn không sở đắc, không nắm bắt không xả bỏ. Đã không nắm bắt không xả bỏ, đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Nguyệt Thượng nói:

– Sáng và tối, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ thật tướng không tối không sáng. Tánh nó không có hai. Ví như Bí sô nhập diệt tận định thì không có sáng không có tối. Tướng của tất cả các pháp cũng như vậy. Lãnh hội các pháp bình đẳng như vậy, tức là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Bảo Ấn Thủ nói:

– Thích Niết bàn và chán sanh tử là hai. Nếu các Bồ tát biết rõ Niết bàn và sanh tử không có gì thích hay chán thì không có hai. Vì sao? Vì nếu bị sanh tử trói buộc thì cầu giải thoát. Nếu hoàn toàn không còn sự trói buộc của sanh tử nữa thì cầu giải thoát Niết bàn để làm gì? Thông đạt như vậy không còn trói buộc không giải thoát, không thích Niết bàn không chán sanh tử. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Châu Kế Vương nói:

– Chánh đạo và tà đạo, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát an trụ vào chánh đạo, hành tà đạo, hoàn toàn không hành. Vì không hành nên không có hai tướng chánh đạo và tà đạo. Vì trừ bỏ hai tướng nên không có hai giác. Nếu không có hai giác thì ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Bồ tát tên Đế Thật nói:

– Hư và thật, phân biệt là hai. Nếu các Bồ tát quán tánh thật đế còn không thấy thật làm sao thấy hư. Vì sao? Vì tánh này chẳng phải do nhục nhãn thấy. Chỉ có huệ nhãn mới thấy. Khi thấy như vậy, đối với tất cả pháp không thấy, không phải không thấy. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Theo sự hiểu biết của mình, các vị Bồ tát trong hội lần lượt phân biệt nói xong, đồng thời hỏi Diệu Cát Tường:

– Thế nào là Bồ tát ngộ nhập vào pháp môn bất nhị?

Diệu Cát Tường nói với các Bồ tát:

– Với những lời các ngài đã nói, mặc dầu đều hoàn hảo nhưng theo ý của tôi thì các ngài nói như vậy vẫn gọi là hai. Nếu các Bồ tát đối với các pháp không nói không năng, không biểu hiện không chỉ thị, lìa các hý luận, dứt hẳn sự phân biệt. Đó là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị.

Khi ấy Diệu Cát Tường hỏi Vô Cấu Xứng:

– Chúng tôi đã nói theo ý của mình rồi. Ông hãy nói đi. Thế nào là Bồ tát ngộ nhập vào pháp môn bất nhị?

Bấy giờ, Vô Cấu Xứng im lặng không nói.

Diệu Cát Tường lên tiếng:

– Lành thay! Lành thay! Bồ tát như vậy đúng là ngộ nhập vào pháp môn bất nhị. Trong đó hoàn toàn không có những phân biệt văn tự ngôn ngữ.

Khi các Bồ tát nói pháp này trong chúng hội có năm ngàn Bồ tát được ngộ nhập vào pháp môn bất nhị. Cùng một lúc, tất cả đều chứng nhập Vô sanh pháp nhẫn.

***

    Xem thêm:

  • Đà La Ni Bí Mật Phật Đỉnh Tôn Thắng Tâm Phá Địa Ngục Chuyển Nghiệp Chướng Xuất Tam Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 143 – Kinh Giáo Giới Cấp Cô Ðộc (Anàthapindikovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 97 – Kinh Dhànanjàni (Dhànanjàni sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – Thích Huệ Hưng dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà (Văn Vần) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Kim Cang Thọ Mạng - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 15 – Kinh Tư Lượng (Anumàna sutta) - Kinh Tạng
  • Truyện Các Vị Tỳ Kheo Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Nghi quỹ Đà-la-ni Tùy Cầu Tức Đắc Thần biến gia trì thành tựu Kim cang đảnh Du-già tối thắng Bí mật thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 102 – Kinh Năm và Ba (Pancattaya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 30 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 17 - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng
  • Nghi thức Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực - Kinh Tạng