1
2
3
4
5
6
7

QUYỂN 7

10. Riêng khuyên vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Hỏi: Niệm Phật A Di Đà được vô lượng vô biên công đức, đây là điều mà bổn luận đã dẫn chứng kinh luận giải thích rõ ràng và tôi đã tin tưởng phụng hành, còn như niệm danh hiệu các Đức Phật khác có được vô lượng vô biên công đức hay không? (113)

Đáp: Có hai ý nghĩa. (1) Niệm tất cả Phật đều được vô lượng công đức, không có sai biệt, bởi vì chư Như Lai đều đầy đủ vô biên công đức, đều đã trừ sạch tất cả ngã chấp, pháp chấp, công đức viên mãn, cho nên không có sự niệm danh hiệu đưa đến công đức khác nhau. Hỏi: Nếu vậy, tại sao trong nhiều kinh điển, Đức Như Lai chỉ tán thán niệm Phật A Di Đà công đức vô lượng? Đáp: Thật ra công đức chỉ là một loại, nhưng vì hàng phàm phu trí tuệ nông cạn không thể niệm tất cả chư Phật, cho nên Đức Như Lai chỉ riêng tán thán công đức của một vị Phật, khiến cho hành giả nhất tâm chuyên niệm, bởi vì công đức của sự chí tâm xưng niệm rất lớn, và đây là phương tiện mật ý của Đức Như Lai. Ví như thọ giới tỳ kheo, tất cả vị tăng truyền giới đều thanh tịnh, đều có thể làm giới sư, không có sự hơn kém, nhưng tùy vào tâm người thọ giới, chuyên tâm vào một vị sư, tôn đó làm Hòa thượng, duyên vào đó để phát giới thể, điều này thù thắng hơn là trong cùng một lúc duyên vào tất cả các vị sư. Ở đây cũng giống như vậy, chuyên tâm vào một Phật, công đức rất nhiều, đây là do sự chuyên tâm nhất ý. (2) Chư Phật Như Lai tuy công đức đều bình đẳng, không có sự cao thấp, nhưng chúng sanh trong đời quá khứ gieo duyên với chư Phật có sự khác biệt. Các bộ luận trong Duy Thức Học, như Luận Nhiếp Đại Thừa, v.v…, đều cho rằng: “Chúng sanh do pháp lực tự nhiên, gieo duyên với chư Phật không giống nhau, hoặc nhiều chúng sanh gieo duyên với một vị Phật, hoặc một chúng sanh gieo duyên với nhiều vị Phật. Nếu có duyên với vị Phật này, vị Phật này có thể cứu độ, nếu không gieo duyên với các vị Phật khác, các vị Phật đó không thể cứu độ. Nếu có duyên với vị Phật này, chí tâm xưng niệm danh hiệu ngài, công đức sẽ rất nhiều, còn nếu không có duyên, công phu niệm Phật sẽ không nhiều, vị Phật đó ắt sẽ không đến cứu độ.”

11. Niệm Phật nhiều thiện.

Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Bồ tát bậc thấp và những hành giả ít phước đức đều được vãng sanh thế giới Cực Lạc”, nhưng Kinh A Di Đà lại nói: “Không thể do chút ít nhân duyên thiện căn phước được mà được vãng sanh cõi Cực Lạc.” Ý nghĩa của hai kinh trái nghịch nhau, làm sao giải thích ổn thỏa? (114)

Đáp: Vì chỗ căn cứ khác nhau, mỗi bên đều có ý nghĩa riêng biệt, nhưng không có sự mâu thuẫn. Kinh Vô Lượng Thọ nói “ít”, nghĩa là “số lượng ít”, Kinh A Di Đà nói “nhiều”, nghĩa là “công dụng nhiều.” Kinh A Di Đà chỉ dạy niệm Phật A Di Đà chứ không dạy các đạo phẩm khác như sáu Ba la mật, v.v…, phải mất nhiều thời gian, nhiều đời nhiều kiếp, hơn nữa, vì chỉ nói công đức niệm Phật chứ không nói đến phước đức của sự tu tập khác, cho nên nói là “ít.” Thế nhưng, niệm một hay nhiều danh hiệu Phật A Di Đà sẽ được vô lượng vô biên công đức thù thắng, cho nên nói là “nhiều.” Kinh Vô Lượng Thọ, quyển Hạ, nói: “Mười phương hằng hà sa chư Phật Như Lai đều khen ngợi uy thần công đức bất khả tư nghì của Phật Vô Lượng Thọ. Các chúng sanh nghe được danh hiệu của ngài, vui mừng tin tưởng, nhẫn đến xưng niệm một danh hiệu, ắt được vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, trụ bậc bất thoái chuyển.” Lại nói: “Nếu có chúng sanh nghe được danh hiệu, hoan hỷ vui mừng, nhẫn đến niệm một danh hiệu, người đó sẽ được lợi lớn, tức là đầy đủ công đức vô thượng.” Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Nghe được danh hiệu công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ.” Dùng những kinh văn này làm chứng cứ, biết được công đức niệm Phật vô lượng vô biên. Ước số lượng, công dụng, nói nhiều nói ít đều không mâu thuẫn. Ví như một viên ngọc ma ni (như ý), có thể gọi là ít, có thể gọi là nhiều. Nói ít là vì ngọc chỉ có một viên, số lượng không nhiều, người ngu không biết, chê ít cho nên không lấy. Nói nhiều là vì viên ngọc ma ni có giá trị hơn cả tam thiên đại thiên thế giới, người trí quý trọng nên gọi là nhiều. Niệm Phật cũng tương tự như vậy. Nói ít nói nhiều là căn cứ vào ý nghĩa khác nhau.

12. Sự lý của Niệm Phật.

Hỏi: Tôi hoàn toàn kính tin sự giải thích vừa rồi về niệm Phật A Di Đà được vô lượng vô biên công đức, nay xin hỏi thêm rằng công đức niệm Phật do tâm vô sở đắc dùng “vô tướng niệm” niệm chân thực pháp thân của Phật A Di Đà mà được vô lượng vô biên, hay do tâm có sở đắc dùng “hữu tướng niệm” niệm báo thân hóa thân của Phật A Di Đà mà được vô lượng vô biên? (115)

Đáp: Cả hai đều được vô lượng vô biên công đức. Pháp thân ly tướng, chân thể đầy đủ vạn đức. Có thể dùng tâm vô sở đắc để thể hội vô tướng niệm Phật mà được vô lượng vô biên công đức. Thế nhưng, những người căn cơ nông cạn, chưa đủ trình độ tu tập pháp vô tướng niệm Phật, dùng tâm có sở đắc, quán tưởng sắc thân thanh tịnh của Đức Như Lai, tướng hảo thù thắng, hằng sa vạn đức, chí thành xưng niệm danh hiệu, cũng được vô biên công đức thù thắng. Ví như hàng hạ phẩm hạ sanh, xưa nay vốn tạo ác, đến lúc lâm chung mới xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, bọn họ lẽ nào có thể tu pháp niệm Phật vô tướng? Phải nên tin rằng niệm Phật hữu tướng cũng có thể được vô lượng vô biên công đức thù thắng. Vả lại, muốn đoạn trừ hai chướng (phiền não chướng, sở tri chướng) thì phải tu niệm Phật vô tướng, nhưng hiện nay muốn trồng nhân duyên cho pháp tu này, thì cũng phải trước tiên tu tập pháp niệm Phật hữu tướng. Hơn nữa, chân Phật (pháp thân) quyền Phật (báo hóa thân), sự lý không đồng, niệm Phật vô tướng hữu tướng, tu nhân cũng khác biệt. Trên nguyên tắc không có sự mâu thuẫn.

13. Nghiệp thành được sanh hay không.

Hỏi: Nếu pháp quán thực tướng có thể diệt trừ các tội chướng vi tế, thù thắng hơn pháp niệm Phật chỉ diệt trừ các nghiệp thô, tại sao không dạy cho người đang lâm chung pháp quán thực tướng mà lại khuyên họ niệm danh hiệu Phật? (116)

Đáp: Lời ông vừa nói quả thật chí lý, nhưng có bốn ý nghĩa khiến không thể dạy họ quán thực tướng: người ác, pháp quán thâm sâu, bị khổ bức bách, thời gian gấp rút. (1) Người ác: người này chưa từng tu thiện, chỉ dạy niệm Phật, chưa chắc họ đã làm được, huống bàn đến việc dạy cho họ hiểu rõ pháp quán thực tướng. (2) Pháp quán thâm sâu: Nhị không (ngã không, pháp không) chân như, pháp tánh bình đẳng, nghĩa lý thâm sâu, tu tập vội vả e khó thành tựu, không thể dạy cho họ được. (3) Bị khổ bức bách: Bình thường, những người tu pháp quán này, giả như bị sự khổ bức bách còn không thể quán tưởng thành tựu, huống chi người này từ trước đến nay chưa từng tu tập, đang lúc bị sự khổ vây quanh mới dạy họ tu, trên nguyên tắc, đây là điều bất khả. (4) Thời gian gấp rút: Trong lúc bình thường, dạy họ tỉ mỉ về các pháp quán thực tướng, qua nhiều năm suy ngẫm còn chưa chắc hiểu được, huống chi hiện nay đang trong lúc thời gian gấp rút mới dạy cho họ pháp tu, chắc chắn là không thành tựu, uổng phí công lao, phải biết rõ thời cơ mới gọi là Đại pháp sư (vị thầy khéo léo). Đức Phật biết rõ bọn họ học ắt không thành, cho nên không dạy pháp quán thực tướng. Điều này chứng tỏ Đức Phật là bậc khéo biết căn cơ chúng sanh. Do bốn ý nghĩa vừa nêu trên, cho nên không dạy pháp quán thực tướng.

14. Lâm chung niệm Phật.

Hỏi: Nếu có người cả đời tu hành ba phước và mười sáu pháp quán, khi lâm chung gặp thiện tri thức dạy niệm Phật một câu mười câu, tội căn đều được tiêu trừ, khiến được vãng sanh. Giả sử, người này mạng căn chưa dứt, được sống thêm nhiều ngày nữa, trong trường hợp này, người đó có cần tiếp tục niệm Phật mới được vãng sanh, hay không cần tiếp tục niệm Phật mà vẫn được vãng sanh? (117)

Đáp: Đều được vãng sanh. Do vì người này hành nghiệp đã hoàn mãn, tội cấu tiêu diệt, giả như có sống thêm nhiều ngày nữa cũng vẫn được vãng sanh. Nhưng có hai điều cần nhớ: (1) Sau khi tu phước, sống thêm nhiều ngày, người đó không tạo thêm tội nặng, thường khởi tâm vô ký, tâm này không thể chiêu cảm quả báo thiện ác, cho nên có thể nương vào công đức niệm Phật trước kia mà được vãng sanh. (2) Người này sau khi niệm Phật, hoặc khi sống thêm nhiều ngày bèn khởi ác niệm, tạo tác nghiệp ác. Những người như vậy, phần lớn e sẽ không được vãng sanh Tịnh độ. Kinh nói: “Một niệm tâm sân chướng ngại trăm nghìn pháp môn.” Lại nói: “Sân hận phá hoại các pháp thiện. Kẻ tặc cướp công đức không gì hơn sân hận.” Người đó tuy trước kia tu các pháp thiện như quán tưởng niệm Phật, v.v…, đều bị sân hận phá hại, không được vãng sanh, huống chi các nghiệp ác khác chướng ngại thiện hạnh. Như kinh nói: “Lúc lâm chung tạo nghiệp, tâm nghiêng về nghiệp nào, thì thọ quả báo của nghiệp đó trước, nếu nặng nhẹ bằng nhau, thì nghiệp nào tạo trước, sẽ thọ báo trước.” Người ấy, nếu tạo nhiều nghiệp, lúc lâm chung e sẽ không được vãng sanh.

15. Lửa và hoa sen khác biệt.

Hỏi: Kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Nếu có người giết hại cha mẹ, nhục mạ họ hàng, gây tạo những tội như vậy, đến lúc mạng chung, chó đồng hả miệng hóa ra mười tám xe vàng, giăng phủ màn báu, tất cả ngọn lửa biến thành ngọc nữ, người đó thấy vậy sanh lòng vui mừng, muốn lên ngồi trên xe. Lúc đó có một luồng gió lạnh thấu xương thổi qua, người đó lạnh quá la hoảng lên, muốn ngồi lên xe, đốt lửa sưởi ấm, vừa thoáng lên ý nghĩa đó thì tức khắc mạng chung. Trong khoảng sát na, người đó thấy mình đang ngồi trên xe vàng, vừa vươn mắt nhìn, thì thấy các ngọc nữ đều cầm rìu sắt đâm chặt thân thể mình.” Kinh lại nói: “Nếu có chúng sanh phạm bốn giới trọng, tiêu dùng của cúng dường một cách hoang phí, tà kiến phỉ báng Chánh pháp, không biết nhân quả, phá hoại căn tánh Đại thừa, hủy báng mười phương chư Phật, trộm tài vật của thường trụ, dâm dật vô đạo, bức hãm tịnh hạnh tỳ kheo ni, chị em thân thích, không biết hổ thẹn, tạo các nghiệp ác. Người đó lúc lâm chung, do ác nghiệp lực, tứ đại phân tán, nằm ngồi không an như bị đánh đập, tâm ý hoang mang, loạn tưởng si cuồng, thấy tất cả mọi vật, nhà cửa, nam nữ già trẻ đều biến thành những vật bất tịnh, phẩn dãi hôi thối bài tiết ra ngoài. Khi ấy, người đó bèn thốt lên: ‘Tại sao chỗ này không có thành quách trang nghiêm, núi rừng xanh tốt để ta dạo chơi mà lại phải ở nơi ô uế như vầy?’ Vừa nói xong lời này, ngục tốt la sát dùng chỉa ba lớn mở ngục A tỳ, các rừng đao kiếm biến thành rừng cây báu và những ao nước mát mẽ, những ngọn lửa dữ biến thành hoa sen cánh vàng, những con trùng mõ sắt biến thành chim phù nhạn, âm thanh thống khổ ở địa ngục biến thành giọng hát êm dịu, người đó nghe âm thanh êm dịu bèn nghĩ: ‘Nơi đó tuyệt diệu, ta phải đến đó dạo chơi.’ Ý nghĩ vừa dứt thì đã thấy mình ngồi trên hoa sen lửa.” Nếu vậy, biết đâu hôm nay hoa sen đến tiếp dẫn chẳng phải là hoa sen lửa? (118)

Đáp: Do bốn nghĩa mà biết rằng không phải xe (hoa sen) lửa: hành, tướng, ngữ, và Phật. (1) Hành: Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Hành giả tạo tội, phạm bốn giới trọng, cho đến hủy nhục người thân, không biết hối cải, không gặp bạn lành dạy cho pháp niệm Phật, cho nên thấy tướng hoa sen chính là tướng địa ngục. Hiện nay, hành giả của ba bậc hạ phẩm, tuy từ trước đến nay tạo tội, nhưng lúc lâm chung gặp thiện tri thức dạy pháp niệm Phật, vì chí tâm niệm Phật, nên diệt được nhiều kiếp tội, thành tựu công đức thù thắng, chiêu cảm hoa sen từ ao báu cõi Cực Lạc đến nghinh tiếp, lẽ nào giống như hoa lửa? (2) Tướng: Kinh trên nói gió đao cắt thân, nghiêng ngữa không định, như bị đánh đập, tâm ý hoang mang, phát si cuồng tưởng, thấy tất cả người vật trong nhà đều là bất tịnh, đầy dẫy phẩn dãi, máu huyết tanh hôi lan tràn khắp nơi. Hiện nay, người niệm Phật thân tâm an ổn, tướng ác đều bị trừ diệt, mắt thấy thánh chúng, mũi ngửi diệu hương. Cho nên không thể so sánh. (3) Ngữ: Kinh trên nói âm thanh thống khổ địa ngục nghe như tiếng ca ngâm, người tội nghe xong, thầm nghĩ chỗ tốt đẹp đó, ta phải tìm đến. Còn trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật khen ngợi: “Này thiện nam tử, ông xưng niệm danh hiệu Phật, tội chướng tiêu diệt, nên ta đến nghinh đón.” Một bên là tiếng ca ngâm, một bên nói lời diệt tội. Hai âm thanh khác nhau, cho nên không đồng. (4) Phật: Kinh trên nói tất cả ngọn lửa dữ biến thành ngọc nữ, tội nhân nhìn thấy, tâm sanh vui mừng, thầm nghĩ ta muốn đến đó, sau khi ngồi lên xe vàng, ngoái cổ nhìn các ngọc nữ, thấy tất cả đều cầm búa rìu, chặt cắt thân thể mình. Còn Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Lúc ấy, Đức Phật A Di Đà sai khiển Hóa Phật, Hóa Quán Thế Âm, Hóa Đại Thế Chí, đến trước hành giả, v.v…” Dùng bốn nghĩa này biết rằng hoa sen đến nghinh tiếp hành giả niệm Phật không giống như cảnh tướng trình bày trong Kinh Quán Phật Tam Muội Hải.

16. Hạ hạ sen vàng.

Hỏi: Những hành giả vãng sanh chín phẩm, hành trì có ưu có liệt, thánh chúng tiếp dẫn có nhiều có ít, hoa nở có nhanh có chậm, trân đài hoa báu đều sai khác, vì lý do gì mà thượng phẩm hạ sanh và hạ phẩm hạ sanh có cùng một loại hoa sen vàng, không có sự sai khác? (119)

Đáp: Có ba ý nghĩa: (1) Đây không phải là hoa sen dành cho người vãng sanh. Có thể là tòa sen của Phật đang ngự đến tiếp dẫn. Người vãng sanh vì nghiệp nặng, không thể thấy Đức Phật, chỉ thấy tòa sen, nhưng không được rõ ràng, tựa như vành mặt trời chói lòa. (2) Người vãng sanh vì nghiệp nặng, Đức Phật không đến rước, chỉ đưa hoa sen vàng tiếp dẫn vãng sanh Tịnh độ, cho nên Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Hoa sen ở trước mặt hành giả.” Nếu như người đó ngồi lên tòa sen, tại sao kinh lại không đề cập đến? (3) Đây tuy là tòa sen vàng, nhưng cũng có sự lớn nhỏ, đẹp xấu khác nhau. Nếu đã phân hoa sen làm hai loại, thì đâu ngại gì khi hai hành giả vãng sanh phẩm vị khác nhau ngồi lên hai loại tòa sen khác nhau.

17. Thời kiếp của cõi Cực Lạc.

Hỏi: Hạ phẩm trung sanh sáu kiếp hoa mới nở, hạ phẩm hạ sanh mười hai kiếp hoa mới nở là dùng thời gian cõi Ta Bà mà tính, hay dùng thời gian cõi Cực Lạc mà tính? (120)

Đáp: Nhiều học giả Tịnh độ cho rằng thời gian nêu ra trong kinh là lấy thời gian của cõi Ta Bà làm chuẩn. Vì sao biết được? Đức Phật Thích Ca thành đạo ở cõi này, giảng kinh cho chúng sanh cõi này hiểu rõ thời gian hoa nở ở cõi Cực Lạc, cho nên chỉ dùng thời gian kiếp số của cõi Ta Bà để nêu rõ thời gian hoa nở ở cõi kia. Hiện nay chúng tôi sẽ không giải thích như vậy, mà chủ trương rằng trong kinh dùng thời gian của cõi Cực Lạc làm chuẩn để nêu rõ thời gian hoa nở. Vì sao biết được? Có ba ý nghĩa để giải thích: so sánh, lời dạy của Phật, và nghĩa lý. (1) So sánh: Lấy cõi trời Tứ Thiên Vương làm chuẩn. Thọ mạng dài ngắn của các cõi trời khác trong cõi Dục đều lấy ngày đêm của cõi Tứ Thiên Vương làm chuẩn. Một ngày cõi trời Tứ Thiên Vương dài bằng năm mươi (50) năm cõi người. Như vậy, lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, cõi trời đó thọ mạng năm trăm năm, tính ra bằng 50 x 30 x 12 x 500 = 9.000.000 năm tuổi thọ loài người. Từ cõi trời Tứ Thiên Vương trở lên, thọ mạng càng lúc càng tăng gấp bội, chẳng hạn, một ngày cõi trời Đao Lợi dài gấp đôi một ngày cõi Tứ Thiên Vương (một ngày cõi Đao Lợi dài một trăm năm cõi người), v.v… Cho nên biết rằng thọ mạng của mỗi cõi trời đều tính bằng ngày tháng của cõi trời đó. Tương tự, dùng ngày tính tháng, dùng tháng tính năm, dùng năm tính kiếp, ngày tháng ở cõi Tịnh độ quyết không dùng thời gian cõi người ở thế giới Ta Bà để làm tiêu chuẩn. (2) Lời dạy của Phật: Trong phần Thượng phẩm thượng sanh nói: “Tử kim đài này như hoa báu lớn, qua một đêm liền nở.” Cho nên biết rằng “sau một đêm hoa nở” là tính bằng ngày đêm ở cõi Cực Lạc. Ban đêm hoa khép, ban ngày hoa nở. Một đêm cõi Cực Lạc, dài bằng nửa đại kiếp ở cõi Ta Bà, là lúc hoa khép; một ngày cõi Cực Lạc, dài bằng nửa đại kiếp ở cõi Ta Bà, là lúc hoa nở. Cho nên biết rằng kinh nói đến thời gian hoa nở của hàng thượng phẩm trung sanh là lấy thời gian của hoa sen báu ở cõi Cực Lạc (chứ không dùng thời gian cõi Ta Bà). Tương tự, hàng thượng phẩm hạ sanh, trải qua một ngày đêm hoa sen mới nở, cũng là dùng thời gian ở cõi Cực Lạc làm chuẩn. Nếu không, chả lẽ dùng thời gian cõi này làm chuẩn cho thời gian hoa sen báu khép nở nơi cõi Cực Lạc? Nếu cho rằng đối với hàng thượng phẩm trung sanh, hoa báu lớn nở là dùng thời gian cõi Cực Lạc, còn hàng thượng phẩm hạ sanh, hoa báu trải qua một ngày đêm mới nở là dùng thời gian cõi Ta Bà, lẽ nào hàng thượng phẩm trung sanh hoa sen lại nở chậm hơn hàng thượng phẩm hạ sanh? Đây là một sự mâu thuẫn không thể chấp nhận được, cho nên biết rằng kinh nói đến ngày tháng là lấy thời gian cõi Cực Lạc làm tiêu chuẩn. (3) Căn cứ vào lý: Nếu cho rằng khi kinh nói thời gian một ngày đêm là lấy thời gian Cực Lạc làm tiêu chuẩn, còn khi nói đến kiếp là lấy thời gian Ta Bà làm tiêu chuẩn, thì hàng trung phẩm trung sanh, hoa sen trải qua thời gian bảy ngày (cõi Cực Lạc) hoa nở, tính ra là thời gian bảy đại kiếp ở cõi Ta Bà, còn hàng hạ phẩm trung sanh, hoa sen trải qua thời gian sáu kiếp (cõi Ta Bà) hoa nở, tính ra thời gian ở cõi Cực Lạc thì chỉ mới có sáu ngày, chả lẽ hoa sen của hàng trung phẩm trung sanh lại nở chậm hơn hoa sen của hàng hạ phẩm trung sanh? Hơn nữa, chả lẽ hàng hạ phẩm thượng sanh, hoa sen trải qua thời gian bốn mươi chín ngày (thời gian Cực Lạc) mới nở, lại còn chậm hơn hành hạ phẩm trung sanh đến bốn mươi ba đại kiếp hay sao [1]? Dùng lý luận này trưng dẫn thì biết rằng thời gian trong kinh đề cập đến là thời gian cõi Cực Lạc, chứ không phải thời gian cõi Ta Bà.

18. Nhân duyên hoa khép.

Những người ngồi trong hoa sen nhiều kiếp hoa sen mới nở là do tội chướng mà hoa sen nở chậm, hay là do công đức thù thắng mà được ở trong hoa sen nhiều kiếp? (121)

Đáp: Căn cứ vào bậc hạ phẩm hạ sanh phải trụ trong hoa sen mười hai đại kiếp hoa sen mới nở, lúc ấy Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí dùng âm thanh đại bi vì người đó nói rộng về các pháp thực tướng, cùng phương pháp trừ diệt các tội chướng, chúng ta biết rằng những hành giả vãng sanh đó vẫn còn tội chướng, vì bị nghiệp chướng ràng buộc cho nên phải trải qua nhiều kiếp hoa sen mới nở. Nếu không tại sao lại có chín phẩm vãng sanh, hoa nở nhanh chậm, trang nghiêm sai khác?

19. Tịnh độ diệt tội.

Hỏi: Nếu do nghiệp chướng mà hoa sen nở chậm, tại sao nghiệp chướng này không chiêu cảm tội báo? (122)

Đáp: Hành giả vãng sanh tuy còn tội căn, nhưng vì đời trước đã phát tâm Bồ đề, chí tâm niệm Phật A Di Đà, tội chướng đã được tiêu trừ, dù còn những tội căn tiềm tàng, chúng không thể làm nhân cho quả báo đọa lạc ác đạo, mà trở thành những chủng tử nghiệp vô cùng yếu ớt, cho nên biết rằng công đức Niệm Phật đã phá trừ thế lực của chúng. Lại nữa, thế lực của công đức Niệm Phật chiêu cảm thân thù thắng ở cõi Tịnh độ, quả báo khổ không còn hiện khởi. Vả lại, tuy nhờ công lực bổn nguyện của Phật, quả báo khổ không hiện hành, nhưng vẫn còn những dư chướng, làm cho hoa sen không thể nở nhanh. Vì thế, Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Do vì nghi ngờ trí tuệ bất khả tư nghì của Phật A Di Đà mà bị sanh vào Thai cung, tuy không thọ sự khổ, nhưng trong năm trăm năm bị Thai cung ngăn che (cho nên không được thấy Phật, không được nghe pháp).” Trường hợp ở đây cũng tương tự, ngăn không cho hoa nở sớm. Tuy chướng ngại không cho hoa nở sớm, nhưng không có sự khổ. Tội căn của hành giả vãng sanh chỉ chướng ngại không cho hoa nở sớm, chứ không có năng lực chiêu cảm khổ quả. Giống như đẳng lưu quả của nghiệp sát sanh có thể làm giảm tuổi thọ ở cõi trời, người.

Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Người Hạ phẩm hạ sanh niệm mười danh hiệu Phật, mỗi niệm trừ diệt tám mươi ức kiếp tội chướng sanh tử.” Tội chướng đã trừ diệt, vì lý do gì sau khi hoa nở, đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại vì người đó nói pháp thực tướng để trừ diệt tội chướng? Nếu còn tội để trừ diệt, vì sao những tội đó không làm chướng ngại sự vãng sanh Tịnh độ? (123)

Đáp: Tuy kinh nói trừ diệt, nhưng hành giả vãng sanh vẫn còn những tội chướng vi tế chưa được thanh tịnh. Nhân vì thế lực của nghiệp đã trở nên yếu ớt, hơn nữa, hành giả nương vào thế lực mạnh mẽ của sự niệm Phật và uy thần của Phật, cho nên nghiệp lực đã không chướng ngại được sự vãng sanh Tịnh độ. Hơn nữa, tuy hành giả đó đã tạo nghiệp nặng, có thể chiêu cảm quả báo ở ba đường ác, chịu khổ vô cùng, nay nhờ công đức niệm Phật tiêu trừ thế lực chiêu cảm quả báo của nghiệp ác đó, khiến cho hành giả không bị đọa ác đạo, thế nhưng, tội chướng vi tế vẫn còn tồn tại, cho nên sau khi hoa nở, hành giả vãng sanh gặp được hai Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí nói cho nghe pháp thực tướng thậm thâm mầu nhiệm. Khi ấy hành giả mới có thể quán tưởng pháp thân Phật, trí tuệ và cảnh giới vi tế, và nương vào đây, có thể trừ diệt công năng của những tội chướng nhỏ nhiệm, do đó mới nói: “Nói các pháp thực tướng, trừ diệt tội chướng.”

20. Một niệm mười niệm.

Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ, quyển Thượng, phần Bốn mươi tám nguyện nói: “Niệm Phật cho đến mười niệm đều được vãng sanh, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch”, còn quyển Hạ nói: “Nhẫn đến niệm Phật một niệm đều được vãng sanh”, tại sao trong cùng một bộ kinh mà lời dạy khác nhau, có lúc nói mười niệm, có lúc lại nói một niệm? (124)

Đáp: Không có sự khác nhau. Lời văn tuy khác, nhưng ý nghĩa vốn đồng. Trong phần trên nói “cho đến mười niệm” tức là nói từ ít đến nhiều, còn trong phần dưới nói: “cho đến một niệm” tức là nói từ nhiều đến ít. Kinh nêu cả hai, vốn không có điều gì mâu thuẫn. Ngài tỳ kheo Pháp Tạng dùng ít đến nhiều mà phát nguyện: “Hành giả lúc lâm chung, bỗng gặp nhân duyên thù thắng, gặp được người khuyên niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ, hành giả vừa xưng được một danh hiệu thì mạng chung, hoặc xưng được hai danh hiệu thì mạng chung, hoặc xưng được ba, bốn, năm, sáu, hoặc cho đến bảy, tám, chín, mười danh hiệu thì mạng chung, dù nhiều dù ít, đều được vãng sanh Tịnh độ.” Hơn nữa, hành giả này xưa nay chưa hề tạo tội ngũ nghịch, phỉ báng Chánh pháp, tùy niệm được bao nhiêu, đều được vãng sanh. Nếu như hành giả đã từng tạo tội ngũ nghịch, hủy báng Chánh pháp, bỗng nhiên gặp được thiện tri thức dạy cho niệm Phật, hành giả cần phải niệm đủ mười niệm mới được vãng sanh. Nếu chỉ niệm một niệm cho đến chín niệm, e cũng chưa được vãng sanh, cho nên kinh mới nói: “Nhẫn đến mười niệm, ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng Chánh pháp.” Đây chỉ là căn cứ vào số lần niệm mà nói “ngoại trừ”, chứ không phải những người như vậy tuyệt đối không được vãng sanh. Người học Tịnh độ lâu năm, đọc hiểu lời nguyện này, còn những kẻ mới vào Tịnh độ, nếu đọc lời nguyện lần đầu, ắt thường hiểu lầm ý chỉ, mà giải thích quàng xiêng, không hợp với tông chỉ Tịnh độ. Đức Bổn Sư Thích Ca vốn biết rằng người học Phật đời sau sẽ hiểu lầm ý chỉ, khởi ý loạn cầu, cho nên mới nói “cho đến mười niệm”, với chủ ý rằng hành giả dù đã từng tạo tội nặng, nếu có thể niệm Phật nhiều thì cũng sẽ được vãng sanh. Còn nói “cho đến một niệm cũng được vãng sanh” tức là đã loại ra những người ngũ nghịch báng pháp. Hai phần thượng hạ trong Kinh Vô Lượng Thọ bổ túc cho nhau, hiển bày ý nghĩa mà Đức Phật muốn nói, với mục đích mong muốn người tu hiểu rõ những lời Phật dạy.

21. Tổn lực ích năng.

Hỏi: Không biết niệm Phật diệt trừ tám mươi ức kiếp trọng tội, được vãng sanh Tây Phương, là diệt chủng tử, hay diệt thượng tâm? Nếu diệt chủng tử, thì cần phải đắc thánh quả, thấy được nhân pháp đều không, thì mới diệt được chủng tử phiền não. Công đức niệm Phật tuy vô lượng vô biên, nhưng đây chỉ là thiện tâm của văn tu và tư tu, làm sao đồng với sự chứng đắc thánh quả (tu tu) có thể diệt trừ nghiệp chướng. Nếu diệt thượng tâm, hai nghiệp tội và phước không thể đồng thời hiện khởi, lúc khởi tội nghiệp thì không thể niệm Phật, lúc đang niệm Phật thì không thể tạo tội, thiện ác không thể hiện khởi đồng thời. Nếu hai tâm (thiện ác) không đồng thời hiện khởi, thì làm sao có thể cho rằng niệm Phật diệt trừ thượng tâm? (125)

Đáp: Niệm Phật diệt trừ chủng tử chứ không phải diệt trừ thượng tâm. Tội của thượng tâm trong khoảng sát na sẽ tự tiêu diệt, không cần phải đợi đến lúc niệm Phật mới được diệt trừ. Vả lại, thiện ác không hiện khởi đồng thời. Lúc đang niệm Phật, tội đã bị diệt trước đó, hoặc chưa kịp hiện khởi, còn lúc đang tạo tội, thì việc niệm Phật đã qua, hoặc chưa niệm Phật, cho nên không thể diệt thượng tâm, mà chỉ diệt chủng tử tạo tội. Nếu sự niệm Phật liên tục không ngừng thì sẽ có công năng diệt trừ quả báo đọa lạc tam đồ ác đạo. Còn nếu không niệm Phật, chủng tử tội chướng sẽ dần dần tăng gia thế lực, có thể chiêu cảm quả báo ba đường ác trong tương lai. Do sức mạnh của sự niệm Phật, khiến cho công năng chiêu cảm quả báo của chủng tử tội chướng càng lúc càng yếu dần, không còn có thể chiêu cảm quả báo, giống như người đang bị bệnh, tuy thân thể đang nằm trên giường, nhưng không còn công năng để làm bất cứ động tác nào, tội chướng cũng giống như vậy, không còn công năng để chiêu cảm quả báo ác đạo trong tương lai, cho nên gọi là diệt. Đây là diệt thế lực của chủng tử, chứ không phải là tiêu diệt hoàn toàn. Trong sáu loại chuyển y, đây gọi là chuyển “tổn lực ích năng.”

22. Nghiệp cũ được sanh.

Hỏi: Công đức niệm Phật có thể trừ khử công năng chiêu cảm quả báo của chủng tử, không biết công năng của chủng tử đã bị trừ diệt, sau này gặp ác duyên, chủng tử có còn thế lực để chiêu cảm quả báo ác nữa hay không? (126)

Đáp: Vẫn có thể chiêu cảm. Như chư Bồ tát tu tập các pháp thiện để đối trị phiền não, nhân đây, thế lực của phiền não chủng tử yếu dần, không thể hiện khởi. Nhưng sau đó nếu phiền não có lực lượng trở lại, vẫn có thể khởi hiện hành. Hiện hành chủng tử tích tập thế lực, khiến cho phiền não chủng tử gia tăng thế lực. Như hai loại vô tâm định (Vô tưởng định và Diệt tận định), kềm hãm ý thức không cho hiện hành, nhưng sau khi xuất định, thức thứ sáu vẫn tiếp tục hiện khởi, ác nghiệp vẫn y nhiên. Niệm Phật cũng tương tự như vậy, công đức lực khiến cho chủng tử ác nghiệp trở nên yếu ớt, không thể chiêu cảm quả báo, nhưng nếu sau đó không tiếp tục tu thiện mà lại tạo ác nghiệp, thì những nghiệp cũ đã tạo sẽ hồi phục công năng chiêu cảm ác quả. Nếu hành giả gặp thiện duyên lâu dài, các pháp ác trở nên suy yếu, thì sẽ nhập vào thánh đạo, chủng tử ác sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt.

23. Thiện ác diệt nhau.

Hỏi: Chủng tử ác nghiệp đã bị công đức niệm Phật trừ diệt công năng chiêu cảm quả báo trong ba đường ác, không biết chủng tử thiện nghiệp của những công hạnh niệm Phật, bố thí, v.v…, có do vì tạo tác trọng tội mà bị trừ diệt công năng chiêu cảm quả báo vãng sanh Tịnh độ hay không? (127)

Đáp: Thay đổi hai vị trí thiện ác, trên nguyên tắc, tạo tác trọng tội cũng sẽ trừ diệt công năng vãng sanh Tịnh độ của các chủng tử thiện nghiệp. Như một niệm sân hận có thể chướng ngại trăm ngàn pháp môn. Kinh Di Giáo nói: “Sự tai hại của sân hận là phá hoại các pháp lành.” Lại nói: “Trong các kẻ tặc cướp đoạt công đức không gì hơn sự sân hận.” Nên biết rằng việc ác có thể diệt pháp lành. Nói diệt không có nghĩa là diệt trừ chủng tử thiện, mà chỉ là diệt trừ công năng chiêu cảm quả báo thiện. Thiện ác là hai pháp đối nghịch, tiêu diệt lẫn nhau. Ví như một đời làm thiện, có thể chiêu cảm quả báo cõi lành, thế nhưng lúc lâm chung vì mất chánh niệm, khởi lên các nghiệp ác, phá hoại các công hạnh lành đã tu từ trước, khiến cho hành giả đọa lạc ba đường ác. Còn những hành giả, xưa nay đã tạo nhiều nghiệp ác, ngũ nghịch thập ác, không tội nào mà không tạo, lúc lâm chung niệm Phật, đầy đủ mười danh hiệu, diệt trừ các tội nặng, được vãng sanh Cực Lạc. Căn cứ vào điều này, khuyên hành giả từ nay cho đến lúc mạng chung, cần phải chuyên tâm chú ý, không khởi niệm ác khiến tiêu tán công đức tu thiện, mà phải chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Điều này trong kinh có nêu rõ, lẽ nào không tin?

Phần XI: Biện biệt hành tướng Niệm Phật Tam Muội

1. Chứng cứ của pháp Niệm Phật Tam Muội.

Hỏi: Hiện nay có nhiều hành giả Tịnh độ tu tập pháp Niệm Phật Tam Muội, không biết pháp này có giáo lý nhất định nào không. Vả lại, các hàng tăng tục phần lớn đều sanh nghi, cho rằng “pháp này không căn cứ vào giáo lý mà chỉ là sự tu tập Phật pháp quàng xiêng, hầu dụ dẫn các hạng người ngu ngơ, và đây là sự báng pháp nghiêm trọng.” Xin hãy trình bày giáo lý chân chính để mọi người giải tỏa nỗi nghi. (128)

Đáp: Rất nhiều kinh điển Đại thừa nói về Niệm Phật Tam Muội, như trong Kinh Hoa Nghiêm có rất nhiều chỗ nói về Niệm Phật Tam Muội. Các kinh Niết Bàn, Quán Phật Tam Muội Hải, Hiền Hộ, Bát Chu Tam Muội, Quán Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Thanh Vương, Đại Tập Nguyệt Tạng, Địa Tạng Thập Luân, Chiêm Sát, Văn Thù Bát Nhã, Hoa Thủ, v.v…, và các luận Đại Trí Độ, v.v…, cũng đều đề cập đến. Kinh Hoa Thủ gọi tam muội này là Nhất Tướng Tam Muội, Kinh Văn Thù Bát Nhã gọi là Nhất Hành Tam Muội, Kinh Quán Phật Tam Muội Hải gọi là Quán Phật Tam Muội, Kinh Hiền Hộ gọi là Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội. Kinh Hoa Thủ nói: “Vị Bồ tát đó, đối với Như Lai tướng, pháp giới tướng, thường nên quán sát như vậy, hành trì như vậy, liên tục không ngừng, thì sẽ thấy được tượng Phật hiện đến trước mặt thuyết pháp.” Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Tùy phương hướng của cõi Phật đó, ngồi thẳng quay mặt về phương ấy, không chấp vào tướng mạo, chú tâm vào một vị Phật, chuyên xưng niệm danh hiệu ngài, không được gián đoạn, tức trong một niệm có thể thấy được chư Phật ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì sao? Công đức niệm một vị Phật vô lượng vô biên, đồng với công đức niệm vô lượng vô biên chư Phật. Đây gọi là Nhất Hành Tam Muội.” Kinh Niết Bàn nói: “Nếu có người thường chí tâm tu tập Niệm Phật Tam Muội, mười phương chư Phật thường nhìn thấy người ấy, như ở ngay trước mặt.” Kinh Quán Phật Tam Muội Hải và Kinh Hiền Hộ nói rất rõ về pháp tu Niệm Phật Tam Muội này, ở đây không thể trình bày chi tiết. Khuyên các hành giả nên tìm đọc kinh điển để biết rõ thêm.

2. Thứ lớp tu đạo.

Hỏi: Tu học pháp môn Niệm Phật Tam Muội là tu tập Bồ tát hạnh theo thứ tự, hay không theo thứ tự? (129)

Đáp: Đây chính là thứ tự tu học của Bồ tát. Vì sao biết được? Như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm thứ Bốn mươi lăm nói: “Lúc ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi giống như voi chúa quày đầu, quán sát đồng tử Thiện Tài, rồi nói như sau: ‘Lành thay, lành thay! Thiện nam tử. Con có thể phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đệ, tìm cầu thiện tri thức…’ Ngài cất lên những lời tán thán như vậy, sau đó giảng pháp sơ lược, và khuyên Thiện Tài đi tìm tỳ kheo Công Đức Vân cầu học Bồ tát hạnh. Ngài Công Đức Vân bèn dạy Thiện Tài pháp Niệm Phật Tam Muội.” Cho nên biết rằng vị thiện tri thức thứ nhất là ngài Văn Thù Sư Lợi khuyên phát Bồ đề tâm, vị thiện tri thức thứ hai là ngài Công Đức Vân liền dạy pháp Niệm Phật Tam Muội. Như thế, Thiện Tài đã đi qua một trăm mười nơi để tìm cầu thiện tri thức, mỗi một vị thiện tri thức đều dạy cho Thiện Tài một pháp môn. Nương vào một pháp môn này để học pháp môn kế tiếp, đây đều là thứ tự tu học của Bồ tát. Cho nên biết rằng phát Bồ đề tâm là công hạnh đầu tiên của tất cả công hạnh, mà Niệm Phật Tam Muội là công hạnh thứ hai của tất cả công hạnh. Điều này chứng tỏ rằng Niệm Phật Tam Muội chính là quá trình kế tiếp của hành giả mới phát tâm Bồ đề.

3. Phàm thánh đều học.

Hỏi: Tu pháp Niệm Phật Tam Muội này, không biết trong các người phàm, bậc thánh, người giữ giới, kẻ phá giới, ai đắc được tam muội? (130)

Đáp: Môn Tam Muội này, bậc thánh người phàm, trì giới phá giới đều có thể tu học. Như tỳ kheo Công Đức Vân trong Kinh Hoa Nghiêm là bậc thánh phát Đại bồ đề tâm tu chứng Niệm Phật Tam Muội. Kinh Hiền Hộ nói: “Nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di trì giới thanh tịnh, đầy đủ các hạnh.” Căn cứ vào đây biết rằng những người trì giới là những người thích hợp với pháp tu Niệm Phật Tam Muội. Đây tức là giới căn thanh tịnh tam muội hiện tiền. Còn người phá giới dù tu pháp Niệm Phật Tam Muội cũng khó thành tựu. Nhưng Kinh Quán Tam Muội Hải nói: “Pháp Quán Phật Tam Muội này là thuốc trị bệnh cho tất cả chúng sanh phạm tội, là vật bảo hộ cho người phá giới.” Nếu chúng sanh phá giới không chứng đắc tam muội này thì làm sao gọi là vật bảo hộ? Hơn nữa, phần dưới của Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Hôm nay, Đức Như Lai vì các chúng sanh thọ năm khổ trong đời vị lai, các tỳ kheo phạm giới, các người ác bất thiện, các chúng sanh tạo tội ngũ nghịch, báng pháp, vì những người như vậy giảng nói pháp trừ diệt tội chướng. A Nan bạch Phật: ‘Sau khi Phật diệt độ, những kẻ ngu si này không có nơi nương tựa quy y.’ Đức Phật bảo A Nan: ‘Sau khi Đức Phật diệt độ, trong đời trược ác về sau, các chúng sanh muốn trừ diệt tội chướng, nên tu tập pháp Quán Phật Tam Muội.’” Căn cứ vào đây mà biết rằng các chúng sanh ác, phá giới, phạm tội ngũ nghịch, v.v…, đều có thể tu học, và chứng đắc Niệm Phật Tam Muội.

4. Thông niệm ba thân.

Hỏi: Tu pháp Niệm Phật Tam Muội thấy được thân

Phật là thấy thân nào trong ba thân? (131)

Đáp: Một cách tổng quát, niệm Phật là niệm cả ba thân. Nếu riêng niệm Pháp thân Phật sẽ đắc Vô tướng Niệm Phật Tam Muội, nếu niệm Báo thân và Hóa thân Phật sẽ đắc Hữu tướng Niệm Phật Tam Muội. Hơn nữa, các kinh Hoa Nghiêm, Hiền Hộ, Bát Chu, Quán Phật Tam Muội Hải, Quán Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Thanh Vương, Văn Thù Bát Nhã, v.v…, đều cho rằng quán (niệm) sắc thân [2] của Phật gọi là Niệm Phật Tam Muội. Kinh Hiền Hộ, quyển thứ nhất, nói: “Hành giả niệm Phật A Di Đà, sau khi thấy được Phật, được nghe ngài giảng rộng các pháp thực tướng, nghĩa là các pháp xưa nay vốn không có cái bị hoại diệt (sở), cũng không có cái hoại diệt (năng), sắc không hoại diệt, cho đến thức không hoại diệt, …, cho đến không niệm Đức Phật A Di Đà. Như vậy, hành giả quán sát theo thứ tự, bèn chứng được Không Tam Muội. Thiện nam tử, đây gọi là Chánh Niệm Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội.” Căn cứ vào đây biết rằng trước tiên thấy được Đức Phật A Di tức là quán Báo thân và Hóa thân Phật mà chứng được Hữu tướng Niệm Phật Tam Muội, sau đó chứng được Không Tam Muội, tức là quán Pháp thân Phật mà chứng được Vô tướng Niệm Phật Tam Muội. Do ý nghĩa này biết rằng pháp Niệm Phật là từ thô thiển đến vi tế, trước tiên tu pháp quán Sắc thân, sau đó tu pháp quán Pháp thân. Đây là sự tu học theo thứ tự.

5. Trong định thấy sự khác biệt.

Hỏi: Vì lý do nào mà các hành giả chứng đắc Niệm Phật Tam Muội nhìn thấy cảnh giới khác biệt, hoặc có người thấy cõi Tịnh độ, nhưng không thấy Phật, hoặc có người thấy Phật, nhưng lại không thấy cõi Tịnh độ, hoặc thấy cõi Tịnh độ rồi được thấy Phật, hoặc có người đồng thời thấy cõi Tịnh độ và Phật, cùng thấy đủ loại hành tướng nghiệp báo của chúng sanh. Trong Niệm Phật Tam Muội cũng thấy được tất cả nghiệp thiện ác mà mình đã tạo trong hiện đời. Những cảnh giới thấy được là chân hay giả, mà làm sao thấy được? Xin trình bày giáo lý cho mọi người được rõ. (132)

Đáp: Tất cả những người tu đạo, bất luận tại gia xuất gia, nếu không y vào thánh giáo tu tập thì không phải là đệ tử Phật, mà là quyến thuộc của ma, không những là kẻ lừa dối thiên hạ, mà còn là tội nhân của nước nhà. Người ấy, trong hiện đời, vì cầu danh lợi, giả dạng tu hành, dụ dỗ mê hoặc những kẻ mê tín, trong đời vị lai sẽ bị đọa vào địa ngục Vô gián ở khắp mười phương, hại mình hại người, hủy diệt Phật pháp. Còn nếu y vào lời dạy của Phật mà tu học, đây tức là lợi mình lợi người, công đức thù thắng, đời này đời sau vĩnh viễn sẽ được giải thoát. Trong Kinh Hoa Nghiêm, đồng tử Thiện Tài ở trước ngài Văn Thù Sư Lợi phát tâm Bồ đề, ngài Văn Thù Sư Lợi bảo: “Này thiện nam tử, ở phương Nam có nước Nhật Khả Lạc, có một ngọn núi tên là Hòa Hợp, trên núi có một tỳ kheo tên Công Đức Vân, con hãy đến đó hỏi cách nào tu Bồ tát hạnh, v.v…” Đồng tử Thiện Tài đi đến núi Hòa Hợp ở nước Nhật Khả Lạc, bái kiến tỳ kheo Công Đức Vân hỏi pháp tu Bồ tát hạnh. Tỳ kheo Công Đức Vân bèn dạy cho Thiện Tài pháp môn Niệm Phật Tam Muội, sơ lược có hai mươi mốt loại như sau: (1) Chứng được môn Tịnh Tâm Niệm Phật Tam Muội, tự tâm sáng suốt, thấy được tất cả chư Phật; (2) chứng được môn Nghiêm Tịnh Phật Sát Niệm Phật Tam Muội, khởi tất cả cõi Phật, không ai có thể phá hoại; (3) chứng được môn Tịnh Nghiệp Niệm Phật Tam Muội, thấy tất cả các nghiệp như ảnh trong gương; (4) chứng được môn Viên Mãn Phổ Chiếu Niệm Phật Tam Muội, thấy được tất cả chư Phật cùng hàng quyến thuộc trang nghiêm cõi nước, v.v… Hiện nay, chúng sanh tuy chứng đắc Niệm Phật Tam Muội, do căn cơ, hành trì nông cạn cho nên chưa chứng được đầy đủ tất cả môn Niệm Phật Tam Muội, có người chỉ chứng một môn, có người chứng hai môn, ba môn, v.v…, cho nên cảnh giới mà họ thấy được có rộng có hẹp khác nhau. Lại cũng có người thấy được nhiều loại nghiệp tướng hiện tiền. Đây đều là cảnh giới của Niệm Phật Tam Muội. Đã có thánh giáo làm chứng cứ, y vào đó tu hành quyết chắc không phải là hư ngụy. Còn nếu hủy báng thì đó là kẻ báng pháp. Xin hãy tìm đọc kinh điển để giải trừ sự nghi hoặc.

6. Hạ căn đắc định.

Hỏi: Niệm Phật Tam Muội đắc được cảnh giới, hoặc thấy chư Phật Bồ tát, vô biên thánh chúng, hoặc thấy các cõi Tịnh độ của chư Phật vô lượng trang nghiêm. Những điều này đã có kinh điển giảng giải rõ ràng, không dám khởi tâm nghi hoặc. Hiện nay, các người tu pháp Niệm Phật, hoặc tăng hoặc tục, hoặc nam hoặc nữ, từ nhỏ đến giờ, chưa từng nghe pháp, hoặc tu tập, đối với kinh điển, một câu cũng chưa biết, lại có những người, hoặc đồng nam, đồng nữ tu tập chưa lâu, chưa hiểu rõ Phật pháp, tạm thời vào đạo trường, chí tâm niệm Phật, nếu nói với họ về việc được thấy chư Phật Bồ tát, hoặc thấy cảnh giới Tịnh độ trang nghiêm, thì cũng giống như nói đùa. Pháp Niệm Phật Tam Muội, các bậc cao tăng thạc học siêng cần tu tập còn chưa chắc chứng được, lẽ nào bọn trẻ con, hoặc những người tại gia ít học mà có thể chứng được hay sao? Chả lẽ pháp Niệm Phật Tam Muội này chỉ là hư ngụy (bày đặt)? (133)

Đáp: Hiện nay các hàng tăng tục đối với việc này đều sanh nghi ngờ. Nếu căn cứ vào lời dạy của Phật về thời vận và căn cơ chúng sanh, chúng ta cũng không lấy làm kinh ngạc. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, cũng như sau khi diệt độ, các đệ tử của ngài chứng đắc đạo quả số nhiều vô lượng trăm ngàn ức, hoặc có người chỉ nghe giảng kinh một lần mà được Pháp nhãn tịnh (sơ quả), hoặc đang lúc xuống tóc mà thánh đạo hiện tiền, hoặc đang quét dọn mà chứng quả A la hán, hoặc sa di mới bảy tuổi mà được Câu giải thoát, hoặc lấy tay vỗ đầu mà được chứng Tứ quả, v.v…, sự việc đồng như hý kịch. Các vị đó siêu xuất tam giới, đoạn trừ hai hoặc khó đoạn là kiến hoặc, tư hoặc, chứng đắc quả vị khó chứng là Tứ sa môn quả. Trong kinh luận đều có dẫn chứng, chẳng lẽ chúng ta không tin vào những điều này. Đây đều là do trong đời quá khứ họ đã trồng thiện căn giải thoát, và cũng đã từng tu tập qua pháp này, cho nên đời này chỉ cần tạm thời nghe pháp, suy tư, hoặc gặp ít duyên cũng có thể đắc đạo. Căn cứ vào lời dạy trong Kinh Hiền Hộ: “Sau thời mạt pháp, trong khoảng một trăm năm, nhờ uy thần của Phật gia bị, kinh điển dạy về pháp Niệm Phật Tam Muội (Kinh A Di Đà) lưu hành rộng rãi, người nào như pháp đọc tụng, tu tập sẽ đắc được Vương Tam Muội (Niệm Phật Tam Muội).” Vả lại, những người tu học Phật pháp có nhiều loại căn cơ, ví như những người có thể tư duy giáo nghĩa, đối chất biện luận, hiểu rõ tông thú tiệm đốn thâm sâu, giảng diễn giáo nghĩa bán tự mãn tự [3], trí tuệ ngôn từ biện bác tung hoành, nếu không phải là những người thượng đẳng như vậy, e khó hoằng dương diệu chỉ của pháp môn Niệm Phật Tam Muội. Lại có những người tinh thần chuyên nhất, tâm ngay hạnh trực, không ưa suy ngẫm, chỉ biết nhất tâm niệm Phật, ắt có thể thấy được Thế Tôn, không còn luyến tiếc thân mạng. Những hàng tại gia nam nữ, hoặc bọn trẻ con, nghe thiện tri thức dạy pháp Niệm Phật, tức khắc tin tưởng thọ trì, y theo lời dạy chuyên tâm quán niệm, không suy nghĩ mông lung, tâm dễ đắc định, nếu như suy tư nghĩ ngợi, tam muội khó thành. Cho nên vào đạo trường niệm Phật, các bậc danh tăng đại đức, học nhiều hiểu rộng, tu tam muội không thành, còn những người chỉ hiểu chút ít kinh điển lại mau đắc định. Từ xưa nay, các bậc đại đức tu tập thiền định, thường không cho phép nghe nhiều đọc nhiều, bởi những người ưa suy tư nghĩa lý, tâm thường tán loạn. Vì thế ở đây cũng chẳng lấy làm lạ, không màng thắc mắc. Tuy thế, những cảnh giới thấy được có thật có giả, hành giả phải nên nghiệm xét xem có phù hợp với lời Phật dạy hay không.

7. Trong định thấy cảnh giới khó lường.

Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Môn Tịnh Nghiệp Niệm Phật Tam Muội thấy nghiệp của tất cả chúng sanh như ảnh hiện trong gương.” Không biết những nghiệp tướng thấy được, có phải là đối tượng đó đã chết, đầu thai vào các nẻo, mà trong gương Tam muội vẫn còn thấy được? Điều này thật hay giả, khó mà giải thích. Nghiệp tướng đó là bổn chất hiện ra trong gương, hay do tự tâm giả biến hiện? Nghiệp thuộc về tư [tâm sở], làm sao thấy được? Ý nghĩa quả thật thâm sâu, kính xin giải bày ý chỉ. (134)

Đáp: Cảnh tướng của tam muội thật khó mà giải thích, không riêng đối với ý nghĩa này, mà đối với tất cả pháp khác cũng đều như vậy. Ví như người trụ tùy niệm thông (túc mạng thông), duyên vào cảnh quá khứ, cảnh giới của ngũ uẩn trong quá khứ sẽ hiện trước mắt. Cảnh tướng hiện tiền đó là cảnh tướng nào? Nên biết cảnh tướng của ngũ uẩn quá khứ là bổn tánh tướng, tùy vào uy lực của túc mạng thông duyên vào cảnh tướng quá khứ, biến hiện ra tướng phần của ngũ uẩn quá khứ, bỗng nhiên, cảnh tướng giống như những gì đã xảy ra ở quá khứ hiện ra trước mắt. Đây gọi là sở duyên duyên. Pháp Niệm Phật Tam Muội cũng tương tự như vậy, hoặc là uy lực của tử sanh thông (tương tự như thiên nhãn thông) duyên cảnh tướng vị lai của sự chết đây sanh kia. Tự tâm tướng phần của ngũ uẩn, nương vào sự tạo nghiệp sanh khởi quả báo của chúng sanh, theo thứ tự tương tục mà hiện ra trước mắt, hoàn toàn không sai lạc. Những nghiệp chướng được gây tạo là bổn tánh tướng, là tăng thượng duyên, là sở duyên duyên, khiến cho sanh tử trí thông thấy được ảnh tướng của chúng. Ở đây cũng tương tự như vậy, tùy những tư nghiệp (ý nghiệp) phát động thân nghiệp và khẩu nghiệp, tích tập những công năng, khiến cho hành giả trụ trong tam muội thấy được ảnh tướng của những phước nghiệp hoặc ác nghiệp đã gây tạo, hoặc do tâm đại bi của Đức Như Lai gia trì, ảnh hiện hình tướng, khiến cho hành giả trụ trong tam muội được thấy, để họ tinh tiến tu tập đoạn trừ phiền não. Các người tu học phải nên phát khởi lòng tin tưởng kính trọng sâu xa, chớ nên nghi ngờ. Cảnh giới của tam muội, cũng như cảnh giới của chư Phật, không phải là chỗ mà những phàm phu ngu tối có thể suy lường được.

8. Định cảnh chân thật.

Hỏi: Có người chứng đắc Niệm Phật Tam Muội, thấy được cảnh tướng thù thắng của cõi Tịnh độ Tây Phương, tuy thân chưa đến đó, nhưng đã thấy mình đang ở cõi Tịnh độ, hoặc thấy hoa sen đến tiếp dẫn vãng sanh. Không biết những cảnh giới hiển hiện đó là thật hay giả? (135)

Đáp: Cảnh giới này không phải giả. Như pháp quán thứ mười hai (Quán tự thân vãng sanh) trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, hành giả quán tưởng tự thân vãng sanh Tây Phương, quán tưởng mình ngồi kiết già trên tòa sen, quán tưởng hoa sen khép, hoa sen nở, v.v… Quán tưởng như vậy, lẽ nào có sự sai lầm? Trong Niệm Phật Tam Muội thấy tự thân vãng sanh cũng tương tự như vậy. Lại như trưởng giả Cấp Cô Độc đem vàng ròng lót đất mua vườn Kỳ Đà để lập tinh xá cúng dường Phật. Lúc ông và ngài Xá Lợi Phất đang đo kích thước để kiến trúc ngôi già lam, thì trên không đồng thời hiện ra cảnh tướng của sáu cõi trời Dục giới. Ngài Xá Lợi Phất chỉ cho Cấp Cô Độc thấy, nhưng ông không hiểu ý nghĩa bèn hỏi. Ngài Xá Lợi Phất trả lời: “Đây là do công đức bố thí tinh xá chiêu cảm quả báo sanh về cõi trời. Ông muốn sanh về cõi trời nào, thì khi mạng chung cảnh tướng của cõi trời ấy sẽ hiện ra trước.” Trưởng giả nói: “Tôi chỉ có một thân, sau khi chết chỉ thọ một quả báo, nếu như sáu cõi trời hiện một lúc thì tôi phải sanh về cõi trời nào?” Ngài Xá Lợi Phất nói: “Ba cõi trời dưới phước báo kém cỏi, hai cõi trời trên vô cùng phóng dật, chỉ có cõi trời Đâu Suất, tuy phước báo lớn, nhưng tâm thường biết đủ, lại có ngài Bồ tát Bổ xứ Di Lặc hiện đang cư ngụ, ông có thể nguyện sanh về cõi đó.” Ông Cấp Cô Độc nghe xong bèn phát nguyện sanh về cõi Đâu Suất. Lúc ấy, năm cõi trời còn lại tự nhiên ẩn mất, chỉ riêng cõi trời Đâu Suất vẫn hiển hiện trên không. Cho nên tùy theo nghiệp thiện ác đã tạo tác mà quả báo sẽ hiện tiền, lúc lâm chung phần lớn các cảnh giới mà mình đầu thai sẽ hiện ra trước. Phải nên tin rằng gây nhân ắt gặt quả. Cảnh tướng hiện tiền, các hoa đài tùy theo phẩm loại sẽ hiện ra trước. Đây là điều đương nhiên, có gì phải nghi hoặc. Cần phải tin tưởng sâu xa vào đạo lý “nhân nào quả đó.”

9. Biết thật tam muội.

Hỏi: Những hàng giả chứng được Niệm Phật Tam Muội làm sao biết mình đã chứng đắc, có kinh điển nào để chứng minh không? (136)

Đáp: Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có văn dẫn chứng. Kinh nói: “Phải nên quán tưởng, khiến cho tâm nhãn thấy được, thấy được cảnh giới này, tức là thấy được mười phương tất cả chư Phật. Do vì thấy được chư Phật, cho nên gọi là Niệm Phật Tam Muội.” Đây là chứng cứ. Bình thường, hành giả tuy tu tập các loại pháp môn, hiện nay vào đạo trường tu học tam muội này, bèn thấy được chư Phật. Nếu không chứng đắc tam muội, làm thế nào mà thấy được Phật. Hiện nay thấy được Phật, ắt là đã chứng được tam muội, cho nên kinh mới nói: “Vì thấy được chư Phật, nên gọi là Niệm Phật Tam Muội.” Ví như người bị bệnh mắt, được một vị y sĩ tài ba dùng kim vàng giải phẫu võng mô, sau đó vị y sĩ đưa ngón tay hỏi người bệnh thấy hay không thấy, nếu người bệnh nói không thấy, phải biết bệnh mắt của người đó chưa được trị lành. Giả sử, vị y sĩ đó tiếp tục giải phẫu, sau đó lại đưa ngón tay hỏi thấy hay không thấy, nếu người bệnh nói rằng thấy được ngón tay, phải biết là bệnh mắt của người đó đã được trị lành. Nếu như người bệnh không có mắt, thì làm sao thấy được ngón tay. Dùng việc thấy ngón tay để suy nghiệm về những người mù được trị lành bệnh, thanh tịnh nhãn căn. Ở đây cũng tương tự, nếu không đắc được Niệm Phật Tam Muội (ví như mắt chưa được trị lành), làm sao thấy đưọc các cõi Tịnh Độ của chư Phật, cùng thấy được những tướng hảo của thân Phật trang nghiêm. Dùng đây chứng nghiệm rằng hành giả (thấy Phật) chứng được Niệm Phật Tam Muội. Hành giả đó thường tu tập pháp này cho nên tam muội không mất, thường được thấy chư Phật và các thánh chúng. Nếu như bỏ phế không tiếp tục tu tập trong một thời gian dài, chạy theo ngũ trần, thì sẽ mất tam muội và sẽ không còn thấy được Phật và chư Bồ tát thánh chúng. Do đây biết rằng sự chứng đắc Niệm Phật Tam Muội ở trên phần lớn tương ưng với văn tuệ và tư tuệ, và không bắt buộc phải tương ưng với tu tuệ.

10. Tu tam muội được lợi ích.

Hỏi: Tu pháp Niệm Phật Tam Muội có được lợi ích gì, đắc được quả vị thù thắng nào? Kính thỉnh nêu ra kinh điển chứng minh để khuyến khích người tu, khiến họ mau được thành tựu kết quả thù thắng. (137)

Đáp: Sự lợi ích của pháp tu Niệm Phật Tam Muội nhiều vô lượng vô biên, được tường thuật trong các kinh Hoa Nghiêm, Hiền Hộ, v.v… Ở đây tuy không thể trình bày chi tiết, nhưng cũng sẽ nêu lên vài trường hợp để hành giả tăng trưởng lòng tin: thấy thánh chúng, nghe Chánh pháp, diệt tội nặng, sanh Tịnh độ, căn bổn của các định, sẽ thành Phật. (1) Thấy chư thánh chúng: Kinh Hiền Hộ, quyển thứ nhất, nói: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, ngồi ngay hệ niệm, chuyên tâm quán tưởng Phật A Di Đà, tướng hảo như vậy, uy nghi như vậy, đại chúng như vậy, thuyết pháp như vậy. Y như điều thấy nghe mà quán tưởng, nhất tâm miên mật, thứ tự không loạn, hoặc trải qua một ngày một đêm, như vậy cho đến bảy ngày bảy đêm, nhất định sẽ thấy Đức A Di Đà Như Lai. Nếu lúc thức không thấy, lúc ngủ sẽ thấy ngài trong giấc mộng. (2) Nghe Chánh pháp: Thấy Phật A Di Đà, sẽ được nghe ngài giảng diệu pháp sâu xa, chẳng hạn, tất cả pháp xưa nay vốn không bị hoại diệt, ví như ngũ ấm, sắc không bị hoại diệt, cho đến thức không bị hoại diệt. Nghe được những pháp Đại thừa sâu xa như vậy. (3) Diệt tội nặng: Kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Tam muội này là thuốc trị lành cho tất cả hành giả phạm giới, là sự bảo hộ cho những người phá giới, là sự chỉ đạo cho những kẻ lạc đường, là mắt sáng cho người mù, là trí tuệ cho người ngu, là đèn sáng trong bóng tối, là vị mãnh tướng diệt trừ giặc phiền não.” Phần dưới của kinh nói: “Hôm nay, Đức Như Lai vì những chúng sanh trong đời trược ác vị lai, vì những tỳ kheo phạm giới, vì những người ác bất thiện, vì những người phạm ngũ nghịch, báng pháp, vì những kẻ hành mười sáu nghề ác luật nghi, v.v…., nói lên pháp trừ diệt tội chướng (khiến cho họ được lợi ích).” (4) Sanh tịnh độ: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Niệm Phật Tam Muội ắt sẽ thấy Phật, sau khi mạng chung sẽ sanh về cõi Phật… Thấy người sắp mất, khuyên họ niệm Phật… Đem tượng Phật đến trước mặt để họ (người sắp mất) chiêm ngưỡng, khởi lòng tôn kính.” Lại như, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Tu tập tam muội này, trong hiện đời sẽ thấy Phật Vô Lượng Thọ và được hai vị Đại sĩ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí làm bạn thù thắng, sẽ ngồi đạo trường, sanh vào nhà chư Phật.” (5) Căn bổn của các định: Kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Niệm Phật Tam Muội là nơi xuất sinh của các tam muội khác.” (6) Sẽ thành Phật: Kinh Hiền Hộ nói: “Người đó trong đời vị lai sẽ thành Phật hiệu là Thiện Giác Như Lai… Lại nữa, Bồ tát Hiền Hộ hỏi Đức Phật một trăm hai mươi câu hỏi, như: ‘Bồ tát thành tựu đầy đủ tam muội nào để được đại công đức, v.v…’, nhẫn đến hỏi: ‘Làm thế nào chỉ cần tu hành trong khoảng một sát na mà có thể đến trước chư Phật mười phương, làm thế nào để trụ trong một cõi Phật mà có thể thấy được tất cả chư Phật mười phương, nghe được Chánh pháp, cúng dường chúng tăng,…’ Hành giả này chẳng những chưa chứng được lục thông xuất thế gian, mà ngay cả ngũ thông của phàm phu cũng chưa chứng được, cũng chưa xả bỏ thân phàm của thế giới này, cũng chưa được vãng sanh Tịnh độ của chư Phật, mà chỉ ở thế giới này, thấy được chư Phật ở các thế giới khác, nghe được chư Phật tuyên thuyết Chánh pháp, thọ trì tất cả, y theo lời dạy mà tu hành. Ví như hiện nay, tôn giả A Nan ở trước Đức Phật, sau khi nghe lời giảng dạy, tất cả đều có thể thọ trì. Này Hiền Hộ, có tam muội tên là Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội, nếu Bồ tát tu tập đầy đủ tam muội này, sẽ được thành tựu tất cả công đức vừa được nêu trên. Hiền Hộ nên biết, còn có vô lượng vô biên các công đức khác, không thể nói hết.” Cho nên biết rằng công đức thù thắng của sự tu tập Niệm Phật Tam Muội nói không thể cùng tận.

11. Định học sâu cạn.

Hỏi: Theo như những lời vừa nêu trên, đắc Niệm Phật Tam Muội được lợi ích vô cùng. Thời nay những người học đắc Tam Muội này chẳng lẽ cũng có được vô lượng vô biên lợi ích như vậy? (138)

Đáp: Tam muội tuy giống nhau, nhưng sự chứng đắc có sâu cạn khác biệt, chứng sâu thì có thể đạt đến quả vị Phật đà. Sự lợi ích của tam muội đã được trình bày trong Kinh Hiền Hộ, phần Một trăm hai mươi vấn đáp. Cho nên kinh có nói: “Lại nữa, Bồ tát tu tập Niệm Phật Tam Muội sẽ được sự lợi ích như trong phần vấn đáp đã nêu rõ.” Hiện nay, các hành giả tuy chưa chứng đắc đầy đủ tam muội nầy, nhưng cũng tùy phần thu hoạch được nhiều công đức thù thắng. Ví như các long vương có thể làm mưa, đại long vương thì làm cơn mưa lớn, trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, tiểu long vương thì làm cơn mưa nhỏ, phạm vi khoảng chừng vài dặm. Những cơn mưa này khiến cho cây cỏ được sanh sôi nảy nở, phạm vi tuy có lớn nhỏ khác nhau, nhưng đều thấm nhuần vạn vật. Các hành giả tu tập trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), tuy trình độ có cao thấp khác nhau, nhưng tất cả đều có thể thấy Phật, đều có thể sanh vào nhà Như Lai.

12. Tổn hoại của sự phỉ báng và lợi ích của lòng tin.

Hỏi: Những người chưa thể tu tập Niệm Phật Tam Muội, nếu thấy người khác tu tập khởi lòng tin tưởng, tùy hỷ thì được những công đức nào? Còn nếu không tin, mà lại hủy báng thì bị những tội báo nào? Kính xin nêu rõ sự tổn ích để mọi người hiểu rõ. (139)

Đáp: Ở đây sẽ dẫn chứng rộng rãi kinh điển, trình bày rõ ràng sự tổn hại của việc báng pháp và sự lợi ích của việc tin pháp. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức trong Kinh Hiền Hộ nói về công đức của người tùy hỷ pháp tu Niệm Phật Tam Muội như sau: “Ví như có người thọ mạng một trăm năm, thân thể nhẹ bổng, khí lực dồi dào, đi nhanh như gió, người đó vừa sanh ra liền có thể đi khắp thế giới, vòng khắp mười phương, như thế, đi hoài không nghỉ, đủ một trăm năm. Có thiện nam tử, thiện nữ nhân, khởi tâm tín kính, ở các thế giới mà người đó đi qua, trải đầy trân bảo, dùng đó cúng dường mười phương chư Phật, thì được phước báo vô cùng to lớn. Nhưng phước đức đó cũng không bằng một phần nhỏ của công đức tu tập Niệm Phật Tam Muội. Vì sao? Này Hiền Hộ, vị Bồ tát ma ha tát tu tập Niệm Phật Tam Muội này, đầy đủ bốn loại tùy hỷ nêu trên, hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vì cầu đa văn, thành Đẳng Chánh Giác. Này Hiền Hộ, do nhân duyên này, đem trân bảo bố thí, so với công đức của sự tùy hỷ, trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn vạn phần không bằng một, ức trăm ngàn phần không bằng một, cho đến toán số thí dụ cũng không so sánh được.” Công đức của sự tùy hỷ đã vô lượng vô biên, thì việc không tin, phỉ báng, tội cũng nhiều như vậy, vô lượng vô biên. Trong các kinh Đại Phẩm Bát Nhã, Pháp Hoa, Phật Tạng, v.v…, đều có nói rõ về tội báng pháp.

13. Niệm Phật trong phòng tối:

Hỏi: Không biết có phải là những hành giả tu Niệm Phật Tam Muội cần phải trang nghiêm đạo trường, an trí tượng Phật, tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, ngày ăn một bữa, không tiếc thân mạng, chuyên tâm niệm Phật? Vì sao những vị đó ở trong phòng tối, đóng bít các cửa, lớn tiếng niệm Phật? Kinh điển có dạy điều này không? Việc này làm cho nhiều người sanh tâm nghi ngờ kinh quái. Kính xin giải bày phương pháp tu tập này cho mọi người được biết. (140)

Đáp: Tra cứu kinh điển, không thấy nói tường tận về các điều này, thế nhưng, hành giả tu tập, vào trong phòng tối (kín), dứt bỏ thấy nghe (việc thị phi), tâm lìa các trần duyên, các hành giả sơ cơ, nếu có thể chú tâm quán tưởng, dễ chứng đắc tam muội, nếu không thì tam muội khó bề thành tựu. Thông thường nghĩ tưởng đến việc khó khăn ngoài đời, nếu chưa giải quyết được, thường hay loạn tưởng phân vân, khó định tâm tu tập, cho nên phải một mình đóng cửa bế quan, hoặc nhắm mắt không nhìn, nhờ đây mà trở nên điềm tĩnh, dễ thành tựu những điều đã suy tư. Ở đây cũng giống như vậy. Nếu tâm tưởng loạn động, không thể nào thành tựu Niệm Phật Tam Muội, cho nên hành giả đóng cửa bế quan tu tập tam muội này, những người không tu tập nhân đây sanh nghi, còn những người đã tu tập qua thì biết đây là điều cần thiết. Ví như một người đang ở trong phòng, nhất tâm niệm Phật, bỗng nhiên từ một lỗ hổng trên tường, ánh sáng rọi vào, tâm người ấy liền duyên vào tia ánh sáng này, khởi lên ý tưởng lao xao. Nếu như bít kín lỗ hổng, không cho ánh sáng rọi vào, thì sẽ được nhất tâm bất loạn. Đây là điều mà những người tu tập biết đến, không phải là hành động quàng xiêng… Những kẻ sơ học, tâm chạy theo ngũ dục, bám víu lục trần, nếu như không trụ trong phòng tối, thì không cách nào tu tập tam muội thành công. Sau khi tu tập thành tựu, thì lúc đó muốn tu tập nơi nào tùy ý, không còn chọn lựa sáng tối, mà vẫn thường có thể thấy Phật, lúc đó đâu còn cần phải vào phòng tối mà tu niệm Phật nữa. Cho nên Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Người đó bị khổ bức, không còn rảnh để quán (niệm) Đức Phật A Di Đà, thiện tri thức dạy xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm, âm thanh không dứt.” Phải chăng là do sự khổ não bức bách, quán tưởng khó thành, chí tâm niệm danh hiệu Phật, âm thanh liên tục, thì được vãng sanh. Hiện nay lớn tiếng niệm danh hiệu Phật cũng giống như vậy. Niệm danh hiệu Phật, âm thanh liên tục, chứng đắc Niệm Phật Tam Muội, thấy được Đức Phật và thánh chúng rõ ràng hiện ra trước mắt. Kinh Đại Tập Nhật Tạng nói: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ.” Niệm lớn tức là niệm Phật lớn tiếng, niệm nhỏ tức là niệm Phật nhỏ tiếng. Đây gọi là thanh giáo, đâu có gì đáng nghi ngờ? Hiện thấy các người tu học, chỉ có cách niệm Phật lớn tiếng mới dễ thành tam muội, còn như niệm Phật nhỏ tiếng, tâm thường tán loạn. Đây là những điều mà những người tu học Phật pháp mới biết, còn những người ngoài đạo không thể hiểu được. Nếu ông không tin, hãy tu cho biết. Chớ nên không chịu tu tập mà chỉ biết khởi tâm nghi ngờ.

Phần XII: Biện biệt pháp sám hối bằng cách giập đầu đấm ngực

1. Biện biệt pháp sám hối bằng cách giập đầu đấm ngực.

Hỏi: Kinh nói: “Năm vóc sát đất (ngũ thể đầu địa), khẩn thiết sám hối.” Hiện nay, những người sám hối phần lớn đều dùng tay đấm ngực, không biết có kinh điển nào đề cập đến việc (đấm ngực) này không? Nếu cho rằng năm vóc sát đất tức là dùng tay đấm ngực, e rằng cách giải thích này lý lẽ không thông. Vả lại, nói năm vóc sát đất đâu phải chỉ câu nệ vào việc năm vóc sát đất, giập đầu lạy Phật? (141)

Đáp: Kinh Quán Phật Tam Muội Hải, phẩm thứ ba, nói: “Phật từ pháp tòa đứng dậy, bảo mọi người quán sát sắc thân của ngài. Trong nhóm dòng họ Thích, có năm trăm người thấy sắc thân của Phật giống như màu tro, trong nhóm tỳ kheo, có một ngàn người thấy sắc thân của Phật giống như màu đất nung, trong nhóm ưu bà tắc, có mười sáu người thấy sắc thân Phật giống như chân voi đen, trong nhóm ưu bà di, có hai mươi bốn người thấy sắc thân Phật giống như mực đen, trong nhóm tỳ kheo ni có một người thấy sắc thân Phật giống như bạc trắng, trong nhóm ưu bà di lại có một người thấy sắc thân Phật giống màu xanh lam. Như vậy, bốn chúng thấy sắc thân Phật không đồng, đều không thể thấy được sắc thân chân kim (vàng ròng) của Phật. Mọi người đều phát lộ sám hối, năm vóc sát đất, giống như núi đổ, tự bức râu tóc, lăn lộn trên đất, dùng tay đấm ngực, máu mũi chảy ròng, sám hối khiến tội tiêu diệt, mở được tâm nhãn, thấy sắc thân Phật đoan nghiêm vi diệu, như núi Tu Di, ánh sáng chói lòa, bao la như biển lớn.” Đây không phải là lời kinh chỉ bảo về cách sám hối (dùng tay đấm ngực) hay sao? Pháp sám hối bằng cách đấm ngực đâu phải là mọi người làm càn mà không có kinh văn dẫn chứng. Những điều ông vừa quở trách, đã có kinh văn làm chứng cứ, lẽ nào vẫn còn nghi ngờ?

Chú thích:

[1] Hàng hạ phẩm thượng sanh, hoa sen trải qua bốn mươi chín ngày cõi Cực Lạc, dài bằng bốn mươi chín đại kiếp cõi Ta Bà. Trong khi hàng hạ phẩm trung sanh, hoa sen trải qua sáu đại kiếp (thời gian cõi Ta Bà), tính ra chỉ là thời gian sáu ngày ở cõi Cực Lạc.

[2] Quán (niệm) sắc thân, tức là quán (niệm) Báo thân và Hóa thân của Phật.

[3] Bán tự mãn tự: Pháp thế gian là bán tự, pháp xuất thế là mãn tự. Trong pháp xuất thế gian, Tiểu thừa là bán tự, Đại thừa là mãn tự.

    Xem thêm:

  • Luận Câu Xá – Phẩm 3: Phân Biệt Thế Gian - Luận Tạng
  • Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ - Luận Tạng
  • Luận Thành Duy Thức Bảo Sanh - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 4: Phân Biệt Nghiệp - Luận Tạng
  • Thập Nhị Môn Luận – Thích Nhất Chân - Luận Tạng
  • Thành Duy Thức Luận - Luận Tạng
  • Chứng Đạo Ca - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Tán Thuật Kinh Kim Cang Bát Nhã - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Tịnh Độ Luận - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng
  • Tây Phương Hiệp Luận - Luận Tạng
  • Tam Luận Lược Chương - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Thanh Tịnh Đạo Luận - Luận Tạng