1
2
3
4
5
6
7

QUYỂN 5

Phần IX: Hành nghiệp của sự vãng sanh

1. Không hữu tùy căn cơ.

Hỏi: Kinh Phật Tạng nói: “Thế nào là ác tri thức, thế nào là thiện tri thức? Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: ‘Nếu có tỳ kheo bảo các tỳ kheo khác rằng: ‘Các ông nên niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, v.v… Chỉ nên quán sát Niết bàn an ổn tịch diệt, chỉ nên ưa thích sự thanh tịnh rốt ráo.’ Kẻ nào dạy như vậy thì gọi là ác tri thức, người đó là kẻ phỉ báng Phật, hổ trợ ngoại đạo. Ta không cho phép những kẻ ác đó thọ nhận dù một hớp nước để tu hành và dạy dỗ người khác những pháp tà ma.’” Kinh lại nói: “Chẳng thà tạo năm tội nghịch, quyết không khởi các kiến chấp về ngã, chúng sanh, thọ, mạng, ấm, nhập, giới, v.v…” Điều này bao gồm cả việc niệm Phật với tâm chấp trước, v.v… Kinh này lại nói: “Nghe pháp Không vô sở đắc mà khởi tâm chấp trước đều là tà kiến. Nếu đối với pháp Không vô sở đắc, không khởi tâm nghi ngờ, hối hận, mà lại thông đạt sâu xa, không chấp vào tất cả ngã kiến, nhân kiến, v.v…, ta gọi người đó là người tu phạm hạnh thanh tịnh.” Hiện nay khuyên người khác dùng tâm chấp trước (hữu sở đắc) niệm Phật có hình tướng, đây há chẳng phải là điều mà chư Phật quở trách hay sao? (68)

Đáp: Chư Phật giảng pháp đều tùy thuận căn cơ chúng sanh. Căn cơ có sâu cạn khác nhau, cho nên giáo pháp có Đại thừa, Tiểu thừa khác biệt. Do có sự sai biệt về nhân, pháp, kiến đạo, tu đạo, v.v…, cho nên chư Phật cũng tùy theo đó mà giảng pháp không đồng: hoặc đề cao tánh Không, trách cứ pháp hữu vi; hoặc trách cứ sự chấp không, tán thán công đức hữu vi; hoặc dạy bỏ pháp Tiểu thừa, học pháp Đại thừa; hoặc dạy trước tiên học pháp Tiểu thừa, sau đó học pháp Đại thừa. Bởi có nhiều loại căn cơ khác nhau nên mới có tám vạn pháp môn sai biệt, tùy vào cơ duyên chúng sanh mà hóa độ, thật không thể nghĩ bàn. Kinh Phật Tạng trách cứ tâm chấp trước cho rằng “chẳng thà tạo tội ngũ nghịch, v.v…”, thế nhưng có những kinh khác lại dạy rằng “thà khởi ngã kiến to như núi Tu Di, không khởi không kiến nhỏ như hạt cải.” Lại như Kinh Pháp Hoa dạy “không được gần gũi những học giả Tiểu thừa”, thế nhưng Kinh Thập Luân lại dạy rằng “không đủ sức uống cạn một dòng sông, làm thế nào có thể uống hết nước biển lớn, chưa học tập pháp Tiểu thừa, thì làm thế nào đủ sức học tập pháp Đại thừa?” Những lời dạy như vậy rải rác trong các kinh điển Đại thừa, hoặc trách cứ hữu vi, khen ngợi tánh Không, hoặc ca ngợi Đại thừa, hoặc ca ngợi Tiểu thừa, hoàn toàn không nhất định, đây đều là vì muốn thích ứng căn cơ trình độ của người tu nên mới có những lời dạy khác biệt. Đức Phật có hai thân, chân thân (pháp thân) và ứng thân khác nhau, người học Phật cũng có trình độ thấp cao khác biệt. Pháp thân thâm sâu vi diệu, siêu vượt các pháp hữu vi vô vi, bách phi, tứ cú, v.v… Điều này các người học Phật trình độ cao có thể đối với pháp đệ nhất nghĩa đế tâm không lay động, thế nhưng vẫn còn chấp tướng, vẫn còn tâm phân biệt. Kinh Phật Tạng quở trách tâm chấp trước với mục đích khiến cho hành giả diệt trừ hai sự chấp trước vào nhân và pháp, dạy họ quán pháp vô sở đắc, tu tập pháp quán niệm pháp thân Phật, cho nên kinh ấy mới nói rằng “thấy được vô sở đắc gọi là niệm Phật.” Còn đối với những hành giả trình độ thấp, vừa mới bỏ tà về chánh, phát tâm Bồ đề, nguyện sanh Tịnh độ, chưa hiểu rõ pháp vô sở đắc, nếu bảo họ quán không, ắt sẽ cho rằng nhân quả vốn tịch diệt (không nhân không quả) rồi lại không còn biết sợ nhơn quả tội báo, gây tạo thêm phiền não. Nếu không nói rộng cho họ biết về nhân quả, sự khác biệt của thiện ác, các cõi lành dữ khác nhau, thân tướng của chư Phật không thể nghĩ bàn, thì họ làm thế nào có thể phát khởi tâm lành, sợ hãi tội chướng, nhàm lìa cõi uế, mong cầu cõi Tịnh, chuyên tâm quán tưởng bạch hào, quán sát cảnh tướng Cực Lạc, diệt trừ tội chướng, thành tựu nhân duyên vãng sanh. Kinh Hiền Hộ dạy: “Nếu tỳ kheo, tỳ kheo ni, v.v…, trì giới thanh tịnh, đầy đủ các hạnh, hướng về Tây Phương, quán tưởng Đức Phật A Di Đà rõ ràng minh bạch, liên tục không ngừng, thì hành giả đó rốt ráo được diện kiến Đức A Di Đà. Hành giả nên quán sát sắc thân như vậy.” Kinh lại dạy rằng: “Đức A Di Đà Như Lai Chánh Biến Giác đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân sắc quang minh như khối vàng Diêm phù đàn, v.v…. Không quán niệm Đức Phật ấy, cũng không thấy sắc thân của ngài, như vậy theo thứ tự sẽ đắc được Không tam muội. Thiện nam tử! Đây gọi là Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội.” Kinh Quán Tam Muội Hải dạy: “Đức Như Lai cũng có pháp thân, mười lực, bốn vô úy, ba giải thoát, thần thông tự tại. Những việc như vậy, không phải là cảnh giới mà phàm phu các ông có thể học tập. Các ông chỉ cần dùng lòng tin sâu thiết, khởi tâm tùy hỷ. Sau đó hệ niệm công đức của chư Phật.” Nên biết, đối với người trình độ thấp, Phật dạy quán sắc thân, đối với người trình độ cao, Phật dạy quán pháp thân, nên mới nói rằng “theo thứ tự sẽ đắc được Không tam muội.” Hơn nữa, đối với hành giả ưa thích quán sát “lý Phật”, Phật dạy quán thân vô tướng, còn đối với người cầu thấy “sắc thân”, Phật dạy quán thân sắc tướng. Phải nên khéo hiểu ý thú của kinh điển, không thể vội vàng khởi tâm khen chê, mà nên biết rõ Đức Phật khéo tùy thuận căn tánh của chúng sanh.

2. Chỉ khuyên vãng sanh Tây Phương.

Hỏi: Các cõi Tịnh độ ở mười phương nhiều vô lượng vô biên, vả lại cũng có người khuyên vãng sanh về các cõi Tịnh độ khác, tại sao ở đây lại chỉ khuyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc? (69)

Đáp: Có ba cách giải thích. Một là tuy nói về cõi Tịnh độ đó, nhưng không khuyên vãng sanh; hai là chỉ khuyên một số người vãng sanh; ba là lời khuyên không đầy đủ. (1) Nói về cõi Tịnh độ nhưng không khuyên vãng sanh: Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Từ đây hướng về phương Tây, vượt qua bốn mươi hai hằng hà sa thế giới, có một cõi Tịnh độ tên là Vô Thắng, cảnh giới thù thắng giống như cõi Cực Lạc. Đức Như Lai từ cõi Tịnh độ đó thị hiện giáng sanh tại cõi Ta Bà này, giáo hóa chúng sanh.” Nếu như cõi Tịnh độ đều có thể vãng sanh, tại sao Đức Thích Ca Như Lai không khuyến khích mọi người vãng sanh cõi ấy, mà lại chỉ khuyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc? Hơn nữa, nhiều kinh Đại thừa tuy cũng nói về các cõi Tịnh độ nhưng không khuyến khích vãng sanh. (2) Chỉ khuyên một số người vãng sanh: Như trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật đưa tay tiếp thế giới Diệu Hỷ đặt vào cõi Ta Bà để cho đại chúng chiêm ngưỡng. Đức Phật khuyên đại chúng vãng sanh về cõi đó thì có mười bốn na do tha chúng sanh phát tâm Bồ đề nguyện sanh về cõi Diệu Hỷ, và Đức Phật thọ ký cho họ được vãng sanh, tức là phần dưới của kinh nói thế giới Diệu Hỷ sau khi làm lợi ích cho chúng sanh cõi Ta Bà xong bèn trở về bổn xứ. Nếu cõi Tịnh độ này thích hợp cho mọi người, tại sao Đức Phật lại không khuyến khích mọi người nguyện vãng sanh thế giới Diệu Hỷ? Cho nên biết rằng chúng sanh cõi này không có duyên với cõi Diệu Hỷ, vì thế Đức Phật không khuyến khích cầu vãng sanh. (3) Lời khuyên không đầy đủ: Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh, Kinh Dược Sư, v.v…, tuy cũng nêu lên các cõi Tịnh độ phương khác và khuyên vãng sanh, thế nhưng kinh văn không đề cập chi tiết. Nói chi tiết là sao? Chẳng hạn như Kinh Quán Vô Lượng Thọ, v.v…, khuyên vãng sanh đã đề cập đến những phần như sau: (a) Nêu rõ người vãng sanh là phàm phu; (b) nêu rõ vị lai; (c) nêu rõ sự tạo tội nhiều ít; (d) có chư Phật mười phương hiện tướng lưỡi chứng minh; (e) có nhiều bản kinh đồng chứng minh, có thể y theo đây tu tập không còn nghi ngại. Nên biết rằng pháp tu Vãng sanh Cực Lạc rất dễ thực hành, còn các pháp tu vãng sanh về các cõi Tịnh độ khác, kinh điển chỉ đề cập vài ba câu, chỉ dẫn sơ sài, khó y theo đó mà tu tập. Tại sao lại bỏ sự chỉ dẫn tu tập chi tiết mà y theo những lời chỉ dẫn tu tập sơ sài. Hơn nữa, kinh điển khuyên nên y theo kinh điển liễu nghĩa, không nên y theo kinh điển không liễu nghĩa. Ngài Tam tạng pháp sư (Trí Giả?), trong quyển Quán Kinh Sớ, đã giải thích tường tận rằng các kinh liễu nghĩa bất liễu nghĩa có bốn loại. Hiện nay giáo nghĩa Tịnh độ có đầy đủ bốn loại kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, có thể căn cứ vào đó để tu hạnh Tịnh độ; còn các kinh khác tuy cũng nói về giáo nghĩa Tịnh độ, nhưng không đầy đủ bốn nghĩa, khó có thể căn cứ vào đó mà tu hành Tịnh nghiệp.

3. Mạng chung hỷ xả.

Hỏi: Các bộ luận cho rằng khi mạng chung, hoặc thọ sanh, tâm thái đều ở trạng thái xả thọ. Vì sao Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho rằng người sắp vãng sanh tâm ý hoan hỷ phấn chấn, tự thấy thân mình ngồi trên đài kim cang. Tâm thái hỷ thọ mạnh mẽ như vậy, sao lại cho rằng khi mạng chung ở trong trạng thái xả thọ? (70)

Đáp: Có một pháp sư giải thích rằng sự thọ sanh ở cõi trược uế, vì không có thánh chúng đến nghinh tiếp nên tâm thái người lâm chung chỉ ở trạng thái xả thọ, còn sự vãng sanh Tịnh độ, vì có thánh chúng đến nghinh tiếp và được chư Phật Bồ tát từ bi gia bị cho nên tâm thái hành giả lâm chung hoan hỷ phấn chấn. Các bộ luận phần nhiều căn cứ vào sự thọ sanh ở cõi uế cho nên mới nói như vậy, không thể cho đây là tiêu chuẩn duy nhất. Có người cho rằng lúc mạng chung tâm thức cũng ở trong trạng thái xả thọ, chỉ vì trạng thái xả thọ yếu ớt, và khi lâm chung trạng thái hỷ thọ mạnh mẽ, cho nên y vào đây mà cho rằng hành giả hoan hỷ phấn chấn. Thật ra đến lúc chánh thức mạng chung, tâm thái cũng sẽ trụ trong trạng thái xả thọ mà vãng sanh. Kinh và luận cùng một cách giải thích, không có sự mâu thuẫn.

4. Niệm Phật dài ngắn.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rằng lúc lâm chung chỉ cần niệm Phật một niệm cho đến mười niệm đều được vãng sanh, Kinh A Di Đà cho rằng phải niệm Phật đến nhất tâm bất loạn trong vòng một ngày cho đến bảy ngày mới được vãng sanh, còn Kinh Vô Lượng Thọ lại cho rằng phải chuyên tâm niệm Phật trọn đời mới được vãng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu cần phải niệm cả đời mới được vãng sanh thì những lời dạy về niệm Phật một ngày bảy ngày, một niệm mười niệm đều chỉ là những lời hư dối. Còn nếu chỉ cần một niệm mười niệm, v.v…, là được vãng sanh thì cần gì phải dạy niệm Phật bảy ngày, cho đến niệm Phật trọn đời? (71)

Đáp: Niệm Phật một niệm, mười niệm, một ngày, bảy ngày, nhẫn đến niệm Phật trọn đời đều được vãng sanh Cực Lạc. Tất cả những lời dạy này đều không phải hư dối mà đều là lời thành thật. Đức Phật là bậc nói lời thật không hề hư dối lẽ nào ngài lại nói những lời sai lầm giả dối hay sao? Thế nhưng, những người tu Niệm Phật gặp được pháp môn Tịnh độ hoặc sớm hoặc muộn, phát tâm cầu vãng sanh có nhanh có chậm, hoặc tuổi thọ có dài ngắn khác nhau. Hoặc lúc lâm chung mới gặp được thiện tri thức dạy bảo phát tâm niệm Phật cũng được vãng sanh, và tuy được vãng sanh nhưng chỉ được hạ phẩm. Hoặc có người mạng căn chưa dứt, trải qua một ngày, hai ngày, hoặc trải qua nhiều ngày niệm Phật được nhất tâm bất loạn, thì Đức Phật tùy theo thọ mạng của họ mà bảo niệm Phật một ngày cho đến nhiều ngày. Hoặc có người thọ mạng dài lâu, thì Đức Phật cũng tùy theo thọ mạng của họ mà dạy niệm Phật suốt đời. Không thể đối với người thọ mạng ngắn ngủi lại bảo họ niệm Phật dài lâu, hoặc đối với người thọ mạng trăm năm lại bảo họ niệm Phật một ngày cho đến bảy ngày. Vì thế ba kinh Tịnh độ tuy đều khuyên niệm Phật, mỗi kinh tùy theo một nghĩa mà dạy phương pháp niệm Phật khác nhau, mà những ý nghĩa này cũng không hề mâu thuẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đối với người sắp lâm chung dạy pháp niệm Phật một niệm mười niệm để được vãng sanh, Kinh A Di Đà đối với người còn thọ mạng vài ngày dạy pháp niệm Phật một ngày cho đến bảy ngày để được vãng sanh, và Kinh Vô Lượng Thọ đối với những người còn thọ mạng lâu dài, hoặc dạy tích tập công đức, hoặc dạy pháp niệm Phật trọn đời để được vãng sanh. Lại nữa phương pháp khác biệt này tức là sự tu tập của ba phẩm, đối với bậc thượng phẩm dạy tu niệm Phật trọn đời, đối với bậc trung phẩm dạy tu niệm Phật một ngày đến bảy ngày, còn đối với bậc hạ phẩm dạy tu niệm Phật một niệm cho đến mười niệm. Trong chín phẩm vãng sanh lại cũng chia nhiều giai vị khác biệt. Tuy đều được vãng sanh, không còn chịu sự khổ não, nhưng hoa nở có sớm có muộn, sự ngộ đạo cũng có mau có chậm, cho nên các kinh dạy khác nhau là có ý nghĩa này.

5. Thoái vị hân tịnh.

Hỏi: Cõi Ta Bà này có mười sự kiện thù thắng mà các cõi Tịnh độ khác không có. Hơn nữa, tu đạo một ngày đêm ở cõi này thù thắng hơn tu đạo trăm năm ở cõi Cực Lạc. Y vào những lời kinh này, ở cõi Ta Bà tu tập thù thắng hơn cõi Tịnh độ, tại sao lại khuyên mọi người vãng sanh Tây Phương? (72)

Đáp: Nếu đúng như lời cật vấn thì tất cả pháp môn Tịnh độ đều không cần thiết. Ông dẫn lời kinh vừa nêu trên cho rằng pháp môn Tịnh độ không có lợi ích, nếu thế các kinh điển Tịnh độ ân cần khuyên khích mọi người vãng sanh với mục đích gì? Vả lại, hai kinh mà ông dẫn chứng chỉ là đối với một số người căn cơ thích hợp mà nêu lên sự khen ngợi khuyến khích không đồng. Khen ngợi những hành giả an trụ cõi Ta Bà là muốn cho các Bồ tát đang trụ tại cõi uế trược không mất niềm tin vào những công hạnh tu tập của mình, có thể làm lợi ích chúng sanh khổ não, vì thế đối với các Bồ tát có tâm đại bi thù thắng thì Đức Phật khen ngợi sự an trú tại cõi uế trược. Còn đối với những Bồ tát cư trú tại cõi uế, đang gặp ác duyên, gây tạo nhiều tội chướng thì Đức Phật khuyên họ vãng sanh Tịnh độ, lìa xa các ác duyên, để khỏi bị luân hồi. Ý thú khác nhau của các kinh điển là để thích ứng hai loại căn tánh không đồng, tại sao lại dẫn những lời kinh Duy Ma Cật tán thán các Bồ tát cư trú tại cõi uế làm lợi ích chúng sanh, rồi lại cho rằng chỉ cần ở cõi uế này tu đạo, cần gì phải cầu vãng sanh Tịnh độ? Tuy ở cõi uế này tu đạo một ngày đêm công đức ngang bằng với sự tu đạo ở cõi kia một trăm năm, nhưng ở cõi này ít có cơ hội thấy Phật, gần gũi thiện tri thức, mà phần lớn đều là gặp ác tri thức, hoặc gặp nhân duyên thoái chuyển sự tu hành, cho nên các kinh điển đều khuyến tấn hành giả vãng sanh Tịnh độ. Trong Kinh Đại Tập, phần Nhật Mật, thứ hai mươi tám, nói: “Các thiện nam tử! Các đệ tử của Đức Phật ở cõi ấy (Ta Bà) phiền não kiên cố, tham luyến sâu nặng, hình tướng xấu xí, thường khởi tâm kiêu mạn, hay nói lời ác, nói lời đâm thọc, nói lời gian dối. Kỳ thật là ngu si nhưng lại trá hiện tướng trí tuệ; tánh tình bỏn sẻn nhưng lại trá hiện tướng bố thí; tâm tánh điêu ngoa nhưng lại trá hiện tướng chân thực; tâm ý nhơ nhớp nhưng lại trá hiện tướng thanh tịnh; lòng đầy ghen tị nhưng lại trá hiện tướng nhu thuận; mong người khác chia rẽ nhưng lại trá hiện tướng hòa hợp; thường khởi tà kiến nhưng lại trá hiện tướng chánh kiến. Chúng sanh cõi đó vì nghe theo lời người nữ mà đoạn tuyệt căn lành, tăng gia ba đường ác. Thiện nam tử! Nay ông có thể vì ta mà làm sứ giả đến cõi đó hay không? … Lúc ấy Bồ tát Nhật Mật bạch Đức Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn, con có thể đọc chú đó cho chúng sanh cõi ấy nghe, nhưng con đối với cõi ấy sanh lòng lo sợ. Vì sao? Đức Như Lai vừa nói với chúng con về sự tệ ác của chúng sanh cõi đó, bọn họ giống như những kẻ đui điếc câm ngọng, nghe theo lời xúi dục của người nữ. Bạch Thế Tôn, nếu có những kẻ nào thuận theo ý của người nữ, nên biết những kẻ ấy đều đã đoạn tuyệt căn lành.’ Phật bảo: ‘Thiện nam tử! Ông không nên chỉ vì lợi lạc đời nay đời sau, mà nên vì lợi lạc tất cả chúng sanh mà đến cõi đó tuyên dương Phật pháp, đừng nên nghi ngờ lo lắng. Thiện nam tử! Ông không phải là Duy Ma Cật của cõi đó hay sao? Tại sao lại cảm thấy lo sợ? Có vô lượng vô số Bồ tát tâm ý dao động, nhất tâm hệ niệm muốn đến gần gũi lễ bái Đức Thích Ca Như Lai cùng chư vị Bồ tát, và cũng muốn nghe kinh điển vi diệu. Những Bồ tát đó đều đồng tâm muốn đi đến thế giới Ta Bà, nhưng ta muốn khuyên họ đừng đi đến cõi ấy. Vì sao? Vì bọn họ tâm ý chưa kiên định. Nếu đến cõi ấy, hoặc sẽ sanh tâm điên đảo, gần gũi ác tri thức.’” Bồ tát tâm chưa kiên định là những Bồ tát sơ vị thoái hành, gọi là bất định. Vì Bồ tát tâm chưa kiên định nên e rằng đến cõi Ta Bà này gặp ác duyên sẽ gây tạo nghiệp ác và bị thoái chuyển. Các Bồ tát cõi ấy chỉ tạm thời đến cõi Ta Bà mà còn cảm thấy lo sợ không dám đến, các người tu hành ở cõi này chưa chứng được quả vị bất thoái mà lại muốn ở lại đây tu hành không chịu vãng sanh thế giới Cực Lạc, đây là một điều sai lầm to lớn. Luận Du Già Sư Địa, quyển 78, dẫn kinh Giải Thâm Mật nói: “Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hỏi Đức Phật: ‘Bạch Đức Thế Tôn! Ở cõi uế trược, việc nào dễ được, việc nào khó được?” Phật đáp: ‘Thiện nam tử! Ở cõi uế trược, có tám việc dễ được và hai việc khó được. Tám việc dễ được là: (1) ngoại đạo, (2) chúng sanh khổ não, (3) người giàu người nghèo khác biệt, (4) làm việc ác, (5) phạm giới, (6) đọa ác đạo, (7) các pháp môn hạ liệt, (8) các Bồ tát hạ đẳng. Hai việc khó được là: (1) các vị Bồ tát thượng đẳng, (2) chư Phật xuất hiện thế gian. Thiện nam tử! Sự việc ở cõi Tịnh độ đều trái ngược với những điều vừa nêu trên, bởi thế chư Phật đều khuyên chúng sanh cõi trược uế nên vãng sanh Tịnh độ.”

6. Có hay không có hóa nữ.

Hỏi: Cõi Tịnh độ không có ba đường ác nhưng lại có hóa điểu thuyết pháp, nếu vậy, cõi ấy tuy không có người nữ nhưng có hóa nữ thuyết pháp hay không? (73)

Đáp: Có hai cách giải thích: (1) Chỉ có hóa điểu mà không có hóa nữ. Vì sao? Bởi vì kinh chỉ nói đến hóa điểu mà không nói đến hóa nữ. Nếu như có hóa nữ thì kinh đã phải đề cập đến. Hơn nữa, Luận Vãng Sanh cũng nói: “Nữ nhân, người tàn phế, Nhị thừa không vãng sanh.” Vả lại, kinh chưa hẳn đã nói hết về sự biến hóa trang nghiêm của cõi Tịnh độ, chẳng hạn Kinh Xưng Tán Tịnh độ nói: “Giả sử Đức Thế Tôn sống lâu trăm ngàn kiếp, biến ra vô số lưỡi để nói về cảnh tướng trang nghiêm của cõi Tịnh độ cũng không nói hết.” Chả lẽ vì kinh chưa đề cập đến bèn cho rằng cõi Tịnh độ không có điều đó hay sao? (2) Cõi Tịnh độ có hóa nữ. Như Kinh Quán Âm Thọ Ký nói: “Đức Quán Thế Âm Bồ tát hóa ra vô lượng nữ nhân.” Đây không phải là hóa nữ hay sao? Hơn nữa, Kinh Cổ Âm Thanh Vương nói: “Phật A Di Đà có cha có mẹ. Vì muốn hóa độ người căn cơ thấp nên hóa hiện có người nữ, vì muốn hóa độ người căn cơ cao nên hóa hiện không có người nữ.” Hai điều này không trái nghịch nhau.

7. Bất tạp kiết sử.

Hỏi: Kinh Di Lặc Phát Vấn nói: “Pháp niệm mười niệm không phải là pháp niệm của phàm phu ngu muội, mà là pháp niệm thanh tịnh.” Nếu vậy, các chúng sanh phàm phu ngu muội làm thế nào niệm Phật thanh tịnh? (74)

Đáp: Nếu pháp niệm mười niệm không phải là pháp niệm của phàm phu ngu muội, chả lẽ đó là pháp niệm của thánh nhân? Còn pháp niệm thanh tịnh, chả lẽ là pháp niệm đoạn trừ hẳn phiền não hay sao? Bổn ý của kinh muốn nói rằng “không phải pháp niệm của phàm phu”, không có nghĩa phải là pháp niệm của thánh nhân; “pháp niệm thanh tịnh”, không có nghĩa là pháp niệm dứt sạch phiền não, mà chỉ muốn nói rằng pháp niệm mười niệm này có thể giúp hành giả xả bỏ sự luân hồi ở cõi Ta Bà mà thuận theo sự xuất thế giải thoát. Chúng sanh phàm ngu phần lớn thuận theo dòng sanh tử, tăng trưởng phiền não, tạo nghiệp luân hồi. Nay tu pháp niệm mười niệm, nguyện vãng sanh Tịnh độ, đi ngược dòng sanh tử, thuận theo đường niết bàn, hướng về pháp thánh hiền, đi vào cửa đoạn trừ vọng hoặc, cho nên kinh mới nói “không phải pháp niệm phàm ngu, mà là pháp niệm thanh tịnh.” Ví như tỳ kheo thọ giới được gọi là “thọ giới của chư thánh đã thọ”, chả lẽ giới này không phải là giới phàm phu được thọ? Trường hợp vừa trình bày cũng giống như thế, phân tích sẽ biết.

8. Đối trị lúc lâm chung.

Hỏi: Niệm Phật A Di Đà cầu sanh Tây Phương cũng phải cần niệm nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, mới được vãng sanh; hơn nữa, lại còn phải ân cần, thành khẩn, siêng năng niệm Phật dài lâu. Nếu như, đến lúc sắp chết chỉ cần chí thành niệm Phật cũng được vãng sanh, thì cõi người này ngày tháng ngắn ngủi, chỉ sống trăm năm, vui ít khổ nhiều, dễ chia lìa, khó hội ngộ, cuộc vui ngắn ngủi, chi bằng chạy theo ngũ dục, phóng túng lục tình, ngày đêm hưởng lạc, đợi đến lúc chết, chỉ cần niệm Phật một câu cũng được vãng sanh, vượt thoát cõi khổ, cần gì phải lâu năm suốt tháng gắng sức khổ hạnh, lao nhọc tu hành, chuyên cần ba nghiệp. Hai phương cách đều được vãng sanh, tại sao lại phải nhọc công khổ hạnh tu tập lâu dài? (75)

Đáp: Điều này có nhiều ý nghĩa, không thể chỉ nghe phong phanh về pháp môn Tịnh độ rồi bỏ phế không tu, đợi đến lúc sắp chết rồi mới chuyên tâm niệm Phật. Ông mong được vãng sanh Tịnh độ, xa lìa sự khổ ở cõi Ta bà, nhưng lại không cầu Vô thượng Bồ đề, không chịu tu Bồ tát hạnh, mà chỉ muốn về đó để phóng túng hưởng lạc, không cầu sớm chứng Vô sanh, cho nên mới mong vào phút lâm chung cầu may được vãng sanh. Nếu như thật sự có chí cầu quả Phật, thương xót chúng sanh, mong chóng thành Chánh giác, e rằng ở cõi này sẽ bị thoái chuyển tâm Bồ đề, muốn sanh về cõi Tịnh độ để được tăng tiến tu hành, chứng quả bất thoái, cứu độ chúng sanh, thì phải nên tu tập vạn hạnh dài lâu không ngừng không nghỉ. Tại sao hiện nay đối với pháp môn Tịnh độ không chịu tu hành, lại còn kiêu sa phóng túng, đợi đến lúc sắp chết mới niệm Phật cầu nguyện vãng sanh?

9. Tịnh độ mau chứng.

Hỏi: Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Vãng sanh Cực Lạc mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.” Nếu ở cõi đó tu đạo trăm năm chỉ bằng ở cõi này tu đạo một ngày thì làm sao có thể mau chứng Vô thượng Đại bồ đề? (76)

Đáp: Nếu nói ở trong cảnh khổ tu đạo một ngày có thể trội hơn ở cõi Cực Lạc tu đạo trăm năm, nhưng ở cõi này nếu gặp ác duyên thường bị thoái chuyển nhiều kiếp, rốt cuộc vẫn là tu chậm hơn ở cõi kia. Ở cõi Cực Lạc tuy tu trăm năm chỉ bằng ở cõi này tu một ngày, nhưng chỉ có tiến mà không thoái, thành thử vẫn có thể gọi là tu đạo mau chứng đạo quả Vô thượng Bồ đề. Như người tuy đi nhanh nhưng lại thường ngừng nghỉ, hóa ra chậm đến mục tiêu. Vì lý do này, tuy ở cõi Ta Bà tu đạo một ngày trội hơn ở cõi kia tu đạo trăm năm, nhưng Đức Phật vẫn không cho rằng ở cõi này mau chứng Bồ đề. Còn như người tuy đi chậm, nhưng ở khoảng giữa tiếp tục đi không ngừng nghỉ, sẽ mau đến mục tiêu, do đây được gọi là mau chứng Bồ đề.

10. Thường khuyên niệm Phật.

Hỏi: Niệm Phật vài câu nào có khó gì? Chẳng hạn như những người sắp chết, thời gian ngắn ngủi, lại bị khổ não bức bách, không thể tu các môn Phật pháp thâm sâu như giới định tuệ, v.v…, nhưng vẫn có thể niệm Phật. Còn những người đang sống, thọ mạng còn dài, lại không bị khổ sở bức bách, tại sao không dạy họ quán Không, vô tướng, vô nguyện, tu tập các đạo phẩm, học rộng các pháp môn thâm sâu, mà lại khuyên họ chuyên tu niệm Phật. Đây là có ý gì? (77)

Đáp: Hành giả một đời tu Tịnh nghiệp, không nhất thiết phải chuyên tu niệm Phật, nhưng những người tu hành, căn tánh có lợi có độn, trình độ có sâu có cạn, thành thử pháp môn chia làm hai môn định tán, giai bậc vãng sanh cũng chia làm chín phẩm khác biệt. Đối với những hành giả lợi căn tâm tĩnh thì dạy cho họ tu pháp môn bình đẳng quán sát hữu tướng vô tướng, còn đối với những hành giả độn căn tâm loạn, thì dạy cho họ tu tập thiện nghiệp ba phước, chín phẩm, khuyên họ không nên chỉ chuyên niệm Phật, mà còn phải tu những pháp môn khác. Nếu họ không thể rộng tu các hạnh, thì niệm Phật cũng có thể vãng sanh Tịnh độ. Hơn nữa pháp môn Niệm Phật, có sâu có cạn, có định môn có tán môn, người căn cơ dù cao dù thấp đều có thể tu hành. Tu tập định môn bao gồm từ các phàm phu cho đến các bậc Bồ tát Thập địa, hành trì Niệm Phật Tam Muội, thâm sâu vi diệu. Các kinh Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Văn Thù Bát Nhã, Đại Tập Hiền Hộ, Quán Phật Tam Muội đều tán thán Niệm Phật Tam Muội là bất khả tư nghì. Như trong Kinh Hoa Nghiêm, đồng tử Thiện Tài thỉnh cầu tỳ kheo Đức Vân phương pháp tu tập Bồ tát hạnh, ngài Đức Vân chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam Muội, tức là pháp môn thâm sâu đang bàn ở đây. Tu tập tán môn bao gồm tất cả chúng sanh, lúc đi lúc ngồi, ở mọi nơi, trong mọi thời, đều có thể tu tập mà không chướng ngại công tác hàng ngày, đến lúc mạng chung, cũng sẽ thành tựu công hạnh vãng sanh. Hơn nữa, tuy Phật cũng dạy tu tập các hạnh khác để vãng sanh, nhưng kinh điển ít đề cập đến, còn tu tập pháp môn Niệm Phật để vãng sanh thì kinh điển nói đến rất nhiều. Ở đây chỉ nêu lên vài chứng cứ để hành giả hiểu rõ. Kinh A Di Đà chỉ nói niệm Phật A Di Đà được vãng sanh Tây Phương, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng minh hành giả niệm Phật đều được vãng sanh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong phần Hạ phẩm thượng sanh, Hạ phẩm trung sanh và Hạ phẩm hạ sanh đều nêu lên việc niệm Phật A Di Đà vãng sanh Tịnh độ, lại còn cho rằng chư Phật luôn luôn nhiếp hộ chúng sanh niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói ba hạng thượng trung hạ, công hạnh có sâu có cạn, chỉ cần một lòng niệm Phật A Di Đà đều được vãng sanh Cực Lạc. Hơn nữa, trong phần Bốn mươi tám nguyện, đối với pháp Niệm Phật, đặc biệt có một nguyện (thứ 18) nói: “Cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, tôi thệ không thành Chánh Giác.” Các kinh Bát Chu Tam Muội, Đại Tập Hiền Hộ nói rằng các chúng sinh niệm danh hiệu A Di Đà bảy ngày đêm, khi thấy được Phật A Di Đà, bèn hỏi: “Chúng sanh tu hành pháp nào để được vãng sanh Tịnh độ?” Đức A Di Đà trả lời: “Muốn sanh nước ta, phải nên niệm danh hiệu ta, không được gián đoạn, ắt sẽ được vãng sanh.” Kinh Cổ Âm Vương Đà La Ni cũng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà mười ngày đêm thì được vãng sanh Cực Lạc.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đắc Niệm Phật Tam Muội ắt sẽ thấy Phật, sau khi mạng chung sẽ được sanh ở trước Phật. Thấy người lâm chung nên khuyên họ niệm Phật, lại phải đem hình tượng Phật cho người sắp mất trông thấy để họ khởi lòng tôn kính.” Kinh Chiêm Sát nói: “Nếu muốn vãng sanh mười phương cõi Phật, nên niệm danh hiệu Đức Phật cõi đó, thì sẽ được vãng sanh.” Như vậy, vô lượng kinh điển Đại thừa phần lớn đều nói niệm Phật vãng sanh Tịnh độ. Hiện nay, khuyên các hành giả niệm Phật, không có nghĩa là ngăn trở việc tu các công hạnh vi diệu khác, mà chỉ muốn nói rằng pháp môn Niệm Phật được nhiều kinh điển đề cập đến, khi đi khi ngồi, cho đến khi lâm chung cũng vẫn niệm Phật được, rất an ổn thích đáng, nên mới khuyên nhắc mà thôi.

11. Chư ác không khởi.

Hỏi: Những chúng sanh vãng sanh Cực Lạc nếu chưa chứng quả thánh thì vẫn còn là phàm phu đầy đủ phiền não, tại sao họ lại không sanh khởi nghiệp ác? Nếu sanh khởi nghiệp ác tức là đã đi ngược lại bổn nguyện của Đức A Di Đà, như vậy lời nguyện “chúng sanh ở cõi ta không có tên ác” làm sao giải thích cho ổn? (78)

Đáp: Những phàm phu ở cõi Cực Lạc, tuy chưa đắc thánh quả, nhưng tất cả những việc bất thiện đều không hiện hành. Hơn nữa, bất thiện không hiện hành có nhiều hàm ý, hoặc là họ đã khởi duyên thánh đạo, đoạn trừ phiền não, hoặc đã tu tập phương tiện thánh đạo hàng phục hiện hành, hoặc do khiếm khuyết cảnh ác mà phiền não không sanh, hoặc thường gặp thiện duyên, không có nguyên do để tạo tội, hoặc duyên vào các tư lương, khiến cho tội lỗi không sanh, hoặc nương vào bổn nguyện của Phật mà ác nghiệp không khởi, tuy vẫn còn chủng tử phiền não, nhưng phiền não không hiện hành. Cho nên Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Hoa tỏa mùi hương vi diệu, tuy khiến cho người nghe cảm thấy vui sướng, nhưng không làm cho họ tăng trưởng tham ái.” Lại như, nước tám công đức khiến cho người uống tăng trưởng nhiều căn lành thù thắng, và như hương phạn (cơm thơm) ở cõi Phật Hương Tích làm tất cả Phật sự, v.v… Do các duyên này mà chúng sanh cõi đó không sanh khởi các ác nghiệp.

12. Ngũ nghịch không định.

Hỏi: Kinh nói có bốn loại nghiệp – (1) hiện báo nghiệp, (2) sanh báo nghiệp, (3) hậu báo nghiệp, và (4) bất định nghiệp. Ba nghiệp trước là định nghiệp, nhất định chiêu cảm quả báo, nghiệp cuối là bất định nghiệp, hoặc chiêu cảm hoặc không chiêu cảm quả báo. Lại có bốn loại nghiệp: (1) quả báo nhất định, thời gian thọ báo không nhất định, (2) thời gian thọ báo nhất định, quả báo không nhất định, (3) thời gian thọ báo và quả báo đều nhất định, và (4) thời gian thọ báo và quả báo đều không nhất định. (1) và (3) là định nghiệp, còn (2) và (4) là bất định nghiệp. Các kinh điển đều nói tội ngũ nghịch là sanh báo nghiệp, tức là thời gian thọ báo và quả báo đều nhất định, tại sao Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại nói tội báo ngũ nghịch được tiêu trừ và được vãng sanh Tây Phương? (79)

Đáp: Bốn loại nghiệp, tám loại nghiệp này, Đức Phật ở trong chín bộ kinh bất liễu nghĩa (Tiểu thừa), vì các phàm phu chưa tin nghiệp báo mà nói có những nghiệp có quả báo nhất định, còn trong các kinh Đại thừa liễu nghĩa, Phật nói tất cả nghiệp đều không có quả báo nhất định. Như trong Kinh Đại Niết Bàn, quyển mười chín nói: “Kỳ Bà vì vua A Xà Thế nói pháp sám hối, khiến cho tội báo của nhà vua được trừ diệt… Thần (Kỳ Bà) nghe Phật nói tu một tâm thiện có thể phá trừ trăm loại nghiệp ác, như một ít độc dược có thể gây hại chúng sanh, một ít thiện căn cũng vậy, có thể phá trừ nghiệp ác lớn.” Lại nữa, quyển ba mươi mốt nói: “Thiện nam tử, có những chúng sanh không tin nghiệp quả, vì muốn độ bọn họ nên mới nói như vậy (có quả báo nhất định). Thiện nam tử, tất cả nghiệp quả đều có nặng có nhẹ, trong đây lại có hai loại là nghiệp quyết định và không quyết định.” Lại nói: “Hoặc có nghiệp nặng có thể trở thành nhẹ, hoặc có nghiệp nhẹ lại trở thành nặng. Người trí dùng năng lực trí tuệ có thể khiến nghiệp địa ngục cực nặng trở thành nghiệp nhẹ hiện đời, còn người ngu si lại khiến nghiệp nhẹ hiện đời trở thành nghiệp địa ngục cực nặng.” Như vua A Xà Thế sau khi sám hối, không bị đọa địa ngục, còn ngài Ương Quật Ma La (Vô Não), tuy giết chín trăm chín mươi chín người, nhưng sau khi sám hốt, được đắc A la hán. Luận Du Già Sư Địa nói: “Chưa được giải thoát gọi là nghiệp quyết định, đã được giải thoát gọi là nghiệp bất định.” Tương tự như vậy, trong các kinh luận Đại thừa đều cho rằng tội ngũ nghịch, v.v…, đều gọi là nghiệp bất định, đều có thể trừ diệt. Hiện nay, Kinh Quán Vô Lượng Thọ là kinh Đại thừa, nêu lên việc niệm Phật A Di Đà trừ diệt tội ngũ nghịch, điều này có gì đáng nghi ngờ?

13. Bốn nghiệp có nhiếp hay không.

Hỏi: Các bộ luận đều dẫn khế kinh nói có hắc hắc nghiệp, bạch bạch nghiệp, tạp nghiệp và phi hắc bạch vô dị thục nghiệp. Hắc hắc nghiệp là nghiệp bất thiện của cõi Dục, bạch bạch nghiệp là nghiệp thiện của cõi Sắc và Vô sắc. Tạp nghiệp là nghiệp thiện của cõi Dục, còn phi hắc bạch vô dị thục nghiệp là nghiệp vô lậu. Không biết nghiệp vãng sanh Cực Lạc là loại nghiệp nào? (80)

Đáp: Có người cho rằng bạch bạch nghiệp và tạp nghiệp là nghiệp vãng sanh Tây Phương, bởi vì hắc hắc nghiệp là nghiệp bất thiện, chỉ có thể chiêu cảm quả báo ở ba đường ác, lẽ nào có thể chiêu cảm quả báo Tịnh độ. Vô lậu nghiệp không thể chiêu cảm quả báo, thể tánh của nó tuy thanh tịnh, nhưng không phải là nhân của quả dị thục. Chỉ có hai nghiệp còn lại (bạch bạch và tạp nghiệp) mới có thể chiêu cảm quả báo Tịnh độ. Nếu chưa đắc thượng giới định, dùng tâm cõi Dục tu tập nghiệp vãng sanh, dùng tạp nghiệp này vãng sanh Tây Phương. Nếu đã hàng phục phiền não cõi Dục, đắc thượng giới định tâm, vãng sanh Tây Phương, đây là dùng bạch bạch nghiệp vãng sanh. Có người cho rằng không phải như vậy. Ba loại nghiệp này đều là căn cứ vào hai nẻo thiện ác ở cõi Dục và cõi Sắc mà phân định, không phải căn cứ vào việc vãng sanh Tịnh độ mà bàn định về các thiện nghiệp: bạch bạch, v.v… Vả lại, tạp nghiệp là nghiệp của trời người cõi Dục, có thể chiêu cảm tạp báo, tuy thọ sự vui sướng cõi Dục, nhưng vẫn có thể chiêu cảm khổ báo. Cho nên tạp nghiệp chiêu cảm quả khổ lạc cõi Dục, làm sao có thể chiêu cảm quả báo vãng sanh Tịnh độ, nơi không có sự khổ mà chỉ có sự an lạc? Giả như, chỉ có bạch bạch nghiệp làm nhân cho sự vãng sanh Tịnh độ, thì nếu chưa đắc được định tâm cõi Sắc (tứ Tĩnh lự), thì do nhân duyên nào mà được sanh Tây Phương? Cho nên biết rằng chánh nhân vãng sanh Tịnh độ không bị bao hàm bởi bốn nghiệp nêu trên, và như vậy, nói bốn nghiệp đó không bao hàm tất cả nghiệp cũng đâu nghịch lý? Vả lại, có chỗ cho rằng nghiệp cõi Vô sắc cũng không bị bao hàm trong bốn nghiệp, và đây cũng là chứng cứ bốn nghiệp không bao hàm tất cả nghiệp.

14. Ba nghiệp có nhiếp hay không.

Hỏi: Các bộ luận Đại Tiểu thừa cũng dẫn khế kinh nói ba loại nghiệp là phước nghiệp, tội nghiệp và bất động nghiệp. Không biết nghiệp vãng sanh Cực Lạc là loại nghiệp nào? (81)

Đáp: Có người cho rằng trong ba nghiệp, phước nghiệp và bất động nghiệp là nghiệp vãng sanh Tây Phương. Tam phước, trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, là phước nghiệp, còn tu tập mười sáu pháp quán, nếu đắc thượng giới định tâm, tức là bất động nghiệp. Có người lại cho rằng nghiệp vãng sanh Tây Phương không bao hàm trong ba nghiệp, bởi vì ba nghiệp đều căn cứ vào cõi uế, chứ không phải căn cứ vào Tịnh độ mà nói.

15. Ba mươi lợi ích thù thắng.

Hỏi: Không biết cõi Cực Lạc có những điểm thù thắng nào để khuyến khích chúng sanh tu nghiệp vãng sanh? (82)

Đáp: Căn cứ vào Kinh Xưng Tán Tịnh Độ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và phần Bốn mươi tám nguyện trong Kinh Vô Lượng Thọ, nói sơ lược có ba mươi điều lợi ích: (1) thọ dụng các công đức trang nghiêm thanh tịnh; (2) pháp lạc Đại thừa; (3) thân cận cúng dường Phật A Di Đà; (4) du lịch mười phương cúng dường chư Phật; (5) ở nơi chư Phật nghe pháp, được thọ ký; (6) tư lương phước huệ sớm viên mãn; (7) mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề; (8) chư Bồ tát, v.v…, đều hội tụ tại một nơi; (9) thường không bị thoái chuyển; (10) vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng tiến; (11) chim Anh võ, Xá lợi, v.v…, đều thuyết pháp; (12) gió mát rung cây vang điệu nhạc trời; (13) nước ma ni giảng nói pháp khổ, không; (14) âm thanh diễn pháp mầu; (15) vĩnh viễn không tái sanh vào ác đạo; (16) thân vàng ròng; (17) hình sắc không có đẹp xấu khác biệt; (18) đầy đủ ngũ thông; (19) trụ trong chánh định; (20) không có việc bất thiện; (21) thọ mạng lâu dài; (22) y thực tự nhiên; (23) chỉ hưởng thọ sự an lạc; (24) đầy đủ ba mươi hai tướng; (25) không có người nữ; (26) không có hàng Tiểu thừa; (27) không có tám nạn; (28) được vô sanh pháp nhẫn; (29) thân phát ánh sáng, ngày đêm đều sáng; (30) được thân na la diên. Đây chỉ là nêu sơ lược, nếu nói đầy đủ ắt sẽ nhiều vô lượng. Vì những lý do này nên mới khuyên hành giả vãng sanh Tây Phương. Nếu ở cõi Ta Bà, trôi lăn sanh tử dài lâu, chỉ có ba mươi điều tổn hại, làm gì có những sự lợi ích như cõi Tây Phương?

16. Hành môn không phải chỉ có một.

Hỏi: Kinh Di Lặc Sở Vấn nói tu tập mười loại niệm mới được vãng sanh: (1) thường sanh lòng từ đối với tất cả chúng sanh; (2) không phá hoại hạnh Bồ tát của tất cả chúng sanh, nếu phá hoại sẽ không được vãng sanh; (3) sanh lòng xót thương tha thiết, không sanh tâm tàn hại tất cả chúng sanh; (4) phát tâm hộ trì Phật pháp, không luyến tiếc thân mạng; (5) không sanh tâm hủy báng tất cả Phật pháp; (6) quyết tâm kiên trì hạnh nhẫn nhục, giữ tâm thanh tịnh, không tham lợi dưỡng; (7) phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường quán niệm tâm này ngày đêm, không hề ngừng nghỉ; (8) sanh lòng tôn trọng tất cả chúng sanh, dứt trừ kiêu mạn, nói lời khiêm hạ; (9) không đam mê đàm luận việc thế sự, tầm cầu giác ngộ, gieo trồng thiện căn; (10) không sanh khởi tâm tán loạn, chánh niệm quán Phật, trừ khử vọng tưởng. Căn cứ vào kinh văn nêu trên, mười niệm khác nhau, vì sao lại cho rằng niệm mười danh hiệu Phật A Di Đà sẽ được vãng sanh, đây có phải là điều sai lầm hay chăng? (83)

Đáp: Không phải chỉ có một pháp tu vãng sanh Tây Phương, hoặc tu tam phước, hoặc tu mười sáu pháp quán, hoặc tu chín phẩm vãng sanh, hạnh nghiệp tuy khác nhau, nhưng đều được vãng sanh Cực Lạc. Kinh Di Lặc Sở Vấn trình bày mười pháp tu để được vãng sanh, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về hạ phẩm hạ sanh, lúc lâm chung niệm mười danh hiệu Phật được vãng sanh, mỗi bên đều là lời dạy của Phật, trợ giúp nhau để hiển bày pháp môn vãng sanh, đều thành tựu công hạnh Tịnh độ. Vì lý do gì lại cho rằng bên kia là đúng, bên này là sai. Chỉ vì tự mình chưa hiểu rõ ý kinh, cho nên khiến cho nhiều người học Phật mê mờ… Tu tập vãng sanh Tây Phương không phải chỉ do một hạnh, cho nên trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ bàn về hai môn định tán, trong Kinh Vô Lượng Thọ nói về ba phẩm tu phước, còn pháp chuyên trì danh hiệu vốn là lời dạy của Phật A Di Đà. Bởi thế hành giả, hoặc thọ trì kinh điển Đại thừa, hoặc hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc tu tập thiện nghiệp thế gian xuất thế gian, hoặc hành trì giới luật, thân khẩu hành thiện, đều là tư lương vãng sanh Tịnh độ, chẳng lẽ chỉ hạn cục vào một pháp môn. Ông nên đọc nhiều kinh điển, triển khai chánh tín, lẽ đâu chỉ đọc một bộ kinh rồi dùng đó làm chỉ nam để bàn luận hàm hồ, cho rằng những pháp môn khác không phải là nhân cho sự vãng sanh, đây chẳng phải là sự lầm lẫn cực điểm hay sao? Vả lại, tu nhân có vạn loại, đắc quả cũng có nhiều tầng, không thể cho rằng chỉ có một nhân một quả, mà không có những công hạnh khác.

17. Thiển vị cầu tịnh.

Hỏi: Bồ tát tu hành đều vì lợi ích tất cả, thường khởi lòng đại từ bi đối với chúng sanh, lẽ ra phải đến các cõi ác để cứu độ những kẻ đang bị chìm đắm trong biển khổ, khiến họ ra khỏi luân hồi. Hiện nay lại bỏ cõi uế này, nguyện cầu sanh về Tịnh độ, riêng mình tìm cầu thú vui, không muốn làm lợi người khác, không có lòng thương xót cha mẹ anh em, lục thân quyến thuộc nhiều đời, để mặc họ trôi lăn trong ba đường ác mà không chịu cứu vớt, đây đâu có phải là tấm lòng của bậc đại trượng phu hành bồ tát hạnh. Như vậy nguyện cầu vãng sanh Tịnh độ là điều không tốt, tôi thật không hiểu nguyên do của sự vãng sanh, xin hãy giải bày ý chỉ. (84)

Đáp: Phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát hạnh, điều cần yếu là phải khởi tâm Đại bi, thương xót hữu tình, tế độ rộng lớn, trừ khổ ban vui. Thế nhưng, hạnh nguyện có sâu cạn, căn cơ có cao thấp. Nếu là hàng Bồ tát bậc cao, đại bi tăng thượng, đã được bất thoái chuyển, không sợ bị tổn hại, chỉ một lòng vì kẻ khác, phần lớn thác sanh vào cõi uế, rộng làm việc lợi ích, ít khi vãng sanh Tịnh độ để thân cận chư Phật; còn hàng Bồ tát bậc thấp, đại trí tăng thượng, vẫn còn bị thoái chuyển, tuy có lòng thương xót chúng sanh khổ não, nhưng nếu gặp ác duyên, vẫn có thể thoái thất hạnh Bồ đề, tạo các nghiệp ác, mất Bồ đề tâm. Điều này trong Kinh Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh Lạc có nói rõ trường hợp của vương tử Pháp Tài, v.v… Đây tức là hai lợi (tự lợi lợi tha) đều mất, hai bên (mình và chúng sanh) đều bị tổn hoại. Vì lý do này nên nguyện sanh Tịnh độ, xa lìa ác duyên, thân cận chư Phật, thường nghe Chánh pháp, cùng với chư Bồ tát tập hội một nơi, đi khắp mười phương làm Phật sự, rải hoa cúng dường, cùng nghe pháp Đại thừa chân tịnh vi diệu, niệm niệm tăng tiến, không còn thoái chuyển, hơn nữa, không còn hàng Nhị thừa cùng nhất xiển đề làm chướng ngại đạo tâm Vô thượng của hàng Bồ tát sơ học. Tuy mỗi niệm đều không xả bỏ tâm thương xót cứu độ chúng sanh, tất cả những công hạnh tự lợi đều là căn bổn cho sự lợi tha, gốc nếu không vững chắc, thì cành lá cũng không tốt tươi. Vì vậy, trước tiên nguyện sanh Tịnh độ, nuôi lớn mầm mống tâm Bồ đề khiến trở nên kiên cố, giả như có gặp ác duyên cũng không bị thoái chuyển, lúc đó mới có thể rời cõi Tịnh độ trở về Ta bà cứu độ tất cả những chúng sanh hữu duyên, bao gồm cha mẹ, họ hàng, bạn bè đời quá khứ cùng tất cả hữu tình trong toàn pháp giới. Điều này, thiền sư Đạo Xước, trong An Lạc Tập, đã dùng ví dụ để nêu rõ. Ví như hai người con thấy cha mẹ bị cuốn theo dòng nước lũ, một người vội lao xuống nước để cứu, kết quả không những không cứu được mà chính mình cũng bị chết chìm, còn người kia chạy về nhà, chuẩn bị thuyền bè, bơi vào chỗ nước sâu để cứu cha mẹ khỏi bị chết đuối. Ý nghĩa ở đây cũng tương tự như vậy, mong người đọc hiểu rõ.

18. Nhị thừa không sanh.
a. Bốn nghĩa không sanh.

Hỏi: Luận Vãng Sanh nói: “Đại thừa thiện căn giới, bằng, không danh xấu xa, người nữ và căn khuyết, giống Nhị thừa không sanh.” Cõi Cực Lạc tại sao lại có Thanh văn, hơn nữa trong kinh nói Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn đều là bậc A la hán? (85)

Đáp: Có bốn cách giải thích: (1) Giống Nhị thừa không sanh: Luận Du Già Sư Địa cho rằng chúng sanh xưa nay vốn có năm loại căn tánh khác biệt, tức là căn tánh Bồ tát, căn tánh Duyên giác, căn tánh Thanh văn, căn tánh trời người, và căn tánh bất định. Nay nói giống Nhị thừa không sanh là chỉ cho căn tánh Duyên giác và căn tánh trời người, bởi vì người căn tánh Duyên giác nhất định thọ quả báo Duyên giác, phần lớn sanh vào đời không có Phật, vả lại cũng không tin có mười phương Tịnh độ, còn người căn tánh trời người chỉ có trôi lăn sanh tử, không thể vãng sanh Tịnh độ, lý do là vì chúng sinh Tịnh độ đều sẽ chứng đắc Vô thượng Bồ đề. (2) Có người cho rằng cách giải thích vừa nêu trên không hợp lý. Nếu cho rằng giống Nhị thừa không sanh mà chỉ loại ra Duyên giác và trời người, tức là hàm ý hàng Thanh văn sẽ được vãng sanh, như vậy tại sao gọi Cực Lạc là Đại thừa thiện căn giới? Hơn nữa, chỉ là không có ba loại thể tánh, hay là không có cả ba loại tên gọi? Hiện nay, nói “giống Nhị thừa không sanh”, không phải đề cập đến hàng trời người, mà chỉ là trong ba thừa, loại ra hai thừa Thanh văn và Duyên giác. (Giải thích (3) và (4) được tiếp tục ở câu 86).

Hỏi: Nếu hạng người có căn tánh Thanh văn, Duyên giác không vãng sanh, tại sao cõi đó lại có hàng Thanh văn? (86)

Đáp: (3) Y vào các lời giải thích của bậc cổ đức, Thanh văn chia làm hai loại: (a) ngu pháp, nghĩa là trong đời này chưa thể hồi tâm hướng Đại thừa, (b) bất ngu pháp, nghĩa là trong đời này đã hồi tâm hướng Đại thừa. Hạng ngu pháp gọi là giống Nhị thừa, bởi vì không hồi tâm hướng Đại thừa, không tin có Tịnh độ, không nguyện vãng sanh. Hạng bất ngu pháp không được gọi là giống Nhị thừa, tuy họ tu hạnh Tiểu thừa, nhưng đã tin Đại thừa và đã nguyện vãng sanh. (4) Hàng Tiểu thừa hồi tâm hướng Đại thừa, tu tập những công hạnh đoạn phiền não chứng Niết bàn đều là hướng về Vô thượng Bồ đề, không thể gọi là Tiểu thừa. Bởi vì muốn thành quả Phật thì vẫn phải tu thánh đạo, đoạn trừ ngã chấp pháp chấp, dứt sạch phiền não tập khí, chứng đắc nhân không pháp không, cứu cánh viên mãn, mới được gọi là Phật. Bọn họ trước kia là Tiểu thừa, nhàm chán ngã chấp phiền não cho nên mới trừ diệt trước, chứng đắc bốn quả, tuy được gọi là A la hán, hoặc Thanh văn, nhưng thật sự không phải Tiểu thừa. Thật ra, A la hán không phải chỉ là tên gọi của Tiểu thừa, mà Đức Phật cũng được gọi là A la hán. Như Luật Tứ Phần nói: “Sau khi độ A Nhã Kiều Trần Như, Phật nói: ‘Trong cõi Tam thiên thế giới này, hiện nay có hai A la hán. Một là Phật, hai là A Nhã Kiều Trần Như.’” Cho nên biết A la hán không phải chỉ là tên gọi của bậc Tiểu thừa, mà hơn nữa, danh xưng Thanh văn cũng thông với Đại thừa. Kinh Pháp Hoa nói: “Chúng con hôm nay thật là Thanh văn, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho chúng sanh nghe.” Đây tức là Bồ tát Thanh văn. Kinh lại nói: “Chúng con hôm nay là chân A la hán, đáng được tất cả hàng trời người ma Phạm cúng dường.” Đây tức là Đại thừa Bồ tát. Tên gọi tuy đồng với hàng Tiểu thừa, nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Hiện nay, hàng Thanh văn ở cõi Tịnh độ đều là những bậc tầm cầu Vô thượng Bồ đề, cho nên không phải là “giống Nhị thừa”, mà cũng không được gọi là Nhị thừa. Những vị này đã phát tâm Đại thừa, tuy gọi là Thanh văn, nhưng không phải là tên gọi của hàng Tiểu thừa, ví như trong Kinh Pháp Hoa đề cập việc ngài A Nan phát tâm Đại thừa, được đức Thế Tôn thọ ký thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, nhưng đến lúc kết tập, thị hiện chứng quả A la hán, lẽ nào ngài lại thoái thất tâm Đại thừa, chứng quả Tiểu thừa? Lại như trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Đại Ca Diếp nói: “Con từ ngày hôm nay không còn khuyên người khác tu tập hạnh Thanh văn, Bích chi phật”, lẽ nào đến khi kết tập lại ép buộc ngài A Nan tu chứng quả A la hán? Cho nên biết rằng quả A la hán không phải quả vị Tiểu thừa. Ngài A Nan, sau khi được Phật thọ ký, tất cả công hành đều hướng về quả Phật, nên biết công hạnh của ngài đều là công hạnh của Đại Bồ tát. Thế nhưng, những hành giả Đại thừa trực tiếp (không qua ngả Tiểu thừa), trước tiên đoạn trừ pháp chấp phiền não, tu đoạn ngã chấp phiền não, đến lúc chứng Kim cương tâm, diệt trừ ngã chấp phiền não, thì chứng quả Phật. Từ trước đến nay, các Bồ tát vào thẳng Đại thừa, trước tiên thường chỉ nghĩ đến đoạn trừ pháp chấp, cho nên lưu lại phiền não (hoặc), đến lúc hết phiền não, thì đầy đủ Nhất thiết trí của Phật. Lý do là vì phiền não pháp chấp vi tế khó trừ, chướng ngại quả vị Tam Bồ Đề (Phật). Đối với Thanh văn thì đó là bạch tịnh vô ký [1], còn đối với Bồ tát thì đó là hữu phú vô ký [2]. Bồ tát rất kỵ pháp chấp, như Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Trí chướng rất mê muội, phân biệt chấp chân tục, cho nên phải đoạn trừ.” Phiền não ngã chấp chướng ngại sự chứng đắc Niết bàn. Hàng Thanh văn nhàm chán sanh tử, chỉ cầu tự lợi, không thể tu học Nhất thiết trí của chư Phật, cho nên họ không chú trọng nhiều đến việc đoạn trừ phiền não pháp chấp. Phiền não pháp chấp không chướng ngại Niết bàn, vì thế hàng Thanh văn trừ sạch phiền não ngã chấp thì sẽ chứng được Niết bàn. Các vị Thanh văn đang tu tập bảy phương tiện, hoặc đang ở trong ba phẩm đầu của bảy phương tiện, nhàm chán phiền não ngã chấp, trước tiên muốn chứng đắc quả vị Thanh văn, đối với phiền não này lập ý đoạn trừ, hiện nay vãng sanh Tây Phương, tuy đã hồi tâm hướng Đại thừa, cầu chứng quả Phật, nhưng vì họ vẫn còn nhàm chán phiền não ngã chấp, cho nên thánh chúng cõi Cực Lạc tùy thuận tập khí của họ, giảng thuyết pháp Tứ đế, giúp họ rốt ráo đoạn trừ hai loại kiến hoặc và tư hoặc, lúc đoạn trừ hai hoặc này sẽ thấy được Tứ thánh đế, dùng trí vô lậu đoạn trừ phiền não này. Đoạn được kiến hoặc gọi là Dự lưu (Tu đà hoàn), không phải trụ trong pháp Tiểu thừa mà được gọi là Dự lưu, đoạn được tư hoặc gọi là A la hán, giống như các vị A la hán (Tiểu thừa) không còn phiền não, nhưng đây là công hạnh Bồ tát. Hai hạng hành giả tiệm đốn đều đầy đủ Bồ tát hạnh, đều tầm cầu quả Phật. Tuy đều là Bồ tát, nhưng những hành giả đi vòng (qua ngõ Tiểu thừa) cũng được gọi là Thanh văn, vì vốn thuộc căn tánh Tiểu thừa, nhưng cũng được gọi là Bồ tát, vì ý nguyện tầm cầu Phật quả. Còn những vị Bồ tát đi thẳng (không qua ngõ Tiểu thừa) chỉ được gọi là Bồ tát, không được gọi là Thanh văn, bởi vốn không phải là Thanh văn ngộ đạo. Đức Phật dùng hai tên để phân biệt hai hạng đệ tử tiệm và đốn, cho nên mới nói: “Vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn đều đắc A la hán, toán số thí dụ không thể biết được, số lượng đệ tử Bồ tát cũng giống như vậy.”

b. Ví dụ cõi Chúng Hương.

Hỏi: Thế giới Chúng Hương (trong Kinh Duy Ma Cật) và thế giới Cực Lạc đều là cõi Phật Đại thừa thanh tịnh, tại sao thế giới Chúng Hương không có danh từ Thanh văn, Bích chi phật, chỉ có chúng Đại Bồ tát thanh tịnh, còn thế giới Cực Lạc lại có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn. Các đệ tử Thanh văn này không phải thuộc hàng Tiểu thừa hay sao? (87)

Đáp: Hai cõi Tịnh độ tuy đều là cõi giới Đại thừa, nhưng thánh chúng của hai cõi có thông (rộng rãi) có cục (hạn hẹp). Thế giới Chúng Hương chỉ có những chúng sanh quy hướng Đại thừa. Hành giả ở cõi Ta Bà tu hành, đạt đến trình độ không còn bị bát phong [3] lay động, vãng sanh về cõi đó, chỉ nghe pháp môn Đại thừa đốn giáo, cho nên trong Kinh Duy Ma Cật nói cõi đó chỉ có các Đại Bồ tát thanh tịnh mà không có tên gọi Nhị thừa. Còn thế giới Cực Lạc là chung cho những bậc Tiểu thừa hồi tâm hướng Đại thừa vãng sanh về cõi đó, cùng nghe hai loại Đại thừa tiệm giáo (đi vòng qua ngõ Tiểu thừa trước khi vào Đại thừa) và đốn giáo (đi thẳng vào Đại thừa), quy hướng về Nhất thừa, phát tâm Đại thừa, hành Bồ tát hạnh, nhưng do tập khí đời trước, tuy hành Bồ tát đạo, vẫn phải trước tiên đoạn trừ phiền não ngã chấp, nên được gọi là Thanh văn A la hán, nhưng Thanh văn ở đây có nghĩa là “khiến cho tất cả đều nghe âm thanh Phật.” Tuy được gọi là A la hán, nhưng là bậc đáng được sự cúng dường của tất cả thế gian. Cho nên ở cõi Cực Lạc hai hàng Thanh văn và Bồ tát đều là Bồ tát Đại thừa, chỉ có đi thẳng và đi vòng là khác biệt mà thôi.

19. Vĩnh tuyệt ác thú.

Hỏi: Theo giáo pháp Tiểu thừa, bậc chứng noãn vị không còn lãnh thọ tà giáo, bậc chứng đảnh vị không còn bị đoạn diệt căn lành, bậc chứng nhẫn vị không còn sanh vào ác thú, và bậc chứng thế đệ nhất pháp nhất định sẽ chứng quả thánh (sơ quả). Đây tức là phải đến bậc hạ phẩm nhẫn vị mới chứng được “ác thú phi trạch diệt.” Bồ tát vì muốn làm lợi chúng sanh, không thọ biến dịch sanh tử là vì chưa chứng được “ác thú phi trạch diệt”. Làm thế nào những phàm phu cực ác vừa mới vãng sanh Tịnh độ, chỉ nương vào việc niệm một danh hiệu, cho đến mười danh hiệu Phật mà được vĩnh viễn không còn tái sanh vào ba đường ác? (88)

Đáp: Du Già Sư Địa Luận, Quyết Trạch Phần, cho rằng ở cõi uế, những hành giả Tiểu thừa bậc noãn và đảnh vẫn còn bị thoái chuyển, lên đến bậc nhẫn mới chứng được “ác thú phi trạch diệt.[4]” Nhưng những học giả Tát Bà Đa (Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ) lại cho rằng hành giả Tiểu thừa trước khi đắc nhẫn cũng đã chứng được “ác thú phi trạch diệt”, nhưng chưa quyết định. Hiện nay các hành giả vãng sanh Tây Phương, do vì ở nơi thù thắng, thường gặp thánh chúng, thường nghe diệu pháp, các hạnh nguyện thù thắng niệm niệm tăng tiến, các ác nghiệp đời trước dần dần tiêu diệt, các công hạnh thiện dần dần tăng trưởng, thiếu các ác duyên, cho nên chứng được “ác thú phi trạch diệt”, được bất thoái chuyển. Những hành giả sau khi vãng sanh Cực Lạc, nương vào nguyện lực, thọ sanh vào các cõi ác, cứu độ những kẻ trầm luân. Đây là do nguyện lực thọ sanh, chứ không phải bị nghiệp lực lôi kéo mà đọa vào đường ác.

Chú thích:

[1] Bạch tịnh vô ký, còn gọi là vô phú vô ký, là pháp chẳng phải thiện chẳng phải ác, cũng không che lấp và chướng ngại thánh đạo.

[2] Hữu phú vô ký, là một loại tâm nhiễm ô có thể làm chướng ngăn thánh

đạo và che đậy chân tánh, nhưng vì thể dụng của nó rất yếu nên không thể sanh ra quả dị thục (vô ký).

[3] Bát phong: tám ngọn gió, dụ cho tám pháp thế gian làm loạn động, mê hoặc tâm người, đó là: lợi, suy (hao tổn), hủy (trước mặt chê bai, chỉ trích), dự (gián tiếp khen ngợi), xưng (trực tiếp ca tụng), ki (sau lưng nói xấu), khổ, lạc (vui).

[4] Không còn bị đọa vào tam ác đạo.

    Xem thêm:

  • Luận Câu Xá – Phẩm 3: Phân Biệt Thế Gian - Luận Tạng
  • Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ - Luận Tạng
  • Luận Thành Duy Thức Bảo Sanh - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 4: Phân Biệt Nghiệp - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Nhất Chân - Luận Tạng
  • Thành Duy Thức Luận - Luận Tạng
  • Chứng Đạo Ca - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Tán Thuật Kinh Kim Cang Bát Nhã - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Tịnh Độ Luận - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Tam Luận Lược Chương - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Thanh Tịnh Đạo Luận - Luận Tạng