1
2
3

QUYỂN 3

Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ví như có người thân tướng diệu đại. Tu-bồ-đề thưa: Thế Tôn! Như Lai nói thân người diệu đại, tức phi đại thân, do đó Như Lai nói là đại thân. Đức Phật bảo: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát cũng như thế. Nếu nói: Ta sẽ hóa độ vô lượng chúng sinh, khiến họ đạt đến giải thoát, tức chẳng phải là Bồ-tát.

Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Từng có pháp thật gọi là Bồ-tát chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không có, bạch Đức Thế Tôn! Thật không có pháp gọi là Bồ-tát. Thế nên Phật nói tất cả pháp không có chúng sinh, không nhân, không thọ giả”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là Trụ xứ thứ 17: Nói về nhập chứng đạo. Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví như có người thân tướng diệu đại v.v…: Đây là hiển bày lúc nhập chứng đạo, đạt được trí tuệ nên lìa kiêu mạn.

Thế nào là đạt được trí? Có 2 thứ trí:

1. Trí gồm thâu chủng tánh.

2. Trí bình đẳng.

Như đạt được trí rồi, thì được sinh nơi nhà Như Lai, quyết định được nối tiếp Phật chủng. Đây là trí gồm thâu chủng tánh. Đạt được trí ấy thể có thể đắc diệu thân.

Ở đây, diệu thân: Là thân chí đắc thành tựu, là thân được chuyển y rốt ráo. Đại thân: Là thân gồm thâu thân của tất cả chúng sinh. Nếu ở nơi đêm dài sinh tử của nhà nầy nguyện sinh, đã được sinh rồi, nên có được thân ấy, đó gọi là trí bình đẳng của diệu thân. Lại có 5 thứ nhân duyên bình đẳng:

1. Thô ác bình đẳng.

2. Pháp vô ngã bình đẳng.

3. Đoạn tương ưng bình đẳng.

4. Tâm không mong cầu tương ưng bình đẳng.

5. Tất cả Bồ-tát chứng đạo bình đẳng.

Đạt được những thứ ấy nên đắc đại thân, là đại thân gồm thâu tất cả chúng sinh. Ở trong thân ấy, an lập không phải là tự, không phải là tha.

Kinh nói: Thế Tôn! Như Lai nói thân người diệu, đại tức phi đại thân, do đó Như Lai nói là đại thân v.v…: Ở trong diệu thân ấy, an lập đệ nhất nghĩa. Như thế v.v…, gọi là đắc trí tuệ.

Thế nào là lìa kiêu mạn? Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát cũng như vậy. Nếu nói: Ta sẽ hóa độ vô lượng chúng sinh khiến họ đạt đến giải thoát v.v…: Ở đây, làm thế nào có thể nhận biết? Nếu khởi niệm: Ta hóa độ chúng sinh khiến họ được giải thoát. Ta là Bồ-tát. Nên biết đây là mạn, không phải là Bồ-tát thật nghĩa. Vì nhằm hiển bày điều ấy, nên kinh nói: Do đó, Phật nói tất cả pháp là không chúng sinh v.v…: Nếu Bồ-tát có niệm về chúng sinh, thì không đạt được diệu thân, đại thân.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói như vầy: Ta trang nghiêm quốc độ của Phật, thì không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì Như Lai nói trang nghiêm quốc độ của Phật, tức phi trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm quốc độ của Phật. Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thông tỏ về vô ngã, pháp vô ngã, Như Lai nói là Bồ-tát chân thật”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là Trụ xứ thứ 18: Nói về trên cầu Phật địa. Nên biết địa nầy lại có 6 thứ đầy đủ, thâu giữ chuyển y đầy đủ.

1. Quốc độ thanh tịnh đầy đủ.

2. Kiến, trí vô thượng thanh tịnh đầy đủ.

3. Phước tự tại đầy đủ.

4. Thân đầy đủ.

5. Ngữ đầy đủ.

6. Tâm đầy đủ.

Vì Quốc độ thanh tịnh đầy đủ về Tam-muội, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói: Ta trang nghiêm quốc độ của Phật, thì không gọi là Bồ-tát v.v…: Nghĩa nầy là ở trong phần nói về hành chánh cùng kiến đã chuyển. Nhằm đoạn trừ điều ấy, nên an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh viết: Tức phi trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm quốc độ.

Lại, kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thông tỏ về vô ngã, pháp vô ngã: Đây là nói về hai thứ vô ngã: Nghĩa là người vô ngã, pháp vô ngã.

Lại, kinh viết: Như Lai nói là Bồ-tát, Bồ-tát ấy, ở trong hai thứ vô ngã kia, có hai thứ chánh giác: Ở đây là hiển thị những gì?

Nếu nói Ta thành tựu, tức là ngã chấp giữ của người. Trang nghiêm quốc độ, là ngã chấp giữ của pháp. Đấy không phải là Bồ-tát.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có Nhục nhãn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có Nhục nhãn.

Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có Thiên nhãn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có Thiên nhãn.

Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có Tuệ nhãn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có Tuệ nhãn.

Đức Phật bảo: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có Pháp nhãn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có Pháp nhãn.

Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có Phật nhãn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai có Phật nhãn.

Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như số cát hiện có nơi sông Hằng, Phật nói là cát chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Như Lai nói là cát.

Đức Phật bảo: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như số cát hiện có nơi một sông Hằng, thì có số lượng sông Hằng bằng như thế. Số lượng cát hiện có nơi những sông Hằng ấy, là thế giới của Phật. Thế giới như vậy là nhiều chăng? Tu-bồ-đề thưa: Thế giới ấy là rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Trong số lượng thế giới như thế, với chúng sinh hiện có, có từng ấy thứ tâm trụ. Như Lai thảy đều nhận biết. Vì sao? Vì Như Lai nói các tâm trụ đều là phi tâm trụ, đó gọi là tâm trụ. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Vì tâm quá khứ không thể thủ đắc. Tâm hiện tại không thể thủ đắc. Tâm vị lai không thể thủ đắc”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần đầy đủ thứ hai (trong 6 thứ đầy đủ của Phật địa): Nói về Kiến, trí vô thượng thanh tịnh đầy đủ. Kinh viết: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có Nhục nhãn chăng? v.v… Ở đây có 2 loại:

1. Kiến tịnh.

2. Trí tịnh.

Như Lai không chỉ có Tuệ nhãn. Vì khiến cho tri kiến thanh tịnh thù thắng, nên hiển thị có 5 thứ nhãn (mắt). Nếu khác với đấy, thì chỉ cầu Tuệ nhãn kiến tịnh. Ở đây lược nói có 4 thứ nhãn (mắt):

1. Sắc gồm thâu.

2. Đệ nhất nghĩa đế gồm thâu.

3. Thế đế gồm thâu.

4. Hết thảy chủng, tất cả nên biết, gồm thâu.

Sắc gồm thâu lại có 2 thứ: Là pháp giới và tu giới. Đây là cảnh giới thô của 5 mắt (nhãn), nên sắc gồm thâu thứ nhất là trí lực của đệ nhất nghĩa. Thế trí không điên đảo cùng chuyển, do đấy, đệ nhất nghĩa đế gồm thâu tại trước. Ở đây, vì người nói pháp. Nếu pháp kia vì người ấy nên thiết lập, thì trí nầy gọi là Pháp nhãn (mắt pháp). Trong tất cả nên biết, trí không dụng công của hết thảy chủng, gọi là Phật nhãn. Những thứ ấy gọi là kiến tịnh. Như kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như số lượng cát hiện có nơi sông Hằng v.v… Đấy là trí tịnh. Ở đây, tâm trụ: Nghĩa là tâm của ba đời. Từng ấy thứ: Nên biết có hai thứ: Là nhiễm và tịnh, tức là tâm cùng dục và tâm lìa dục. Đời: Là nói các phần như quá khứ v.v… Ở trong hai thứ ấy, an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh viết: Như Lai nói các tâm trụ đều là phi tâm trụ, cho đến: Tâm quá khứ không thể thủ đắc v.v…

Ở đây, tâm quá khứ không thể thủ đắc: Là đã diệt. Vị lai: Là chưa có. Hiện tại: Là đệ nhất nghĩa.

Vì cần biết hợp với chứng, nên an lập kiến. Vì giáo hóa các chúng sinh kia khiến tâm tịch tĩnh, nên an lập trí. Ở trong trí tịnh ấy, nói tâm trụ tức phi tâm trụ. Như vậy, trong kiến tịnh, do đâu không nói nhãn tức phi nhãn? Do một trụ xứ, nên kiến trí tịnh, sau mới an lập đệ nhất nghĩa, nên đầu tiên cũng được thành tựu.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nếu có người đem bảy thứ báu đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới để hành bố thí, thì thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên đó nên được phước nhiều chăng? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Những người nầy, do nhân duyên ấy, nên có được phước rất là nhiều. Đức Phật bảo: Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-bồ-đề! Các thiện nam, thiện nữ kia, do nhân duyên ấy nên được tụ phước đức nhiều. Nếu tụ phước đức có thật, Như Lai tức không nói tụ phước đức là tụ phước đức”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần đầy đủ thứ ba: Nói về Phước tự tại đầy đủ. Như kinh nói: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Nếu có người đem bảy thứ báu đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v…: Ở đây cũng an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu tụ phước đức có thật v.v…

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng sắc thân đầy đủ để thấy Phật chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không thể, bạch Đức Thế Tôn! Không nên dùng sắc thân để thấy Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai nói sắc thân đầy đủ, tức phi sắc thân đầy đủ, do đó Như Lai nói là sắc thân đầy đủ.

Phật bảo: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng các tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không thể, bạch Đức Thế Tôn! Không nên dùng các tướng đầy đủ để thấy Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai nói các tướng đầy đủ tức phi đầy đủ, do đó Như Lai nói là các tướng đầy đuû”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần đầy đủ thứ tư: Nói về Thân đầy đủ. Ở đây lại có 2 thứ:

1. Vẻ đẹp đầy đủ.

2. Tướng đầy đủ.

Vì làm rõ vẻ đẹp đầy đủ, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng sắc thân đầy đủ để thấy Phật chăng? v.v…: Trong đây cũng để an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh viết: Như Lai nói là phi đầy đủ v.v…

Vì làm rõ tướng thân đầy đủ, kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng các tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v…

* Kinh viết: “Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Tôn giả cho là Như Lai có suy niệm: Ta hiện có pháp để thuyết giảng chăng? Chớ nên nghĩ như thế. Vì sao? Vì nếu có người nói Như Lai có thuyết pháp, tức là hủy báng Phật, là không thể hiểu rõ điều Như Lai đã giảng nói. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Vì Như Lai thuyết pháp, thì việc thuyết pháp ấy là không có pháp để có thể thuyết, đó gọi là thuyết pháp”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần đầy đủ thứ năm: Nói về Ngữ đầy đủ. Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Tôn giả cho là Như Lai có khởi niệm: Ta hiện có pháp để thuyết giảng chăng? v.v… Ở đây, để an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh nói: Như Lai thuyết pháp, thì việc thuyết pháp ấy v.v…

* Kinh viết: “Bấy giờ, Huệ mạng Tu-bồ-đề bạch Phật: Thế Tôn! Như có chúng sinh nơi đời vị lai, nghe giảng nói về pháp nầy, có thể sinh tâm tin tưởng chăng? Đức Phật bảo: Chúng sinh ấy là phi chúng sinh, phi chẳng chúng sinh. Vì sao? Vì chúng sinh, chúng sinh ấy, Như Lai nói là phi chúng sinh, đó gọi là chúng sinh”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần đầy đủ thứ sáu: Nói về Tâm đầy đủ. Ở trong tâm đầy đủ ấy lại có 6 thứ:

1. Niệm xứ.

2. Chánh giác.

3. Thiết lập pháp lợi lớn.

4. Thâu giữ Pháp thân.

5. Không trụ nơi sinh tử, Niết-bàn.

6. Hành trụ thanh tịnh.

Nên biết, vì Niệm xứ trong tâm đầy đủ, nên kinh nói: Thế Tôn! Như có chúng sinh nơi đời vị lai, nghe thuyết giảng pháp nầy, có thể sinh tâm tin tưởng chăng? v.v… Xứ ấy, ở trong các chúng sinh là hiển thị như niệm xứ của Đức Thế Tôn.

Chúng sinh kia là phi chúng sinh: Là đệ nhất nghĩa.

Là phi chẳng chúng sinh: Là thế đế.

Người ấy tức là hy hữu bậc nhất: Là hiển thị nói về đệ nhất nghĩa. Là không chung cùng tương ưng. Văn nầy như trước đã nói.

* Kinh viết: “Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không có, bạch Đức Thế Tôn! Vì không có một chút pháp nào gọi là Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Đức Phật bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Nầy Tu-bồ-đề! Ta ở nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng, cho đến không có một chút pháp nào có thể chứng đắc. Đó gọi là đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, đó gọi là đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Do không chúng sinh, không nhân, không thọ giả, nên đạt được đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Nầy Tu-bồ-đề! Gọi là pháp thiện, pháp thiện ấy Như Lai nói là phi pháp thiện. Đó gọi là pháp thiện”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần thứ hai, nói về Chánh giác ở trong tâm đầy đủ. Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? v.v…

Ở đây, không có pháp: Là lìa lỗi lầm của hữu kiến.

Đã hiển thị Bồ-đề cùng đạo Bồ-đề, nghĩa ấy lại hiển thị Bồ-đề có 2 thứ nhân duyên: Là nói về vô thượng và nói về Chánh đẳng Chánh giác. Trong đó, kinh viết: Không có một chút pháp nào để Như Lai chứng đắc A-nậu-đa-la: Đây là nói về vô thượng, là hiển bày về tự tướng của Bồ-đề, tướng giải thoát của Bồ-đề. Ở đây, không có vi trần để cho là pháp có thể tánh, thế nên cũng không thể thủ đắc, cũng không thật có, nên biết. Kinh nói: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Pháp ấy là bình đẳng: Là nói về Chánh đẳng Chánh giác, hiển thị tướng bình đẳng của người đạt Bồ-đề.

Trong ấy, bình đẳng: Là do pháp Bồ-đề nên được nhận biết là Phật.

Ở đây, kinh nói không có cao thấp: Là hiển thị tất cả chư Phật, trong đệ nhất nghĩa, thọ mạng bình đẳng không có cao, thấp.

Kinh nói: Do không chúng sinh, không nhân, không thọ giả, nên đạt được đạo quả Bồ-đề Vô thượng bình đẳng: Là hiển thị về Bồ-đề, là tướng bình đẳng đối với pháp sinh tử.

Kinh nói: Tu tất cả pháp thiện, đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng: Là hiển thị về đạo Bồ-đề.

Kinh nói: Gọi là pháp thiện, pháp thiện ấy Như Lai nói là phi pháp thiện, đó gọi là pháp thiện: Đây là an lập tướng của đệ nhất nghĩa.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Các núi chúa Tu-di hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới, nếu có người dùng khối lượng bảy báu bằng như thế để hành bố thí, tức có được phước đức rất nhiều. Nếu lại có người, đối với Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nầy, cho đến chỉ bốn câu kệ, thọ trì, đọc tụng, vì kẻ khác giảng nói, thì phước đức đạt được, so với phước đức của trường hợp trước là hơn hẳn. Phước đức của trường hợp trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn v.v…, cho đến toán số, thí dụ cũng không thể nêu bày hết được số lượng phước đức ấy.

Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Tôn giả cho là Như Lai đã khởi niệm: Ta hóa độ chúng sinh chăng? Chớ có kiến như vậy. Vì sao? Vì thật không cóchúng sinh để Như Lai hóa độ. Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu thật có chúng sinh để Như Lai hóa độ, thì Như Lai tức có tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai nói có ngã tức phi có ngã, nhưng hàng phàm phu tối tăm sinh khởi cho là có ngã. Hàng phàm phu tối tăm sinh khởi, Như Lai nói là phi sinh khởi, do đó nói là hàng phàm phu tối tăm sinh khởi”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần thứ ba: Ở trong tâm đầy đủ kia là Thiết lập pháp lợi lớn. Như kinh nói: Các núi chúa Tu-di hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v… Ở đây vì an lập sự dạy trao của đệ nhất nghĩa, nên kinh viết: Tôn giả cho là Như Lai đã khởi niệm: Ta hóa độ các chúng sinh chăng? v.v…

Lại, kinh nói: Như Lai tức có tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả v.v… Đây có nghĩa gì? Như Lai như nơi cảnh giới mà nhận biết, thế nên, nếu có chúng sinh thì Như Lai tức có ngã chấp giữ, hoặc thật không ngã mà nói là ngã chấp giữ. Vì nhằm lìa chấp trước nầy, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai nói có ngã, tức là phi có ngã v.v… Thế nên chỉ là hàng trẻ con, phàm phu mới có chấp giữ như thế, nên kinh viết: Hàng phàm phu tối tăm sinh khởi, Như Lai nói là phi sinh khởi, do đấy nói là hàng phàm phu tối tăm sinh khởi.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để được thấy Như Lai chăng? Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu về nghĩa của Đức Thế Tôn đã giảng nói, thì không thể dùng tướng thành tựu để được thấy Như Lai.

Đức Phật bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Nầy Tu-bồ-đề! Không thể dùng tướng thành tựu để được thấy Như Lai.

Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu dùng tướng thành tựu để quán Như Lai, thì Chuyển luân Thánh vương nên là Như Lai. Do đấy, không thể dùng tướng thành tựu để được thấy Như Lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu dùng sắc thấy Ta

Dùng âm thanh tìm Ta

Người ấy hành nẻo tà

Không thể thấy Như Lai.

Thể diệu của Như Lai

Tức Pháp thân chư Phật

Thể pháp không thể thấy

Thức kia chẳng thể biết.

Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có thể dùng tướng thành tựu chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng chăng? Nầy Tu-bồ-đề! Chớ nên khởi niệm ấy, cho là Như Lai do tướng thành tựu chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần thứ tư: Nói về Thâu giữ Pháp thân ở trong tâm đầy đủ. Như kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để được thấy Như Lai chăng? v.v…

Ở đây, kệ thứ nhất hiển thị như chỗ không nên thấy, không thể thấy. Vì sao không thể thấy? Vì các thứ thấy là thế đế. Người ấy hành tĩnh tà: Định gọi là tĩnh, do đạt được thiền nên gọi là tịch tĩnh, gọi là người tịch tĩnh. Lại, thiền gọi là tư duy tu, trong ấy, tư là thuộc về ý, tu là thuộc về thức. Nói tịch tĩnh tức là nói về giác và thức, nên biết đây là thuộc về thế đế. Người kia không thể thấy: Nghĩa là người ấy đã hành theo thế đế.

Kệ thứ hai hiển bày như người kia không nên thấy, cùng nhân duyên không nên. Nghĩa là phần đầu, phần tiếp theo, trong đó, kệ nói: “Do pháp nên thấy Phật”, thì pháp là nghĩa chân như. Đây là nhân duyên gì? Kệ nêu: “Đạo sư pháp làm thân”. Do như làm duyên, nên xuất sinh thân chư Phật thanh tịnh. Thân ấy không thể thấy, chỉ nên thấy pháp, tức kẻ kia không thể thấy. Lại do nhân duyên gì nên không thể thấy? Là do tướng chân như của pháp kia, không phải như ngôn thuyết mà nhận biết, chỉ tự chứng biết.

Không như ngôn thuyết: Là không phải thấy thật, không thể nhận biết. Vì nhằm hiển thị nghĩa ấy, nên kệ nói:

Thể pháp không thể thấy

Thức kia chẳng thể biết.

Ở trong trụ xứ nầy, được hiển thị do Pháp thân nên thấy Như Lai, không phải do tướng đầy đủ. Nếu thế, Như Lai tuy không nên dùng tướng đầy đủ để thấy, nhưng tướng đầy đủ là nhân để chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Vì để lìa chấp trước nầy, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có thể dùng tướng thành tựu để đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng Như Lai? Nầy Tu-bồ-đề! Chớ nên khởi niệm như thế: nghĩa nầy nêu rõ tướng đầy đủ, thể không phải là Bồ-đề, cũng không dùng tướng đầy đủ làm nhân, do tướng là tự tánh của sắc.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Tôn giả nếu khởi niệm nầy: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, cầu đạt đạo quả Chánh giác Vô thượng, là nói tướng đoạn diệt của các pháp. Nầy Tu-bồ-đề! Chớ nên khởi niệm như thế. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cầu đắc đạo quả Chánh giác Vô thượng, đối với pháp không nói về tướng đoạn diệt. Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có các thiện nam, thiện nữ, đem bảy thứ báu đầy khắp trong Hằng hà sa thế giới để hành bố thí. Nếu lại có Bồ-tát nhận biết về tất cả pháp là vô ngã, đắc pháp Nhẫn vô sinh, thì công đức của Bồ-tát nầy hơn hẳn phước đức đã đạt được của trường hợp trước. Nầy Tu-bồ-đề! Do các Bồ-tát không chấp giữ nơi phước đức.

Tu-bồ-đề bạch Phật: Thế Tôn! Bồ-tát không chấp giữ phước đức.

Đức Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát thọ nhận phước đức nhưng không chấp giữ phước đức. Thế nên Bồ-tát nhận lấy phước đức”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần thứ năm: Nói về Không trụ nơi sinh tử Niết-bàn, ở trong tâm đầy đủ. Ở đây có 2:

1. Không trụ nơi Niết-bàn.

2. Không trụ nơi sinh tử.

Vì không trụ nơi Niết-bàn, như kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tôn giả nếu khởi niệm nầy: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cầu đắc đạo quả Chánh giác Vô thượng, là nói về tướng đoạn diệt của các pháp v.v…. Ở đây kinh nói: Đối với pháp không nói đoạn diệt: Nghĩa là như pháp đã trụ mà thông tỏ, không đoạn pháp ảnh tượng của hết thảy sinh tử. Đối với Niết-bàn tự tại, hành sự tạo lợi ích cho chúng sinh. Trong đấy là nhằm ngăn chận nẻo hoàn toàn tịch tĩnh, hiển thị không trụ nơi Niết-bàn. Nếu không trụ nơi Niết-bàn thì phải thọ nhận sinh tử khổ não, vì nhằm lìa bỏ chấp trước ấy, hiển thị không trụ nơi lưu chuyển, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu các thiện nam, thiện nữ dùng bảy thứ báu chất đầy khắp Hằng hà sa thế giới để hành bố thí v.v…

Ở đây, kinh nói: Vô ngã, pháp Nhẫn vô sinh: Là nghĩa gì?

Như Lai, đối với pháp hữu vi đạt được tự tại, nên không có ngã, pháp của sinh tử ấy, lại không phải từ lực của phiền não nghiệp sinh, nên vô sinh, gọi là vô ngã. Vô sinh: Ở đây làm sao được hiển thị? Như nói thâu giữ phước khác, hãy còn ở trong sinh tử không thọ nhận khổ não, huống chi là Bồ-tát ở trong pháp vô ngã vô sinh đã được nhẫn rồi, phước đức được sinh hơn hẳn trường hợp kia. Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Do các Bồ-tát không chấp giữ phước đức: Đây là hiển bày không trụ nơi sinh tử, nếu trụ nơi sinh tử tức thọ nhận tụ phước.

Lại, kinh viết: Tu-bồ-đề bạch Phật: Thế Tôn! Bồ-tát không chấp giữ phước đức: Đây có nghĩa gì? Do Đức Thế Tôn ở nơi chỗ khác nói nên thọ nhận tụ phước, nên kinh viết: Phật nói: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát thọ nhận phước đức nhưng không chấp giữ phước đức. Do đó Bồ-tát nhận lấy phước đức: Đây là hiển thị dùng phương tiện, nên thọ nhận mà không nên chấp giữ.”

Thọ nhận là nói có. Giữ lấy là tu đạo kia, như tụ phước cùng trong quả, đều không nên chấp trước.

* Kinh viết:“Nầy Tu-bồ-đề! Như có người nói: Như Lai hoặc đi hoặc đến, hoặc đứng hoặc ngồi, hoặc nằm, thì người ấy đã không lãnh hội được ý nghĩa Như Lai đã giảng nói. Vì sao? Vì Như Lai là không từ đâu đến cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần thứ sáu: Nói về Hành trụ thanh tịnh ở trong tâm đầy đủ.

Ở đây nên biết lại có 3 thứ:

1. Hành trụ oai nghi.

2. Quán danh sắc làm rõ hành trụ tự tại.

3. Hành trụ không nhiễm.

Vì nêu rõ Hành trụ oai nghi, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: Như Lai hoặc đi hoặc đến v.v…

Ở đây, hành là đi, đến. Trụ là các oai nghi còn lại.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ, đem Tam thiên đại thiên thế giới nghiền nhỏ thành vi trần, lại đem từng ấy vi trần thế giới nghiền nhỏ làm A-tăng-kỳ vi trần. Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Số lượng vi trần ấy nên cho là nhiều chăng? Tu-bồ-đề thưa: Số lượng vi trần ấy là rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn! Vì sao? Vì nếu số lượng vi trần ấy là thật có, thì Đức Phật tức không nói là các vi trần. Vì sao? Vì Đức Phật nói các vi trần tức phi các vi trần, do đấy Phật nói là các vi trần thế giới. Như Lai đã nói Tam thiên đại thiên thế giới tức phi thế giới, thế nên Như Lai nói là Tam thiên đại thiên thế giới. Vì sao? Vì nếu thế giới là thật có, tức là một hợp tướng. Như Lai nói một hợp tướng tức phi hợp tướng, thế nên Như Lai nói là một hợp tướng. Đức Phật bảo: Nầy Tu-bồ-đề! Một hợp tướng ấy tức là không thể nói. Chỉ vì người phàm phu tham chấp nơi sự. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: Phật đã nói về kiến ngã, kiến nhân, kiến chúng sinh, kiến thọ giả, theo ý của Tôn giả nghĩ sao? Người ấy đã nói là chánh ngữ chăng? Tu-bồ-đề thưa: Không phải, bạch Đức Thế Tôn! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Như Lai nói kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tức phi kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, đó gọi là kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cầu đắc đạo quả Chánh giác Vô thượng, đối với tất cả pháp, nên biết như thế, nên thấy như thế, nên tin như thế, nên không trụ nơi tướng của pháp như thế. Vì sao? Nầy Tu-bồ-đề! Gọi là tướng của pháp, tướng của pháp ấy, Như Lai nói tức phi tướng của pháp, đó gọi là tướng của pháp”.

* Luận nêu: Từ đây tiếp xuống là làm rõ Hành trụ tự tại của thân danh sắc. Như kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ, đem Tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát thành vi trần v.v… Ở đây, phương tiện tế mạt chính là phương tiện không chỗ thấy. Về sự làm rõ ấy, như trước đã nói, nên biết. Kinh viết: Số lượng vi trần kia là rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn: Là nói về phương tiện tế mạt. Kinh nói: Nếu số lượng vi trần ấy là thật có, thì Đức Phật tức không nói là số lượng vi trần v.v…: Đó là phương tiện không chỗ thấy. Ở đây có nghĩa gì? Nếu số lượng vi trần nơi đệ nhất nghĩa là có, thì Đức Thế Tôn tức không nói là phi số lượng. Kinh viết: Phật nói số lượng vi trần, tức phi số lượng vi trần, thế nên Đức Phật nói là số lượng vi trần. Do thể của tụ ấy là không thành. Nếu khác với đây, tuy không nói cũng tự nhận biết là tụ, theo nghĩa nào cần nói. Kinh viết: Như Lai đã nói Tam thiên đại thiên thế giới v.v…: Đây là phương tiện không chỗ thấy. Ở đây làm rõ về danh thân cũng như trước đã nói, nên biết.

Ở đây, thế giới là nêu rõ về thế giới của chúng sinh. Thế giới kia chỉ được gọi là danh thân. Kinh viết: Nếu thế giới là thật có, tức là một hợp tướng: Ở đây là cùng nêu, hoặc thế giới hoặc vi trần giới, nên có 2 thứ nắm giữ:

1. Nắm giữ duy nhất.

2. Nắm giữ sai biệt.

Loại chúng sinh, thế giới chúng sinh là có: Đây là nắm giữ duy nhất. Vi trần là có: Đây là nắm giữ sai biệt. Do giữ lấy số lượng vi trần được tập hợp. Kinh nói: Như Lai nói một hợp tướng tức phi một hợp tướng v.v…: Đây là Thượng tọa Tu-bồ-đề an lập đệ nhất nghĩa. Đức Thế Tôn vì thành tựu nghĩa như vậy, nên kinh viết: Một hợp tướng: Tức là không thể nói v.v… Đây là điều gì được hiển thị? Theo ngôn thuyết của thế gian nên có, còn sự nắm giữ kia là đệ nhất nghĩa, nên pháp ấy không thể nói. Trẻ con, hàng phàm phu kia theo như ngôn thuyết, đã chấp giữ, không phải là đệ nhất nghĩa. Đã nói về phương tiện không chỗ thấy, còn nghĩa làm rõ thì chưa nói. Trong không chỗ thấy, lúc nhập Tam-muội tương ưng là không phân biệt. Nghĩa là như chỗ không phân biệt cùng người nào, pháp nào, phương tiện nào. Vì sao không phân biệt? Điều nầy, đoạn sau sẽ nói đủ. Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói như vầy: Phật nói kiến chấp về ngã v.v… Do cùng hiển thị như chỗ không phân biệt. Vì sao được hiển thị? Như ngoại đạo nói ngã, Như Lai nói là ngã kiến, nên an lập nhân vô ngã. Lại, vì nói ngã kiến nầy là có nên an lập pháp vô ngã. Nếu ngã kiến kia là có, thuộc về kiến, Bồ-tát quan sát như thế, lúc nhập Tam-muội tương ưng thì không còn phân biệt nữa, tức quan sát ấy là nhập phương tiện.

Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cầu đắc đạo quả Chánh giác Vô thượng: Đây là hiển thị không phân biệt về người. Kinh viết: Đối với tất cả pháp: Đây là hiển thị ở nơi pháp nào không phân biệt.

Kinh nói: Nên biết như vậy, thấy như vậy, tin như vậy: Đây là hiển thị tâm tăng thượng, trí tăng thượng, ở trong không phân biệt thấy biết thắng giải. Ở đây, nếu trí dựa nơi Chỉ nên biết, dựa vào Quán nên thấy. Hai thứ ấy dựa nơi Tam-muội nên thắng giải, do Tam-muội tự tại, nên hiểu rõ về ảnh tượng duyên dựa bên trong, đấy gọi là thắng giải.

Kinh nói: Như thế là không trụ nơi tướng của pháp: Đây chính là hiển thị về không phân biệt. Kinh viết: Gọi là tướng của pháp, thì tướng của pháp ấy, Như Lai nói tức phi tướng của pháp, đó gọi là tướng của pháp: Đây là hiển thị về nghĩa không chung cùng nghĩa tương ưng trong tướng của pháp, như trước đã nói. Như thế, trong tất cả trụ xứ, phương tiện của Tam-muội tương ưng cũng vậy, nên biết. Dục nguyện cùng thâu giữ sự tán loạn, hai thứ ấy như trước đã nêu. Lại không có nghĩa khác, nên không nói lại về phương tiện.

* Kinh viết: “Nầy Tu-bồ-đề! Như có Đại Bồ-tát, dùng bảy thứ báu đầy khắp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới để hành bố thí. Nếu lại có thiện nam, thiện nữ phát tâm Bồ-tát, đối với Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nầy, cho đến chỉ bốn câu kệ, thọ trì, đọc tụng, vì kẻ khác giảng nói, thì phước đức có được hơn hẳn trường hợp trước gấp vô lượng A-tăng-kỳ lần.

Thế nào là vì người diễn nói, mà không gọi là nói, đó gọi là nói:

Hết thảy pháp hữu vi

Như sao, màng, đèn, huyễn

Sương, bọt, mộng, chớp, mây

Nên quán xét như thế”.

* Luận nêu: Từ đây trở xuống là phần thứ ba, nói về Hành trụ không nhiễm. Ở đây có 2 loại:

1. Thuyết pháp không nhiễm.

2. Lưu chuyển không nhiễm.

Vì nêu về thuyết pháp không nhiễm, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có Đại Bồ-tát, đem bảy thứ báu chứa đầy khắp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới v.v…: Đây là hiển bày về điều gì? Do có được lợi ích lớn như thế, nên quyết định cần diễn nói, diễn nói như thế là không chỗ nhiễm. Kinh viết: Thế nào là vì người diễn nói mà không gọi là nói, đó gọi là nói: Đây có nghĩa gì? Là hiển thị không thể ngôn thuyết, nên không diễn nói pháp kia. Do thể tánh có thể nêu bày, nên diễn nói như thế. Nếu khác với điều ấy, tức là thuyết giảng có nhiễm, do nghĩa điên đảo. Lại, lúc nói như thế, không cầu tín, kính v.v…, cũng là thuyết pháp không nhiễm.

Vì nêu bày về lưu chuyển không nhiễm, nên kệ nói:

Hết thảy pháp hữu vi.

Như sao, màng, đèn, huyễn v.v…

Kệ nầy hiển thị 4 thứ tướng hữu vi:

1. Tướng của tự tánh.

2. Tướng của vị đã trụ.

3. Tướng thuận theo lỗi lầm.

4. Tướng tùy thuận xuất ly.

Ở đây, tướng của tự tánh: Là tướng chung nơi kiến, thức. Tướng nầy như ánh sao, nên thấy như thế. Vì sao? Vì trong tối tăm không trí thì có ánh sáng kia. Trong chỗ sáng rõ có trí thì không có ánh sáng ấy. Ngã kiến của người, pháp như màng mắt bị đau, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do chấp giữ vô nghĩa. Thức như đèn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì khát ái đã thấm nhuần nơi duyên của thủ, nên càng cháy bùng. Ở đây, chấp trước là tướng của vị đã trụ: Vị chấp trước nơi cảnh giới điên đảo, nên cảnh giới ấy như huyễn, nên thấy như thế. Vì sao? Vì do kiến điên đảo.

Tướng thuận theo lỗi lầm ở đây, là thuận theo vô thường v.v… Thí dụ về sương kia, là hiển bày thể của tướng không có, do thuận theo vô thường. Thí dụ về bọt nước, là hiển thị về sự thuận theo thể của khổ, do thọ như bọt nước, hoặc có thọ đều là khổ, do ba khổ, tùy theo đấy mà có, nên biết. Khổ kia sinh nên là khổ khổ. Bị hoại diệt nên là hoại khổ. Không lìa nhau nên là hành khổ. Lại ở trong thiền thứ tư và vô sắc lập thọ không khổ không lạc, cho là hơn hẳn.

Ở đây, tướng tùy thuận xuất ly: Là tùy thuận người pháp vô ngã, do duyên hợp nên được xuất ly, nên nói vô ngã được xem là xuất ly. Tùy thuận: Nghĩa là hành của quá khứ v.v… dùng thí dụ như mộng: Là hiển thị hành quá khứ kia, do xứ đã được nhớ nghĩ nên như mộng.

Hiện tại là thời gian không trụ lâu, nên như ánh chớp.

Vị lai là chủng tử thô ác kia tợ như hư không, dẫn tâm xuất hiện nên như mây.

Như thế, nhận biết về hành của ba đời chuyển sinh rồi, tức thông tỏ về vô ngã. Đây là hiển thị về tướng tùy thuận xuất ly.

* Kinh viết: “Đức Phật thuyết giảng kinh nầy xong, Trưởng lão Tu-bồ-đề cùng các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Đại Bồ-tát, tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà v.v… của thế gian, nghe Phật giảng nói, đều vô cùng hoan hỷ, tin thọ, phụng hành”.

* Luận nêu: Kệ nói:

Nếu nghe nghĩa như thế

Nơi Đại thừa không ngộ

Ta nghĩ quá hơn đá

Là cứu cánh không nhân.

Người kém, nơi pháp sâu

Không thể biết cùng tin

Người đời nhiều như vậy

Do đấy pháp hoang phế.

    Xem thêm:

  • Luận Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh - Luận Tạng
  • Luận Thích Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Cửu Tụng Tinh Nghĩa - Luận Tạng
  • Kim Cương Bát Nhã Luận - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Bát Nhã - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Lược Giải Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa - Luận Tạng
  • Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Thích Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Ba Mươi Bài Luận Tụng Duy Thức - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Châm - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Tiên - Luận Tạng
  • Sớ Luận Toát Yếu Kinh Kim Cang Bát Nhã - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 2) - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng