1
2
3
4
5
6
7
8

QUYỂN 7

Giới thứ 38 TRÁI THỨ LỚP TÔN TI

Là Phật tử, phải theo thứ tự đúng pháp mà ngồi; người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau; không luận già trẻ, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, người quyền quý, Quốc vương, Vương tử, cho đến huỳnh môn, tôi tớ, v.v… tất cả đều nên theo thứ tự mà ngồi. Không được như hàng ngoại đạo si mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn xộn không có thứ tự, không khác cách ngồi của bọn binh nô. Trong giáo pháp của ta, hễ ai thọ giới trước thì ngồi trước, ai thọ giới sau thì ngồi sau.

Nếu Phật tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Tâm ngã mạn chưa trừ đâu thể tôn kính như Phật, không nương chánh giáo nên trái lễ mất tôn ti, chẳng phải tâm hiếu thuận của Bồ Tát và đạo khiêm cung của hàng Thích tử.

Tâm trọng pháp nên luận về thứ lớp giới đức không phân chia sang hèn, không hỏi tuổi đời già hay trẻ, chỉ tính giới lạp tôn ti, đâu đồng với ngoại đạo si mê. Chẳng trọng bậc tiên đức, ngồi không có thứ lớp trước sau, binh nô là kẻ vô thức, đâu biết được lễ pháp nên ngồi mất thứ lớp. Triều đình còn luận về chức tước cao thấp, huống gì Phật pháp, lẽ đâu không có giới đức trước sau ư?

Lúc Bồ Tát lãnh thọ giới pháp chính là lúc sanh trưởng giới thân huệ mạng, đâu được không y vào giới lạp mà luận vể tuổi tác ư?

Hỏi: Giới lạp thì được rồi, còn như vua tôi, cha con, nam nữ, tăng ni, không phân chia tôn ti trật tự, lẽ đâu không hỗn tạp ư?

Đáp: Hiện tại vị trí tăng ni đã tự phân trước sau rõ ràng rồi, nam nữ mỗi mỗi có thứ lớp, nếu Vua trọng pháp thì bề tôi thọ giới được ngồi ở phía trước. Vua nếu giữ gìn lễ nghi phép tắc ở đời thì bề tôi sẽ lui ngồi phía sau, tránh khỏi sự lưu nạn như Phật pháp đã nói (Phật pháp căn cứ người thọ giới trước ngồi trước, người thọ giới sau ngồi sau, không luận là vua tôi hay thứ dân). Nếu thật như người trọng đạo mà đã vong ngã, vong nhân thì cũng như Phạm Vương đảnh lễ Thiên Nữ. Nếu luận về pháp không có sang hèn, thì cũng như trời Đế Thích đảnh lễ Giã Can, thì đâu còn tâm phân biệt già trẻ, sang hèn, trọng khinh ư?

Không y vào giới theo thứ lớp tôn ti, nhường chỗ và mời người khác ngồi, người nhường và người ngồi cả hai đều phạm.

Xưa Vua A Xà Thế thỉnh ngài Văn Thù, ngài Văn Thù nhường cho ngài Ca Diếp đi trước với lý do ngài Ca Diếp làm thượng thủ chúng La Hán, hơn nữa lại là Sa môn lâu năm. Ngài Ca Diếp lại nhường cho ngài Văn Thù vì tôn xưng Văn Thù là bậc thần trí biện tài vô ngại, nên Văn Thù đi trước. Do Vua A Xà Thế tin ngài Văn Thù một cách không căn cứ cho nên chỉ thỉnh Văn Thù, để tâm đến Văn Thù mà không để tâm đến Ca Diếp, nên Văn Thù mới nhường cho Ca Diếp, không dám trái phép thường của Phật xưa. Ca Diếp cứ nhường cho Văn Thù, vì thuận theo bổn ý của trai chủ, như thần Nam Sơn thỉnh pháp sư Hoa Nghiêm và đặt tòa trên 500 A La Hán, thì giống như việc trước, chuẩn theo đây thấy rõ căn cơ và tòa ngồi thích hợp. Trái lẽ thường thì hợp với đạo, nên ứng biến tùy nghi, đó mới là diệu dụng quyền biến của bậc Đại sĩ, nên biết thọ giới trước ngồi trước, đây là tôn sùng giới lạp.

Thần trí biện tài vô ngại, thuận theo ý của người thỉnh, là trọng pháp trọng người, thấy căn cơ để tùy thuận thích nghi, chỉ e rằng đời mạt pháp thì không biết, có kẻ ỷ cậy tài cao mà xem thường bậc kỳ đức, hoặc ỷ tuổi hạ cao mà khinh bậc đạt ngộ, tâm đầy ngã mạn, vọng cho mình là bậc thấy cơ, chuốc tội tổn phước mất đức, ai là người chịu tội ấy cho, xin tự suy nghĩ lấy.

Giới thứ 39 KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ

Là Phật tử, thường phải khuyến hóa tất cả mọi người dựng lập Tăng phường, nơi núi rừng vườn ruộng dựng tháp Phật, chỗ an cư, tọa thiền. Trong mùa đông, mùa hạ, tất cả những cơ sở hành đạo đều nên dựng lập.

Người Phật tử phải giảng thuyết kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sanh. Lúc bệnh tật, nước có nạn, có giặc, ngày cha mẹ, anh em, A Xà Lê mất, từ tuần thất thứ nhất cho đến tuần thất thứ bảy, cũng nên giảng thuyết kinh luật Đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai nạn, lụt bão, hỏa hoạn, lúc gió dữ quay cuồng, nạn quỷ La-sát nơi sông to biển lớn, v.v… đều cũng thuyết giảng kinh luật Đại thừa, cho đến khi gặp tất cả người bị tội báo, tam ác, bát nạn, thất nghịch, gông cùm, xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng kinh luật Đại thừa này.

Nếu hàng Bồ Tát tân học không thực hành như trên, thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Phước huệ song tu chính là bổn hạnh lợi sanh của bậc Đại sĩ. Phước trí nhị nghiêm cả hai đều đủ, đây là cực quả thành Phật của Bồ Tát. Nếu thiếu một trong hai, cũng như chim một cánh, làm sao bay liệng được! Đoạn này nói rõ vấn đề giáo hóa chúng sanh tu phước, nêu sơ lược gồm bảy việc:

1. Tăng phường là nơi chúng Tăng tụ hội an cư.

2. Núi rừng là nơi có cây che mát cho chúng Tăng ngồi tu hành.

3. Vườn là nơi cung cấp hoa trái cho chúng Tăng

4. Ruộng là nơi cung cấp lúa gạo cho chúng Tăng

5. Dựng tháp Phật để mọi người chiêm ngưỡng, để Trời người tạo phước thù thắng.

6. Dựng lập chỗ an cư, tọa thiền giúp cho mọi người ngày đêm tấn tu.

7. Tất cả nơi hành đạo là tất cả chỗ tu hành đạo nghiệp.

Bảy nơi nêu trên phải được xây cất hoặc giáo hóa cho chúng sanh khiến họ tự dựng lập. Nếu khuyến hóa cho họ tức là đã tạo phước trời người cho họ, tạo nhơn lành xuất thế gian cho họ. Xây cất những nơi như vậy, cần phải cách xa những gò mả, quỷ thần, dâm phường, quán rượu, nhà đồ tể, cho đến nhà đầu đảng hội họp. Như thế mới không bị khuấy động, không bị kẻ khác cười chê, ghen ghét, đại chúng mới được yên tĩnh tu hành.

Tỳ kheo làm tịnh thất, Phật còn chế phải lìa chỗ có nạn, có ngại, huống gì Bồ Tát độ mình độ người ư !

Nơi có nạn tức là nơi có các ác thú, cho đến các loài côn trùng quấy nhiễu như ruồi, muỗi, v.v…

Nơi trở ngại tức là bốn phía quanh tịnh thất, trong phạm vi một tầm (8 thước), nơi có giếng nhiều người sử dụng và đường đi, hoặc gần bờ có hầm sâu, hoặc gần tháp của người khác, đất của quan, đất của ngoại đạo, đất của Tỳ kheo, v.v… Những chỗ không nạn, không ngại này, trước còn phải thuyết pháp cho họ, khiến họ tự sanh tâm hỷ xả, không nên ép buộc, yêu sách đối với họ, làm cho họ đánh mất tín tâm, nghe cúng thí như tránh nợ, thấy Tăng như gặp kẻ thù. Xưa trong thành Khoáng Dã ở nước Thiên Trúc, các thầy Tỳ kheo làm phòng nhà xin quá nhiều vật liệu, khi ấy các cư sĩ thấy các Tỳ kheo, họ liền đóng cửa lánh mặt. Nghe thế ngài Ca Diếp bạch Phật, Phật quở trách các Tỳ kheo, rồi nhân đó nói tích xưa ở bên sông Hằng, có vị Phạm Chí tu đạo thường bị con rồng phun nước quanh mình, Phạm Chí buồn bực sanh bệnh, Phật dạy Phạm Chí theo con rồng xin hạt châu trên cổ, từ đó về sau rồng không đến nhiễu hại nữa. Lại có các Tỳ kheo ở trong rừng bị nạn, ngày đêm nghe tiếng chim kêu làm náo động việc thiền định, Phật dạy Tỳ kheo đến xin hai cánh của chim, chim liền ra khỏi rừng, không trở lại chỗ này nữa. Phật bảo các Tỳ kheo, các ông nên biết, chim thú còn không ưa người ta yêu sách, huống gì con người bị người khác yêu sách quá nhiều, lẽ đâu không ghét chăng! Thời nay có người mượn việc công để làm lợi riêng, mượn công việc để cầu lợi, khinh chê nhân, mê muội quả, ngàn kiếp khó có thể đền trả được. Do tội lạm dụng của tín thí, muôn đời không được trở lại làm người, hại mình hại người, mượn tiếng giáo hóa để cầu phước. Thật là bọn giặc nguy hiểm trong pháp môn.

Nên vì tất cả chúng sanh mà giảng thuyết kinh luật Đại thừa, nghĩa là nêu chung đại cương để tu huệ, phần sau nói rõ duyên cảnh để tu phước.

Tật bệnh tức là nhờ kinh luật này khai trị được tội báo ác nghiệp, phiền não của chúng sanh.

Nước có nạn, nghĩa là nhờ kinh luật này giữ gìn tâm của Quốc vương, diệt trừ các oán địch và muôn thứ tai họa khác.

Nạn giặc, nghĩa là nhờ kinh luật này xô dẹp lục tặc và các thứ giặc cướp làm kinh hãi.

Cha mẹ,…những người mất ấy, nhờ kinh luật này hay làm lợi ích cho kẻ còn người mất, có thể giúp cho thần thức của thân trung ấm vãng sanh Tịnh độ, hoặc thọ phước báo an vui cõi người, cõi trời rồi hướng đến giác ngộ giải thoát.

Trai hội cầu nguyện, nghĩa là nhờ kinh luật này đầy đủ hạnh nguyện, nên hay làm viên mãn sở cầu của tất cả chúng sanh.

Những lúc đi làm ăn, nghĩa là nhờ kinh luật này hay phát tài, nên thành tựu nghĩa lợi, trân bảo cho chúng sanh.

Lúc hỏa hoạn, nhờ kinh luật này diệt trừ lửa phiền não sân hận của chúng sanh , huống gì là ngọn lửa của cây cỏ.

Những khi có tai nạn lụt bão, nghĩa là kinh luật có thể làm khô cạn sông lớn sanh tử ái dục của chúng sanh, huống gì hoạn nạn chìm đắm trôi dạt ư?

Lúc gió dữ quay cuồng, nghĩa là nhờ kinh luật làm thuyền đại từ đưa chúng sanh vượt qua biển khổ sang bờ giác ngộ giải thoát, huống gì các nạn quỷ La-Sát ở nơi sông to biển lớn mà không vượt khỏi được ư?

Nhứt thiết tội báo, nghĩa là tội báo chẳng phải một, nên dưới đây chỉ nêu một số loại: Tam ác, bát nạn, thất nghịch, nghĩa là kinh luật này là nền tảng đoạn ác sanh thiện, nên hay làm cho chúng sanh ra khỏi ba đường ác, sanh vào ba đường thiện. Hơn nữa, kinh luật này thù thắng, chuyển họa thành phước, nên hay vượt qua bát nạn, được các phước báo thù thắng. Lại nữa, kinh luật này là gốc của hiếu thuận, nên hay trừ được tội báo thất nghịch.

Gông cùm, xiềng xích, nhờ kinh luật này đủ diệu dụng giải thoát, nên hay trừ được các khổ trói buộc bên trong bên ngoài của chúng sanh.

Người nhiều dâm, nhiều sân si, nhờ kinh luật này hay xuất sanh tâm thanh tịnh, tâm từ bi, tâm trí tuệ, nên hay diệt được các tội báo ác hại của chúng sanh trong tam đồ.

Người nhiều tật bệnh, đoạn trước nói tật bệnh là một thứ bệnh của khổ. Nay nói nhiều bệnh, thì có bốn đại chống trái nhau. Các thứ thống khổ, rộng thì có đến 404 bệnh, 84000 trần lao phiền não bức bách. Nay kinh luật này vốn đủ Tứ đức Niết bàn (thường, lạc, ngã, tịnh), lưu xuất ra 84000 pháp môn thiện, nên hay trị lành ngàn thứ, muôn thứ bệnh cho chúng sanh.

Không như vậy, nghĩa là không tu phước huệ như đoạn trước đã nêu thì phạm. Nếu sức mình không kham nỗi thì không phạm.

Từ giới 31 (Không mua chuộc) đến giới này là 9 giới không tu phước huệ, cần phải siêng năng học tập, cung kính phụng trì. Như muốn biết rộng thì hãy xem trong phẩm Phạm Đàn của kinh này.

Giới thứ 40 KHÔNG ĐƯỢC LỰA CHỌN THỌ GIỚI

Là Phật tử, khi trao giới cho người khác không được lựa chọn. Tất cả Quốc vương, Vương tử, Đại thần, Bá quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, dâm nam dâm nữ, 18 Phạm thiên, Thiên tử trong sáu cõi trời dục, người vô căn, nhị căn, huỳnh môn, tôi tớ và tất cả quỷ thần đều được thọ giới. Tất cả y phục, ngọa cụ đều phải nhuộm hoại sắc để hợp với đạo, nghĩa là làm cho những màu như xanh, vàng, đỏ, đen, tía trở thành màu hoại sắc. Y phục của Tỳ kheo phải khác với y phục của người dân trong các Quốc độ.

Khi có người đến cầu thọ giới Bồ Tát, vị Sư phải hỏi rằng: “Hiện đời này ông có phạm tội thất nghịch không?”. Pháp sư Bồ Tát không được cho người phạm tội thất nghịch thọ giới. Thất nghịch gồm: Ác tâm làm thân Phật chảy máu; giết Thánh nhân; giết Cha; giết Mẹ; giết Hòa thượng; giết A Xà Lê; phá Yết Ma Tăng, chuyển Pháp Luân Tăng. Nếu phạm tội thất nghịch thì hiện đời không đắc giới. Ngoài ra mọi người đều được thọ giới .

Theo phép của người xuất gia, không lạy Quốc vương, Cha mẹ, lục thân và quỷ thần. Chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư đều được thọ giới. Có người từ trăm dặm ngàn dặm đến cầu pháp, nếu Pháp sư Bồ Tát dùng sân tâm, ác tâm, không truyền ngay giới Bồ Tát cho họ, thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Đại sĩ lấy việc phổ độ làm trách nhiệm, lấy từ bi làm bổn hoài, có người đến cầu thì không trái ý, không nơi nào mà không cứu giúp, nên không có tâm lựa chọn. Vì bổn nguyện bình đẳng, nên không khởi tâm phân biệt sang hèn, trí ngu của trời người. Tâm địa vốn đầy đủ muôn pháp nên thâu nhiếp hết thiện tâm, tịnh uế, tăng tục, cao thấp, huống gì Đại sĩ đem tâm bình đẳng nhìn chúng sanh, coi họ như con một, lẽ đâu có việc lựa chọn, phân biệt ư?

Những màu sắc ở thế gian ưa chuộng có năm màu chính. Người xuất gia không giống như người thế tục, nên nói đều phải làm cho hoại sắc để hợp với đạo. Màu xanh không phải là xanh đậm, xanh lơ mà phải là xanh xẫm. Màu vàng không phải là vàng rực, vàng lợt mà là màu vàng pha với đỏ, tức là màu của mộc lan. Màu đen không phải hoàn toàn như màu quạ đen, hay sắc phục của ngoại đạo mà là màu đen pha tía, như lá dâu chín, đó gọi là Truy y. Căn cứ năm màu sắc này, đều phải làm cho hoại sắc để khác với các màu xanh, vàng, đỏ, đen, tía, năm màu rực rỡ của thế tục. Xá Lợi Phất Vấn Kinh ghi: “Dùng năm màu này để biểu trưng cho năm bộ phái chứ không phải để cho Tỳ kheo mặc. Nếu mặc thì đồng với năm màu rực rỡ của thế tục, đâu thể gọi là hoại sắc, đâu khác với y phục của thế tục, thì làm sao tránh khỏi lỗi biến Ca sa thời mạt pháp thành năm màu của thế tục.”

Tất cả y phục của người dân trong các Quốc độ, nghĩa là y phục của các Quốc độ mỗi nơi mỗi khác, nhưng không ngoài hai thứ: một là kiểu mẫu không đồng, hai là màu sắc không đồng. Y phục của Quốc độ này (Trung Quốc) là áo tay rộng, chuộng cả năm màu. Y phục của Thiên Trúc giống như y phục của Phạm Thiên, sắc đồng với năm màu, nhưng phần nhiều chuộng màu trắng. Pháp phục của người xuất gia đắp mặc, đều phải cắt thành nhiều miếng nhỏ chắp vá lại rồi mhuộm màu hoại sắc, nên nói pháp phục của người xuất gia phải khác y phục của người thế tục. Kinh điển chưa từng nói đến việc Bồ Tát tại gia đắp y, có những ông thầy không hiểu rõ ý chỉ kinh luật, không phân biệt pháp chế giữa Tăng và tục, truyền năm giới cho nam nữ tại gia, cho họ đắp Ca sa ngũ điều của Tỳ kheo. Truyền giới Bồ Tát cho người tại gia, rồi cho họ đắp Tăng Già Lê 25 điều. Tăng tục hỗn tạp, thật trái với phép tắc của thánh nhân. Trong Thiên Tam Y Biện Hoặc của sám chủ Từ Vân đời Tống có ghi việc này rất rõ.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới cho chứa ba y, nghĩa là khiến cho người cúng dường biết đó là y phước điền, là y phục ly nhiễm, thường niệm giải thoát để cầu xuất ly, chứ không phải để cho họ đắp mặc.

Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh đích thân du hành sang Tây Vức, tận mắt thấy chưa có Sa-di nào đắp y của Tỳ kheo, nếu có đắp mặc chỉ là lạm dụng thôi. Vì họ chưa vào hàng Tăng bảo, chưa có thể kham lãnh đắp mặc y phước điền. Nếu đắp mặc thì mang tội, mà thực ra người thế tục đâu thể làm ruộng phước cho trời người. Song Bồ Tát tại gia phải tùy thuận theo pháp lịnh nhà vua đã chế định, chỉ có thể nhuộm khiến cho hoại sắc, hoặc có thể tùy nghi đắp mặc, nhưng đặc biệt không được trang sức cầu kỳ, không nhuộm thì không phạm. Như y phục của vua, quan, bề tôi đều có chế định từng loại, nam nữ cũng thế, đâu được lẫn lộn, trắng đen không phân. Cho đến tọa cụ tất cả đồ dùng phải hoại sắc, nghĩa là Tỳ kheo trừ 3 y ra, còn tất cả y phục cho đến ngọa cụ đều nhuộm màu hoại sắc. Ngọa cụ chính là áo ngủ, màn, mũ dạ, nệm, v.v…

Như Lai quả viên hạnh mãn, chướng nghiệp nhiều đời đã tịnh dứt, chẳng phải sức của người trời cho đến ma vương làm cản trở được.

Làm thân Phật chảy máu, như Đề Bà Đạt Đa xô đá đè Phật, đá rơi làm tổn thương chân Phật, đây là làm thân Phật chảy máu. Đời này tuy không có Phật, y vào pháp cũng cần học hỏi.

Cha mẹ có đại ân sanh thành dưỡng dục, Hòa thượng A Xà Lê có đức cả sanh ra giới thân huệ mạng.

Phá Yết Ma Tăng, “Yết Ma” Trung Hoa dịch là Tác Pháp biện sự, “Tăng” là một trong ba ngôi Tam bảo, số Tăng ít nhất là 8 vị Tỳ kheo. Trong một Đại giới chia 8 vị ấy ra làm 2, mỗi bộ 4 vị, tự làm Yết ma Bố tát thuyết giới, thi hành việc Tăng, v.v… ấy gọi là “Phá”. (Chúng Tỳ kheo ni riêng tác pháp Yết Ma cũng vậy.)

Phá pháp Luân tăng, “Luân” gọi là Bát chánh đạo, ít nhất 9 vị Tỳ kheo, một vị tự xưng là Phật, ngoài ra chia làm 4 nhóm, nói kinh luật không có thứ lớp, trật tự, khiến cho người khác xa rời chánh kiến, tin tà kiến, đây không luận là Tăng chúng ở trong hay ngoài Đại giới, tất cả đều thuộc về tội phá Pháp Luân Tăng. Duy có Ni không thể phá, vì Ni tự thể đủ ngũ chướng, người ta không tin Ni thành Phật được. Hai thứ trên đây đều là Phá hòa hợp Tăng.

Thánh nhân, có Thánh nhân phàm phu và Thánh nhân Tiểu thừa, Thánh nhân Tiểu thừa là các vị đã chứng A La Hán.

Kinh Niết Bàn ghi rõ ba thứ sát, nghĩa là giết người đã chứng đắc quả vị A Na Hàm, thuộc về tội trung sát, không phải thượng sát nên không phải tội ngũ nghịch.

Đại thừa Bồ Tát có 3 điều lấy Giải và Hạnh làm trước, hoặc lấy Thất tâm làm trước (Tam hiền, Tứ gia hạnh) hoặc chỉ không khởi tâm Nhị thừa, đó là không thối chuyển tâm Bồ Tát. Nếu giết những người đắc quả vị này đều phạm tội nghịch, nghĩa là trong tội Ba-la-di lại tăng thêm tội đại nghịch (tội vô đạo), tức là đem tâm hạ hại bậc thượng. Như bảy tội nghịch này, tùy theo hành động phạm một trong bảy tội ấy thì không đắc giới.

Tuy nhiên, bổn nguyên tâm địa vẫn bình đẳng, không phân chia thánh phàm, thiện ác, mà chính những người này tự trái với bổn nguyên tâm địa của họ, nên phải chìm đắm trong biển khổ sanh tử, tự hoại tâm địa kia, tiêu ma mầm Bồ đề, không phát được giới thể, thiện giới không sanh, nên nói không đắc giới.

Nếu có các bề tôi, Vương tử hay nô tỳ, v.v… xuất gia, lại hành theo lễ thế tục làm việc hầu hạ bề tôi và con bề tôi. Xét ra việc làm như thế là loạn đại đạo xuất thế. Nếu đã biết phép tắc xuất thế thì không nên theo lễ thế tục. Nếu có tâm tôn trọng cung kính Tâm địa đại giới, thời không luận là sang hèn hay thân sơ, chỉ cần hiểu được lời dạy của Pháp sư, ngay khi trao chánh giới Bồ Tát. Dù xa cách ngàn dặm mà đến cầu pháp, thời tâm ân cần khẩn thiết ham mộ giới pháp, vị Pháp sư dạy người kia như pháp sám hối, rồi trao giới Bồ Tát cho họ. Nếu Pháp sư không trao giới ngay, hoặc do sân tâm hay ác tâm mà chống trái ý của người cầu pháp, hoặc có tâm mong cầu lợi dưỡng, để bán giới, thì phạm. Hoặc căn cơ người ấy chưa kham nổi giới pháp, hoặc chưa phát tâm thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Khởi niệm tự cao mong cầu lợi dưỡng, hoặc tâm họ chưa thành thật, chưa kiên cố, lại không sanh tưởng khó gặp. Như ngài Đàm Vô Sấm gắng sức đến gặp ngài Đạo Tấn. Ngài Đạo Tấn không trao ngay cho chánh giới. Thiện quyền của Đại sĩ phải quán sát căn cơ rồi mới giáo hóa, truyền trao chánh giới. Cả hai đều sanh nhiều công đức, đâu thể xem họ đồng với kẻ ác tâm sân tâm?

Không lễ lạy vua chúa, thân thuộc, nghĩa là người xuất gia không áp dụng theo lễ nghi của người tại gia; tức xuất tục rồi thì không theo nghi thức của người thế tục. Vì xuất gia là con của Phật, là khách ngoài trần lao, dù chưa đắc đạo, nhưng đã là người trong ngôi Tam bảo, chấn nhiếp ma quân, Đế Thích quy y. Giả sử, nếu cung kính ngược lại thì Tăng bảo mất sự tôn ti. Một khi Tăng bảo đã khuyết, trời người đâu còn chỗ nương tựa. Người xuất gia cần phải tinh tấn hành đạo để đền đáp tứ ân, thay Quân vương, thân thích lễ kính Tam bảo, cầu Quốc thái dân an, đó là tận trung tận hiếu của người xuất gia và cũng là thể hiện đại lễ của người xuất gia đối với vua chúa và thân thích, đâu đồng với lễ giáo thế gian tiểu tiết, quỳ gối cung tay là trung hiếu ư?

Trong Thuận Chánh Lý Luận ghi: “Vua trong nước là bậc Quân chủ, các vị Tỳ kheo không nên mong cầu lễ kính vì e sợ Vua tổn đức và yểu mạng.” Xưa Ưu Đà Diên vương nghe gian thần sàm tấu, bảo đuổi Tân Đầu Lô, vua thường đến hỏi han thăm viếng nhưng Ngài không đứng dậy nghinh tiếp, nên Vua sanh ác niệm nghĩ rằng: “Nay Ta đến, nếu ông ta không đứng dậy nghinh tiếp, Ta sẽ giết chết.” Khi ấy Tân Đầu Lô biết rõ ác niệm của nhà vua, khi vua đến, ngài liền suy nghĩ: “Nếu ta đứng dậy nhà vua sẽ mất phước và tổn đức, mất luôn ngôi vị. Nếu ta không đứng dậy nghinh tiếp, nhà vua sẽ giết ta, tội đó còn nặng hơn, ắt đọa địa ngục. Thà để cho nhà vua mất ngôi vị, chứ không để cho phải đọa địa ngục.” Ngài Tân Đầu Lô thấy vua đến liền đứng dậy nghinh đón. Qua bảy ngày sau, nhà vua mất ngôi, bị Úy Thiền Quốc vương bắt cầm tù bảy năm.

Ngài Nam Sơn nói: “Từ khi dòng pháp chảy về Đông, ba phen bị xô dẹp, năm lần được phục hưng, đây không phải là thời đại tối tăm mà chính là do Quốc chủ bạo ngược, ban lệnh trái đạo đức, phép tắc của đất nước, trái với đạo lý luân thường, khiến cho sách sử chê trách. Sự lý trái ngược, quen lề lối xưa. Bởi vậy, bắt đầu từ niên hiệu Thành Đế năm thứ 6, đời Đông Tấn, Dữu Băng phụ chính, vua còn nhỏ, vua ra chiếu chỉ khiến cho Tăng phải lễ bái. Khi ấy Thượng thư ra lịnh cho Hà Sung, Tạ Quảng, v.v…dâng kiến nghị và nói lễ bái không hợp cách. Qua lại ba phen, bàn luận mới dứt. Lại nữa, đầu niên hiệu An Đế, Thái Úy Hoàn Huyền, dâng thư buộc Tăng phải lạy lục. Thượng Thư Lệnh Hoàn Khiêm, Trung Thư Vương Mật, v.v… can rằng: “Nay Sa môn tuy trong lòng rất lễ kính, nhưng Bệ hạ không được theo hình dung buộc họ phải lạy mình.” Sự nghiệp giáo hóa của họ to lớn hơn quan lại, thú hướng của họ vượt ra các nước khác, bởi vậy vua các nước khác không ai chẳng lạy họ. Đó là vì đạo ở nơi quý trọng chứ không nhìn người rồi phân biệt coi trọng hay xem thường.

Hoàn Huyền lại gửi thư đến Pháp sư Huệ Viễn, Huệ Viễn liền soạn Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận gồm 5 thiên, từ đó việc này mới chấm dứt. An Đế khôi phục quốc chánh, sùng kính lại Phật giáo.

Ngụy Thái Vũ năm thứ 7, Đạo sĩ Khấu Khiêm, Tư đồ Thôi Hạo, hủy báng Phật pháp, Ngụy đế nghe theo, bèn ra lệnh diệt Phật pháp, chém giết Sa môn. Về sau, Ngụy đế gặp Sa môn Đàm Thỉ, lạy tạ sám hối. Ngụy đế bị bạo bệnh, nên ra lệnh giết cả nhà họ Thôi, chấn hưng lại Phật giáo. Từ khi nhà Tấn mất Trung Nguyên, đất nước chia thành 16 nước nhỏ, nhưng nơi nào cũng kính tin Phật pháp. Chỉ có lúc Hách Liên Bột Bột chiếm cứ Hạ Châu, bạo ngược vô cùng, lấy việc giết hại làm thú vui. Ông đeo tượng sau lưng, bắt Tăng lạy mình. Sau, ông bị sét đánh chết, chôn xong lại bị sét đánh phơi xác trên đất. Con ông ấy là Xương lên nối ngôi, phá thành Trường An, hủy diệt Phật pháp, hễ gặp Tăng là giết ngay. Sa môn Đàm Thỉ bị đao chém không đứt, nhân đó Xương mới hồi tâm phản tỉnh, sau ông bị Bắc Triều, Hậu Ngụy tiêu diệt. Chu Vũ Đế ban đầu tin Phật pháp, sau nghe lời sàm tấu của Đạo sĩ Trương Tân và Vệ Nguyên Tung, muốn trừ diệt Phật giáo. Pháp sư Đạo An soạn Nhị Giáo Luận để phản đối, Chu Vũ Đế nổi giận diệt trừ cả Phật giáo lẫn Lão giáo. Không đầy 5 năm, Vũ Đế chết, đọa Đại địa ngục. Đường Tổ Thái Vũ sa thải Phật giáo, Đạo giáo, buộc Tăng phải lễ lạy quân vương. Uy Tú, Đạo Tuyên dâng biểu cùng thư kiến nghị của trăm quan, ai nấy cho rằng không nên làm như vậy. Vũ Tông niên hiệu Hội Xương thứ 5, Đạo sĩ Lưu Huyền Tĩnh, Triệu Quy Chân, bài xích Phật giáo, đập phá chùa chiền. Những việc này có ghi đủ trong Quảng Hoằng Minh Tập và trong cuốn Bất Lễ Tục Sư Thư. Nay chỉ nêu sơ lược để biết bổn phận của Tăng và tục.

Ta sợ rằng người xuất gia đời mạt pháp, tâm ham danh lợi, tự hạ mình cam làm kẻ hèn mà không biết tự hổ thẹn, quỳ gối khoanh tay trước Vương hầu, hết lòng kính lễ hàng Công khanh, thật là ô nhục pháp môn, tổn thương chánh giáo.

Quỷ thần không lễ, như trong Thuận Chánh Lý Luận có ghi: “Chư thần còn không dám mong cầu các Phật tử Ưu Bà Tắc lễ kính.” Xưa kia, Bắc phương Đa Văn Thiên thỉnh ngài Mục Liên và ngài Xá Lợi Phất cùng 500 thánh Tăng đến cung Thiên vương thiết trai cúng dường, và bạch Tôn giả rằng: “Từ nay về sau, các vị xuất gia thọ giới, khi đến miếu của con, nên bố thí cho con lời kệ tụng, quyến thuốc của con thành tâm hộ trì chánh pháp, khiến cho đệ tử Phật, tại gia hay xuất gia, đối với tất cả thời thường không tâm não hại.” Nếu ưa lễ kính thiên thần, thì cùng với ngoại đạo không khác, Thiên vương còn không kính lễ, huống gì các vị quỷ thần khác. Vì lễ Thiên tôn, khiến cho các hình tượng khác ngã nhào xuống đất.

Kinh Phương Đẳng chép: “Không được tế lễ cầu quỷ thần, cũng không được khinh khi quỷ thần.”

Kinh Ưu Bà Tắc chép: “Nếu các Phật tử Ưu Bà Tắc vì làm nhà cửa, vì thân mạng, đến tế lễ quỷ thần, thì không mất giới. Nếu chí tâm lễ quỷ thần ngoại đạo, thì mất giới. Nhưng khi tế lễ cầu khấn, không được sát hại sanh vật.”

Giới thứ 41 VÌ LỢI LÀM THẦY

Là Phật tử khi giáo hóa người phát khởi tín tâm với Tam bảo, Bồ Tát, làm thầy giáo giới cho người khác, thấy người ấy muốn thọ giới nên dạy họ thỉnh hai thầy: Hòa thượng và A Xà Lê, hai thầy nên hỏi người thọ giới rằng: “Ngươi có phạm tội thất nghịch chăng?” Nếu hiện đời họ phạm tội thất nghịch, thì thầy không nên truyền giới Bồ Tát cho họ.

Nếu không phạm tội thất nghịch thì cho thọ giới, nếu người phạm 10 điều trọng, nên dạy người đó sám hối, nên ở trước tượng Phật và Bồ Tát ngày đêm sáu thời, tụng 10 giới trọng và 48 giới khinh, cho đến lễ ngàn Phật ba đời, chừng nào được thấy tướng hảo, từ một ngày, 7 ngày, 21 ngày, cho đến một năm, cần được thấy tướng hảo.

Tướng hảo, nghĩa là thấy Phật đến xoa đầu, thấy ánh quang minh, thấy hoa báu cùng các thứ tướng khác, thì tội liền diệt hết. Nếu không thấy tướng hảo, dầu có sám hối tội cũng không hết, người này hiện đời, dù thọ cũng không đắc gíới, nhưng được tăng ích thọ giới. Nếu có phạm 48 điều giới khinh, thì phải đối thú sám hối, tội liền tiêu diệt, không đồng với tội thất nghịch, giới sư bèn răn nhắc. Trong pháp Bồ Tát này, mỗi mỗi phải hiểu rành.

Nếu làm giới sư mà không hiểu kinh luật Đại thừa, hoặc khinh hoặc trọng, tướng phải, tướng chẳng phải, không hiểu Đệ nhất Nghĩa đế, Tập chủng tánh, Trưởng dưỡng tánh, Tánh chủng tánh, Chánh pháp tánh, Quán hạnh đa thiểu, xuất nhập 10 chi thiền trong đó, tất cả pháp hạnh, mỗi mỗi ý của các pháp này phải hiểu rõ ràng. Nếu Bồ Tát vì lợi dưỡng, vì thanh danh, mà đem tâm ác cầu, đa cầu, ham lợi dưỡng và nhiều đệ tử, dối hiện tướng hiểu biết kinh luật Đại thừa. Đây là tự dối gạt chính mình, cũng là dối gạt người khác, mà làm thầy trao giới cho người, thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Tự không thật hiểu vì tâm ham cầu danh dự, tự mình đã lầm lại khiến người khác mê lầm không ít, dù có thật hiểu, nhưng tâm mưu đồ cúng dường, tự phá hư mình, khiến người phá hư, tội ấy chẳng phải nhỏ, thật chẳng phải oai nghi hóa đạo, thật trái với hạnh Bố thí tài pháp. Nên kinh Hư Không Tạng ghi: “Thanh danh và lợi dưỡng, là gốc của các tội.”

Đại sĩ giáo hóa người khiến họ phát khởi từ tâm, để họ tin chắc là sẽ thành Phật, muốn cầu thọ Tâm địa đại giới, nên dạy cho họ phải thỉnh hai thầy, và hai thầy phải hỏi họ rằng: “Hiện đời ngươi có phạm tội thất nghịch không?” Thất nghịch là tội ngăn chướng Thánh đạo.

Nghịch là trái nghịch bổn nguyên tâm địa, vì thế không đắc giới. Nếu người chưa từng thọ giới, nghĩa là chưa giết hai sư (Hòa thượng và A Xà Lê). Nếu đã từng thọ tâm địa giới rồi, mà phạm 7 tội nghịch, thì không cho sám hối.

Nếu là Thanh văn, nay phát đại tâm, cầu thọ chánh giới, Thanh văn chỉ có Ngũ nghịch, không giết Sư cũng phải đem tội nghịch giết Sư để hỏi.

Đoạn kinh trước ghi: “Chỉ thỉnh một thầy”, nay nói “hai thầy”, cả hai đều đúng. Nhưng chưa thấy rõ văn thỉnh Sư, kinh Trì Địa và Anh Lạc “chỉ thỉnh một thầy”, nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ Tát mà thọ. Sư truyền giới ngồi một bên, không được ngồi sau tượng Phật. Phàm khi làm thầy mô phạm, cần phải hiểu rành rẽ tất cả pháp thọ giới trong kinh luận. Song phương pháp nói về thọ giới trong bổn kinh này đã bị thất truyền từ lâu, nên dựa vào kinh Trì Địa và kinh Anh Lạc, phải tự tìm xét rõ ràng. Không nên tự mình làm thầy, khó tránh khỏi lỗi trái với giáo pháp, vì mình đã không biết, lại khiến cho người khác trọn đời không đắc giới.

Gần đây có hai ngài Hoài Tố và Trí Húc luật sư, đã soạn Luật Nghi Tập Yếu, phép tắc thọ giới rất là đơn giản và rõ ràng. Ngoài ra còn có phương pháp khai đạo sách tấn để phát tâm, nhưng phải xét căn cơ để thích nghi sách tấn.

Nếu người ấy có sai phạm 10 giới trọng, nghĩa là người đã từng thọ Tâm địa giới rồi, trong 10 trọng giới phạm bất cứ một giới nào, thì mắc tội.

Ngàn Phật ba đời, nghĩa là ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi mỗi đời đều có ngàn Phật (xem trong kinh Thiên Danh Phật). Nếu người sai phạm giới cấm này, chí thành tha thiết lễ Phật sám hối, thời hắc nghiệp phạm giới đã trừ diệt, giới thể lìa các chướng ngại ngăn che, không lễ lạy nữa vẫn tự sáng, như mây tan thì trăng hiện, nên thấy ánh sáng. Tâm địa Bồ Tát cũng được khai phát, nên thấy hoa báu, các tội được tiêu diệt, mà đương thể tức Không chuyển thành Hằng sa tánh đức, nên thấy muôn ngàn tướng khác. Không tức là Chân Không thật tướng. Thật tướng thì không có tướng khác, chính là tướng tội đây. Nếu hành giả đạt được thực tướng này vốn không, thì không có tội nào mà không diệt, không có đức nào mà không hiển, đồng với Đại giác, ấy là Phật tử chân chánh. Bởi vậy, Phật đến xoa đầu. Hành giả nếu tâm không ân cần tha thiết cầu khẩn chí thành sám hối, thì không thấy được tướng hảo. Dù có sám mà tâm không thành khẩn thì tội không tiêu diệt, giới thể không hoàn bị, giới thiện do đâu mà sanh, nên nói không lợi ích là vậy.

Được tăng ích thọ giới, nghĩa là chẳng phải vĩnh viễn không lợi ích. Nay tuy không đắc giới, nhưng do năng lực sám hối, cũng được tăng trưởng lợi ích về sau. Vì về sau tâm ân cần tha thiết sám hối, ăn năn không gián đoạn, cần cầu khẩn thiết đầu thành sám tội, thì tội cao như núi Thái cũng sụp đổ. Cứ thế sám hối từ một năm, hai năm, ba năm, khi nào thấy tướng hảo thì đắc giới. Đã thấy tướng hảo rồi thì nhân, duyên, tội đã diệt, chớ sanh tâm chấp đắm. Nếu để tâm chấp đắm vào tướng hảo, đó là tạo điều kiện thuận lợi cho ma khuấy phá. Nên kinh chép: “Nếu khởi tâm chấp đắm Thánh giải tức thọ các điều tà.”

Đối thú, nghĩa là người phạm tội khinh, thì chỉ cần đối trước một vị Tỳ kheo Bồ Tát, phát lồ sám hối, tội kia liền tiêu diệt, không cần thấy tướng hảo, vì không đồng với tội thất nghịch.

Trước tuy dạy người phạm tội thất nghịch sám hối, mà hiện đời dù thọ cũng không đắc giới, nay nói người phạm tội 10 giới trọng, thấy tướng tội diệt, tội khinh cầu đối thú sám liền trừ, nên nói không đồng với tội thất nghịch.

Mỗi mỗi phải hiểu rành, nghĩa là mỗi mỗi hiểu rõ, rành mạch. Đối với tội này, cho sám hối hay không cho sám hối, đắc giới hay không đắc giới, mỗi mỗi phải khéo hiểu rõ, mới có thể kham làm thầy người. Song pháp sám có ba cách:

1. Tác pháp sám

2. Thủ tướng sám

3. Vô sanh sám.

Tác pháp sám là người sai phạm phải chí thành khẩn thiết, ngày đêm sáu thới, cầu cho ba nghiệp được thanh tịnh, ở trước tượng Phật và Bồ Tát, trình bày phát lồ, tha thiết sám hối.

Thủ tướng sám là định tâm lắng lòng dứt vọng tưởng, lấy hiện tướng làm định kỳ. Ở trong đạo tràng thấy Phật đến xoa đầu, thấy hào quang, thấy hoa báu, hoặc ở trong mộng thấy các thứ tướng hảo, đối với các tướng đây, tùy thấy một trong các tướng nào, thì tội liền tiêu diệt.

Vô sanh sám là tất cả nghiệp tội đều do tâm điên đảo hư vọng mà sanh khởi, biết rõ tâm mình vốn không sanh, tội phước vốn vô chủ, quán sát thật tướng của nghiệp, thấy cội nguồn của tội, pháp giới viên dung, chơn như thanh tịnh. Nên kinh chép: “Nếu muốn sám hối, phải ngồi cho trang nghiêm ngay ngắn, niệm thật tướng, các tội như sương móc, mặt trời trí tuệ hay phá trừ, chính là nghĩa đó.”

Hỏi: Thật tướng vô tướng, niệm như thế nào?

Đáp: Dùng Vô niệm để niệm, niệm tướng Vô tướng, do tướng vô tướng, nên niệm vô tướng niệm. Nếu niệm ngoài thì riêng có Thật tướng, ngoài Thật tướng riêng có niệm, chính là chẳng phải niệm Thật tướng.

Tác pháp sám hối có thể diệt được tội vi phạm giới luật. Thủ tướng sám hay diệt được tánh tội. Vô sanh sám hay diệt được tội vô minh phiền não.

Pháp sám hối tuy có ba cách, nhưng cũng không ngoài sự lý. Hai pháp trước thuộc về sự, còn pháp sau thuộc về lý.

Luận Chỉ Quán ghi: “Sự sám là sám Khổ đạo Nghiệp đạo. Lý sám là sám vô minh phiền não đạo.” Kinh Kim Quang Minh cũng có ghi ba phương pháp sám hối đồng thời để tu, trong đó Vô sanh sám là chính. Thứ hai là Trợ duyên sám, là Chánh hạnh và Trợ hạnh, như món ăn giá trị cao quý, chứng lý càng mau. Kinh này tuy không nói pháp vô sanh sám, mà phải hiểu là Đệ nhất Nghĩa đế là Vô sanh. Hoặc có tu hai pháp trợ đạo trước. Như ngài Nam Nhạc lập ra Hữu Tướng An Lạc Hạnh, không nhập tam muội, chỉ tụng kinh trì chú, cũng được thấy sắc tướng thượng diệu, chính là kinh này nói sáu thời lễ tụng ấy vậy. Ân cần tha thiết sám hối, được Phật đến xoa đầu, v.v… như thế pháp sám rất là vi tế, cần phải thưa hỏi minh Sư, học cách thức sám hối và pháp sám, mới có thể vào được đạo tràng, thực hành nghi thức kia. Ba thứ sám pháp này, kinh Luận Sớ đã ghi rõ, đây không thuật lại Giới thể sanh trở lại, ấy là sám Nghiệp đạo. Mắt, tai, các căn thanh tịnh ấy là sám Khổ đạo.

Tướng khinh trọng, thị phi nghĩa là tâm địa chánh giới này, nếu chỉ sai phạm mảy may cũng ô nhiễm bản tâm, đối thú sám hối liền thanh tịnh nên gọi là khinh. Nếu sai phạm lỗi lớn thì liền mất giới, cần phải thấy được tướng hảo mới trừ dứt được tội, nên gọi là trọng. Ở đây nói khinh trọng cần phải biết rành mạch, phân tích rõ ràng, thế nào là phạm, thế nào là không phạm. Đó gọi là khéo hiểu danh và tướng.

Đệ nhất Nghĩa đế, là tâm địa giới này, thể của nó vắng lặng, chẳng phải trọng, chẳng phải khinh, nhưng khinh trọng rõ ràng. Tánh của nó rỗng rang sáng suốt, không thị không phi, nhưng thị phi vẫn rõ ràng. Vượt khỏi Nhị biên, mà vẫn thường tịch, thường chiếu, hiễn rõ lý Trung đạo, bặt dứt suy nghĩ luận bàn, nên gọi là Đệ nhất Nghĩa đế. Đây gọi là khéo hiểu nghĩa lý của giới.

Nên Luận Đại Trí Độ ghi: “Bồ Tát hành trì nghĩa lý Đệ nhất Nghĩa đế của giới này, dùng Tuệ trung đạo, thể nhập tất cả pháp, không giới nào mà không đủ, ấy là cụ túc giới.”

Giới tướng nếu không hiểu, thì việc trì phạm làm sao thông suốt. Lý nếu không hiểu, thì làm sao biết Bổn nguyên tâm địa giới. Trong sáu tánh này, Tập chủng tánh là Thập Trụ vị. Đồng Bảo Luân Bồ Tát, chính là Thập phát thú tâm ở trước. Ngôi vị Bồ Tát này, trước hết từ Thập tín mà thể nhập, nghiên tầm lý chân đế, để tu pháp Không quán, khai mở huệ nhãn, thành Nhứt Thiết trí, được vị Bất thối nên gọi là Trụ vị.

Trưởng dưỡng tánh, Tánh chủng tánh: Hai tánh này gồm chung với Thập hạnh vị. Ngân Bảo Luân Bồ Tát, chính là Thập trưởng dưỡng tâm trước đã nói, bậc Bồ Tát này từ Chơn đế nhập Tục đế làm việc lợi sanh, siêng năng tinh tấn tu pháp Giả quán trợ đạo, phân biệt chủng tánh sai biệt của mười cõi, để nuôi dưỡng Thánh thai, thấy rõ lý Tục đế, khai mở Pháp nhãn, thành Đạo chủng trí. Từ Thập trụ ở trước, phát Chơn ngộ Lý, từ đây tấn thú hướng thượng, nên gọi là Hạnh.

Bất khả hoại tánh, Đạo chủng tánh, hai tánh này gồm chung đối với Thập Hồi hướng vị. Kim Bảo Luân Bồ Tát, chính là Thập Kim cang tâm ở trước đã nói. Bồ Tát này tu Trung đạo quán, thi thiết vô công dụng đạo, hạnh nguyện và sự lý, thảy đều dung hòa, thể nhập vào biển pháp giới, để hồi sự hướng lý, cho đến hồi hướng năng tu và sở tu, trở về pháp giới. Thể tánh như kim cang, nên không bị hoại diệt. Bắt đầu từ chánh tu nên gọi là Đạo, về sau mong sanh Phật quả nên gọi là Chủng.

Chánh pháp tánh, cũng gọi là Phật chủng tánh. Tánh này thuộc về Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác vị. Từ Sơ địa đến Thập địa, dùng Trung đạo quán, dùng Trí đoạn Hoặc, rất là thâm sâu, mỗi địa mỗi địa đều phá một phần Vô minh, hiển rõ một phần Tam đức, để thể nhập Thập địa, khai mở Phật nhãn thành Nhứt thiết Chủng trí gọi là Lưu Ly Bảo Luân Bồ Tát.

Xét trong kinh Anh Lạc, có thêm Đẳng giác tánh, Diệu giác tánh, do thâm nhập Trung đạo quán, thấu suốt vô thủy vô minh, cùng tận ngọn nguồn của nó, biết hết không còn ngằn mé, đoạn phần Vi tế vô minh sau cùng, rồi lên đỉnh núi Trung đạo, chia tay với cha mẹ vô minh, gọi là bậc Thượng sĩ, là Ma Ni Bảo Luân Bồ Tát, chính là Đẳng giác vị, cứu cánh giải thoát, tâm tự sáng rỡ, rõ suốt các pháp, diệu trí soi suốt ngọn nguồn tâm thể, vô minh tập khí không còn, an nhiên không còn bị trói buộc, nên nói không còn Hoặc để đoạn, tịch mà thường chiếu. Thánh trong Thánh, gọi là bậc Vô thượng sĩ, ấy là Thủy Tinh Bảo Luân Bồ Tát, chính là Diệu giác cực quả Phật vị. Trong đây phần nhiều có chút quán hành xuất nhập, nghĩa là trong phần trước đã ghi, trải qua Tam Hiền, Thập Thánh vị, tùy theo người căn tánh lợi độn, chỗ áp dụng thiền quán không đồng, có chút phương tiện thiện xảo sai khác. Hàng lợi căn thì khéo dụng công ít, độn căn dụng nhiều phương tiện vụng về, tốn nhiều công phu ứng dụng các thứ Tam muội để xuất nhập, nên gọi là Quán hạnh.

Mười chi thiền, nghĩa là trong Tứ thiền, ngoài Trùng xuất, còn có mười chi:

1. Giác chi

2. Quán chi

3. Hỷ chi

4. Lạc chi

5. Nhứt tâm

6. Nội tĩnh

7. Xả chi

8. Niệm chi

9. Huệ chi

10. Bất khổ, bất lạc.

Mười thứ này tuy là thiền thế gian, nhưng hay vào được giai vị Hiền Thánh. Tất cả hành pháp là tổng kết công hạnh tấn thú trong đoạn trước. Tất cả pháp môn, như các pháp quán hạnh này.

Kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp nêu rõ. Trong mỗi pháp nếu không thấu rõ ý chỉ của nó, nếu chẳng phải tham lợi thì là ngu si, không biết mà làm thầy truyền giới cho người, thí như thầy thuốc tầm thường trị bệnh, ắt sẽ gây sự bất trắc cho người bệnh ( chết hoặc bệnh thêm tăng ). Cũng như người không thấy đường mà dắt người khác, làm sao tránh khỏi tai họa, chắc chắn phải sa vào hố sâu. Chỉ một chút danh lợi thôi, mà gây họa suốt đời. Tâm không được thấm nhuần giới pháp, coi thường, không biết gì, làm cho người khác mê lầm pháp thân huệ mạng, quả thật chẳng phải là việc nhỏ, nên đây cấm chung, không hiểu thì liền phạm.

Vì tâm cầu lợi dưỡng thanh danh, nên gọi là ác cầu. Tâm ham lợi không biết nhàm chán, ấy gọi là đa cầu. Học theo sau thầy gọi là đệ. Sự hiểu biết từ thầy mà sanh gọi là tử. Trong không am tường ý chỉ kinh luật, không có hổ thẹn là tự dối gạt mình, ngoài không hổ thẹn với người khác là mình giả tướng hiểu biết để gạt người, ấy là khi dối người khác.

Giới thứ 18 ở trước là chỉ rõ do không biết mà làm thầy nên chế giới răn nhắc, giới này nói chung về vì lợi dưỡng nên phạm. Căn cứ đây thì biết, Thiền quán và Giáo lý gồm chung, không tâm tham lợi mà cao ngạo về danh, mới thích làm thầy và nhận làm thầy, nên không phạm. Không hiểu một câu, một kệ, một bộ luật nào mà làm thầy truyền trao giới cho người, mà không mắc tội hay sao? Nên Nghĩa Sớ ghi: “Nếu nói về thầy ắt phải luận vể Đức nghiệp thành tựu, ấy là Bồ Tát xuất gia, đầy đủ năm đức:

1. Trì giới

2. Mười hạ lạp (đối với Tăng), 12 hạ lạp (đối với Ni)

3. Hiểu rõ Luật tạng

4. Thông rành pháp Thiền định tư duy

5. Thấu rõ Tuệ tạng.”

Trì giới như Thập nguyện, Ngũ thệ kiên cố.

Mười hạ lạp, nghĩa là sau khi thọ cụ túc giới, trải qua 10 hạ lạp. Hiểu Luật tạng, thời luật có Đại thừa, Tiểu thừa, tội có Tánh tội và Giá tội, Chỉ Tác Trì Phạm, giới có Đạo có Định, có Thế gian và Xuất thế gian, có Giải thoát và Biệt giải thoát, có 3 giới, 5 giới, 8 giới, 10 giới, có tại gia và xuất gia, có nam nữ khác biệt, có 250 giới và 348 giới, cho đến 500 giới, ba ngàn, tám vạn thật rộng lớn thay, như trong Đại Tạng. Tuy nói là vô tận, nhưng người làm thầy cần phải thông rành tất cả, mới có thể tránh khỏi những lỗi lầm sai phạm.

Thông suốt pháp Thiền định và Tư duy, là gọi chung của các pháp Thiền định Tam muội. Tất cả đều do Trì giới nhiếp tâm, vọng niệm liền ngưng tĩnh, phản chiếu rỗng rang, khéo hiểu xuất nhập, thấu rõ từng niệm trầm nỗi, xa lìa các niệm hôn mê tán loạn.

Thấu rõ Tuệ tạng, nghĩa là bao hàm cả muôn pháp, thấu triệt ngọn nguồn của nó, quán nhiếp nghĩa kia, hoặc tâm hoặc cảnh, hoặc sự hoặc lý, thấu suốt nghĩa vi diệu, tùy theo căn cơ diễn thuyết, mà không ngăn ngại.

Phát Ẩn Luận ghi: “Năm đức này quý ở chỗ gồm đủ, hoặc cũng là đời mạt, người năm đức khó toàn, có người tuy giới lạp chưa đủ nhưng có đức hạnh, cũng có thể làm thầy, còn hơn số người tuổi hạ cao mà không biết gì, không có thể dạy người khác.” Nếu người có Tuệ mà không có Định, dù có hiểu biết, không thể làm thầy được, còn hơn kẻ không chút thiền định, như dê câm, không thể thuyết pháp. Nếu không như vậy, kiến lập đàn tràng truyền trao giới pháp, nhất định trách nhiệm không phải nhỏ, hành theo lưới vô tri, kẻ trao người thọ, đều không tránh khỏi tội lỗi, cần phải thận trọng !

Giới thứ 42 GIẢNG THUYẾT GIỚI CHO KẺ ÁC

Là Phật tử, không được vì lợi dưỡng mà ở trước người chưa thọ giới Bồ Tát hoặc kẻ ngoại đạo, ác nhân, kẻ tà kiến nói Đại giới của ngàn Phật này, ngoại trừ bậc Quốc vương. Bọn người ác không thọ Phật giới của Phật gọi là súc sanh, đời đời sanh ra không gặp được ngôi Tam bảo, chẳng khác gì gỗ đá vô tri, gọi đó là ngoại đạo, bọn người tà kiến chẳng khác gì cây cối, Bồ Tát ở trước bọn người ấy, thuyết giáo giới của bảy đức Phật thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Giới Sư mà không biết căn cơ để thích nghi thuyết giới, đó là không có mắt trí tuệ. Căn cơ và đạo lực người ấy chưa kham lãnh thọ giới pháp, trao giới cho họ khiến họ chẳng những không được lợi ích mà còn bị sa đọa. Trước vì họ giảng nói, sau thọ giới tâm lại coi nhẹ, chưa phát Đại tâm, nghe rồi sanh tâm hủy báng. Phàm người không lãnh nạp giới pháp Đại thừa, không chấp cái thấy biết thế gian, thì cũng trệ vào Tiểu thừa giáo, đều gọi là bọn người ác.

Ở trước bọn ngoại đạo, ác nhân, tà kiến mà thuyết giới, chẳng những không có lợi mà còn tự hại, thật là tiêu nha hột giống Bồ đề kia.

Thuyết, nghĩa là tụng thuyết, giải thuyết hoặc giải nói, hoặc vì họ trao giới, hoặc khi bố tát cho họ tham dự nghe thuyết giới. Nhưng Đại giới của ngàn Phật trên đây đã trao truyền, chẳng phải điều mà người chưa phát Bồ đề tâm cho đến ngoại đạo ác nhân kham lãnh, kham nghe được. Do họ chẳng phải là pháp khí, như sữa của sư tử, chẳng phải bình chứa đựng chất lưu ly, thì không có thể dung chứa được. Giả sử về sau nếu họ có tâm xả tà trở về chánh đạo, phát tâm rộng lớn, thì mới có thể vì họ mà nói.

Quốc vương là người được tất cả dân trong nước tôn trọng, Như Lai phó chúc: “Khiến cho ngoại hộ Tam bảo, nên giới của Đại thừa hay Tiểu thừa, Phật đều cho nói, còn ngoài ra tất cả mọi người không tin và người chưa thọ đại giới của ngàn Phật truyền trao, thì không được nói.”

Kinh Niết Bàn chép: “Xưa ngày 15, chúng Tăng bố tát có một đồng tử lén ở chỗ vắng, trộm nghe thuyết giới, vị thần Kim Cang lực sĩ, dùng chày đập nát thân đồng tử như tro bụi.” Phải biết làm thầy không thể không cẩn thận và dè dặt. Vì không biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, hiền hay ngu, nên ví như súc sanh. Không thọ Đại giới tâm của ngàn Phật hóa thân truyền trao, nên nói mất hột giống Bồ đề. Nên biết sanh ra ở nơi nào đều không gặp ngôi Tam bảo, tuy ở trong loài người nhưng không có tâm thú hướng đại đạo xuất thế, nên nói như gỗ đá vô tri, cứ mãi từ mê đến mê, sáu căn ngu đần, nên nói như cây cối không khác.

Tâm địa giới này, mặc dù ba đời chư Phật đồng nói, mà gần hơn nữa là từ Thất Phật truyền trao đến nay, chính là do thấy được sự thân thiết ấy, không thể không lựa chọn tự trọng, lại coi thường để vì hàng ngoại đạo và người chưa thọ giới pháp mà thậm chí khiến cho người khác bị tổn hại, lỗi ấy chẳng phải nhỏ.

Giới trước Phật chế để lựa chọn, giới này vì hạng người ác, chính là trong việc không biết lựa chọn, mà lựa chọn rõ ràng. Trước không lựa chọn, ấy là tâm từ bi phổ khắp, nay cần phải lựa chọn, là tiêu biểu đầy đủ trí nhãn và huệ nhãn, nên cẩn thận không thể để vướng vào lỗi không lựa chọn mà vọng trao Đại giới tâm địa cho kẻ ác và ngu si được. Ngược lại cho rằng mình từ bi, khiến cho họ gieo hạt giống lành, dù họ không sanh tâm hủy báng, nhưng vô tâm học tập giới pháp, không biết pháp Khai, Giá, Trì, Phạm của luật Phật dạy. Pháp Trì và Phạm đã mù mờ rồi, ắt phải sa đọa vào ba đường ác, thế thì gieo giống căn lành mà trái lại thành quả ác, trao giới như thế, chẳng phải là ngu si, cũng vì danh lợi.

Nếu thật như muốn cho người khác gieo căn lành thì nên dạy cho họ quy kính ngôi Tam bảo, đối với năm giới, quán sát xem họ có lãnh thọ được phần nào không, mới truyền trao cho họ, hoặc trao cho tám giới Bát quan trai, dạy họ phát nguyện hồi hướng để cầu vô thượng Bồ đề, đâu chẳng lợi ích hơn người trước đó ư?

Giới thứ 43 KHÔNG TÂM HỔ THẸN THỌ NHẬN CỦA CÚNG DƯỜNG

Là Phật tử, nếu có tín tâm xuất gia thọ chánh giới của Phật, cố ý móng tâm hủy phạm cấm giới, thì không được thọ nhận tất cả đồ cúng dường của đàn việt, cũng không được đi trên đất của Quốc vương, không được uống nước của Quốc vương.

Năm ngàn đại quỷ thường đứng ở trước người đó mà bảo rằng: “Ngươi là kẻ đại giặc”. Nếu người ấy đi vào phòng xá, thành ấp, nhà cửa, quỷ lại thường chà quét dấu chân người ấy, tất cả người đời đều mắng nhiếc người ấy và bảo rằng: “Kẻ giặc trong Phật pháp”. Tất cả chúng sanh không muốn thấy người đó, người phạm giới khác gì súc sanh và cây cối, nếu cố hủy phạm chánh giới thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Tự thân mình đã mang tội thì phước đâu mà cưu mang người khác, không tha thiết ân cần sám hối, ấy là người không tâm hổ thẹn, lạm dụng thọ của tín thí, tự tổn mình và gây tổn cho người, tội ấy lẽ đâu nhẹ ư? Đã đầy đủ lòng tin Tam bảo để xuất gia học đạo, lẽ đâu lại cố ý sai phạm, phá chánh giới của Phật ư? Đất và nước của Quốc vương vốn để cấp thí cho người lành trong nước, nếu tu hành mà hủy phạm cấm giới thì giới đức đâu còn, nên đất tuy lớn mà cũng không có chỗ cho kẻ phạm giới để chân. Nước tuy tràn ngập sông, mà kẻ phá giới uống một giọt cũng khó tiêu, huống gì của đàn việt tín thí, tứ sự cúng dường, vật của mười phương thường trụ Tăng, làm sao kham lãnh thọ nhận được?

Giả như phạm tội khinh cấu phải mau như pháp sám hối, mới tiêu của tín thí. Đại Luận ghi: “Bồ Tát đầy đủ 500 giới pháp. Phải biết 48 giới pháp này, chính là căn bản của giới. Nếu hành giả nào nghiêm trì giới luật thì có 5000 Thiện thần ủng hộ, nếu sái phạm thì có 5000 đại quỷ theo bên mình.” Cũng như địa vị cao quý ở thế gian, thì có tôi tớ, xe ngựa, tùy tùng theo ủng hộ, một khi sai phạm pháp luật nhà vua cũng bị gông cùm xiềng xích như dân thường. Đây chính là phân rõ con đường thiện ác, vốn tự rõ ràng, ngăn người sai phạm giới luật trước là không cho đi trên đất của Quốc vương và bảo đó là đại giặc, vì họ làm khuyết phạm Đại giới của ngàn Phật.

Chà quét dấu chân, nghĩa là người hủy giới không có thể thăng hoa, như rùa kéo đuôi, làm ô uế phòng nhà, đường xá.

Kẻ giặc trong Phật pháp, ý nói người tu hành đã sai phạm giới luật mà không biết hổ thẹn ở trong Phật pháp, trộm mặc y pháp Phật, trộm món ăn trong Phật pháp, làm hại Phật pháp, nên gọi đó là giặc. Còn người trì giới giữ gìn oai nghi cấm giới đều được mọi người chiêm ngưỡng, người phạm giới thì diện mạo suy hao, chúng sanh không ưa thấy.

Không biết pháp Trì, pháp Phạm thì nào khác gì chúng sanh. Thân không có giới thể thì đâu có khác gì gỗ, đá, thế thì sống có lợi ích gì. Phước đức ngày càng tiêu mòn, sau khi chết đọa vào địa ngục A tỳ, hết kiếp cũng không ra khỏi. Vì đã phạm giới này, y vào chỗ sai phạm mà kết tội, không chịu như pháp mà sám hối, không tâm hổ thẹn dối thọ của đàn việt thí chủ cúng dường, nên phạm tội khinh cấu.

Nói, 5000 quỷ thần ủng hộ: 1 giới, trời Đế Thích sai 10 vị thần ủng hộ người trì giới, vì 500 giới nên có 5000 thiện thần. Nhưng thân người có hai vai, tự có thần ủng hộ, cùng với thân đồng sanh, tuy thường ủng hộ người, ắt phải nhờ vào lòng kiên cố. Có thần thủ hộ thì mạnh mẽ, giới nếu không kiên cố, thì người thủ hộ khiếp sợ mà thần được sai ủng hộ lẽ đâu không trở về cõi trời, 5000 đại quỷ lẽ đâu không đứng trước người kia ư?

Giới thứ 44 KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH ĐIỂN

Là Phật tử, thường phải nhất tâm thọ trì đọc tụng kinh luật Đại thừa, lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, biên chép kinh giáo của Phật; lột vỏ cây làm giấy để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc cùng hương hoa vô giá và tất cả châu báu làm hộp, rương để đựng kinh luật. Nếu không y pháp để cúng dường kinh luật, Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Cái thấy của bậc Tam Hiền phước trí nhị nghiêm đồng tu, là bổn hạnh của bậc Đại sĩ. Nếu không cúng dường thì mất tâm thượng cầu Phật đạo, nếu không biên chép kinh điển thì trái đạo hạ hóa chúng sanh.

Niệm niệm không gián đoạn gọi là Thường, tâm lìa tán loạn gọi là Nhứt, biểu trưng cho tâm chuyên cần dốc chí. Dùng da, máu, cốt, tủy để biên chép kinh luật, là biểu trưng vì pháp quên mình không tiếc thân mạng, dùng các thứ vật báu vô giá để làm túi đựng kinh điển giới luật, đó là trọng pháp khinh tài. Trong đây nêu rõ có 5 thứ:

1. Nhứt tâm thọ trì không quên

2. Đọc tụng rành rẽ

3. Đọc tụng rõ ràng khiến cho người nghe hiểu

4. Biên chép kinh điển để lưu thông

5. Cung kính cúng dường

Năm thứ này trong tất cả kinh luật đều nêu, hoặc 5 hoặc 6, đều gọi là Pháp sư cả, nhưng Khai và Hợp có phần khác nhau. Như Pháp Hoa Văn Cú cũng nêu 5 thứ nhưng thiếu phần cúng dường:

1. Thọ trì

2. Đọc tụng

3. Tụng thuộc

4. Hiểu và giảng nói

5. Biên chép.

Bản kinh này tuy thiếu phần hiểu và giảng nói, song trong giới thứ 39 và 41 đã nêu phần hiểu và giảng nói, đó là mỗi mỗi giới phải khéo hiểu rành. Căn cứ vào Luận Trí Độ thì:

1. Tín lực gọi là Thọ

2. Niệm lực gọi là Trì

3. Xem văn gọi là Đọc

4. Không quên gọi là Tụng

5. Tuyên truyền gọi là Nói

6. Khó hiểu phải Hiểu.

Đây cũng thiếu phần cúng dường. Tất cả chư Phật do học Đại thừa kinh luật mà thành bậc Đẳng chánh giác, nên biết kinh luật, là Mẹ của chư Phật. Nếu không như pháp chí thành cúng dường, là khinh thường Mẹ ba đời chư Phật, đây gọi là bất hiếu nên mắc tội. Nói chung về thời xa xưa kỷ thuật chế tạo những công cụ cần thiết cho việc sử dụng rất hạn chế, chẳng hạn muốn ghi chép một vấn đề gì để lưu lại cho mai sau đều phải dùng vỏ cây, lá cây, thanh gỗ, bản gỗ, tre, v.v….Kinh điển của Phật cũng ghi vào lá cây, nên gọi là Bối diệp Tôn kinh. Trung Quốc làm giấy, bắt đầu từ đời Tiền Hán. Đến Hậu Hán, vào thời Hán Hòa Đế, Sái Kính Trọng dùng vỏ cây, vải rách, lưới làm giấy. Nay phần nhiều dùng tre, trúc, vỏ cây làm giấy, để biên chép kinh điển và lưu hành, đó là tài thí, pháp thí.

Kinh Tâm Địa Quán chép: “Pháp bảo có 4 thứ:

1. Giáo pháp

2. Lý pháp

3. Hạnh pháp

4. Quả pháp.”

Tất cả pháp Vô lậu hay phá trừ được vô minh phiền não nghiệp chướng, Thanh, Danh, Cú, Văn, thì gọi là Giáo pháp. Các pháp Có và Không gọi là Lý pháp. Giới, Định, Huệ, Hạnh gọi là Hành pháp. Diệu quả vô vi gọi là Quả pháp. Bốn pháp này dẫn dắt chúng sanh ra khỏi biển sanh tử, đến bờ bên kia. Chư Phật tôn làm thầy, chính là Pháp bảo, vì sao như vậy? Vì ba đời chư Phật nương pháp tu hành, đoạn tất cả chướng, chứng đắc Bồ đề, nhẫn đến đời vị lai luôn làm lợi ích chúng sanh, do nhân duyên ấy, nên ba đời Như Lai thường hay cúng dường các Ba-la-mật, pháp bảo vi diệu, huống gì tất cả chúng sanh trong 3 cõi, chưa được giải thoát mà không tôn kính pháp bảo vi diệu này ư?

Xưa ta từng làm bậc nhân vương cầu pháp, vào hầm lửa lớn để cầu chánh pháp, vĩnh viễn được dứt khổ sanh tử, được chứng đắc quả vị Đại Bồ đề, thế nên nói pháp bảo hay phá trừ tất cả lao ngục sanh tử, cũng như kim cang, hay chiếu soi những chúng sanh mê ám, như mặt trời soi chiếu thế gian, cũng như bậc đạo sư dẫn qua con đường nguy hiểm, khéo dẫn dụ chúng sanh, đạt đến Bảo sở. Diệu pháp mà ba đời chư Phật nói ra, mầu nhiệm như vậy, phải là pháp khó suy nghĩ luận bàn.

Giới thứ 45 KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH

Là Phật tử, thường phải khởi lòng từ bi. Nếu vào trong tất cả thành ấp, xóm làng, nhà cửa, khi thấy tất cả chúng sanh phải xướng lên rằng: “Chúng sanh các ông, tất cả nên thọ trì Tam quy, Ngũ giới, Thập giới.” Nếu thấy tất cả súc sanh như trâu, bò, chó, lợn, heo, dê, …phải tâm niệm miệng nói: “Các ngươi là loài súc sanh, cần nên phát tâm Bồ đề. Bồ Tát vào trong tất cả chỗ núi rừng, đồng nội, sông ngòi, phải khiến cho tất cả chúng sanh phát tâm Bồ đề.” Bồ Tát này, nếu không phát tâm giáo hóa chúng sanh thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Bồ Tát phải có tâm thượng cầu hạ hóa mới gọi là Bồ Tát, nếu trái bổn hạnh thì đâu gọi là Hạnh nguyện của bậc Đại sĩ.

Bồ Tát lấy việc độ sanh làm bổn hoài, cho nên khởi tâm từ bi. Tâm này không được quên dù trong giây phút, cho nên gọi là Thường.

Tất cả chúng sanh, nghĩa là bao gồm hết thảy lục đạo. Nhưng Bồ Tát chưa được Thiên nhãn, ở trong thành ấp xóm làng nhà cửa, chưa dễ gì thấy Thiên thần, Tu la, Địa ngục, Ngạ quỉ, súc sanh. Những loài mà Bồ Tát thấy chỉ có con người và súc sanh mà thôi.

Nay trong văn này, là khiến cho người phát tâm, do loài người có cao, thấp, sang, hèn, nên nói tất cả.

Kế đó Bồ Tát khiến cho súc sanh phát tâm, sau nữa Bồ Tát vào nơi núi rừng, đồng ruộng, sông ngòi và nơi vắng vẻ, v.v… chính là nói đến quỉ thần. Trước phải dùng vô số phương tiện, giáo hóa khiến họ phát đại tín tâm, sau trao cho họ Tam qui và Thập giới.

Nếu trước không dạy họ phát tâm mà thuyết giới ngay, tức là trao giới cho người ác. Bởi vậy, khiến cho họ bỏ tà qui chánh, trước thọ Tam qui, nhờ lực hộ trì của Tam bảo, tội tam ác, bát nạn được tiêu diệt, rồi mới truyền trao Thập trọng Ba-la-đề-mộc-xoa chánh giới cho họ, làm cội gốc cho đạo Bồ đề. Nếu căn cứ Văn Thù Vấn kinh, Phật dạy khiến cho Bồ Tát phải thọ mười thiện pháp giống như văn trao mười giới cho Sa-di. Xét trong kinh Đại Tập, khiến họ thọ Thập thiện Đạo giới. Một là không sát sanh cho đến giới thứ mười là không tà kiến. Đem căn lành này hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ đề. Người này tu mau chóng thành tựu viên mãn lục Ba-la-mật, ở nơi Tịnh độ mà thành Chánh giác. Căn cứ theo đây thì phải tùy theo căn cơ có khả năng kham lãnh giới pháp mới trao cho chánh giới.

Kinh Anh Lạc chép: “Pháp sư trước phải hiểu và giảng nói, khiến họ sanh tâm ưa thích, sau đó trao giới cho họ.”

Kinh Trì Địa chép: “Bồ Tát thấy chúng sanh tu theo tà pháp để cầu giải thoát, thì nên vì họ nói tám trai giới của bậc Hiền, Thánh, để đoạn dứt tà kiến cho họ. Nếu mình cầu giải thoát mà pháp tu không rốt ráo, truyền trao chút phương tiện, được kết quả trai giới lớn lao, ấy là Bồ Tát dùng chút phương tiện, phát khởi vô lượng căn lành.”

Là Bồ Tát nếu thấy tất cả chúng sanh, phải khởi tâm đại từ bi, nghĩ họ từ vô lượng kiếp đến nay, mê mất chơn tánh, vọng tạo Hoặc nghiệp, luôn phải chịu luân hồi khổ báo. Suy nghĩ thế rồi, Bồ Tát nói tiếp: “Súc sanh các ông phải cầu xuất ly chớ chịu khổ này một cách oan uổng, không bao giờ dứt.” Như thế khiến cho họ biết tên, biết khổ, tâm cầu giải thoát, quy hướng Đại sĩ, rồi sau dạy họ phát tâm Bồ đề. Tâm này chính là giác thể tròn sáng của Chư Phật, là bổn nguyên tự tánh của chúng sanh. Người mê tâm này nên không phát tâm, phải luân hồi trong lục đạo, bị thiêu đốt trong ba đường ác, hết kiếp này sang kiếp khác không thôi. Nếu có thể phát khởi được tâm này, thì khai mở được giới thể tâm địa bổn nguyên, Tam qui, Thập giới liền hiện tiền. Khi ấy Bồ Tát mới làm chứng minh, trao Tam qui và Thập giới tướng cho giới tử. Trước hết khiến cho người và súc sanh phát tâm, nay tùy phương tiện thấy mà khiến cho họ phát tâm, đủ thấy rõ tâm giáo hóa cùng khắp của bậc Đại sĩ, không nơi nào không đến, để làm lợi ích cho chúng sanh, niệm cứu độ không lúc nào lãng quên.

Tất cả chúng sanh, là chỉ cho trời, người, quỉ thần, địa ngục, cho đến cầm thú như: cá, rùa, côn trùng, v.v… chớ bảo rằng những loài đó yếu ớt vô tri, xả bỏ chúng mà không hóa độ. Hàm linh phần nhiều không mê giác tánh, như chim Anh Vũ, nghe pháp Tứ Đế được sanh thiên, thậm chí còn thành Bích Chi Phật quả. Di hầu dâng mật, cầu xin xuất gia thành đạo, chim nghe kinh được sanh về cõi trời Đao Lợi, nhạn nghe pháp được sanh về cõi trời 33, cá trong ao nghe kệ được làm Thiên tử, Hải kình nghe tên kinh mà thuyền khỏi bị nạn. Các loài như thế, không thể nêu hết. Giả sử chúng sanh bất giác mê mất chơn tánh, song do pháp lực gia trì cũng khiến cho được lợi ích. Như ngài Xá Lợi nói Tam pháp ấn cho con chó bị nạn và rắn độc nghe, chúng nó đều được sanh vào gia đình giàu có, sau tu hành thành chánh quả. Chúng sanh ở địa ngục chỉ nghe Đề kinh, mà tất cả được ra khỏi hầm lửa.

Như Chơn ngôn chú thuật, con người đâu thể biết được, nhưng thọ trì thì sở nguyện được tùy tâm, nhẫn đến chú nguyện cây khô được sanh hoa trở lại. Vô tình còn như vậy, lẽ đâu hữu tình không lợi ích ư? Pháp từ kim khẩu của Như Lai đã nói ra, một lời, một chữ, kẻ phàm tình, đâu có thể suy lường được.

Nên luật Phật chế Tỳ kheo phàm khi đến chỗ miếu, đền thờ thần, hoặc những chỗ như gốc cây, bên bờ nước, v.v… đều tụng kinh kệ. Nay Đại sĩ biết tất cả chúng sanh, đầy đủ giác tánh, nên phát tâm giáo hóa độ khắp không gián đoạn. Nếu không phát tâm như vậy, là trái với Đại nguyện của Bồ Tát, nên phạm tội khinh cấu.

Giới thứ 46 THUYẾT PHÁP KHÔNG ĐÚNG NHƯ PHÁP

Là Phật tử, thường phải phát tâm giáo hóa, khởi tâm Đại bi. Khi đến nhà đàn việt giàu sang, ở trước mọi người không được đứng nói pháp cho bạch y (tại gia) mà phải ở trước bạch y, ngồi ở tòa cao. Pháp sư Tỳ kheo không đước đứng dưới đất, nói pháp cho bốn chúng. Khi nói pháp, Pháp sư phải ngồi tòa cao và dâng các thứ hương hoa cúng dường Pháp sư, còn tứ chúng nghe thì ngồi tòa thấp, như hiếu thuận Cha mẹ, kính thuận Sư trưởng, như Bà-la-môn thờ lửa, người thuyết pháp nếu không đúng như pháp nói, thì phạm tội khinh cấu.

Giải thích:

Pháp là mẹ của Chư Phật mà bậc Đại sĩ không tự trọng thì đâu có thể khiến cho người khác chí thành cung kính . Loài dã can còn biết tự tôn trọng, trộm trái cây cũng biết đó là phi pháp. Pháp sư Bồ Tát đâu có thể trái với phép thường được.

Do đầy đủ tâm Đại bi, thường vì chúng tại gia và xuất gia mà thuyết pháp. Nhưng khi thuyết pháp cần phải đúng như pháp, nếu không đúng như pháp kẻ nói và người nghe đều chuốc cái lỗi khinh thường pháp.

Quí nhơn, tức là quan lại. Tất cả tức là thứ dân. Bạch y, là người thế tục ưa mặc áo trắng. Nên ở trước chúng , nghĩa là không được ở sau lưng họ. Tòa cao, là ngồi tòa cao hơn thính chúng mà thuyết pháp. Thượng tọa là bậc thượng thủ trong chúng. Đây đều là lễ nghi tôn trọng pháp chứ chẳng phải là biểu tượng tướng tự cao ngã mạn. Nếu khai thị trong chốc lát, người nói người nghe cùng đứng thì không có lỗi.

Luật Bổn ghi: “Người ở tòa cao, mình ngồi dưới thấp, người ngồi mình đứng, người nằm mình ngồi đều không được nói pháp, trừ khi có bệnh thì không phạm.”

Trước nói chung cho những người Bạch y chưa thọ giới pháp, nay nói riêng cho bốn chúng tại gia xuất gia. Tòa cao hương hoa, là tứ chúng trọng pháp trọng người. Người nghe ngồi chỗ thấp, là biểu thị sự tôn ti khiêm kính, rồi lễ kính người trên.

Như hiếu thuận Cha mẹ, đó là lấy lễ của đệ tử tôn kính đối với thầy, như Bà-la-môn thờ lửa, đó là tà kiến ngoại đạo của nước Thiên Trúc.

Xưa ở thế giới này trong thời sơ kiếp, vị Thiên tử cõi trời Đao Lợi, muốn xem vườn cây, ao nước, v.v… ở Nam Diêm Phù Đề. Từ Thiên giới, Thiên tử xuống xem, rồi về lại cõi trời Đao Lợi, thân thể sáng rực như lửa. Người ngoại đạo ở trong rừng, từ xa nhìn thấy ánh quang rực rỡ, cho rằng người đời cúng dường lửa thì được sanh thiên. Cho nên mỗi ngày lúc mặt trời sắp lặn, họ bèn cùng nhau đốt đống lửa lớn suốt đêm, rồi quì lạy hết sức cung kính, phụng thờ, nay mượn đó làm thí dụ. Kính thuận chánh pháp phải chí thành như Bà-la-môn thờ lửa.

Nếu không đúng như pháp mà thuyết, thì trái với nghi thức thuyết pháp chứ không phải ý nói không khéo thuyết pháp. Nếu pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, thì thuộc về giới thứ 16 và nói pháp một cách điên đảo, lộn xộn như trong giới trước.

    Xem thêm:

  • Luận Kim Cương Bát Nhã - Luận Tạng
  • Kim Cương Bát Nhã Luận - Luận Tạng
  • Giảng Giải Kinh Viên Giác - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Luận Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Phân Biệt Công Đức - Luận Tạng
  • Sớ Giải Kinh A Di Đà - Luận Tạng
  • Thiền Lâm Bảo Huấn - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Bồ Tát Bổn Sanh Man - Luận Tạng
  • Luận Bồ Đề Tư Lương - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Đại Trượng Phu - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 4 - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Trung Luận – Thích Viên Lý - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng