1
2
3
4

PHẦN BA

Kính thưa quý vị.

Trên đây là những ý kiến tương phản của hai phái cùng tu theo pháp môn Tịnh độ, một bên thiên về hiện tượng, một bên thiên về bản thể, cả hai phái đều đưa ra những lý lẽ để bênh vực cho lập trường của mình và bài bác bên kia, không bên nào chịu thua bên nào cả. Tôi đã tư duy về vấn đề này, mong tìm được những lý lẽ xác đáng để dung hoà các mâu thuẫn bất đồng của hai bên, và trong khi quán tưởng về đề tài này, tôi đã cố nhớ lại những lời Phật và Tổ đã dạy.

Phật đã khuyên chúng ta:

1.- “Phải dùng pháp của ta làm nhiên liệu để đốt cháy tâm can con, làm bùng lên ngọn lửa Bát Nhã để soi sáng con đường tiến thủ của con”. (Kinh Di Giáo).

2.- “Phải tự rèn luyện mình để trở thành một cái phao vững chắc, hay một hòn đảo an toàn làm nơi trú ẩn, đừng bao giờ tìm bất cứ một nơi ẩn trú nào khác ngoài ta, trong biển khổ trần lao mông mênh của cuộc đời”. (Kinh Pháp Cú)

3.- Phải đặt trọn niềm tin ở mình, và đặt mọi cố gắng trên Chính kiến và Chính tư duy, vì chỉ có hai thứ đó mới đưa tới cứu cánh viên mãn”. (Kinh Pháp Cú)

4.- Đừng bao giờ tin một điều gì mà tập tục, thói quen hay sự dạy dỗ theo lối nhồi sọ đã làm cho ta tin tưởng từ thời còn thơ ấu. Đối với một điều cần phải dùng trí tuệ minh mẫn để xét lại, và khi đã phân tích, cân nhắc kỹ lưỡng nếu thấy điều gì quả thật tốt lành, lợi ích cho tất cả thì hãy tin, rồi cố gắng giúp mọi người cùng tin và sống theo chân lý ấy”. (Anguttara Nikaya).

5.- Người nào chẳng may bị mắc vào lưới mê muội, mù quáng, tin càn, hiểu sai và đi lạc lối rồi thì đừng hy vọng dùng tụng kinh, cầu nguyện, lễ bái, cúng dường hoặc tu ép xác như nhịn đói, nằm đất, thức khuya dậy sớm, hành hạ xác thân để mong trở thành thanh tịnh, nếu trong tim óc của người ấy còn đầy chất độc tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… làm cho người đó lúc nào cũng cuồng loạn. Chẳng phải vì những ngoan cố, khát vọng, tin nhảm, hiểu lầm, không theo chính đạo mà con người trở thành ô trược”. (Kinh Pháp Cú).

6.- “Chính con phải tự cố gắng đi trọn con đường của con. Ta chỉ là người hướng đạo chỉ đường cho con đi mà thôi”. (Kinh Pháp Cú).

7.- “Cúng dường vô số Phật không bằng cúng dường cho một người Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng. (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

8.- “Niệm vô niệm niệm, Hành vô hành hành, Tu vô tu tu, Chứng vô chứng chứng”. (Niệm đến chỗ không niệm mới là chân niệm. Làm đến chỗ không làm mới thật là làm. Tu đến chỗ không tu mới là chân tu. Chứng đến chỗ không chứng mới thật là chứng). (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

9.- “Này, Thiện nam tử, phải biết rằng các pháp đều bình đẳng và bất hoại diệt. Thân, Tâm và Ngã, Pháp, Sinh tử và Niết bàn đều như Không hoa. Ở trong hành giả không có tạo tác và đình chỉ. Ở quả tu không có thủ xả và đắc thất. Rốt ráo không có Năng, Sở, khứ lai, sinh diệt. Có như thế mới nhập được vào Phật đạo. (Kinh Viên Giác).

10.- Kinh Trường A Hàm có câu: “Tâm mang thế gian đi, Tâm dẫn thế gian lại, Tâm là căn bản của các pháp. Tâm sai khiến mọi sự mọi vật. Tâm nghĩ thiện thì hành động thiện, Tâm nghĩ ác thì hành động ác, hạnh phúc theo tâm như bóng theo hình”.

11.- Kinh Tâm Địa Quán có câu: “Phật pháp của ta lấy tâm làm gốc, và muôn pháp ở thế gian này đều do tâm sinh ra cả”.

12.- Kinh Hoa Nghiêm, một bộ kinh đặc biệt bàn nhiều về chữ tâm có những câu:

Tâm như công họa sư,

Họa chủng chủng ngũ ấm.

Nhất thiết thế gian trung,

Vô pháp nhi bất tạo!

13.- “Tâm, Phật, cập chúng sinh, thị tam vô sai biệt”.

14.- “Tức Tâm tức Phật”.

15.- “Nhất thiết duy tâm tạo”.

16.- “Tất cả các pháp của ta chỉ như ngón tay để chỉ mặt trăng, chớ nên lầm ngón tay là mặt trăng”. (Kinh Viên Giác).

17.- “Tâm thanh tịnh, thế giới thanh tịnh. Tâm nhiễm ô, thế giới nhiễm ô”.

18.- “Nhất thiết chúng sinh cụ hữu Như Lai trí tuệ đức tướng”.

19.- Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q 27) có câu: “Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tính”.

20.- Và Tổ Huệ Năng dạy:

Bồ đề chỉ hướng tâm mịch,

Hà lao hướng ngoại cầu huyền”.

21.- “Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề”.

22.- “Phải xoay ngược luồng nhãn quang về phía nội tâm mà tìm chân lý, vì chân lý không ở ngoại cảnh”.

23.- “Lòng còn mải nghĩ tới sự giác ngộ thì khó vượt được mọi mê mờ. Nguồn gốc của sự tỏ ngộ ở tâm thì nên tìm nguồn gốc đó ở bên trong, chớ đừng phí công kiếm sự tỏ ngộ ở ngoài mà đưa nó vào trong”.

24.- “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”.

25.- “Đừng nghĩ đến Thiện, đừng nghĩ đến Ác, trong lúc ấy mới hiện rõ “bản lai diện mục của mình”.

*

Hầu hết các kinh điển của Đại thừa Phật giáo đều chú trọng đến tâm con người. Cái tâm ấy bừng sáng lên trong mỗi bộ kinh Phật, xuyên qua bức màn danh ngôn, sắc tướng.

Từng ấy mẩu ánh sáng gom lại đủ tạo thành một bó đuốc chân lý sáng ngời dạy tôi phải tựa nương vào tâm mình để giải quyết mọi vấn đề khó khăn ở đời, và tôi có cảm nghĩ rằng Đức Tin là điều quan trọng và thiết yếu đối với người học đạo, nhất là đối với người Phật tử còn sơ cơ.

Đức Tin là mẹ của mọi công đức và phát sinh ra mọi hạnh lành. Trong tôn giáo, đức Tin mang tính chất siêu hình và siêu việt biên giới của suy tư. Trừ một số ít người sống trong chủ nghĩa hoài nghi, buông thả không định hướng và phủ nhận giá trị thiêng liêng của tâm linh thì đức Tin là điều kiện cần thiết cho người tầm đạo muốn sống một cuộc đời hướng  thượng, hữu ích.

* Trong Tín, Nguyện, Hạnh thì Tín là đức tính căn bản, hướng dẫn người tu tiến bước trên đường đạo giải thoát. Nhờ có đức Tin mà ta cố gắng phát huy trí tuệ và bồi dưỡng đạo đức, tạo thiện nghiệp cùng phát tâm vô thượng Bồ đề.

Chúng ta an tâm trước mọi thử thách và vượt qua mọi chướng ngại trên đường hành đạo. Thiếu đức Tin thì thiếu quả quyết, dũng cảm và nhẫn nại, ta sẽ ngần ngại trước sự thử thách, do đó việc tu dưỡng tâm linh của ta sẽ giảm phần hiệu năng. Nhưng đức Tin ấy cần phải lành mạnh và được soi sáng bằng trí tuệ Bát Nhã để trở nên một đức Tin sáng suốt và kiên cố, nếu không nó sẽ trở thành mê tín đưa người vào vòng tà đạo. Ta phải lấy đức Tin để soi sáng, tránh cho đức Tin khỏi trở thành cuồng tín, mới không lạc vào mê mờ, hành động mù quáng sai lầm.

Và kết quả của những đêm suy tư quán tưởng về vấn đề niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ đã đưa tôi đến những nhận định sau đây:

CHƯƠNG 4: NHẬN ĐỊNH VỀ NGHI VẤN: CÓ HAY KHÔNG CÓ ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ VÀ CÕI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC ?

Bởi căn cơ của chúng sinh cao thấp không đều, tính tình uỷ mị cứng rắn khác nhau, nên Phật mới phải dùng đủ mọi phương tiện, mượn cái hữu hình để chỉ cái vô hình, mở quyền chỉ thực, vị thực thi quyền, lập ra 48.000 pháp môn, xây dựng vô số thành trì giả để đưa tới một thành trì cho đó là thực, rốt cuộc thành trì mà mọi người tưởng là thực này, lại bị phá huỷ nốt vì đó vẫn chỉ là ảo ảnh phù du. Đại thừa Phật giáo trong Bát Nhã Tâm Kih đã dạy cách phá vỡ các ảo ảnh về chủ thể (ngã) và phá luôn cả cái ảo ảnh về đối tượng (pháp), để từ đó con người nhận định về Thức tại một cách trung thực hơn. Cái ảo ảnh to lớn nhất và khó phá nhất là ảo ảnh về chân lý tuyệt đối, về một đấng thiêng liêng và về một cõi Niết bàn hay Thiên đường vì đó là khát vọng ngàn đời và khắp nơi, cũng là chỗ tựa nương cuối cùng của con người đau khổ vốn ít tin tưởng vào tài sức của mình trước sự huyền vi và sức cuồng bạo của thiên nhiên.

Trong suốt quá trình lịch sử của nhân loại, con người lúc nào cũng cố gắng nối liền cái hữu hạn của đời người với cái vô cùng bất tận của không gian và thời gian. Cũng vì thế mà Phật hay Chúa đã ngự trị trên cuộc đời cơ cực, và Niết bàn, Tịnh độ Thiên đường đã dựng lên trên cõi sình lầy, gai góc, đầy bất hạnh này. Có bờ bên này đối diện với bờ bên kia. Cực lạc với Ta bà, giải thoát và trói buộc, buồn thương và hạnh phúc, hữu và vô… Đức Thích Ca Mâu Ni, Tổ Huệ Năng… và Khrisnamurti là những vị đã thoát ly khỏi cái ảo ảnh và khát vọng đó, đã siêu lên trên mọi trói buộc, để chẳng còn gì phải khát vọng nữa. Bờ bên này sở dĩ có, vì có cái ảo tưởng về sự hiện hữu của bờ bên kia. Sự thật thì giải thoát và trói buộc, Tịnh độ và Ta bà, nhân quả và phi nhân quả, tất cả những cặp mâu thuẫn trong thế giới tương đối, nhị nguyên, đều chỉ là những danh từ để chỉ những sự vật giả có, giả không, những khái niệm của ý thức so đó mà tôi. Trên đường siêu thoát, người tu phải từ bỏ dần dần cho đến thực hết những gì mình có ở đời, tương tự như người lữ hành đi trên con đường thiên lý phải vứt bỏ ở dọc đường những gì mang theo để đỡ cồng kềnh, nặng nhọc, vinh hoa, phú quý, từ bỏ hình hài của mình, cho đến cả những cảm xúc, tư tưởng của mình nữa. Và ngay cả những gì mình đã lượm được ở dọc đường tu giải thoát của nền giáo lý Phật dạy mà ta nâng niu, gìn giữ như hạt kim cương vô giá, cũng phải coi như những phương tiện chỉ cần thiết cho từng giai đoạn tu hành, như những nhịp cầu hoặc chiếc bè để qua sông, khi đã tới bờ bên kia rồi thì nhịp cầu hay chiếc bè phải để lại. Ngay cả ông lái đò đã chở mình qua sông (là Đức Phật) cũng phải từ giã nốt, để còn phải cất bước liên tục lên đường thiên lý làm nhiệm vụ hành đạo, có như thế mới là chân giác ngộ. Vì Thể của Tâm vốn “không tịch” nên không thể trụ vào tướng mê ngộ được. Cái “Hữu” bị cái “Không” vô hiệu hoá, đến lượt cái “Không” lại bị cái “Bất không” phá huỷ để cho lý trung đạo hay “Chân không diệu hữu” tỏ bày. Người quen nếp sống suy luận, nhị nguyên nặng đầu óc phân biệt cho rằng các cõi Tịnh độ, Niết bàn, là nơi hư ảo, không thật có, nhưng người có tâm vô phân biệt, quen nếp sống trực giác, tâm linh, hiểu rõ năng lực của đức Tin và Tâm thành, lại cho là các cõi Tịnh độ và Ta bà đều thực có, và chỉ là một, không hai.

Là một Đạo Sư dày kinh nghiệm, Đức Phật Thích Ca đã dẫn chúng sinh đi từ thế giới khách thể hữu hình đến thế giới bản thể vô hình, rồi lại phủ nhận cả hai thế giới hữu hình lẫn vô hình, phá cả hai bên đối đãi để hiển lộ cái lẽ phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, hay cái lý Bất nhị trong thế gian, nhất nguyên vô phân biệt. Mục đích của Phật là cứu vớt chúng sinh thoát khỏi khổ đau trong tam giới, đưa tới một nơi lý tưởng Cực lạc, Niết bàn, nhưng cảnh giới cực kỳ sung sướng là Tịnh độ, Niết bàn kia chẳng phải là đâu xa lạ, mà chính lại vẫn là cảnh giới của tâm, ai ai cũng có, vốn vô sở đắc. Thế mới hay mất công bôn ba tìm kiếm khó nhọc khắp nơi, nhưng lại thấy ở nơi thật gần, ngay ở thân mình và rốt cuộc chỗ đến của lối tu tiệm ngộ theo Sự cũng là chỗ đến của lối tu đốn ngộ theo Lý. Sự chẳng khác Lý, chỉ không giống nhau ở căn cơ và hành trì siêng năng hay giải đãi mà thôi. Còn chấp Có, chấp Không, chấp Sự chấp Lý là còn mê muội và mang tâm phân biệt, chia rẽ, do đó còn bị trói buộc, khổ đau. Cũng như chứng bệnh của loài người có nhiều, lại phải có đủ mọi thứ thuốc để điều trị. 84.000 pháp môn Phật dạy, pháp môn nào cũng tuyệt diệu cả, vì có công năng trị bệnh cho loài người đến tận gốc, nhưng xét ra chỉ có hai loại là Pháp tướng và Pháp tính hay Hữu môn và Không môn đưa người tu đến toà nhà Như Lai. Khi đã tới nơi rồi thì Tướng cũng như Tính, Sự cũng như Lý, Sắc tức là Không, Tương đối tức Tuyệt đối, Hữu vi cũng như Vô vi, đường lối tuy khác nhau, nhưng cũng tụ tại một điểm là Chân Không, Chân Như, Chân Tâm, Phật tính. Pháp Tướng và Pháp Tính thoạt tưởng là độc lập khác nhau, nhưng thật ra lại bất dị, tương thành. Chúng nương lẫn nhau, tương tức tương nhập, cũng như điện âm và điện dương tưởng là tương khắc, huỷ diệt nhau, nào ngờ chúng lại kết thành một dòng điện âm dương đun đẩy tiếp nối nhau để tạo thành một dòng điện âm dương đơn thuần. Pháp tướng nhờ vào hình tướng giả bề ngoài và cái Dụng để phô bày cái Thực tướng bên trong, hay cái Thể Chân Không của các pháp.

Người học đạo bước đầu còn dựa vào sắc tướng âm thanh, cậy vào Tha lực nhờ đó mới cởi bỏ được phiền não, nhiễm ô ở trong lòng. Pháp Tính nương vào tự lực của người tu nhiều hơn. Hành giả thu thúc lục căn, quán sát tâm mình, không lưu ý tới ngoại cảnh, cố gắng dứt bỏ chúng sinh tính, diệt trừ tận gốc tham, sân, si để tâm trở nên thanh tịnh.

Cái đích của cửa Không cũng là cái đích của cửa Hữu, giống nhau ở điểm phải thanh lọc những ác tưởng để tâm trở nên hanh khiết, pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thần diệu vì nó có sức thu hút mọi giai tầng tín đồ Phật gioá, từ bậc thượng lưu trí thức đến hàng thất học hạ căn, từ người nhàn rỗi đến kẻ bận việc, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, đang làm công việc gì cũng có thể niệm Phật được cả. Pháp môn đó thoả mãn được mọi Phật tử, người nặng tình cảm và tín ngưỡng, nương vào Tha lực thì tu theo Sự tướng, lối tiệm tu, người có ý chí tự cường, tin ở tài sức của mình thì tu theo Lý tính, lối đốn ngộ. Nhưng dù theo Sự hay Lý, tin hay không tin có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, cũng có thể đạt được kết quả như nhau là diệt trừ phiền não và tâm được an vui, nếu cùng siêng năng hành trì theo con đường tu của mình đã chọn.

Điểm đặc sắc của pháp môn Tịnh độ là người tu theo Sự tướng, không hiểu về Lý, chỉ chuyên cần niệm Phật A Di Đà với Nhất Tâm bất loạn, cũng đạt được mục tiêu là trở về với Chân Tâm thanh tịnh của mình, y như người rành về Lý. Vì khả năng thu hút của pháp môn Tịnh độ và để thoả mãn cung nhằm vào mục tiêu có lợi cho đủ mọi hạng người không thể trả lời dứt khoát là Có hay Không có Đức Phật A Di Đà, và Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc, bởi lẽ nếu nghiêng hẳn về một bên, vừa không hài lòng bên kia, lại mắc vào lỗi Biên kiến, ngả và Có thì chấp Tướng, nghiêng về Không thì chấp Tính, bị lạc vào ngoan không. Bởi lẽ mọi pháp trên thế gian này đều chẳng thật có, chẳng thật không, chẳng phải hư, chẳng phải thực, nên đối với câu hỏi Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, không thể đứng trên lập trường trí thức thuần tuý, nghiêng về Lý, đóng khuôn trong hình thức nhị nguyên mà trả lời Có hoặc Không dứt khoát, mà chỉ có thể đứng trên lập trường tâm linh, trong khuôn khổ nhất nguyên mà trả lời: Có và Không, – Cũng Có và cũng Không, hoặc chẳng phải Có và chẳng phải Không. Bởi lẽ Có chẳng khác gì Không, Không chẳng khác gì Có, Có tức là Không, Không tức là Có theo Bát Nhã trí.

Đối với người theo Sự, không hiểu về Lý, còn phải dựa vào Tha lực mà nuôi dưỡng tinh thần họ. Nhưng đối với ai tu đã lâu năm mà quen thói ỷ lại, cứ bám vào hình tướng, không chịu dưỡng tính tu tâm mà không chịu tin ở tự lực của mình thì cần phải trả lời là Không có.

Ở đây chúng ta nên nhớ tới lời Tổ Huệ Năng khuyên các đệ tử cách trả lời mỗi khi có người hỏi về những sự việc có tính cách đối nghịch. Tổ nói: “Hễ ai nghiêng về Có, phải lấy Không để đáp lại. Hỏi Thánh thì lấy phàm, hỏi phàm thì lấy Thánh để đối đáp, như vậy giữa hai thái cực Có, Không, Thiện, Ác… nảy sinh lý Trung Đạo hay Bất Nhị bao trùm cả hai bên, có như thế mới khỏi mắc vào lỗi thiên kiến cực đoan.

CHƯƠNG 5: NHẬN ĐỊNH VỀ VẤN ĐỀ ĐỚI NGHIỆP VÃNG SINH

Điểm nghi vấn Có hay Không có đới nghiệp vãng sinh cũng được giải đáp tương tự như nghi vấn: Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc.

Để trấn an những tâm hồn yếu đuối, đức tin không vững, và ngại mình phúc mỏng nghiệp dầy tạo nhiều quả ác, thì mong gì được dự phần hưởng phúc ở cõi Cực lạc Tây phương để chung sống với các bậc Hiền, Thánh. Về điểm này Cổ Đức có dạy: Phàm là chúng sinh ai cũng phải mang nghiệp vào thân, chẳng nặng thì nhẹ, không ai thoát khỏi nghiệp báo, do đó đừng nên thắc mắc về nhân quả, luân hồi. Cũng ví như mây đen bao phủ bầu trời, đến khi gió thổi thì mây đen liền tan, hoặc gian phòng đang tối, bỗng đèn điện bật sáng thì bóng tối biến liền. Cảnh mây đen và bóng tối chỉ là hư ảo, cũng như vô minh tạm thời che khuất Chân Tâm, chẳng phải là cảnh thật, vì đã gọi là thật thì vĩnh viễn cứ như thế mãi không hề đổi thay. Đèn điện và gió thổi có khả năng xua đuổi bóng đen thì ánh linh quang của trí tuệ cũng có khả năng phá tan vô minh phiền não, cho nên chẳng sợ mang nghiệp vào thân mà chỉ cần lo gieo nhân lành thật nhiều, và chuyên tâm thành kính niệm danh hiệu Phật A Di Đà để tới khi lâm chung quen việc niệm Phật.

Hễ nuôi dưỡng Tín Tâm cho vững và thực hành được từ 1 đến 10 niệm thanh tịnh trong lúc hấp hối cũng đủ để Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của Ngài. Cũng ví như người phải vác một tảng đá lớn lội qua sông trong cơn phong ba thì khó bề tránh khỏi thuỷ tai, nhưng nếu người ấy lại được chuyên chở bằng thuyền bè, tượng trưng cho Tha lực của chư Phật thì dù phải mang nặng hàng tấn đá vẫn ung dung ngồi vững trên thuyền lướt sóng bình yên trong cơn giông bão, chẳng tổn hơi sức. Đó là lý của những người tu theo Sự, tin ở Tha lực và thuyết Đới nghiệp vãng sinh. Đối với người không hiểu về Lý thì tất cả mọi hiện tượng tâm, vật lý đều thực có, như vậy thì nghiệp báo sao lại chẳng có. Nhưng đối với người đã hiểu chân lý lại tin rằng: Xác thân này hư giả, vô ngã, vọng tâm lại điên đảo, vô thường thì nghiệp báo sao lại có được ? Đó chỉ là vấn đề nhân duyên giả sinh, giả hợp mà thôi, vậy chẳng cần phải lo ngại. Vì thế mà tâm họ lúc nào cũng an nhiên tự tại. Họ chẳng sợ quả báo mà chi lo không gieo được nhân lành. Họ hiểu rằng: nhân quả là luật thiên nhiên, có vay thì phải trả. Họ tìm mọi cách vượt lên trên nhân duyên để được giải thoát. Cũng như khi con người đã hiểu rõ luật thiên nhiên thì không làm điều gì trái luật thiên nhiên, lại còn biết lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên để chế ra nào là tàu thuỷ, tàu ngầm, thuyền buồm… để di chuyển dưới nước, vượt biển rộng; nào là khinh khí cầu, phi cơ, hoả tiễn để đi trên không, vượt trời cao; nào là máy in, máy điện tín, điện thoại, máy chữ… để thông tin xa nhau hàng vạn dặm, nhờ đó mà thu ngắn được khoảng cách, nối liền quá khứ, hiện tại, vị lai. Con người thời nay, nhờ trí thông minh của mình đã đạt được ngũ thông và đã trở thành khổng lồ, có sức bay nhanh hơn chim, lặn sâu hơn cá, vác nặng hơn voi, chạy nhanh hơn thỏ, nghe được suốt lục địa, nhìn thấu các vật vô hình, lại có sức phá rừng, lấp biển, xuyên núi, chặn đứng các thác nước cuồn cuộn đổ xuống từ cao…

Đứng trước nghiệp và khổ đau, con người có hai cách để vượt qua:

1.- Một là đối diện với nghiệp và khổ đau để tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nghiệp trong thân, khẩu, ý để tìm cách tiêu diệt những nhân tố ấy. Đó là thái độ áp dụng trong Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

2.- Hai là đối diện với nghiệp khổ đau, nhưng không chống lại chúng theo lối ăn miếng trả miếng, mà lại dùng Nhẫn Nhục, như một thế võ Nhu đạo, mượn cái đà của chúng để tiêu diệt chúng. Nói cách khác, khi khổ đau và nghiệp tấn công, ta không chống cự lại mà lợi dụng thế võ “Nhu thắng cương, nhược thắng cường”, lấy Nhẫn nhục ba la mật để đối phó lại. Cũng như khi quân giặc đến tấn công nếu ta đem quân ra chống cự lại, ắt phải tổn thất nhân mạng, đổ máu nặng nề, nhưng nếu ta lại bỏ ngỏ thành áp dụng chiến thuật “vườn không, nhà trống” thì quân giặc không giết hại được gì cả. Dùng nhẫn nhục để đối phó thì tính nhẫn nhục của ta được tôi luyện thêm sắc bén, ta chịu đựng khổ đau mà không kêu ca, sân hận thì ta phá được Ngã chấp, Pháp chấp, đắc quả Vô sinh Pháp nhẫn. Khi đã không sân hận oán thù thì không gây thêm nghiệp ác mới nữa, ta đình chỉ được luật nhân quả và đạt được Chân Tâm, Phật tính của mình.

Bởi vì khi trực diện với nghiệp và khổ đau thì chúng chỉ tác dụng trên con người giả của ta mà thôi, nghĩa là chúng chỉ làm cho thể xác và tinh thần hay cái thân ngũ uẩn giả hợp này bị ảnh hưởng, chứ tuyệt nhiên chúng không thể tác hại đến phần tinh thần là Chân Tâm, Phật tính của con người thật (Chân Ngã) của ta được. Những ai đã hiểu rõ luật nhân quả đều biết rằng: nghiệp với ta là một. Nghiệp chính là mình, vì ai muốn tạo nghiệp gì tuỳ ý. Không ai thoát khỏi nghiệp, bởi nghiệp gắn liền với tư tưởng và hành động của con người. Còn suy tư là còn nghiệp, chẳng dữ thì lành. Họ không sợ nghiệp và khổ đau, vì biết rằng có nghiệp mới có Giải thoát, có phiền não mới có Bồ đề. Không bị khổ đau, không vượt qua nghiệp chướng, tất không thể nào siêu thăng. Giải quyết những mâu thuẫn của trí thức như thế nào thì cũng giải quyết vấn đề nghiệp báo như thế. Trí sai biệt và phân biệt được giải quyết bằng trí Vô sai biệt và Vô phân biệt, thì nghiệp cũng được giải quyết bằng Phi nghiệp. Đau khổ và nghiệp là duyên lành tạo niềm an lạc cho tâm hồn, cũng như đoá sen thơm ngát mọc lên từ bãi sình lầy hôi tanh.

Theo nghĩa thông thường thì nghiệp là luật nhân quả tự nhiên, nhưng dưới cặp mắt của người đạt đạo quen sống với lý Bất Nhị thì nghiệp tức là phi nghiệp. Giữa mê và ngộ, nghiệp không tác động như nhau. Trong lúc người mê không ngớt than thân trách phận về nghiệp quả nặng nề, thì người ngộ lại không cảm thấy gánh nặng của nghiệp đè lên vai mình. Tuy cùng đeo nghiệp như nhau, nhưng họ lại không để ý đến nghiệp, bởi thế, tâm họ luôn thanh thản. Họ không xoá bỏ luật thiên nhiên nhưng tuỳ thuận thiên nhiên mà sống, đồng nhất với thiên nhiên trong cảnh tự tại vô ngại. Nghiệp dù có đến, họ thản nhiên chịu hậu quả của nghiệp như để trả một món nợ đã đáo hạn cho xong. Người đạt đạo trong hoàn cảnh đau buồn, dĩ nhiên là biết nhưng dường như không biết, bởi vì người này đã ẩn mình trong tính “Không”, nên mới giải thoát khỏi đau buồn. Người ấy cũng cảm xúc như ai, nhưng họ hiểu rằng, không ai tránh khỏi luật nhân quả, phải lấy tính nhẫn nhục để che cho thân mình. Đó chẳng phải là trạng thái tinh thần trơ như gỗ đá, cũng chẳng phải là ươn hèn, nhưng chính là tự độ, tự giác để giác tha. Bởi vì theo luật biến hoá của vọng tâm sinh diệt, thì khi người ta đau buồn thường hay sinh ác tưởng. Để thoả mãn ác tưởng phải tăng thêm nghiệp ác, cho nên người tu hạnh đầu đà, nhẫn nhục, tạm ẩn trong tự tính thanh tịnh Niết bàn để ngăn ác tưởng không cho phát sinh. Đó là một việc làm khó, đòi hỏi phải đi ngược dòng sinh của ác tưởng. Nhờ công phu tu tập của pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả mới dẹp được mầm ác manh nha và an tâm vào tình trạng khách quan thanh tịnh. Đó là một cách để diệt khổ được vui, làm mất hiệu lực của luật nhân quả. Con người cũng có thể vượt qua nghiệp bằng cách chuyển Nghiệp thành Nguyện. Cũng như con người, khi đã biết rõ luật thiên nhiên thì tìm cách lợi dụng sức mạnh của thiên nhiên, vượt qua nó để phục vụ cho hạnh phúc của mình. Tâm tạo nghiệp thì tâm cũng giải được nghiệp. Có chuyển được nghiệp, cắt đứt mối giây nhân quả mới khỏi bị nghiệp trói buộc. Cứ phát ra những lời đại nguyện thanh tịnh, chân chính, vị tha, rồi cố gắng thực thi những đại nguyện ấy thì chẳng còn sợ nghiệp báo, Nhân quả nữa.

“Bất lạc nhân quả, bất muội nhân quả” khác nhau chính là ở điểm này. Do đó, những người này không tin thuyết “Đới nghiệp vãng sinh”, và đối với câu hỏi: “Có hay không có đới nghiệp vãng sinh ?” Cũng như với câu hỏi: “Chúng sinh Có hay Không có Phật tính ?”, thì có thể trả lời: “Có và Không”, “Cũng Có và cũng Không”, hay “Chẳng phải Có, chẳng phải Không”, hay “Chẳng phải không có, chẳng phải Không không có”. Tiện đây, tôi xin kể lại câu chuyện rất quen thuộc đối với đa số người trong đạo Phật:

Một bữa, một người hỏi Thiền sư Triệu Châu:

– Bạch Hoà thượng, con chó có Phật tính không ?

Ngài đáp: Không.

Người này lại hỏi:

– Kinh Pháp Hoa có nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, cớ sao con chó lại không có Phật tính ?

Ngài đáp:

– Bởi vì Vô minh che lấp Chân Tâm, nên nói: Không. Con chó không thấy Phật tính của nó, cho nên tuy nó có Phật tính mà cũng coi như nó không có vậy.

Bữa khác, có người lại hỏi Thiền sư Triệu Châu:

– Bạch Hoà thượng, con chó có Phật tính không ?

Ngài đáp: Có

Người ấy gặng hỏi:

– Nếu có Phật tính, sao nó lại phải đội lốt chó ?

Ngài đáp:

– Bởi vì đã biết là có Phật tính mà nó còn hành động theo lối súc sinh, nên mới phải đội lốt chó. Cũng như người có kiến thức mà lại cư xử thiếu nhân cách, không sống theo nhân đạo thì phải đoạ kiếp chó và đội lốt thú chứ sao ?

Như vậy, ta thấy rõ: “Tuỳ theo căn cơ và tính tình của người đặt câu hỏi mà phải trả lời lúc Có, lúc Không về cùng một vấn đề, âu cũng là phương tiện để người nghe giải mê, khai ngộ”.

CHƯƠNG 6: NHẬN ĐỊNH VỀ MỘT SỐ QUAN NIỆM SAI LẦM THÔNG THƯỜNG CỦA NGƯỜI THỜI ĐẠI.

Xin lưu ý quý vị về mấy điểm sai lầm thông thường sau đây của người thời đại:

Mục 1: Thuyết nhị nguyên.

Với đường lối thuần lý của triết học và khoa học Tây phương đặt cơ sở trên luận thuyết “Cogito ergo sum” của Descartes thì đa số người Tây phương hiện nay vẫn còn quen nhận thức cuộc đời theo đường lối Nhị nguyên. Thậm chí họ còn đặt ra nguyên tắc “Bài trung” (Principe du Tiers exclu) để đánh đổ chủ nghĩa “nửa vời”.

Theo họ thì việc dời đổi chẳng thế nọ cũng thế kia, chẳng tốt thì xấu, chẳng đúng thì sai, chẳng đen thì trắng, nếu Có thì tất chẳng phải là Không. Họ cho rằng: mọi hiện tượng trong trời đất đều thật có, bởi vì cái gì cũng rõ ràng, sờ sờ ngay trước mắt. Theo biện chứng: Tôi tư duy, vậy thì tôi hiện hữu, cho nên phải có Ta, có Người, có Sinh, có Diệt, có Vật, có Tâm… quyền lợi mâu thuẫn sinh ra tranh chấp, chứ không thể có tình trạng nửa vời, chẳng trắng, chẳng đen, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng đúng, chẳng sai, chẳng không, chẳng có, mờ mờ ảo ảo. Khi nào trí óc của con người còn đi theo con đường mòn nhị nguyên xưa nay, thì kết quả không sao tránh khỏi là phải phủ nhận hoặc chấp nhận dứt khoát, và như thế là rơi vào thế đối lập, chia rẽ, phân biệt bạn và thù. Phật giáo chủ trương: Chỉ khi nào không khẳng định cũng không phủ định, và sống trong sai biệt – vô sai biệt, và phân biệt – vô phân biệt, thì lúc đó mới đạt tới Thực tại tuyệt đối.

Nhưng gần đây đã thấy xuất hiện trên thế giới một số Triết gia và Khoa học gia tân tiến, lên tiếng cảnh cáo đường lối thuần lý của nền Triết học và Khoa học ở thế kỷ XIX như Heidegger, Nietztsche, Kierkegard, Dostoiewsky. Những vị này đã can đảm nhận thấy những khuyết điểm của quan niệm xưa kia, nhìn đời bằng con mắt thị phi, phân biệt rành rẽ, vì sau nhiều cuộc thử nghiệm trong lãnh vực Điện tử, họ đã đi sâu vào một thế giới lạ lùng ở đó chẳng phải là sự, chẳng phải là tâm, mà chỉ là một hệ thống chằng chịt, trong đó quan niệm thông thường về vật chất tan biến như mây khói. Nếu coi Điện tử là nền tảng của vật chất như các vật thể khác thì nó lại không có khối lượng vật chất khi nó ở thể loãng, bất động, trái lại nó lại năng động. Họ đâm ra lúng túng không biết nên đặt Điện tử vào khu vực vật chất với danh hiệu là Lượng tử hay Chất tử (Corpuscule de matière) hay cho nó vào hàng ngũ Năng lực (tinh thần) với danh hiệu là Ba động của Tinh lực (Onde d’énergie) bởi vì nó gồm đủ cả tính của vật chất lẫn năng lực, vừa là Vật vừa là Tâm. Rốt cuộc, buộc lòng người ta phải tạm đặt cho nó danh từ là Lượng tử Ba động (Onde Corpuscule) để chỉ cho một Thực tại nghịch lý phi vật chất, phi tinh thần ấy.

* Theo thuyết Tất Định hay Định Mệnh của La Place cho rằng: “Không có gì ngoài vật chất cả, và mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do vật chất sinh ra”, biến hoá theo luật nhân quả, do đó có thể đoán định được tất cả những gì sẽ phải xảy ra. Nhưng tới năm 1927, nhà bác học Đức Heisenberg đã chứng minh cho thế giới thấy rằng nguyên lý Tất Định hay Định Mệnh an bài không thể áp dụng trong thế giới Điện tử được nữa, và không sao biết trước được vị trí và tốc độ của Điện tử ra sao cả. Hơn nữa các Khoa học gia ngày nay không còn dám tự hào là mình đã dùng cặp mắt và khối óc khách quan để quan sát ngoại vật như thường lệ nữa, mà họ đã phải thú nhận rằng những đặc tính của Lượng tử hay Chất tử đều do trí óc chủ quan của họ tạo nên, chứ thật sự thì các vật này không có những đặc tính riêng biệt, độc lập đối với trí óc của người quan sát (L’electron ne possède pá de propriétés indépendantes de mon esprit – trích tài liệu Tham luận tại cuộc toạ đàm ở Cordoue, Tây Ban Nha, năm 1979, về đề tài Sciece ét Conscience – Khoa học và Tâm thức).

Nói khác đi, thì họ phải công nhận rằng trong lãnh vực cực vi thì chủ thể quan sát không tách rời khỏi đối tượng được quan sát, và như vậy thì khoa học ngày nay cũng đi tới nhận thức giống như của Long Thọ Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa ở thế kỷ thứ II dương lịch là: Phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô, tức là pháp môn Bất Nhị hay tâm vật nhất như, mà lời nói của loài người khó diễn tả nổi. Phật giáo cho rằng: Các pháp đều do nhân duyên giả sinh, giả diệt, và bản chất của chúng vốn Vô tự tính. Các pháp không tự nhiên có, phải do tương quan với những cái không phải nó mà có, nên sự Có ấy là Giả có. Có khái niệm về Sinh vì có khái niệm về Diệt. Sự mâu thuẫn giữa Có, Không, Sinh, Diệt đưa đến một tổng đề Phi Có Phi Không, Phi Sinh Phi Diệt hay Bất Nhị, nhưng trong cái Bất Nhị vẫn ngầm chứa cái Nhị đối lập với nó. Cứ như thế, một pháp luôn luôn hàm chứa một pháp khác, mâu thuẫn với nó. Từ đối nghịch, mâu thuẫn đi tới một tổng đề, vẫn hàm chứa một mầm mâu thuẫn mới, nằm trong giới hạn của khái niệm, danh từ Tổng để cứu cánh phải là Thực tại tuyệt đối vượt ra ngoài tính chất tương đối, so đo của ngôn ngữ, khái niệm.

Hiểu rõ lý nhân duyên trùng điệp sẽ phá tan được những cặp mâu thuẫn nhị nguyên và những khái niệm nhị biên để đạt tới Chân lý tuyệt đối, không còn tranh luận hão huyền nữa. Thấu triệt lý nhân duyên tức đi tới thể Không tịch, phá vỡ được Ngã chấp, Pháp chấp và đạt tới chân trời Chân Không Diệu hữu.

Lý nhân duyên chuyển được sự thúc phọc thành sự tự do. Trong các Kinh điển của Đại thừa Phật giáo chủ trương Chân Không – Diệu Hữu đều hàm chứa lý đó như: Vô tận trùng trùng duyên khởi trong Kinh Hoa Nghiêm, Thực tướng quan trong Kinh Pháp Hoa, Chân như quan trong Khởi Tín Luận và Tịnh độ quan trong Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ.

Phật giáo chủ trương phá chấp triệt để nào là chấp Có, chấp Không, chấp Thường, chấp Đoạn, chấp Ngã, chấp Pháp, vì với xu hướng Nhất Nguyên hay tinh thần Bất Nhị, đạo Phật đã đạt chân lý tuyệt đối viên dung, không còn bị vướng mắc vào lỗi lầm nào cả. Muốn được như vậy, người Phật tử học đạo phải gột sạch óc phân biệt nhị nguyên, từ bỏ mọi ràng buộc vào Có, Không, Thường, Đoạn, và không chấp vào danh từ, để thấy được Thực tại toàn diện và nhất quán, một Thực tại thoát lý cả Có lẫn Không, vượt khỏi mọi khái niệm, siêu việt trên lãnh vực của hình, danh, sắc, tướng, ở ngoài nhận thức chủ quan, tương đối.

Muốn được như vậy thì người học đạo phải rời bỏ mảnh đất thuần lý của khoa học và triết học cổ điển, lỗi thời mà dấn thân vào cảnh giới tâm linh, tức là vượt qua lý trí để trực quán thực tại nguyên thuỷ của tâm, siêu lên mọi phân biệt tỷ giảo của triết học và khoa học nhị nguyên, chỉ thấy Thực tại trong Tỷ lượng một cách méo mó, thiên lệch, làm cho Chủ và Khách, Tâm và Cảnh đối đầu nhau đưa tới tình trạng phân ly, vị kỷ, cố chấp mà không thấy được chân lý “Vạn vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu Phật tính”, “Ta là Người, Người là Ta, bình đẳng vô phân biệt và vô sai biệt”. Người giác ngộ sống với lý Bất Nhị, thấy rõ thực tướng của các pháp đều Không, Vô tướng, Vô tác, thấy rõ tính cách ảo ảnh phù du của ý thức và giác quan là đầu mối của vô minh, đã bóp méo và cắt xén thực tại, làm cho con người bị mù quáng và khổ đau, và thấy được tính cách trong sáng của sự vật ở đời, khi đã từ bỏ được nhận thức thiên lệch để thấu triệt được thực tại phổ quát, đại đồng, và khi ấy thì phá được hàng rào ngăn cách Chủ và Khách, Tâm và Cảnh để không còn yêu ghét, khổ đau nữa. Muốn tiến tới điểm đó thì không thể đi theo đường lối của Lý trí suy luận, phân biệt và phải bằng trực giác tâm linh và Đức Tin lành mạnh, tức là bằng Thiền quán và Niệm Phật, Chính mê vọng tạo ra cảm giác, nguồn gốc của khổ đau, đưa tới ác tưởng và hành động sai lầm. Đó là mục đích mà Phật ra đời để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập vào tri kiến Phật của mình và thấy được Thực tại toàn chân.

Mục 2: Hư vô chủ nghĩa.

Thà nghiêng về phía chấp Có, khẳng định có Đức Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc, rồi thành kính tin tưởng vào Tha lực và chuyên cần niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cầu mong tha thiết được đới nghiệp vãng sinh về quốc độ của Ngài, còn hơn là ngả về phía chấp Không, phủ nhận cõi Tịnh độ Tây phương, chẳng chịu chăm lo gieo nhân lành, vun trồng cội đức, không tin có Tha lực để rồi chẳng chịu khó niệm Phật, mất Tín Tâm thành người vô đạo.

Lý “Đệ Nhất nghĩa Không” hay “Nhất thiết giai Không”, trên mặt bản thể của đạo, và thuyết “Tất cả mọi sự vật đều thực hữu trên mặt hiện tượng” là hai bộ mặt của một Thực tại toàn diện gồm đủ cả Tính lẫn Tướng, Thể và Dụng. Sống trong thế gian dù biết là mê vọng, giả dối, nhưng ta vẫn phải sống hết mình, làm tròn sứ mạng của ta, để cuộc đời mình được thăng hoa tiến bộ về mọi mặt. Ta không thể khư khư ôm giữ mãi lý “Không” trong giấc ngủ mê man siêu hình, hoặc khoanh tay ngồi nhìn thiên hạ, sống ngoài vòng cương toả, mà phải tích cực hoạt động làm lợi ích cho đời, có như thế mới hiểu rõ mối liên hệ mật thiết giữa pháp Không và pháp Có, giữa Tuyệt đối và Tương đối, giữa Chân Ngã và Giả Ngã, giữa Phật thừa và Nhân thừa.

Câu nói: “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ” có nghĩa là ngoài bản tính của ta thì không có Phật A Di Đà, và ngoài tâm mình thì không có cõi Tịnh độ. Đó là trạng thái tuyệt đối của bản thể Chân Tâm khi đã chứng ngộ được lý “Chân Không Diệu Hữu”. Đây là cảnh giới hư vô tịch tĩnh của bậc chân nhân khi đã phá vỡ được xiềng xích của Ngã chấp và Pháp chấp. Đối với người thường, còn phải dầy công tu luyện khi chưa đạt tới bậc thang đó, còn phải tập đi lần từng bước ngắn và thấp cho khỏi vấp ngã, dựa vào Tướng, Dụng của các pháp phương tiện để thân chứng được “Đệ Nhất nghĩa Không”. Nếu chẳng tự lượng sức mình, cứ nhắm mắt bắt chước những bậc thượng căn, học đòi hành theo lý “Đệ nhất nghĩa không” ngay từ lúc mới chập chững bước vào cửa đạo là một việc làm tối nguy hiểm. Bởi vì hành động của người đạt đạo đã chứng “Đệ nhất nghĩa Không” là hành động của người theo lý “Tri hành hợp nhất”, còn đối với kẻ chưa am hiểu lý “Đệ nhất nghĩa Không”, cái gì cũng cho là không cả, ngả theo Hư vô chủ nghĩa, thì chẳng khác nào người khờ dại, phải lội qua sông khi chưa biết bơi đã vội phá huỷ cây cầu nối liền hai bờ, hay không chịu dùng thuyền bè để qua sông. Khi ta còn ở trong vòng tương đối, chưa ngộ được lý “Đệ nhất nghĩa Không”, thì còn phải dựa vào sắc tướng, nương vào âm thanh để tiến tu từng bước đầu. Mỗi bậc tu có những quả sở đắc riêng, nếu công phu nội chứng của hành giả chưa đạt tới trình độ chín muồi thì không thể bảo rằng: Tâm Cảnh đều không, năng sở đều tịch, do đó cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà  là những đối tượng cần thiết để nương tựa mà tiến tu cho tới giải thoát cứu cánh. Chỉ khi nào triệt thấu được chân tướng của các pháp là Phi hữu, Phi vô, diệc hữu diệc vô, mới khỏi bị mắc kẹt vào gọng kìm Có, Không của thế tục, nghĩa là không còn ở trạng thái “hiệp giác bội trần”, cũng chẳng “hiệp trần bội giác”. Pháp Có chẳng ràng buộc nổi mình nên không còn bị phiền não quấy rối, mà pháp Không cũng chẳng lôi kéo nổi ta, do đó mới ung dung thành tựu được mọi lợi ích cho đời. Người chấp Hữu có thể dùng môn thuốc “Không” để trị cho lành bệnh, còn người chấp Vô, lạc vào Hư vô chủ nghĩa thì nguy hiểm vô cùng, vì đó là một chứng bệnh nan y khó chữa. Trong lục độ ba la mật thì Trí Bát nhã là phần cốt tuỷ cần phải đạt tới mới mong được giải thoát. Lý Bát Nhã Chân Không là một liều tiên dược đối với ai thiên về sự tướng, nhưng lại là một liều độc dược giết người đối với ai không biết cách sử dụng nó. Tỷ như người hành đạo mà coi thường giới luật, cứ sát sinh, uống rượu, ăn thịt, nói năng bừa bãi, rồi viện lẽ “nhất thiết giai không” để biện minh cho việc làm càn bậy của mình thì phải đoạ địa ngục nhanh như tia chớp. Những ai đã hiểu lý “Chân Không” một cách chân chính, biết buông thả vọng duyên thì tu pháp môn nào cũng đạt tới “Tam Luân Không tịch”, phá được Ngã và Ngã sở, lìa hết các pháp để tới chỗ “Hành vô hành hạnh”, “Tu vô tu tu”, thì lý Bát Nhã quả là Thánh dược lợi ích vô cùng.

* Quan niệm về “Không” biểu thị giá trị siêu việt của thực tại, thoát ly mọi nhận thức chủ quan thiên lệch. Đó cũng là tư tưởng tích cực nhập thế giúp ta không sợ khổ đau để ung dung tiến bước trên đường hành đạo Bồ tát, với đôi giày Nhẫn nhục và Tinh tiến. Nhưng muốn đạt tới Chân Không là bản thể của các pháp người học đạo phải băng qua chặng đường dài chấp Hữu, cũng như muốn đạt tới địa vị Vô học, phải học đủ các pháp môn, nghiên cứu đủ Tam tạng kinh điển để không còn gì phải học nữa, rồi dùng pháp Xả để tùng Tướng nhập Tính. Nhờ quán tưởng và Thiền định lâu ngày, nhờ tư duy sâu sắc người tu hành thấy rằng, dù ở nội tâm hay ở ngoại cảnh, không có cái gì trường tồn vĩnh cửu, bất biến, cũng không có tự ngã trong mọi dòng hiện tướng, do đó người tu loại bỏ được mọi khuynh hướng ích kỷ, tham luyến, đắm say, sống với toàn thể vũ trụ bằng trái tim tràn đầy tình thương bao la, không tham sống, không sợ chết, vui vẻ đợi sự giải thoát đến với mình để tiếp tục một cuộc sống tươi đẹp hơn ở kiếp sau.

Mục 3: Tri phải Hành

Biết tức là Hành, Hành tức là Biết. Biết cặn kẽ đến ngọn nguồn tức là Giác ngộ. Giác ngộ và Hành động triệt để theo sự hiểu biết viên mãn của mình tức là thành Phật.

Phật học và khoa học giống nhau ở điểm chung là Tri Hành hợp nhất. Sau khi hiểu rõ lý thuyết thì nhà khoa học đi ngay vào thực nghiệm, cũng như người học Phật đem giáo lý Phật dạy ra thực hành ở đời.

Không bao giờ có Tri lại thiếu Hành vì đạo Phật là một đạo thực tiễn, không ưa lý luận suông, nhất là đối với pháp môn Tịnh độ. Bản ý của Phật là muốn cho chúng sinh thoát khổ được vui nên Phật mới dùng phương tiện niệm Phật A Di Đà để chúng sinh gieo những hạt giống tốt lành vào tâm hồn của mình, cốt để an tâm dưỡng tính diệt trừ mầm ác cho tâm trở nên thanh tịnh an vui. Không cần xét xem Có hay Không có cõi Tây phương Cực lạc rồi mới niệm Phật A Di Đà, bởi vì biết như vậy chẳng lợi ích gì, mà còn làm mất thời giờ dùng để niệm Phật và giảm Tín Tâm cần phải nuôi dưỡng để mỗi ngày thêm vững mạnh hơn chỉ cần niệm Phật cho chuyên, cho thuần là đủ, rồi kết quả đạt được, tuỳ ý muốn của hành giả, hoặc được tâm thanh tịnh ở hiện tại, hoặc được về thế giới Cực lạc Tây phương trong vị lai, đều diệt trừ được phiền não, tâm được tự tại cả. Vấn đề Tịnh độ, Niết bàn, Chân tâm, Phật tính thuộc về bản thể siêu hình chỉ cảm thấy mà không thể chỉ bày hay lý giải bằng giác quan, ngôn ngữ của người thế gian mà phải thể nghiệm bằng trực giác và chấp nhận bằng đức Tin tuyệt đối. Tuy không thể chỉ bày những thứ đó bằng mắt bằng tay được, bởi vì chúng không có sắc tướng, nhưng đó lại là một thực thể thường hằng, hiện diện khắp không gian và thời gian. Khi nào Chân Tâm hiển lộ thì Phật A Di Đà mới xuất hiện tại tâm. Đức A Di Đà mà ta thấy được là Phật của tâm ta, do đó mới bảo là Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ. Khi nói đến duy tâm, tự tính thì phải hiểu đó là chân tâm thanh tịnh và Phật tính sáng suốt bất sinh bất diệt của mình, không phải là cái tâm tà vọng bất tịnh, giả hợp, giả hoại của ta. Cầu được thấy Đức Phật kia tức là cầu được thấy chân tâm, tự tính của mình. Mong được vãng sinh Cực lạc thế giới tức là mong được thấy những đức tính thanh cao quý báu của ta. Đó là ý nghĩa câu kinh “Tức Tâm tức Phật” và “Tức thân thành Phật”.

Vấn đề Có hay Không có Phật A Di Đà và cõi Tây phương Cực lạc chỉ là nghi vấn của hạng người sơ cơ thiên về Lý bỏ Sự, tín tâm không vững, hoặc của những học giả mang tâm phân biệt, nhị nguyên, chỉ muốn thoả mãn tính đa nghi mà thôi, chứ đối với bậc tu hành chân chính đã luyện được tâm bình đẳng, Bất nhị, thì càng đi sâu vào đường đạo lại càng gột rửa được tâm phân biệt nhị nguyên bấy nhiêu. Những ai đã đi sâu vào đạo lý thì tín tâm sáng suốt vững mạnh, hết lòng tin lời Phật dạy và họ hiểu rằng Phật không bao giờ nói sai lời, dối gạt ai bao giờ và mọi thắc mắc, hoài nghi đều có hại cho đức tin. Do đó ta thấy những bậc tu chứng cao, những vị cao Tăng thạc đức chưa từng vị nào thắc mắc hoài nghi về vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu của Phật A Di Đà cả. Chắc hẳn các Ngài không muốn gieo mối hoài nghi có hại, thoái chuyển những người mới vào đạo, tín tâm chưa vững. Các Ngài dạy rằng: hãy cứ Tin Sâu, Nguyện thiết và Niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn, rồi muốn cầu gì cũng sẽ được toại nguyện. Đó là một lời dạy bảo thiết thực đầy ý nghĩa: Tri Hành hợp nhất mới được giác ngộ, giải thoát thành Phật.

CHƯƠNG 7: NHẬN ĐỊNH VỀ NGHI VẤN: LỜI PHẬT VÀ LỜI TỔ DẠY CÓ MÂU THUẪN NHAU KHÔNG ?

Phật dạy: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Phật lại dạy: “Y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh”. Người học đạo, khi đọc tụng kinh điển phải hiểu ý Phật muốn dạy gì qua lời kinh. Muốn khỏi hiểu lầm Phật, phải xét xem Phật đã đứng về phía tục đế của quảng đại quần chúng trong thế giới lưỡng nguyên tương đối đầy phân biệt và sai biệt, hay đứng về phía Chân đế trong thế giới bình đẳng nhất nguyên vô sai biệt và vô phân biệt. Khi Phật thuyết về Viên giáo hay Chân lý tuyệt đối, Không hai thì bao nhiêu cặp mâu thuẫn trên thế gian này đều bình đẳng như nhau: Phật, Chúng sinh, Niết bàn, Ta bà…, bao nhiêu những pháp phương tiện đều chỉ có giá trị phù du, ảo ảnh. Có khi Phật dùng ngôn thuyết pháp, lấy những vật hữu hình để dẫn dắt chúng sinh thâm nhập vào thế giới vô hình của Chân Không. Lại có khi Phật dùng vô ngôn hay tâm truyền tâm để đi vào đạo. Đối với từng hạng người, căn cơ cao thấp khác nhau, tính tình uỷ mị, sắt đá bất đồng, Phật tuỳ nghi nói pháp để trả lời lúc Có, lúc Không về cùng một vấn đề. Có hiểu được lời nói của Phật mới mong thoát khỏi mắc vào sai lầm đáng tiếc.

Một buổi, một đệ tử hỏi Phật về vấn đề Có hay Không có Niết bàn ? Phật đáp: “Không có Niết bàn, cũng chẳng có sinh, tử nốt”.

Thấy vậy, người đệ tử sửng sốt hỏi tiếp:

– Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy thì trì giới tu Thiền, giữ gìn phạm hạnh và cầu được tri kiến Phật, chẳng có chút lợi ích gì sao ?

Lúc đó Phạm Thiên Vương lên tiếng đáp thay Phật, và nói:

– Này! Thiện nam tử, kẻ ngu muội muốn lẫn tránh hư không, chạy khắp Đông, Tây, Nam, Bắc và bốn phương bàng đâu đâu cũng gặp hư không. Còn người đi tìm hư không mà chẳng biết hình tướng của hư không ra sao chạy lùng khắp nơi mà chẳng thấy hư không đâu cả, rốt cuộc chỉ tốn công vô ích.

Kẻ cầu Niết bàn cũng vậy. Người ấy hàng ngày thường sống trong Niết bàn mà chẳng biết Niết bàn ở đâu cả. Họ thường sống ở trong Niết bàn mà không biết Chân Thể của Niết bàn ra sao. Bởi thương chúng sinh phải sống trong trần lao sinh tử nên Phật Thích Ca mới chỉ cảnh giới Cực lạc Tây phương để đối lại với cảnh giới Ta bà, mong gợi lòng ham thích được sống ở nơi hạnh phúc yên vui mà chán ghét cõi khổ đau này. Nhưng muốn được sinh về cõi Cực lạc Tây phương phải đâu dễ dàng mà cần phải có đủ ba điều kiện là Tín, Nguyện, và Hành, nghĩa là phải Tin lời Phật dạy, phải thiết tha cầu nguyện được về nơi này và phải nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tức là phải tự mình gắng sức đem những chủng tử lành gieo vào A lại da thức làm cho tâm mình dần dần trong sạch. Ta nên hiểu mật ý của Phật ở đây là muốn thấy hạnh phúc thì phải tìm ở nội tâm không ở ngoại cảnh, nghĩa là phải diệt trừ tận gốc những dục vọng điên cuồng khiến cho cõi lòng mình được trong sạch, chính đó là Niết bàn, Tịnh độ, nơi tạo ra hạnh phúc chân chính đời đời. Đức Phật Thích Ca đã nhằm về phía quần chúng, phần đông căn cơ thấp kém, không hiểu thế nào là Phật tính, chân tâm, nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về hưởng hạnh phúc, nhưng cõi Cực lạc đâu phải là ở nơi xa lạ, mà chính lại là cái tâm thanh tịnh của mình, và Đức Phật A Di Đà lại chính là Đức Phật của ta, hay chính là ta khi đã giác ngộ.

* Đối với Tổ Huệ Năng thì đối tượng của Ngài khi giảng về vấn đề này lại là những đệ tử, phần đông là Thiền sinh đã hiểu ít nhiều thế nào là Chân Không, Chân Như, Phật tính, nên Tổ mới khuyên họ là phải “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”.

Phương pháp của Tổ Hụê Năng là dạy người đời phải xa lìa đối tượng, từ bỏ quan niệm lưỡng nguyên, đi sâu vào bản thể, sống với lý Bất Nhị, vì theo đó thì phiền não tức Bồ đề, chúng sinh tức Phật, niệm trước còn mê muội là phàm phu, niệm sau giác ngộ liền thành Phật. Niệm trước còn dính cảnh trần thế còn phiền não, niệm sau lìa trần cảnh thành Bồ đề.

Tổ nói: “Tâm con người đã là Phật rồi, còn hồ nghi gì nữa ? Bởi vì kinh Phật có nói: “Tâm sinh chủng chủng pháp sinh. Tâm diệt chủng chủng pháp diệt”. Muốn thành Phật hay muốn có Trí Bát Nhã phải đạt tới chỗ “Nhất hạnh và Nhất tướng Tam muội”. Nếu ở trong bốn oai nghi, bất luận ở đâu và lúc nào cũng giữ cho tâm thuần nhất, không trụ vào đâu cả và thực hành Tịnh độ, như thế gọi là Nhất hạnh và Nhất tướng tam muội. Ngài có làm bài kệ khuyên chúng sinh như sau:

Yêu ghét chẳng quan tâm,

Duỗi dài hai chân nằm.

…Đối cảnh, Tâm nhiễu động,

Bồ đề làm sao lớn ?

Chủ trương của Tổ Hụê Năng khuyên người đời hướng vào nội tâm để thành Phật, nào có gì mâu thuẫn với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn ? Có khác chăng chỉ là ở chỗ Tổ Hụê Năng đã dùng lời nói thẳng để chỉ vào cái đích mà Đức Phật Thích Ca cũng ngầm mong chúng sinh tiến tới, nhưng Phật lại không muốn nói thẳng ra vì sợ có người không hiểu, hoặc hiểu mà lại ngại khó không dám theo. Vì thế mà Phật đã phải dùng những pháp quyền để chỉ thực, “dĩ huyễn độ chân”, nhằm vào cái tâm đầy ngã dục của người không hiểu thế nào là Phật tính, chân tâm nên Ngài mới khuyên chúng sinh nên hướng về cõi Cực lạc cầu Phật A Di Đà để được hưởng hạnh phúc tuyệt vời ở Tây phương, cách xa cõi trần hàng vạn ức Phật độ, ai muốn được sinh về nơi ấy thì phải dốc lòng tin, cầu nguyện được về cõi đó, và cố gắng niệm Phật A Di Đà, sẽ được Ngài phóng quang tiếp dẫn. Thực ra theo lý Bất nhị thì cõi Tây phương Cực lạc chỉ là tâm của người giác ngộ và Phật A Di Đà chỉ là Phật ở trong tâm của người đó thôi.

Tổ Huệ Năng khi nêu lên thuyết “kiến tính thành Phật” chẳng hề có bài bác tín ngưỡng của môn phái Tịnh độ, cũng chẳng hề có ý muốn đề cao Thiền tông tối thượng thừa và hạ thấp môn phái Tịnh độ do Thích Ca đề xướng, chẳng qua chỉ muốn thức tỉnh những ai quá thiên về Sự trụ tâm vào hình tướng Phật và cảnh Cực lạc mà quên hẳn tâm mình chính là Tâm Phật và tính mình là Phật tính, vì thế mà không hiểu được ý nghĩa lời Phật dạy, chỉ biết niệm Phật cầu vãng sinh mà chẳng biết vãn hồi Phật tính, không biết minh tâm kiến tính để thấy Phật tại tâm mình.

* Vậy “Kiến tính” là gì ? Kiến là nhìn thẳng. Tính là cái tính thấy biết của mình. Kiến tính là nhìn thẳng vào lòng mình. Đó là phương pháp “hồi quang phản bản” hay “Nội quán” để quan sát tự tâm, dùng toàn lực tinh thần (lý trí và tình cảm) làm đối tượng cho ý thức của mình. Bởi vì những hiện tượng tâm lý có tính cách chủ quan, ngoài mình ra không ai thấy được nên sự thấy biết ở đây phải là trực tiếp, không bằng căn trần, giác quan hay suy luận, mà bằng Tụê nhãn của chân tâm. Muốn thấy Phật tính của mình cần phải thấy bản tính hay cái tính bẩm sinh thanh tịnh trong con người mình bấy lâu bị vô minh tà kiến phiền não và sở tri làm chướng ngại, nay được sáng tỏ tức thời. Sự trực giác đó không đến lần lần và tuần tự trong suy tư phân biệt. Từ chỗ trực ngộ đó, ta có một nhãn quan đổi mới hẳn cuộc đời mình, làm cho ta xử kỷ tiếp vật theo đúng chân lý. Nhìn thẳng vào lòng mình thì lòng mình là đối tượng và tính thấy biết của mình là chủ thể. Ta tự đối diện với ta. Ta soi vào gương lòng để nhìn thấy rõ bộ mặt thật xưa nay của mình, hay thấy rõ lương tâm ta. Lúc đó thì Năng Sở, Chủ Khách, Tâm Cảnh, người hát và kẻ nghe hát chỉ là một. Khi ta nhìn thẳng vào lòng mình, lắng đọng mọi suy tư, không để cho vọng niệm buồn, thương, yêu, ghét dấy lên, ta chợt nhận thấy tính mình là tính Phật, và bộ mặt xưa nay của ta cùng với sắc diện quang minh của Phật không khác. Rất tiếc là xưa nay chúng ta vẫn quen phóng luồng nhãn quang ra phía ngoài để ngó cảnh vật mà không hướng nó về phía nội tâm. Ta mải đuổi theo những hiện tượng bên ngoài mà quên mất Đức Phật vẫn ngự trị trong lòng mình. Điều quan trọng là phải biết trở về Giác tính hay Tự tính Di Đà của mình. Lấy trí tuệ để soi sáng sự vật mà không phải mượn nguồn ánh sáng hay bàn tay nào để soi hộ mình cả. Phải cầm đuốc mà soi đường đời hay đường đạo mà đi. Đó là giác ngộ tại tâm hay trở về với bản tính thanh tịnh của ta. Đó là Trực giác Đốn ngộ, nhờ tự lực quán chiếu. Khác hẳn lối tìm sự giác ngộ ở ngoài tâm hay Tiệm ngộ, nhờ vào Tha lực và sùng tín. Muốn Kiến tính phải làm bừng sáng cái đức sáng sẵn có của mình, hay cái Tính năng biết của ta, và nhìn đời trực tiếp theo nghĩa Kiến ( ) chứ không gián tiếp theo nghĩa chữ Thị ( ) mang đầy tính chất phân biệt, thị phi. Đó là phương pháp tu để được giải thoát rốt ráo, trong một Sát na, trừ sạch các vọng niệm và làm bừng sáng cái tâm Chân Như vô sở trụ và vô sở đắc, hay làm hiển lộ Trí Bát nhã của mình.

* Tâm con người tựa như biển cả, nổi sóng không ngừng, khó bề Kiến tính để thấy được Tự Tính Phật hay Chân Tâm của ta. Muốn Kiến tính phải Định Tâm an thần bằng sức mạnh tập trung của ý chí vào nội giới, không để cho ý thức buông lung phóng ra ngoài và phân tán năng lực tinh thần qua cửa ngõ của các giác quan. Sự chuyển hướng luồng nhãn quang từ ngoài vào trong là cả một công phu tu luyện lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi phải có sự quyết tâm của hành giả để tự thắng mình.

Khi ta suy nghĩ, ta biết lần hồi theo đà của suy luận. Cái biết đó là tiệm biết. Khi ta Thấy (Kiến    ) ta thấy rõ tất cả trong một sát na bừng sáng, hoặc chẳng thấy gì, chứ không thể thấy lần hồi được. Cái Thấy đó là thấy Đốn. Tổ Hụê Năng dạy phương pháp “Kiến tính thành Phật”, tức là nhắm vào cái Thấy đó. Đối với Lục Tổ thì: hoặc là thành Phật hẳn, hoặc là không thành Phật, chứ không thể có việc thành Phật lần hồi, mỗi ngày một chút theo lối cải thiện hay Tiệm tu. Với Kiến tính thì Lý chẳng ngoài tâm, Lý là Sở ngộ mà tâm là Năng ngộ (Kiến phần) và Phật sở ngộ (Tướng phần) là một. Giác ngộ là thấy rõ chân tướng của sự sống chết trong thực tế, ở ngay lúc hiện tiền và ngay đây chứ không phải đâu xa và trong tương lai. Cõi Tịnh độ ở tâm của người giác ngộ không còn phân biệt nhân ngã, tâm cảnh nữa, tức là ở trạng thái sinh hoạt bình thường ngay tại đây và ngay lúc này, ý thức được rõ ràng công việc của mình đang làm, tức là ở trạng thái chính niệm vậy.

* Để giúp các đệ tử đả thông tư tưởng về Phật tính hay Tri kiến Phật của mình, các Tổ Sư Thiền thường dùng câu thoại đầu: “Bính Đinh đồng tử lai cầu hoả” (Bính, Đinh là hai cung Hoả trong Tử vi). Ý muốn nói: Thần lửa lại còn đi xin lửa, để chế diễu những ai còn si mê, lòng đầy tự ty, tự khinh mình không có khả năng thành Phật.

Cũng như người cầu đạo cứ cầu xin người khác chỉ đạo cho mình, chẳng ngờ mình đã sẵn có đạo nơi mình rồi, mình đã có Phật tại tâm, còn đi kiếm Phật ở nơi khác.

* Trong Thiên Chúa giáo cũng có câu mang ý nghĩa tương tự: “Đạo ở bên ngươi. Đạo ở trong miệng và trong lòng ngươi, để ngươi có thể đem nó ra mà thực hiện…” (…Car la Parole est tout près de toi pourque tu la mettes en pratique… (Bible de Jérusalem).

* Và theo quan niệm của Nho gia Trình Y Xuyên thì người quân tử hành đạo phải thực hành cho được mục tiêu sau đây: Không phải là truyền đạo trời cho người, mà là truyền đạo của lòng mình cho người. Cũng không phải là truyền đạo của lòng mình cho người mà là truyền đạo của lòng người cho người”. Có nghĩa là phải khai mở đạo tâm hay chỉ bày Tri kiến Phật hoặc Phật tính sẵn có nơi mỗi cá nhân để cho ai nấy đều thấy rõ mình là Phật sẽ thành, mình là Phật đang thành.

* Mỗi chúng ta đều có hạt Như ý bảo châu tức là Phật tính hay Tri kiến Phật, một kho tàng vô giá mà ta không biết khai thác. Muốn tìm Phật hay cõi Tịnh độ phải biết tìm trong đáy lòng mình, bởi vì:

Liên Tâm đã sẵn trong đầu

Niết bàn chớ có tìm đâu ngoài lòng.

(B.S. Nguyễn Văn Thọ)

Để diễn tả cái ý Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật, trong vườn hoa Thiền có bài thơ truyền tụng như sau:

Tùng hạ vấn đồng tử

Ngôn: Sư thệ dược khứ

Chỉ tại thử sơn trung

Vân thâm bất kiến xứ.

(Dịch: Dưới gốc tùng hỏi đồng tử. Đồng tử thưa: Thầy tôi nói là đi hái thuốc. Chỉ quanh quẩn núi này mà thôi, nhưng bởi mây phủ nên không thấy). Đại ý nói: Chúng sinh đi tìm Phật. Phật chẳng ở đâu xa, chỉ ở ngay tâm mình, nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp chân tâm nên không thấy mà thôi. Phải tìm sự giải thoát ở ngay cái hiện hữu, không ngoài sự vật ở thế gian, và đạo là Tự nhiên hay tâm bình thường vậy. Người hành đạo phải vượt lên trên cái bình thường tương đối để tới cái Phi thường tuyệt đối, nhưng khi đã đạt tới đó rồi, lại phải từ nơi tuyệt đối phi thường trở về với cái bình thường tương đối nghĩa là phải tìm cõi Phi thường trong những cái bình thường tìm cái Vô hạn trong những cái Hữu hạn, tìm cõi Tịnh độ ở ngay chốn Ta bà, hay ở ngay trong tâm ta. Đó là cái mà Thiền tông cho là từ trong đạo lý bình thường mà minh tâm kiến tính vậy.

Tổ Huệ Năng dạy:

Phật Pháp tại thế gian,

Bất ly thế gian, giác

Ly thế mịch Bồ đề,

Khắp như cầu thố giác.

Nếu lánh thế gian mà tìm sự giác ngộ thì khác nào đi tìm sừng thỏ, lông rùa khắp nơi ? Với nhãn quan đó thì “thấy” ở đây tức “thấy cái không thể thấy được”. Thấy cái “không thấy” tức là thấy cái Chân tướng Vô tướng, hay Chân Như hoặc Chân Không của vạn pháp.

Cái thấy về thể tính chân tâm vốn vô sinh, cho nên không có sự phát sinh ra cái thấy ấy. “Kiến tính thành Phật” tức là thấy cái chân lý “Không” của mọi sự vật trong trời đất một cách viên mãn tuyệt đối.

* Người đời thường không làm theo những điều mình nói, chỉ ham học hỏi mà biếng nhác việc tu hành, có biết đâu đã có Tịnh độ duy tâm thì phải có Tây phương Cực lạc thế giới, và khi có Di Đà tự tính, tất phải thân chứng được Di Đà Tây phương. Trong khi niệm Phật ta đình chỉ được mọi tạp niệm và thể nhập vào chỗ thâm viễn của tâm thể thì ngay lúc đó ta là Phật A Di Đà và tâm ta là cõi Cực lạc theo lý “Tức thân thành Phật”.

* Pháp môn Tịnh độ viên mãn ở chỗ tỏ ngộ được “Phật khác tức là Phật mình”. Nếu chỉ biết có “Phật mình” thì còn ngã kiến, ngã chấp. Nếu chỉ thấy có “Phật khác”, là còn tha kiến, vọng ngoại. Chấp tha kiến hay chấp ngã kiến, chấp ngoại cảnh hay chấp nội tâm, đều là nhị biên điên đảo. Phải nên hiểu rằng: Phật Di Đà ở Tây phương và Phật Di Đà trong tâm ta không khác, như thế mới là tỏ ngộ câu: “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”, và mới thấy rõ lý: Phải có sự trì danh, cầu Phật khác hiện ra, mới ngộ được lý trì danh, thấy được “Phật mình” hiển lộ. Chính trong lúc ta thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra đón mình là lúc ta thấy Phật mình hiện rõ trong tự tâm.

Tất cả các pháp môn Phật dạy dù thuộc về Tính hay Tướng đều chỉ là phương tiện, giá trị ngang nhau, nghiêng về phía nào cũng đều có hại. Lối tu không thấp, không cao, mau, chậm. Sự sai biệt do công phu của người hành trì, tinh tiến chuyên cần hay biếng nhác giải đãi mà thôi. Có những người thiên về Lý mà xao lãng công phu niệm Phật, bởi họ đã lầm lẫn Chân đế với Tục đế, không phân biệt được Dụng với Thể, Tương đối với Tuyệt đối, còn đang lẽo đẽo trên đường tu và đã muốn tới ngay nơi cứu cánh giải thoát rồi. Họ có biết đâu rằng: học đạo cần phải dầy công thực tu thực chứng, qua nhiều giai đoạn trong Tục đế mới chứng được Chân đế, chứ đâu phải là công việc dễ dàng.

Trong Kinh Kim Cương, Phật dạy ông Tu Bồ Đề:

Nhược dĩ sắc kiến ngã,

Dĩ âm thanh cầu ngã,

Thị nhân hành tà đạo,

Bất năng kiến Như Lai.

… “Như Lai giả, vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”, và “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”… “Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Rồi Phật lại dạy tiếp ông Tu Bồ Đề trong tiết “Vô đoạn vô diệt” của Kinh Kim Cương: “Ông đừng tưởng rằng Như Lai không dùng sắc tướng để cầu đạo quả Vô thượng Bồ đề bởi vì nếu khởi ra ý nghĩ đó tức là coi các pháp đều đoạn diệt cả”, và trong bài Chú Bát Nhã Tâm Kinh cũng có câu: “Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố” nhưng liền ngay đấy Phật lại dạy: “Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa. Đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề”. Qua những câu kinh trên, ta thấy ngay rằng: người tu cần phải trải qua nhiều giai đoạn chứng ngộ liên tiếp trong Tục đế, dựa vào hình, danh, sắc, tướng của các pháp phương tiện trong hiện tượng giới để lần hồi, tòng tướng nhập tánh, đem Dụng vào Thể, từ tương đối tiến đến tuyệt đối, tới nơi không còn gì để chứng ngộ nữa, như thế mới thật là chứng ngộ.

Mục 4: Chân đế và Tục đế.

Lời Phật dạy trong các kinh điển thường mang hai ý nghĩa: nghĩa bóng và nghĩa đen, nghĩa sâu và nghĩa cạn, còn gọi là Chân đế (Thắng nghĩa đế) và Tục đế. Tương đương với hai thứ hiểu biết, giác ngộ hoặc hai nền chân lý Tuyệt đối và Tương đối của thế gian.

Người Phật tử tuy sống trong tương đối song phải biết hướng về Tuyệt đối để tâm được thanh cao, thoát khỏi tầm thường vị kỷ và tìm hạnh phúc chân thật ở nơi tâm hồn an lạc, vị tha, siêu thoát.

a) Tục đế. Có thứ giác ngộ gián tiếp của trí thức là tập, hay cái thấy biết của hạng người “học nhi tri chi”, do tiệm tu, dùng tinh tiến, nhẫn nại, gom góp tư lương qua nhiều kiếp tu tập, tuy đó chưa phải là giác ngộ hoàn toàn nhưng cũng không phải là vô giá trị.

Thứ hiểu biết này đưa tới chân lý tương đối hay Tục đế của hạng người căn cơ từ bậc trung trở xuống, và phân làm ba loại:

1.- Khẳng định về sự thực hữu của mọi sự vật trong hiện tượng giới.

2.- Khẳng định về cả Hữu lẫn Vô.

3.- Không khẳng định cũng không phủ định cả Hữu lẫn Vô.

b) Chân đế – Có thứ hiểu biết trực tiếp do Đốn ngộ mà được. Đó là thứ giác ngộ hay hiểu biết của hàng vô sư tự ngộ, hay của bậc “Sinh nhi tri chi”. Nếu cái biết trên (tục đế) còn khiếm khuyết thì cái biết dưới (chân đế) hoàn toàn viên mãn của Bát Nhã trí có giá trị siêu việt đưa tới chân lý tuyệt đối. Cái biết mà không tự nó sinh ra tất cả phải nhờ con đường Tha lực của tín ngưỡng hay hành động cầu phúc để đi tới dần dần từng bước, và khi Tuệ giác đã bừng thức tỉnh thì tín ngưỡng lùi bước, nhường chỗ cho Tuệ giác viên chiếu. Tín ngưỡng và cầu phúc được ví như cái chốt điện dùng để bật cho sáng. Khi đã có ánh sáng điện rồi thì chốt điện không cần đến nữa, cũng như đã giác ngộ thành Phật thì mọi pháp phương tiện đều trở thành vô ích. Việc học Phật, lúc đầu còn phải dùng đến tín ngưỡng để đưa tới chỗ hiểu biết tầm thường chưa chính xác, lấy cái giả Trí. Tâm còn mang nặng phân biệt ta và người, tâm và cảnh, yêu và ghét, ác và thiện, có và không… trong thế giới lưỡng nguyên tương đối. Muốn đạt tới Chân trí hay Giác ngộ hoàn toàn thì Tín chưa đủ mà còn cần phải có thực nghiệm tâm linh bằng công phu Thiền quán nữa, và ở trong đó thì chủ thể đồng nhất với đối tượng. Tâm và vật, hữu và vô chỉ là một. Bản thể đồng nhất ấy vừa tiềm tàng trong hiện thực, lại vừa siêu lên trên hiện thực. Giác ngộ bằng đường lối trực giác tâm linh đưa tới nền chân lý tuyệt đối hay Chân đế, ở đó có ba bậc:

1.- Khẳng định về Vô Hữu.

2.- Phủ định cả Hữu lẫn Vô.

3.- Không không khẳng định và không không phủ định cả Hữu lẫn Vô.

Ở bậc thấp thì Hữu thuộc về Chân lý Tương đối và Vô thuộc về Chân lý tuyệt đối.

Ở bậc trung cả Hữu lần Vô đều là Chân lý Tương đối. Phi Hữu, phi Vô, diệc Hữu diệc Vô thuộc về Chân lý Tuyệt đối.

Ở bậc cao hơn thì Nhị nguyên hay Nhất nguyên cực đoan đều là Chân lý Tương đối, mà không phải là Nhị nguyên, cũng không phải là Nhất nguyên mới là Chân lý Tuyệt đối. Nhận Sinh Tử và Niết bàn đều thật có là rơi vào cực đoan Tương đối hay Tục đế. Phủ nhận cả hai quan niệm Chân đế và Tục đế. Niết bàn và Sinh Tử là ở trong Chân lý Tuyệt đối của Trung đạo. Nhưng cả hai đều Có và Không. Tục đế và Chân đế là cực đoan, cần phải xa lìa, nếu ta còn chấp vào đó, mà ngay cả quãng giữa (Trung đạo) cũng cần phải xả ly nốt, bởi vì lý Trung đạo còn ở trong thế giới của ý niệm và danh từ. Ý niệm về Trung đạo sở dĩ Có vì ý niệm về Có và Không, hai cực đoan phải tránh, như vậy thì Trung đạo, chưa phải Tuyệt đối cao. Đã là ý niệm thì chưa phải là Tuyệt đối vì Chân lý Tuyệt đối tối cao ở ngoài vòng của ý niệm, Chân lý tối cao hay Trung đạo mà không có ý niệm được thì cũng không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, văn tự được.

c ) Tương đối và Tuyệt đối.

Nếu bảo rằng thế giới hiện tượng không có thì quả là không đúng, bởi vì những giác quan của ta không cho phép ta chấp nhận một nhận thức như vậy. Theo lý Tuyệt đối thì vạn hữu đều không thật có, hay đều giả cả, nhưng theo lý Tương đối và mối tương quan giữa vật này và vật kia thì vạn hữu đều có, bởi lẽ hiện tượng giới sờ sờ ngay trước mắt ta, song nó lại chẳng trường tồn, bất biến mà chỉ là giả tướng sinh diệt từng sát na đổi thay thất thường, không có tính cá biệt bền vững. Thế giới hiện tượng biến động ảo ảnh phù du là do thế giới tính bản thể Chân Không tạo ra. Chừng nào mà ta chưa nhập được vào bản thể chung của mọi sự mọi vật thì những giả tướng ấy vẫn còn là cảnh thật tương đối trong đó có ta, có người, vật nọ vật kia hiện ra trước giác quan của mình. Thực tại (hay Chân lý) có hai thứ: ở thể tĩnh và ở thể động. Thực tại ở thể tĩnh bị đóng khung trong không gian và thời gian, không phổ cập được cho mọi loài, không thể áp dụng cho mọi trường hợp được. Thực tại ở thể động, trái lại có tính cách khách quan, đồng nhất, có thể áp dụng cho mọi loại, mọi nơi. Nếu nền đạo đức, luân lý ở Tây phương thuộc về Thực tại ở thể tĩnh, thì đạo Phật Đông phương lại thuộc về Thực tại ở thể động. Nói cách khác thì ở Tây phương, nền đạo đức luân lý còn ở trong tương đối, nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương nó lại hướng về viễn đích tuyệt đối, tối thượng. Tuy quan niệm về Thiện, Ác đối với cả Đông lẫn Tây đều như nhau trong tương đối, nhưng ở Phật giáo thì cái Thiện không đứng nguyên một chỗ mà nó lại tiến lên mãi mãi. Cái thiện không tĩnh ở chỗ phát khởi mà lại ở đích nhắm tới, mà đích này lại không ở yên một chỗ, nó càng ngày càng xa tuỳ theo mức độ không có trong thế giới tương đối mà chỉ có trong thế giới tuyệt đối của chư Phật. Cái Thiện của loài người thuộc về bất cứ ngôn ngữ, địa phương nào, cũng chỉ là cái Thiện trong phạm vi tương đối mà thôi. Nó được mệnh danh là “tình trạng khả quan hơn trước”, trong khi cái Ác được gọi là “tình trạng tồi tệ hơn xưa” vì trong ngôn ngữ của loài người không có danh từ “Toàn thiện, Toàn ác hay Tuyệt đối Thiện, Tuyệt đối Ác”, mà chỉ được gọi là Thiện hơn hay Ác hơn mà thôi. Bởi vậy chúng ta phải tránh cái “Bất thiện hơn trước” và cố gắng thực hiện cho được cái “Thiện hơn xưa”. Không có một thế giới khách quan ở ngoài thế giới chủ quan do tâm ta tạo ra, do đó những hành động và phản ứng đều diễn ra trong cái thế giới chủ quan ấy. Những việc thiện hay ác mà ta tưởng đã thi thố đối với người khác, thực ra chính chúng đã gây nghiệp quả cho ta, cũng như khi ngậm máu phun người thì miệng mình bị dơ bẩn trước. Khi làm xong một việc ác để hòng hại ai và để thoả mãn lòng ích kỷ hay thù hận của mình, ta đã hành động thực sai lầm, bởi đã quan niệm lệch lạc về Chân Ngã và Giả Ngã. Ban thưởng cho một việc làm Thiện không ngoài hành động Thiện ấy, bởi vì sự khen thưởng đã nằm trong việc Thiện đó rồi. Người làm việc Thiện được hưởng ngay quả báo tốt lành do mình đã gieo nhân. Rốt cuộc người đó đã trở thành một người thiện. Hình phạt đối với một việc Ác gắn liền với hành động Ác ấy, vì người gây nghiệp bất thiện với kẻ phải lãnh quả xấu chỉ là một, kết quả là người đó đã trở thành một gã bất thiện và mọi hành động của kẻ ấy đều trở thành ác, nếu y không sớm thay đổi ý nghĩ, chịu hối cải và quay về nẻo thiện.

Mọi sự vật trong thế gian này đều được sinh thành do nhân duyên và tâm tạo vạn hữu, bề ngoài tuy khác nhau về hình tướng, nhưng bên trong lại cùng chung một bản thể là tâm. Căn bản của thực tại không phải là tâm vật, Thể Dụng, siêu nhiên và hiện thực đối nhau trong thể lưỡng nguyên mà là “Nhất Chân Pháp Giới”, được nhìn theo hai khía cạnh: hiện tượng và bản thể hay tương đối và tuyệt đối. Thực tại tối hậu không thể làm đối tượng hoá để được hiểu biết bằng lý trí và tình cảm cho nên phải dung nhiếp các hiện tượng bề ngoài hình như có vẻ mâu thuẫn nhau. Lấy tâm quán tâm để tới Giác ngộ là một việc làm thuần tuý kinh nghiệm bản thân, không ai làm thay ta được. Những ý niệm của chúng ta đối với các vấn đề vũ trụ nhân sinh, dựa trên căn bản nhị nguyên tương đối do biến kế sở chấp mà có, đều là mê vọng ảo huyền. Thực tại tối hậu khác xa Thực tại tương đối hay Tục đế của thế gian, nhờ Thức giác của con người mà đạt được khi Thực tại tối hậu được thấy, nghe, hay biết qua lăng kính của các giác quan của so đo phân biệt. Học đạo cốt để hiểu để thấy và để đừng chấp vào chân lý tương đối do ngôn ngữ, văn tự biểu lộ, mà phải nương theo chân lý diễn tả trong các kinh Phật, coi đó là ngọn hải đăng chỉ đường cho con thuyền lênh đênh trên mặt biển bao la đầy bảo tố và dẫn lối với Chân lý Tuyệt đối. Trong khi còn lần mò đi tìm Chân lý Tuyệt đối, ta có quyền được hoài nghi, vì nghi là lợi khí sắc bén đôi khi giúp ta chóng giác ngộ sự thật. Phật thường khuyên chúng ta đừng nên mù quáng chấp chặt về văn tự và hình tướng bề ngoài mà phải dùng trí óc và công phu quán chiều chân lý để giải mê khai ngộ. Phương pháp học Phật khác lối học cổ điển của Tây phương ở điểm không bao giờ cố chấp, vì sự cố chấp thường che lấp chân lý. Có triệt để phá chấp, mới mong phá tan vô minh diệt trừ vọng tưởng được. Ngã chấp và Pháp chấp, thường bao vây trực giác. Chân lý tuyệt đối phải tìm ở ngoài thế giới hình, danh, sắc, tướng và vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian. Trong A Di Đà Sớ Sao có nói: “Lý viên ngôn thông, ngôn sinh lý tán”. Khi phải dùng đến lời nói, văn tự để diễn tả, mà cho là như vậy có thể đạt tới Chân lý Tuyệt đối thì chắc chắn Chân lý đó bị móp méo, lệch lạc, không còn là Chân lý tròn đầy nữa, vì đã gọi là Chân lý Tuyệt đối thì bản thể của nó vốn thường trụ, chỉ có thể trực nhận mà không thể giải bày được. Muốn trực nhận Chân lý phải là bậc giác ngộ mà tâm trí của vị này đã khai mở để đón nhận chính kiến và chính tư duy, hầu nhìn thấy rõ chân tướng của sự vật. Mong thoát ly thế tục bằng suy tư theo kiểu thế gian thì càng làm cho ta sa lầy thêm vào vũng bùn ngã chấp, pháp chấp, vì khi suy nghĩ thì phải phân tích, mổ xẻ theo lối nhị nguyên, chia cách ta với đối tượng thành hai thế giới riêng biệt, trong khi trực nhận chân lý bằng tâm linh thì ta liền thấy mình thể nhập vào đối tượng thành một khối duy nhất, bất khả phân. Khi ta dồn tất cả sự chú ý của ta vào thế sự để cân nhắc, so đo ta càng bị trói buộc vào cuộc đời với muôn ngàn hiện tượng sai khác, và như vậy ta càng bị vùi sâu vào mớ giả tướng hỗn độn của thế giới tương đối, khó thoát ly ra khỏi. Người thường hay bị phiền não chướng và sở tri chướng ràng buộc và màn vô minh ngăn che cho nên những điều tai nghe mắt thấy hoa đốm nhảy múa lăng xăng trên hư không. Chỉ khi nào hết nghiệp chướng, đạt tới Tụê Bát Nhã mới có được cái Thấy Chân thật hay chính kiến, cái Thấy Chân thật này chỉ có khi nào vào Thiền định hay Niệm Phật với Nhất Tâm nghĩa là phải lắng lòng cho trong sạch, làm im bặt những xôn xao của thất tình lục dục, và đổi hướng luồng nhãn quang xoay ngược vào nội tâm, bắt nó phải đi từ hữu hạn đến vô cùng, từ Ý thức đến Trực giác, từ cá nhân về với đại thể, từ Vàn thù về với Nhất nguyên, từ cái hiện hữu của thế giới hình, danh, sắc, tướng tới cái hư không bao la của Chân thể đại đồng. Đổi hướng như thế cho tới khi nào tâm hồn ta nhập vào cái vô lượng vô biên ở đáy lòng mình và thấy được Tự tính Di Đà của mình, đến nỗi khi trở về với cuộc đời cá nhân chia rẽ, đầy tham luyến dục tình thì người ngộ đạo quên hẳn mối tương quan giữa cái Ta riêng biệt với toàn thể vũ trụ, mà chỉ thấy mình hoà tan vào bao cái Ta khác, bạn cũng như thù. Để giúp chúng sinh đạt tới Chân lý cứu cánh. Đức Phật đã chỉ nhiều đường lối cho chúng sinh noi theo để từ bỏ thế giới nhị nguyên, huyền đồng cùng vũ trụ. Và phương pháp tốt nhất  vì dễ làm và đạt hiểu quả nhất là Niệm Phật A Di Đà đồng thời quán tưởng Phật và cảnh giới Cực lạc Tây phương trang nghiêm. Khi hành giả niệm Phật với Nhất Tâm bất loạn thì không còn thấy đối tượng nào khác ngoài Đức Phật trong tâm mình, hành giả lúc đó nhập vào đạo, sống tự tại an nhiên, thảnh thơi sung sướng trong Cực lạc của tự tâm.

Mục 5: Lý Chân Không Diệu Hữu và lý Trung Đạo.

Nếu bảo rằng có một thế giới tồn tại ngoài tâm là chấp Có, nghĩa là thêm một thực tại vào vật hay làm tăng thêm một cái gì vào thực trạng của vật đó, như vậy là sai ; nhưng nếu lại bảo rằng cả đến ý thức của con người cũng không tồn tại thì đó lại là chấp Không, hay giảm bớt một cái gì ở thực trạng của vật đó, làm mất đi một chút gì đó ở Thực tại thì đó cũng là sai nốt.

Theo thuyết Trung Đạo, Ngài Khuy Cơ đã trình bày trong Thành Duy Thức Luận như sau: “Ly Không Hữu thuyết Duy Thức giáo”. Như vậy ông đã phủ nhận sự thường tồn của mọi sự vật, nhưng lại khẳng định sự tồn tại của ý thức bởi vì “Nhất thiết pháp Duy Thức biến”. Nếu cái “Không” chẳng phải là cái không trống rỗng, và nếu Kinh Bát Nhã chẳng hề thuyết về Hư Vô chủ nghĩa thì tất phải có một cái gì huyền diệu biểu hiện ra thế giới hiện tượng, và cái đó chính là Thức hay Tâm vậy. Cõi Cực lạc không thể tìm thấy ở phương trời Tây mà chỉ thấy được ở sự gạn lọc của tâm thức và chính ở địa bàn này mà ta thực hiện được Tự tính Di Đà. Do đó từ Chân Không hiển bày Diệu Hữư, và người ta thấy Tự Tính Di Đà hay Chân Tâm của mình hiển lộ. Cảnh giới Tịnh độ là cảnh giới tự giác của cái tâm thanh tịnh khi đã Kiến được Tính. Không thể thấy được cảnh giới đó bằng tâm phân biệt nhị nguyên. Sự chứng ngộ đó phải do tâm của hành giả tự chứng lấy bằng nổ lực của ý chí. Ngoài những lời Phật dạy trong các kinh điển thì tất cả những gì cần cho người tu đều đã sẵn có trong lòng mình, đó là Tín, Nguyện và Hành. Muốn đạt tới cảnh giới đó thì phải trị bệnh biếng lười, ngờ vực, do dự, và phải nhất tâm tinh tiến nhẫn nại để thực hiện ước nguyện của mình. Tha lực chỉ đến khi nào tâm ta đã gạn lọc hết nhơ nhiễm và trở nên trong sáng sẵn sàng đón nhận hào quang phóng đi tự Tâm Bi vô lượng của Phật A Di Đà tiếp dẫn ta về cõi Phật, cũng như đoá hoa Ưu đàm nở do tinh anh bên trong phát tiết ra ngoài, hay do sự sung mãn của nội tâm tràn lan ra ngoại cảnh.

* Lục Tổ Huệ Năng khi nêu ra thuyết “Tức Tâm tức Phật” và “Tâm là Tịnh độ” không hề phủ nhận cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà mà chỉ nhằm mục tiêu nhiếp Tướng nhập Tánh, đem Dụng về Thể, để làm sáng tỏ lý “Đệ nhất nghĩa Không” hay cái lý “Chân Không Diệu Hữu” hoặc lý “Bất Nhị” mà thôi. Và theo đó thì tất cả những gì là hình danh sắc tướng đều phải chối bỏ, hết thảy các pháp Hữu vi Vô vi đều giả huyễn, bởi thế mà Niết bàn, Tịnh độ, cho đến cả Chân Tâm, Phật tính, Phật, Bồ tát đều chỉ là những pháp phương tiện hay những ý niệm do tâm sinh ra,và các tư tưởng về chúng sinh, Ta bà, phiền não, trói buộc, an lạc, giải thoát, Niết bàn… đều chỉ có trong mối tương quan tương duyên đối đãi nhau trong thế gian này mà thôi. Cũng bởi lý “Đệ Nhất nghĩa Không” mà đối với người đã vun trồng đức tin thực vững chắc. Tin Phật cũng như tin mình thật sâu xa thì sẽ sống trong lý Bất Nhị và sẽ thấy Tha lực và Tự lực chỉ là một. Cũng ví như vị giáo sư đầy kinh nghiệm về sư phạm, tuỳ theo căn cơ và tính tình của học viên mà dạy dần dần từ dễ đến khó. Phật đã dẫn chúng sinh từ thế giới hiện tượng hữu hình đến thế giới bản thể vô hình của Chân Tâm. Còn Lục Tổ Huệ Năng lại dùng lối đi tắt để mau tới đích, chỉ thẳng vào cái Tự Tính Phật của mình và khuyên hàng đệ tử đã ít nhiều luyện về Pháp tính nên Kiến tính để thành Phật. Như vậy thì Phật Thích Ca và Tổ Huệ Năng, bằng những phương tiện và đường lối khác nhau đã nhắm chung vào một mục tiêu là Thanh tịnh Tâm để giải thoát con người khỏi đau khổ, phiền não, chẳng gì mâu thuẫn nhau cả.

CHƯƠNG 8: NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ, LÝ NIỆM PHẬT.

Tu theo pháp môn Tịnh độ mà đạt tới trạng thái nhất tâm bất loạn có hai đường lối là Sự Nhất Tâm và Lý Nhất Tâm, dựa trên Sự Trì và Lý Trì danh hiệu Phật. Sự trì danh là lối niệm Phật theo hình tướng bề ngoài, đại diện cho Hiển giáo và Thế tục đế. Lý trì danh là lối niệm Phật theo lẽ phải và hành động có suy nghĩ kỹ lưỡng, đại diện cho Mật giáo và Chân đế hay Thắng nghĩa đế. – Sự nhất tâm thì đoạn được phiền não, phá được tư hoặc. – Lý nhất tâm thì khi niệm Phật liền thấy được Phật của mình. Tâm không tà niệm và phá được kiến hoặc. Lý như đôi mắt để coi đường cho khỏi lạc lối, sẩy chân. Sự như đôi chân để bước đi, nhưng nếu không có đôi mắt thì dễ lầm đường lạc lối và dẫm phải chông gai, hay lọt xuống hầm hố. Không có chân để đi thì cứ đứng yên một chỗ mà nhìn, không tiến tới đích được. Sự trì danh là phần hình thức của phái “Duy Danh” hay “Khẩu xưng niệm Phật” (Nominalisme) chỉ đọc danh hiệu Phật mà không cần suy tưởng điều gì lìa bỏ mọi ý thức trong lúc niệm để tâm rỗng lặng như Thiền định. Lý trì danh là phần tinh thần của phái “Duy Niệm” (Conceptualisme) hay phái Quán tưởng niệm Phật đòi hỏi hành giả phải có một ý niệm rõ rệt về Phật A Di Đà. Có triệt thấu nghĩa lý các bộ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ, có hiểu tường tận đức độ của Phật A Di Đà qua 48 lời nguyện của Ngài, có thấu rõ 10 danh hiệu Phật, có thường xuyên chiêm ngưỡng, quán tưởng cảnh Cực lạc Tây phương, mới thiết tha mong cầu về quốc độ của Ngài.

Trong các dòng Tịnh độ lưu hành tại Trung Quốc, các Tổ Tuệ Viễn và Vĩnh Minh Diên Thọ đều chủ trương Quán Niệm (thuộc phái Duy Niệm), còn Tổ Thiện Đạo cùng Đạo Xước, và sau này ở Nhật Bản (1875) có Ngài Genku Hônen, vị Thuỷ tổ của Tịnh độ Chân tông đều chủ trương Duy Danh hay Khẩu Xứng Niệm Phật. Các đệ tử của Ngài Hônen là Shiran Shonin và Khuya Shonin (Không Giả Thượng Nhân) cùng Ippen Shonin (Nhất Biến Thượng Nhân) đều chủ trương đặt hết niềm tin vào Tâm thành. Các vị này cho rằng: Tuy nói là pháp môn Tịnh độ dễ tu, dễ chứng, nhưng cái dễ này chỉ là tương đối với pháp môn Thiền định mà thôi, chứ không phải đến mức độ chỉ tu lấy lệ cũng đạt tới kết quả mong muốn. Bởi vậy, người niệm Phật phải có tâm thành và một lòng tin sắt đá vào việc niệm Phật cầu vãng sinh. Thành Tín đủ để thay thế cho Trí Đức. Chỉ cần niệm Phật cho chuyên vì người dù ngu đần, dốt nát và kém đức đến đâu, nếu Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tiến đều được Phật A Di Đà tiếp độ. Tỷ như người xưa cọ gỗ lấy lửa, dùng một đoạn dây cọ mài vào một khúc gỗ khô, cọ đều tay không gián đoạn, một lúc sau lửa sẽ bật ra.

Có người hỏi Ippen Shonin cách niệm Phật phải như sao, Ngài nói: “Chỉ cần tâm chí thiết, chí thành, xả ly ý niệm, thọ cảm, ký ức, ngữ, pháp là đủ”. Nói rõ thêm thì Sự trì danh là lối niệm Phật không cần hiểu rõ về Lý, chỉ đặt trọn niềm tin vào Phật Thích Ca và Phật A Di Đà, mong cầu tha thiết được về cõi Cực lạc Tây phương, vì tin chắc có nơi này khác hẳn Ta bà đầy khổ cực. Đó là lối niệm Phật của phái theo pháp môn Tịnh độ thuần tuý.

Lý trì danh thuộc về Pháp tính là lối niệm Phật mà hiểu rằng có là phương tiện thần diệu để thanh tịnh tâm mình bằng hình ảnh với cách quán tưởng hình tượng Phật và cảnh Cực lạc Tây phương, và bằng âm thanh với cách niệm hồng danh Phật A Di Đà, cốt định tâm vào những tư tưởng lành mạnh để phát sinh Tuệ giác, diệt trừ vọng tâm điên đảo, đạt tới Chân Tâm, tức thành Phật.

Tóm lại, Sự trì danh là lối tu của người chưa hiểu được lý niệm Phật là diệu pháp để nhiếp vọng về Chân. Đó là lối tu của người còn mang tâm phân biệt, tin chắc cõi Tây phương Cực lạc ở ngoài cõi Ta bà, thành tâm cầu nguyện Phật A Di Đà tiếp độ để được về nơi an dưỡng, hưởng hạnh phúc đời đời. Còn Lý trì danh là lối niệm Phật của những ai, cũng thực hành như người tu theo Sự trì danh, nhưng lại hiểu rằng cảnh Cực lạc Tây phương và Phật A Di Đà đều ở trong tâm của người niệm, và do công phu thanh tịnh của Chân Tâm người hành giả hiển bày. Người theo Lý trì danh tin rằng: Phật A Di Đà do tâm mình tạo ra, tâm mình đã sẵn có mầm Phật, lại lấy sáu chữ hồng danh tạo ra cảnh Tây phương Cực lạc, buộc tâm mình vào đó. Khiến nó không thể quên được cảnh Cực lạc và Đức Phật của Từ Tâm. Như vậy thì người theo Sự trì danh hãy còn chấp vào tướng Năng Sở đối đãi, còn thấy Phật A Di Đà và cảnh Cực lạc ở ngoài tâm, tâm và Phật chưa dung thông, dung nhiếp với nhau. Về phần người theo Lý trì danh thì đã tuyệt được tướng Năng Sở và hiểu rõ: Niệm Phật là niệm Tâm dung hòa được Tâm lẫn Cảnh, bản thể và hiện tượng. Theo Lý trì danh thì Phật A Di Đà đã sẵn có trong tâm mình, bởi lẽ: “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Đây là lối niệm Phật của phái Thiền Tịnh song tu. Thực ra thì người tu tịnh nghiệp mà đạt được kết quả như ý muốn, dù chấp Sự hay chấp Lý cũng mặc nhiên viên dung được Sự Lý trong khi hành trì, bởi vì người chấp Lý chủ trương dùng lối niệm Phật và quán tưởng Phật để ngộ nhập Tự tính Di Đà, phải dùng đến Sự (niệm Phật cho chuyên) mới đạt được Lý. Còn người chấp sự nhất tâm cầu vãng sinh, ngoài ra không còn biết gì khác nữa, nhờ đó mà tâm trở nên Định và sinh Tuệ, rồi ngộ được Lý trì danh. Vậy suy đến cùng thì những ai tu tịnh nghiệp mà đạt được kết quả, đã vô hình chung kết hợp được Sự Lý một cách hài hoà, tới mức độ Sự tức Lý, Lý tức Sự viên dung vô ngại. Có điều là sự kết hợp ấy, hành giả ý thức được việc làm của mình nhờ trình độ am hiểu Phật pháp, còn có người lại thực hành một cách máy móc mà chẳng hiểu gì cả. Thông thường, theo tâm lý của người trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh, thì lúc đầu tưởng nhớ tới Phật A Di Đà, sau đó niệm hồng danh của Ngài. Cũng như ở mọi động tác có ý thức, sau đó hình thức lại quy định nội dung, tác động đó hỗ tương qua lại. Trong trường hợp niệm Phật thì diễn trình đó hơi khác một chút. Ta có thể niệm danh hiệu Phật rồi mới tưởng nhớ tới hình ảnh cùng giới đức và những lời nguyện của Ngài. Trong lúc lập đi lập lại nhiều lần danh hiệu Phật một cách máy móc thì một lúc nào đó sẽ trỗi dậy trong ký ức của hành giả những ấn tượng về Đức Phật nằm sâu trong tiềm thức. Dù muốn hay không, hiện tượng này cũng sẽ xảy ra mỗi lúc một rõ nét hơn.

Tính và Tướng của Phật A Di Đà biến thành một thực tại đối với tâm thức của người trì danh chẳng khác nào hai người chơi đu tiên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, thay nhau liên tục, tạo thành một cái đà đưa cả hai người bay bổng cao vút trên không trung. Trong trường hợp trì danh hiệu Phật thì Sự là động tác của thân và khẩu, còn Lý là động tác của ý, làm thay đổi trạng thái tâm lý của hành giả. Đối với người sơ cơ thì Lý và Sự là hai sự việc hoàn toàn khác nhau, nhưng khi thành tựu được công phu niệm Phật thì tuy hai mà một, hiện tượng Sự Lý viên dung đạt được lúc hành giả hội đủ cơ duyên. Tỷ như công việc ngào bột. Lúc đầu thì bột là bột. Bột dụ cho Sự, nước dụ cho Lý. Tác dụng của bàn tay người ngào bột làm cho nước ngấm vào bột, bột hút lấy nước. Tới một điểm nào đó bột không còn là những hạt khô, rời rạc, mà nước cũng không còn là chất lỏng dễ chảy, nước với bột quyện vào nhau, cũng như Sự và Lý tương tức, tương nhập, đến khi đó thì bột và nước hợp thành một chất nhuyễn dẻo, dễ nặn thành bánh, và việc ngào bột đã thành công. Trong việc niệm Phật, lúc đầu, hành giả niệm danh hiệu Phật, nhưng tâm chưa tưởng tới Phật A Di Đà với niệm Cực lạc (tức chưa làm công việc Thiền quán, hay chưa thực hiện phương pháp Thiền Tịnh song tu). Nhưng nếu cứ nhắc đi nhắc lại mãi sáu chữ hồng danh một cách máy móc, thì tới lúc Sự trì danh hiệu Phật bắt đầu có hiệu lực, và tác dụng vào Lý trì danh. Trong tâm của hành giả lúc đó các ký ức về Phật A Di Đà bừng tức dậy mỗi lúc một đậm nét hơn trong tâm của hành giả, từ mờ ảo đến quang huy và lúc đó thì tác động máy móc của Sự trì danh bước qua giai đoạn hiểu rõ tường tận Lý trì danh. Lẽ dĩ nhiên tiến trình chuyển biến này không thể thành tựu được một sớm một chiều, mà phải trải qua nhiều biến cải liên tiếp trong nội tâm.

Trong kinh A Di Đà có câu: “Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật… cho đến thất nhật”, ta phải hiểu chữ “nhật” ở đây theo nghĩa là giai đoạn ngắn hơn hoặc dài hơn một ngày. Sự thành tựu tiến trình hoán cải tâm linh là hiện tượng “nhất tâm bất loạn”. Đó là đạo của pháp môn Tịnh độ. Ai có đủ điều kiện Tín, Nguyện và Hành thì cho là tiến trình ấy có thật, còn những người thiếu đức tin thì cho là dị đoan, mê tín. Nhưng theo Tâm lý học thì cho đó là thói quen hay tập tục có khả năng biến đổi tâm lý con người. Đối với công việc tu hành thì ai tu nấy chứng, ai ăn nấy nó, nếu phải chỉ bày một sự việc thuộc về tâm lý, tín ngưỡng thì không thể làm được. Tuy nhiên, trên thực tế sự kiện đó xảy ra hiển nhiên bất khả tư nghị.

Tiện đây, tôi xin thuật lại câu chuyện thuộc về niệm Phật A Di Đà mà biến cải được tâm thức do Thiền Sư Bạch Ẩn, dòng Lâm Tế kể lại đã chứng minh sự kiện đó: Sư Bạch Ẩn có một người đệ tử, là con một ông già rất mực keo kiệt, chỉ quen chạy theo đồng tiền mà không biết đạo lý là gì cả. Người đệ tử ấy một hôm đến vấn kế Thiền sư để tìm cách hoán cải lòng tham vô đáy của cha mình. Sư Bạch Ẩn đề nghị: “Cứ bảo ông già ấy niệm Phật A Di Đà tối ngày hễ hôm nào niệm đủ 100 chuỗi hạt thì đến chùa ta trả cho một quan tiền, nhưng dặn kỹ là phải thành thực, cấm không được gian lận”. Mỗi ngày, cứ tối đến, Sư Bạch Ẩn lại thực hiện đúng lời đã cam kết, trả tiền sòng phẳng cho ông lão. Vì tham được lãnh thưởng, không phải làm việc cực nhọc vất vả mà lại được tiền, ông già siêng năng niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, bất cứ lúc nào cũng niệm Phật để mong được lãnh tiền thưởng nhiều hơn. Qua một thời gian, một buổi tối Sư Bạch Ẩn không thấy bóng ông già chống gậy đến chùa để lãnh thưởng như thường lệ, hỏi ra mới biết vì mải mê niệm Phật, ông lão quên cả việc đến chùa lãnh thưởng. Vài tháng sau, ông lão tìm đến chùa, nét mặt hân hoan, rạng rỡ, hết lòng cảm tạ Thiền sư đã có công hoán cải tâm thức của mình, từ vô đạo, ích kỷ tham lam, nay đã trở nên một tín đồ thuần thành của pháp môn Tịnh độ, niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh. Khi từ giã Thiền sư ra về, ông già không quên để lại chùa một túi tiền, không rõ bao nhiêu, để cúng dường Tam Bảo.

Xét ra thì Sự và Lý trì, cả hai đường lối cùng nhắm vào một mục tiêu: một đường thì nặng về tín ngưỡng, sùng bái và nương cậy vào Tha lực, còn một đường thì nặng về mở mang trí tuệ, dùng Tự lực và pháp Thiện định để Minh Tâm Kiến Tính, cầu ở Tính mình để dứt vọng về chân. Cả hai đường lối đều đòi hỏi người tu phải quyết tâm hành đạo. Cả hai đều đưa tới Chính giác, kết quả mau hay chậm đều do căn cơ và duyên phận của từng người.

Người học đạo khi chưa dung hoà được Tính và Tướng, Lý và Sự, nghĩa là còn chấp về một phía hoặc Thể hoặc Dụng, mới dùng Tính để phá Tướng, lấy Lý để bác Sự, lấy Chân Không để bác Giả Hữu của hiện tượng giới, gây thành những cuộc tranh chấp liên miên, bởi lẽ họ đã không hiểu hay không chịu sống theo lý Bất Nhị, nên mới đưa tới tình trạng là Sự chẳng thành Chân Sự, mà Lý cũng chẳng thành Chân Lý. Thông suốt được lý Không hai thì dung hoà được mọi chấp mê để nhập vào Nhất Chân Pháp Giới của vũ trụ. Pháp hữu vi tuy huyễn nhưng nếu không dùng đến thì đạo quả khó thành. Pháp vô vi tuy Chân nhưng nếu cứ khư khư chấp lấy chữ Không thì Hữu tính mất Diệu Dụng và sẽ sống xa vời thực tế. Mê Sự thì cảm xúc nhiều sinh tâm phiền não trở ngại cho tâm Niết bàn. Mê Lý, suy nghĩ nhiều thì Sở tri chướng gây trở ngại cho tâm Bồ đề. Bỏ sự theo Lý thì đoạ vào nẻo tối của hàng Thanh văn. Lìa Lý theo Sự tất mắc vào chấp mê của hàng phàm phu. Sống ở đời là phải sống trong thực tại gồm đủ cả bản thể lẫn hiện tượng. Tính và Tướng, Lý và Sự không bao giờ được quên Chân lý Vô ngã, Vô thường, Bất Nhị và Bản thể Chân Không của vạn pháp. Tuy phải sống trong tương đối nhưng lại không quên hướng thượng, cố vươn lên đích lý tưởng tuyệt đối.

Xét chung thì cả hai đường lối, chấp Sự và chấp Lý, chấp Có và chấp Không một cách cứng rắn đều không phải là chân lý và đều là bệnh biên kiến cả, cần phải chữa cho hết bệnh chấp đó. Người thường hay mắc bệnh chấp Có, chỉ nhìn thấy vỏ ngoài của sự vật, cho mọi sự vật đều thật cả rồi đem tâm luyến ái, bám giữ không chịu rời ra, hoặc là ghét bỏ, nguyền rủa, không muốn đến gần. Hàng trí thức, duy lý lại mắc bệnh chấp Không, thương khinh chê người theo Sự tướng, bị lỗi tự mãn, tự kiêu, còn nguy hại hơn bệnh chấp Có, vì họ hay khuyên người đời nên bỏ Sự theo Lý, nhưng chính họ lại không thấy được ưu điểm của lối theo Sự tướng, chỉ chấp chặt về mặt Lý, như vậy rất có hại cho người sơ cơ, cần phải dựa vào Sự tướng và tha lực để nâng đỡ, bồi bổ đức tin bước đầu còn chưa vững chắc.

Người tu theo Sự trì danh mà có đức tin vững chắc, lúc niệm Phật không còn điều gì thắc mắc nữa. Họ chỉ biết niệm Phật không ngừng, bất cứ lúc nào, đi, đứng, nằm, ngồi ngoài ra không để tâm suy nghĩ điều gì khác. Người theo Lý trì danh, khi đã hiểu lẽ việc niệm Phật nằm trong lý Bất Nhị dốc lòng tin lời Phật dạy, còn tin ở nghị lực của mình không gì lay chuyển nổi, như vậy cũng không còn chút hoài nghi trong lòng, bởi vì mọi thắc mắc đã bị ngọn lửa tuệ giác tam muội thiêu huỷ hoàn toàn. Như vậy, cả hai bên đều có đức tin, có điều là người theo Lý thì tin một cách sáng suốt hơn người tu theo về Sự, do đó mà đức tin của họ trở thành bất thoái chuyển. Chỉ có những người theo Sự một cách mù quáng, chẳng tin ở tài sức của mình, hay người theo về Lý mà chưa giác ngộ được lý Bất Nhị mới kém đức tin mà tam mới dao động mà thôi. Theo phép tu thì mỗi người, tuỳ theo căn cơ và tính tình của mình, hoặc nặng về tình cảm hay vì ý chí sắt đá tự cường mà tự chọn lấy con đường tu hợp với hoàn cảnh của mình. Lối tu nào cũng cần phải có đủ cả Sự lẫn Lý, phối hợp Tín và Hành, không thể thiên về một bên Lý và Sự, Tri và Hành đều phải cân bằng như hai cánh chim xoè rộng mới bay được cao xa. Đức Tin là điều cốt tuỷ trong pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh độ, thiếu niềm tin thì không mong thành tựu được điều ước mơ gì cả.

Thuở xưa, ông Vương Trọng Hối hỏi ông Vương Vô Vi: “Niệm Phật như thế nào để khỏi gián đoạn và được Nhất Tâm bất loạn ?”. Ông Vương Vô Vi đáp: “Việc tu hành Phật pháp nói chung, và theo pháp môn Tịnh độ nói riêng đặt trọng tâm vào chữ Tín. Tín đứng hàng đầu trong ba môn Tín, Nguyện, Hạnh. Đã tin sâu rồi thì không còn gì nghi ngờ nữa. Nếu còn bóng dáng một chút hồ nghi, đức Tín Tâm không vững, còn bị lung lay”.

Vương Trọng Hối nghe nói hết sức vui mừng bèn cáo biệt mà về. Cách đó ít lâu, ông Vương Vô Vi mộng thấy ông Vương Trọng Hối đến tạ ơn tươi cười rằng: “Nhờ nghe được câu chỉ bảo chí tình của đạo hữu mà nay tôi đã được vãng sinh Tịnh độ Tây phương rồi”. Đủ tỏ chữ Tin thực đáng giá ngàn vàng. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ tát, thì tâm con người có hai phần là Tính và Tướng hay Chân Như môn và Sinh diệt môn. Nhưng Tính tức Tướng, Lý tức Sự, Bản thể tức Hiện tượng, Cực lạc tức Ta bà, cũng ví như nước biển, không thể bảo phần nào là nước trong lòng biển khởi bất động và phần nào là sóng trên mặt biển nhấp nhô, bởi chấp như thế là vô lý, không thể tách rời nước ra khỏi sóng, và sóng ra khỏi nước được, vì Sóng là Nước, Nước là Sóng, Tâm là Cảnh, Lý là Sự, Tinh thần là Vật chất v.v… Bỏ Lý thì chẳng vững, mà lìa Tướng thì tính không thành. Lý và Sự cũng như đạo và khoa học, đạo và đời, tuyệt đối và tương đối, chẳng thể rời nhau nửa bước, mà phải nương nhau để cùng tồn tại. Nhờ Sự tướng bên ngoài mới có phần Lý tính bên trong. Có phần Lý tính bên trong mới thấu rõ được phần Sự tướng ở ngoài. Hành động theo Sự tướng mà thiếu suy xét thì dễ lạc vào tà đạo. Trái lại, nếu theo Lý bỏ sự thì tâm khô cằn và dễ rơi vào hố Hư vô chủ nghĩa cho nên kinh Phật mới dạy:

Thật tế địa bất thụ nhất trần

Phật sự muôn trung, bất xả nhất pháp

(Trong tâm thanh tịnh (thuộc về Lý) thì không còn một mảy bụi, nhưng về Sự tướng, muốn đạt tới trạng thái thanh tịnh thì người tu chẳng thể bỏ qua một pháp nhỏ mà không hành đến nơi đến chốn), nhưng hành đến đâu lại xả đến đấy, Tâm không trụ vào pháp nào cả. Phật dạy: “Phải thấy tính Không của pháp Hữu vi mới mong được giải thoát”. Muốn thấy tính Không của các pháp thì phải xả bỏ Ngã và Ngã Sở, bởi đó là nguồn gốc của các tướng sinh diệt Có, Không. Phải phá chấp mê về Ngã vật lý, rồi đến chấp mê về Ngã tâm lý xã hội. Cao hơn bậc nữa, Phật dạy: “Phải thoát khỏi cả các sinh diệt của các pháp không được giữ lại một chút sở đắc nào cả”. Phải xa lìa tư duy, ý niệm để Tâm rỗng lặng, không còn bóng dáng của các pháp tương đối nữa. Lúc ấy thì tâm sẽ sạch làu làu sáng rực rỡ, nhẹ lâng lâng, và Chân Tâm, Phật tính của ta sẽ hiển lộ.

Trên mặt bản thể vô sai biệt và vô phân biệt thì Lý và Sự, Tâm và Vật, Không và Sắc đều quyện vào nhau, tương tức tương nhập như sữa vào nước, không thể tách rời Lý ra khỏi Sự và Sự ra khỏi Lý được.

Trên đường tu thì Lý và Sự phối hợp chặt chẽ với nhau để giúp đỡ nhau cùng tồn tại. Có Lý thì hành động mới có chủ trương cân nhắc. Có Sự mới có phương tiện để thực hiện những điều đã suy luận và chứng minh được những gì đã lý giải. Có Lý mà không có Sự như người có kế hoạch, bản đồ trong tay mà không chịu thực hiện kế hoạch đã dự liệu. Có Sự mà thiếu Lý như kẻ hành động không có chủ đích, kỷ cương, muốn đi mà chẳng biết đường lối, thiếu người dẫn đường lộ trình mờ mịt, chẳng biết cách tiến thoái, dễ rơi vào cạm bẫy, hầm hố. Phải có đủ cả Lý lẫn Sự, như người thông suốt đường lối, lại hăng hai cất bước  đăng trình, với cặp mắt sáng suốt và đối chân cứng cáp, lòng tinh tiến, nhẫn nại, mới mong đạt tới đích. Tuy nhiên, trong pháp môn Tịnh độ dù thiếu về phần Lý, song chịu khó nghe theo lời khuyên bảo của những người đi trước mà cố gắng thực hành thì cũng có ngày thành công. Những bộ kinh luận và lời khuyên của hàng thiện tri thức là những bó đuốc soi đường cho những người tu tịnh nghiệp thời nay nên theo đó mà thực hành sẽ đạt được kết quả mong muốn. Cho nên có Sự mà thiếu Lý chẳng đáng quan tâm, chỉ e đã hiểu lý rành rẽ mà lại chẳng chịu thực hành, ưa nói suông, lý luận hão mất thời giờ dành cho việc niệm Phật cầu vãng sinh, tới phút lâm chung thần chết hiện đến, hồn phách hôn mê, tất sẽ bị lạc vào vòng luân hồi khó thoát. Bởi vì Phật pháp chỉ độ kẻ dốt nát nhưng thành tâm có chí nguyện vững vàng mà không thể độ cho những kẻ thế trí biện thông, đức tin không vững lại kém hành trì. Những người nói năng lưu loát, hiểu rõ Tam tạng kinh điển mà chẳng chịu khó niệm Phật có khác gì người đói đứng ngắm bức vẽ một mâm cơm thịnh soạn, hoặc người túng thiếu mà đếm tiền cho thiên hạ tiêu, sao bằng được lão bà ngồi xó bếp, không biết chữ, song niệm Phật suốt đêm ngày lúc nhắm mắt lìa trần mà giữ được tâm không tán loạn, ý không tham luyến, hết lòng cầu Phật gia hộ để được vãng sanh, tất sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn về nơi Cực lạc, nào đã kém ai ?

* Hiểu Phật A Di Đà là Chân Tâm, Tự Tính của mình theo nghĩa bóng mà niệm Phật theo Lý trì danh, hay tin có Phật A Di Đà bằng thịt bằng xương đang cai quản cõi Tịnh độ Tây phương theo nghĩa đen, rồi nhất tâm niệm Phật theo Sự trì danh, cả hai đường lối đều lợi ích cả, vậy ta chớ nên có thái độ bên trọng bên khinh.

* Một điểm nghi vấn cần được nêu lên ở đây và cần phải làm cho sáng tỏ là: nếu tu theo Sự trì danh mà cũng đạt được Chân Tâm thực tánh thì cần gì phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cho thêm phiền phức ? Cần gì phải thắc mắc để có hại đến đức tin ?

Xin thưa: Đành rằng người tu chỉ cần niệm Phật cho chuyên cũng đủ, chẳng cần phải hiểu rõ về Lý niệm Phật cũng đạt được tới đích là thanh tịnh tâm mình, nhưng trên thực tế, người tu mà không hướng về nội tâm, lại quen chạy theo ngoại cảnh thì khó buộc được tâm viên, ý mã của mình. Tâm đã bị lôi cuốn theo hình tướng bề ngoài thì làm sao định được ? Làm sao niệm Phật được với “Nhất tâm bất loạn ?” Nhược bằng niệm Phật theo Sự trì danh không vọng niệm mà chỉ có chính niệm, hay “Nhất tâm bất loạn”, “Nhất tâm tam muội”, thì tâm sẽ định và kết quả đạt được như người theo Lý trì danh không khác. Điểm quan trọng là liệu có buộc được tâm ý mình hay không ? Nếu bằng đướng lối Sự trì, chỉ chuyên niệm Phật mà không nghĩ tới điều gì khác ngoài việc niệm Phật thì tâm luôn luôn ở trong chính niệm, hoặc ở trạng thái “nhất tâm bất loạn” sẽ đạt được kết quả như bên Thiền tông nhìn thẳng vào tâm mình để “Minh Tâm Kiến Tính thành Phật”. Để dung hoà hai quan điểm Lý và Sự trì danh hiệu Phật và để nhận định một cách sáng suốt Sự và Lý trì danh, mong đạt tới Tâm Cảnh nhất như, Lý Sự viên dung hay Tri Hành hợp nhất, một Thiền sư trong Thiền Tịnh đạo tràng có để lại bài thơ dưới đây để nêu rõ lập trường của mình:

Mỗi viên tràng hạt, Phật là Tâm

Phật rõ là tâm, luống phải tầm ?

Bể Phật dung hoà tâm lẫn cảnh,

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sinh.

Bỏ tâm theo Phật còn mê muội,

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm Phật nguyên lai đều giả huyễn,

Phát tâm đồng diệt mới viên thành.

CHƯƠNG 9: NHẬN ĐỊNH VỀ MỤC TIÊU TỐI THƯỢNG CỦA HAI BỘ KINH A DI ĐÀ VÀ ĐỊA TẠNG.

Phật dạy: “Trong đại dương, giọt nước biển nào cũng có vị mặn thì các pháp môn của ta, pháp môn nào cũng có vị giải thoát, mà giải thoát tức là diệt trừ được những tư tưởng tạp loạn của tâm vọng động, chứa đầy nọc độc tham, sân, si… làm cho con người khổ đau, phiền não, được trở về trạng thái an vui của Chân Tâm, Phật tính”.

Kinh A Di Đà giống như đại đa số kinh Phật khác có mục đích:

1. Chỉ cho chúng sinh biết rõ cõi trần là nơi khổ đau.

2. Nguồn gốc của sự khổ đau là tạp nhiễm những thói hư tật xấu, do lục căn, lục trần cấu kết với nhau làm cho tâm vọng động, phát sinh ra những tư tưởng và hành động sai lầm đưa tới quả khổ sinh tử.

3. Chỉ cho ai nấy được biết phần linh thiêng trong con người là Chân Tâm, bản tính hay Phật tính của mình.

4. Muốn thoát ly khổ đau luân hồi sinh tử để được hưởng đời đời hạnh phúc phải trở về với Chân Tâm, Phật Tính của mình hay là thành Phật.

Pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ dựa trên cơ sở tư tưởng: “Người ta trở thành cái mà người ta thường mơ ước” hay: “Muốn là được” (“On devient ce à quoi on désire” hay “Vouloir c’est pouvoir”).

Phật dạy: “Cái tính hiện tại của con người do kết quả của những tư tưởng và hành vi của người ấy từ vô thuỷ” hay “Sinh mệnh của một người là kết quả của những nghiệp về thân, khẩu, ý do người đó đã tạo ra từ vô lượng kiếp. Những gì trong quá khứ đều không bị huỷ diệt, chúng để lại những dấu ấn trong tàng thức của ta. Nghiệp báo theo ta như bóng theo hình, do đó mà một con người hiện tại bởi con người quá khứ tạo nên, cũng như con người tương lai là kết quả của những suy tư và hành động của con người đó trong hiện tại. Chính ta đã tạo ra ta. Bởi vậy người ta phải luôn luôn tưởng niệm đến những gì cao quý và hướng đến đích Chân, Thiện, Mỹ. Con người thường mơ ước tới  cái vô cùng tận, và một đời sống hạnh phúc tươi đẹp tuyệt đối. Không ai lại khao khát cái xấu xa, ngắn ngủi, tầm thường và gây khổ đau cho mình. Cái Vô cùng Vô tận được thần thánh hóa bằng Đức Phật A Di Đà, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô lượng Công đức, cái cao thượng tốt đẹp vô cùng được lý tưởng hoá bằng cõi Cực lạc Tây phương. Nói cách khác thì tư tưởng chỉ đạo của bộ kinh A Di Đà nằm trong hai chủ thuyết:

1. Nhất thiết duy tâm tạo (Kinh Hoa Nghiêm).

2. Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tính (Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Pháp Hoa) khuyên người đời nên trở về với Chân Tâm, Phật tính của mình.

Cũng như các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Đại Bát Niết Bàn, Kinh A Di Đà chủ trương tâm con người có thể tạo ra tất cả, và ai ai cũng có thể thành Phật, nhập Niết bàn hay vãng sinh Tịnh độ nếu mình thiết tha mong muốn. Nhưng so với các bộ kinh lớn kể trên thì Kinh A Di Đà có phần thông tục hơn và được lan truyền trong đại chúng rộng rãi hơn.

Căn bản của Kinh A Di Đà là thuần niệm Phật, nhằm kết hợp trực giác tâm linh của hành giả với Chân Như Pháp Giới, phá cái giả ngã bé nhỏ của con người để hoà tan vào cái tâm của thiên địa đại đồng, kết quả là phá được vô minh, đập tan được Ngã và Ngã sở, và tỏ ngộ được Chân Tâm trong sáng của ta. Trở về tự tâm hay Kiến tính là duyệt xét lòng mình để thấy những gì là cao đẹp quang minh, và những gì là xấu xa, thấp hèn, rồi tuân theo những lời chỉ dạy của lương tâm, Phật tính của mình.

* Một triết gia Tây phương có những tư tưởng đẹp, được diễn tả qua bông hoa văn nghệ sau đây: “Đối với Thượng đế (hay Phật, Trời) ta nên có trái tim của trẻ thơ. Đối với tha nhân, ta nên có trái tim của người Mẹ hiền. Nhưng đối với chính mình, ta phải có trái tim của một vị thẩm phán anh minh, nghiêm khắc. Ta phải làm chủ ý chí của ta và làm nô lệ cho lương tâm mình”. Nói theo lối Phật giáo thì ta phải tự biết chính mình, ta mới được tự do tự tại, mới thoát khổ, và mới thành Phật.

* Trở về với nội tâm hay Kiến tính là nương tựa vào lương tâm mình, chẳng phải là nương tựa vào một thể xác giả huyễn, một mớ ngũ uẩn, giả ngã biến hoại từng sát na, cũng chẳng phải là nương tựa vào sự phiêu lưu bình bồng của một Ý thức thay đổi không ngừng vì tất cả những thứ đó đều chẳng phải là Chân Ngã hay Chân Tâm, mà chỉ là Vọng thức Vọng niệm đảo điên, sinh diệt luôn luôn biến đổi mà thôi. Trở về với chính mình là nương tựa vào những đức tính sáng suốt, bình đẳng, từ bi hỷ xả của tự tính của mình sẵn có đầy đủ, không bị nhân duyên và căn trần chi phối. Mục đích trở về với bản tâm con người thì bất cứ bộ kinh Phật liễu nghĩa nào cũng có vị giải thoát cả, nhưng mỗi bộ kinh Phật lại có một lối diễn tả riêng, khi thì theo cửa Hữu hay Pháp tướng, khi thì theo cửa Không hay Pháp tính, lại dùng những từ ngữ khác nhau để cùng chỉ một thứ, tỷ như tâm con người.

– Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp giới hay Pháp giới tính, hoặc Sự Lý viên dung.

– Kinh Lăng Nghiêm gọi là A đà na thức, Chân Tâm, Diệu minh, Chân Như, Chân Tính, Chân Tướng, Thực thể, Chân thể …

– Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng.

– Kinh Duy Ma Cật gọi là Pháp Bất Nhị.

– Kinh Viên Giác thì gọi là Viên giác Tính, Thiền định công đức, hay Diệu Giác Nguyên minh…

– Kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Như Lai, Như Lai tính, Pháp tính thường trụ.

– Kinh Bát Nhã gọi nó là Không quán.

– Kinh Lăng Già gọi nó là Như Lai thanh tịnh.

– Kinh Pháp Hoa gọi nó là Phật tính, Tự tính thanh tịnh Niết bàn, Như ý bảo châu, Tri kiến Phật, hay Viên ngọc vô gía giắt trong người.

– Kinh Pháp Bảo Đàn gọi nó là Bản lai diện mục, hay ông chủ nhà.

– Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là Bản Giác hay Giác tính.

– Luận Duy Thức gọi nó là Duy Thức tính v.v…

Trong các kinh điển của nhà Phật chữ tâm được diễn tả tuỳ theo Tướng, Dụng hay Thể của nó. Về phương diện hoạt động hay diệu dụng thì tâm được gọi là pháp Nhất thừa, lý Trung Đạo, lý Bất Nhị, hoặc Chân Đế để chỉ cho cái thực tại siêu việt, mầu nhiệm, viên dung, cái Chân không Diệu hữu của vũ trụ. Về phương diện Thể Tính thì gọi Tâm là Phật tính, Giác tính, Pháp tính, Bình đẳng tính, Pháp thân Như Lai, Chân Không, Đại ngã… hay cái tính Bất sinh bất diệt, Bất khứ bất lai, không thiện không ác của các pháp. Đứng về phương diện liên hệ giữa bản thể và hiện tượng thì tâm được diễn tả bằng những danh từ “Như thị, như thị” hay “Như như”.

Tâm của con người chứa đầy hạt giống xấu, tốt lẫn lộn. Đó là nơi tụ hội của Thần lẫn Quỷ, Thần là phần thanh cao tôn quý, Quỷ là phần ô trọc bỉ ổi, thấp hèn. Về mặt chân thì tâm có quyền năng vô hạn, hiện diện khắp nơi như hư không. Về mặt vọng thì nó là động cơ thúc đẩy con người đi theo con đường lục dục, thất tình, gây khổ đau, tai hoạ, nếu nó nghiêng ngả mê mờ. Vì tâm là kho chứa đủ các loại hạt giống của Thánh lẫn phàm nên cổ nhân lo sợ nếu nó nghiêng lệch về một phía, thì sai một ly đi tới vạn dặm.

Đã có Thánh, phàm, ắt có chân tâm hay Phật tâm và phàm tâm hay vọng tâm. Tự tính Di Đà hay chân tâm, Phật tính vốn đầy đủ các đức hạnh viên chiếu hồn nhiên, ở Phật chẳng thêm, ở phàm không thiếu. Khi cái tính thanh cao tuyệt đối ấy chưa phát hiện thì nó vô vi. Đó là phần tiên thiên, vạn tượng hàm chứa trong đó. Nhưng khi nó đã phát hiện ra ngoài thì nó là phần hậu thiên sinh ra thiên hình vạn trạng. Càng đi xa ngọn nguồn trong sạch, nó lại càng ô trọc, mờ tối. Từ một tư tưởng bất chính sinh ra mà tâm vốn bất động đã tạo duyên, tác nghiệp, lôi cuốn con người vào guồng máy luân hối sinh tử. Tu là từ hậu thiên trở về tiên thiên, từ vạn hữu sai thù, trở về nguyên lý căn bản, hay tự vọng thức điên đảo hồi về chân tâm bất động để được giải thoát.

Cái tâm chỉ có một, thuộc về bản thể tuyệt đối sinh ra vạn hữu sai thù, có hình, danh, sắc, tướng, gọi là Sự Sự Pháp giới, nên mới có câu: “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản”. Tất cả các pháp trong vũ trụ đều từ cái “nhất chân” ấy sinh ra nên mới bảo: “Một là tất cả và tất cả là Một”. Tướng và Dụng của các pháp đều vọng mà Bản thể của các pháp lại chân, cho nên giữa Chân và Vọng, Tính và Tướng, Lý và Sự, tuy khác nhau về Tướng, Dụng, nhưng Thể lại vốn đồng và đều dung thông, dung nhiếp với nhau như bóng với hình, nghĩa là các pháp đều “nhất thiết vô ngại”.

Phật và tâm con người rộng lớn như thái hư. Về mặt Thể nó bao hàm cả vạn hữu, ẩn tàng và siêu xuất. Tâm có sức mạnh tinh thần phi thường nên ta biết cách tập trung năng lực của nó vào một mối, đừng để cho năng lực ý phân tán thất thoát qua lỗ hổng của sáu căn thì nó có đủ sức hoán cải cả càn khôn. Người ngồi thiền tập trung tư tưởng trong đại định có dụng ý để năng lực tinh thần của tâm không bị suy giảm bởi đã khép kín được sáu căn. Khi đó họ đã dùng năng lực tinh thần (của Tâm) để quan sát sự vật và đắc một thứ trực giác siêu phàm gọi là Bát nhã trí, thấy rõ Thực tại toàn chân. Người thường, trong phút lâm chung, sáu căn biến hoại cũng có được một lúc tâm không vọng động và lúc ấy nếu biết hướng về Phật pháp hoặc được bên ngoài trợ lực, nhắc nhở cho biết để hướng về nơi thanh cao siêu thoát, và hướng tới Phật, niệm Phật A Di Đà với tâm bất loạn thì có thể nhờ được Tha lực của chư Phật và Bồ tát cùng người bạn hộ niệm cho mình phối hợp với tinh thần của y lúc bấy giờ mà dắt y về cảnh Cực lạc Tây phương.

Về mặt vật lý (theo bản báo cáo của BS Nguyễn Khánh Dư về thành tích hoạt động của Bệnh viện Chợ Rẫy (Saigon) trong ngành chữa trị bệnh tim, đăng trong báo Saigon Giải Phóng) thì tâm là một chiếc máy bơm thần diệu bền bỉ hơn sắt, thép, có sức hút được một khối lượng máu, bằng cả một khối nước chứa đầy một cái hồ dài 10 cây số, rộng 7 cây số, và sâu 2,50 thước để nuôi cơ thể một người trung bình thọ 60 tuổi, hoặc có thể nâng bổng một cơ thể nặng 60 Kg lên tới đỉnh ngọn núi chọc trời Everest cao 8848 thước, bằng sức của nó chỉ mới tích luỹ trong vòng một tháng mà thôi ? Thế mà ta lại cứ tưởng nó yếu ớt tầm thường, không đáng kể!

– Tâm ấy gây sóng gió, làm cho đời người điên đảo, điêu linh mà cũng chính nó lại mở đường cho chúng ta nhập cảnh giới Niết bàn, hạnh phúc nên mới có câu:

Vị bất tòng thức pháp giới lưu,

Mạc bất hoành quy thức pháp giới.

Pháp giới ở đây là Pháp giới tính là tâm của vũ trụ mà cũng là tâm của con người, nơi xuất sinh vạn hữu, và là nơi vạn hữu quay về. Đó cũng là lý nghĩa của câu kinh: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Nếu tâm thức của con người mà không quân bình thì trời đất đều bị điên đảo, đảo điên.

Nếu Tâm con người mà ngả nghiêng nghiêng ngả, chỉ biết cái Ta, chẳng còn lưu ý đến cái tốt, cái hay và quyền lợi của thiên hạ thì bao nỗi mâu thuẫn, bất đồng, xâu xé nhau từ đó phát sinh. Bổn phận và lý tưởng của mọi người là đi theo con đường chính hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Giữa hai nẻo Thiên đường và Địa ngục, con người có toàn quyền tự do lựa chọn. Bổn phận của ta là phải thoát ly cảnh mờ tối của tâm hồn vì vô minh che lấp ánh sáng của chân tâm để trở về với chân tính sáng suốt của mình. Bởi vì chân tâm là cái vô hình, vô tướng, khó hiểu và khó chỉ bày nên Phật mới phải mượn những vật hữu hình để chỉ cái vô hình vô tướng ấy, do đó mà kinh Phật, bộ nào cũng chứa đầy mật nghĩa khó hiểu.

Xét trong kho tàng kinh điển Phật giáo có hai bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng có những mối liên hệ mật thiết với nhau, vì cả hai đều được chọn làm Kinh cầu siêu cho người chết, do đó, luận về Kinh A Di Đà mà không bàn qua về Kinh Địa Tạng e bị lỗi thiếu sót.

b. Kinh Địa Tạng.

Cũng giống như Kinh A Di Đà, Kinh Địa Tạng là một bộ Kinh Đại Thừa liễu nghĩa, khế lý, khế cơ, viên đốn, Lý sự viên dung, có gì lợi cho người còn, người mất, bởi vì người sống nhờ đọc tụng các bộ Kinh này được giác ngộ, giải thoát, thì kẻ chết cũng nhờ các bộ Kinh này mà được chuyển nghiệp siêu sinh. Người Phật tử dốc lòng tin lời Phật dạy trong hai bộ kinh này mà tu theo về Sự hay Lý đến mức độ ba la mật đều đắc quả như nhau, cùng tăng trưởng Bi Trí, Phúc Tuệ, cùng đạt tới Lý Sự viên dung.

1. Về mặt Sự tướng: Theo Kinh điển thì Đức Địa Tạng là một người có thật (cũng như Phật A Di Đà là một vị Phật bằng thịt bằng xương), nếu không vì nguyện lớn độ tận chúng sinh trong cõi đời ô trược, ác thế này thoát vòng tử sinh thì Ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp trước rồi. Ngài nguyện rằng: “Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng sâu rộng vô cùng, bởi vì đối tượng của Ngài vô tận. So với những nguyện lớn của Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Quán Thế Âm Bồ tát, còn bao la vĩ đại hơn nhiều bởi vì dù các vị này có hiện ra trăm ngàn muôn ức hoá thân để tế độ chúng sinh khắp mười phương thế giới thoát vòng khổ đau, song những Phật sự của các vị này còn có lúc hoàn mãn, chứ nguyện của Ngài Địa Tạng thề cứu độ hết thảy chúng sinh trong sáu ngả, trải qua vô số kiếp như số cát của muôn ngàn ức sông Hằng thì thật là vô cùng tận. (Phẩm Địa Thần Hộ Pháp thứ 11 Kinh Địa Tạng. Chỉ có 48 lời nguyện của Phật A Di Đà mới sánh ngang với lời nguyện của Ngài Địa Tạng mà thôi).

* Tâm của Bồ tát Địa Tạng viên chiếu, tịch tĩnh, đồng thể với Phật. Vì nguyện độ lớn nên Ngài mới tự nguyện ở ngôi Bồ tát trong thời gian vô tận để hành đạo. Ngài có đủ cả tam Thân:

a. Pháp thân của Ngài Địa Tạng Bồ tát trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, hoà đồng cùng vũ trụ.

b. Ứng thân của Ngài hiện diện tại cung Trời Đao Lợi khi Phật Thích Ca thuyết Kinh Địa Tạng cho hàng Trời và Bồ tát nghe. Lúc ấy Phật đã lấy tay xoa đầu Bồ tát Địa Tạng và giới thiệu Ngài với Trời Đế Thích.

c. Báo thân của Ngài ví như thân của Thánh nữ Bà la môn Quang Mục trong Kinh Địa Tạng. Như vậy theo Kinh điển, về mặt Sự, rõ ràng Đức Địa Tạng Bồ tát là một nhân vật lịch sử (cũng như Phật A Di Đà), có đời sống như người thường, nghĩa là có tu hành, phát thệ và có mật độ, không thể bảo Ngài là một nhân vật huyền thoại, có danh vô thực, cũng như không thể bảo Pháp Tạng Tỳ kheo, tiền thân Phật A Di Đà là một nhân vật bịa đặt. Theo tục lệ người đời thường vẽ hoặc đắp tượng Ngài giống như một vị Hoà thượng, tay cầm viên minh châu để soi đường nơi âm phủ, và cây tích trượng để phá cửa ngục thiết vi, giải thoát cho những vong hồn tù đày.

* Trong Kinh Địa Tạng, Phật Thích Ca đã giới thiệu Ngài Địa Tạng cho Trời Đế Thích rõ, cũng như Phật đã từng giới thiệu cảnh Cực lạc Tây phương cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy hay và cũng như Phật đã tự giới thiệu mình với hàng đệ tử là Ngài chính là em ruột Phật A Di Đà trong tiền kiếp. Ta phải tin lời Phật dạy trong những trường hợp này bởi vì Phật không bịa đặt bao giờ cả. Đã tin lời nguyện của Phật A Di Đà thề độ tận chúng sinh trong khắp các nẻo mê đồ, hễ kẻ nào thành tâm niệm danh hiệu Phật tới mức nhất tâm bất loạn thì được thoát ly sinh tử, được về thế giới Cực lạc Tây phương thì ta cũng phải tin lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thề cứu vớt hết thảy chúng sinh khỏi khổ đau và thoát ly địa ngục vô gián. Bởi nặng lòng thương chúng sinh sống trong cảnh nhà lửa bốn bề đốt cháy, và bởi Phật đã rõ những lời đại nguyện của Bồ tát Địa Tạng về tiền kiếp nên Phật đã uỷ thác cho Bồ tát Địa Tạng trong thời gian Phật không còn tại thế và Đức Di Lặc chưa xuất hiện để cứu đời, lãnh lấy trọng trách độ hết chúng sinh cương cường khó dạy, còn ngụp lặn trong biển sinh tử nhất là ở cõi địa ngục trần gian này, cũng như ở mọi nơi uế độ khác đều được giải thoát khỏi bát nạn tam đồ. Đức Địa Tạng đã vâng chịu, nhận lãnh lời phó thác ấy tới ba lần. Đọc tới đoạn Kinh trên, ai là người chẳng cảm động trước tấm lòng Từ Bi cao cả và tuyệt đối của bậc Thánh cứu thế ấy ?

Theo Triết lý thì Kinh Địa Tạng được gọi là Hiếu Kinh, một bộ Kinh dạy về chữ Hiếu đứng hàng đầu. Trong Kinh Địa Tạng, Phật dạy: “Phận làm con phải thờ cha mẹ, cố giữ chữ hiếu đạo đối với mẹ cha mới đền đáp được công ơn sâu dầy dưỡng dục sinh thành”.

Nhưng cha mẹ của chúng ta là những ai ?

– Theo lời Phật dạy ông A Nan trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu trọng ân thì không những chúng ta có cha mẹ trong đời hiện tại, mà ta còn có cả phụ mẫu trong các kiếp quá khứ nữa. Đống xương khô của vô số chúng sinh, trong hằng hà sa số kiếp về trước, có thể là hài cốt của cha mẹ ta, bởi vì trong muôn lần kiếp tái sinh, ta đã phải đoạ hết làm loài nọ lẫn loài kia, thì trong chuỗi dài vô tận của thời gian, tất cả chúng sinh trong khắp các cõi mê đồ, người còn kẻ mất đều có thể là cha mẹ của chúng ta, chỉ vì vô minh che khuất bản tâm thanh tịnh mà ta không nhận ra đó thôi. Hiểu lẽ đạo làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ khi còn, khi mất để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục trong muôn một, lại hiểu rằng chúng sinh đều có thể là phụ mẫu của mình, thì cũng hiểu được vì sao Phật A Di Đà đã nguyện độ tận chúng sinh, ai nhắc tới tên Ngài đều được Ngài đưa về cõi Tây phương Cực lạc. Bồ tát Địa Tạng đã nguyện cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ngục A Tỳ và Bồ tát Quán Thế Âm cũng như các Bồ tát khác lại phân thân ứng hiện khắp nơi, dưới mọi hình tướng để cứu giúp muôn loài khổ đau. Đối với người có tâm Bồ tát thì chúng sinh là những vị ân nhân bởi vì nếu vắng bóng chúng sinh thì Bồ tát không có dịp may để hành đạo và chứng quả Bồ đề, luyện Tứ Vô Lượng Tâm và Lục độ ba la mật.

* Theo lý Tương tức, tương nhập và bình đẳng trên mặt thể tính thì mình là chúng sinh, chúng sinh là mình. Sự sống của muôn loài trên trái đất đều linh thiêng như nhau, và không có loài nào phải hy sinh tính mạng mình cho loài khác để họ được đỏ da thắm thịt cả. Đứng trước thảm cảnh những con thú bị thọc huyết phanh thây, tiếng kêu la thảm thiết, dẫy dụa trên máu đỏ lòm, hay giương đôi mắt lờ đờ nhìn cảnh vật chung quanh ai là người có chút từ tâm lại chẳng mũi lòng, thương xót ? Không ai có quyền được dùng trí óc khôn lanh của mình để săn, bẫy, giết hại muông thú, hòng thoả mãn lòng tham ích kỷ và tính hiếu sát của mình! Cũng vì nhớ tới công lao của chúng sinh đã tạo cho mình nguồn sống mà người có đạo tâm không nỡ sát sinh súc vật và phải ăn chay suốt đời.

Hiểu được lẽ chúng sinh có thể là phụ mẫu của ta trong tiền kiếp, chúng sinh đồng một bản thể với ta, và là những vị Phật sẽ thành thì cũng hiểu được vì sao mà ta phải có tâm vô phân biệt, không nên tự kiêu, coi oán thân không khác và phải sống với chân lý Bất Nhị, Một là Tất cả và Tất cả là Một.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Ở sa mạc có một hồ nước. Trên bờ mọc lên một gốc đại thụ cành, lá, hoa quả sum xuê. Nước ở trong hồ ví như chúng sinh. Rễ cây, thân cây và cành, lá tượng trưng cho Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, còn hoa quả là Phật. Nếu không có nước ở trong hồ thấm nhuần vào rễ thì cây ấy không mọc được để nẩy chồi, đâm lộc sinh hoa kết trái”. Quả Phật thuộc về chúng sinh. Nếu không có chúng sinh thì Bồ tát không có nơi nương tựa để hành đạo và thành tựu được quả vị Bồ đề. Cũng vì lẽ đó mà các khoá lễ Phật đều kết thúc lời Kinh bằng hồi hướng công đức khắp tất cả, âu cũng là nghĩa cử thông thường nhằm nghĩ đến ân sâu đối với chúng sinh.

Người học đạo Phật cần phải hiểu đạo Phật, hiểu đạo không phải chỉ là nghiên cứu Kinh điển, mà còn phải trải qua một quá trình lâu dài thấy Đạo, hành Đạo và chứng Đạo tức là hiểu Đạo qua thực nghiệm của bản thân, vượt ra ngoài lý luận viễn vông, nghĩa là phải đi qua nhiều chặng đường thử thách của Tri Hành hợp nhất. Những mớ hiểu biết lỏng lẻo, lý thuyết ban đầu rất cần thiết. Đó là phần tư lương dự trữ trong bọc hành lý buổi đăng trình. Nhưng Trí có thể dễ mà Hành mới thật là khó. Người học đạo Phật chịu khó nghiên cứu và nghe những lời thuyết pháp có thể hiểu được Phật pháp phần nào, nhưng làm những lời vàng ngọc của Phật dạy thì ít ai làm được, chỉ có Phật mới làm theo đúng những lời mình đã nói. Hiểu thiên kinh vạn điển còn dễ, chứ Hành, dù chỉ một chữ thôi (như chữ Xả, chữ Nhẫn, chữ Hiếu chẳng hạn) thực khó vô cùng! Do đó, đôi khi ta phải coi Hành nặng hơn Tri. Hiểu thì phải cố gắng hành trì theo như mình đã hiểu. Nếu Tri mà không Hành, Lý mà thiếu Sự thì Lý phỏng có ích gì ?

Nếu ta coi chúng sinh những kiếp trước và kiếp này đều là ân nhân của ta thì ta phải hết lòng nhớ ơn họ, và phải làm đúng theo lời Phật dạy.

Trong Kinh Địa Tạng, Phật đã chỉ bảo tường tận bổn phận làm con phải giữ hiếu đạo đối với cha mẹ, mà một việc cần phải làm là dâng lễ cầu siêu cho cha mẹ quá cố. Phật sự này nhằm đạt hai lợi ích cụ thể, vừa độ sinh lại vừa độ tử như sau:

1. Đối với người còn sống thì dậyi nấy phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, dù phải khoét mắt, cắt da, lóc thịt để làm thuốc thang cứu chữa cho cha mẹ mắc bệnh cũng không đền đáp được công ơn dưỡng dục một trong muôn phần.

2. Đối với người chết, trong thời gian hấp hối, thần thức hay thân trung ấm hãy còn, phần hồn chưa lìa khỏi xác, mặc dù xác thân bất động nhưng thần thức hãy còn nghe và cảm thọ chính là lúc nghiệp lực nổi dậy chiêu cảm, và cũng là thời gian thuận tiện nhất để chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan, do đó mới có tục lệ muốn cho người chết được hưởng lợi ích để chuyển nghiệp thì thân nhân của họ thường tổ chức những buổi tụng Kinh A Di Đà hay Địa Tạng để cầu siêu cho người chết, mong thoát ly cảnh khổ địa ngục và được siêu thăng về cảnh giới Cực lạc, Niết bàn, có ý nghĩa thoả mãn lòng hiếu và xót thương của người sống đối với người đã qua đời, đó là một mỹ tục và việc làm đúng theo lời Phật dạy. Tóm lại, về mặt Sự Tướng thì tín ngưỡng về sự hiện hữu của Phật A Di Đà cũng như của Bồ tát Địa Tạng đã khắc sâu vào tâm khảm của quảng đại tín đồ Phật giáo xuyên qua các kinh điển và hình tượng của các Ngài, những vị Phật và Bồ tát cứu nhân độ thế có những đại nguyện rộng lớn như nhau. Tín ngưỡng đó không bao giờ phải lạt, bởi vì về mặt tâm lý quần chúng thì Đức Phật A Di Đà cũng như Bồ tát Địa Tạng là những điểm tựa tinh thần vững chắc và cần thiết để người đời an tâm, tin hễ cứ niệm Phật A Di Đà hay cầu nguyện Bồ tát Địa Tạng thì người sống, kẻ chết đều được lợi ích cả.

Đối với người còn sống, việc niệm hồng danh A Di Đà là phương pháp thần diệu để an tâm, tĩnh trí, phá tan phiền não để trở về với Phật tính, Chân Tâm. Việc tụng Kinh Địa Tạng, cầu siêu cho người chết, dạy người đời chữ Hiếu, nhắc nhở ai nấy làm tròn đạo làm con, tỏ lòng biết ơn đối với người khuất bóng.

3. Đối với người đã chết thì chuyển được nghiệp nặng biến thành nghiệp nhẹ, và nghiệp nhẹ được tiêu tan. Tin như vậy là chính tin. Muốn cho đức tin thành tựu được công đức tốt lành thì việc lễ bái, cúng dường, cầu siêu, niệm Phật phải được thực hành đúng cách (không sát sinh không đốt vàng mã), làm với tâm thành tuyệt đối, vì thiếu tâm thành thì tín ngưỡng chẳng sâu xa và quả đạt được chẳng đáng là bao, người sống kém phần lợi lạc, mà người chết lại càng hưởng phúc ít hơn. Phật dạy: Kẻ hết lòng tôn kính và biết ơn Như Lai là kẻ đã hành trì đúng theo lời Phật dạy. Chính kẻ ấy đã làm cho giáo pháp của Như Lai trường tồn trên thế gian này.

2. Về mặt Lý tính: Kinh A Di Đà cũng như Địa Tạng, hoặc bất cứ một bộ Kinh liễu nghĩa nào khác của đạo Phật đều nhằm mục tiêu thanh tịnh hoá tâm của con người đọc tụng. Xét về ý nghĩa những danh từ Địa Tạng, U Minh, Bản Tôn và địa ngục, ta thấy:

Địa là đất; Tạng là chỗ chứa.

Đất có tính chất cứng rắn, sâu dầy, dung chứa muôn loài. Hạt giống nào gieo xuống đất được chăm sóc, gặp duyên lành đều mọc thành cây, đâm hoa kết trái. Lấy đất dụ cho tâm con người nên mới có danh tự Tâm địa. Bởi vì đất khó đo lường được mức độ nông sâu nên tâm con người, cũng như đất, khó đoán được tầm mức nông sâu. Bởi bản thể của tâm vô hình vô tướng, không đập phá nổi, nên đất cũng như tâm cứng rắn và trường tồn. Bởi tâm con người thiếu từ bi, đầy tham vọng, vị kỷ, cũng như đất thiếu nước sẽ khô cằn, không gieo trồng gì được. Tâm như bầu thái hư, bao trùm tất cả, không vật gì ở ngoài tâm, tâm sinh ra vạn hữu, rồi vạn hữu lại trở về với tâm, cũng như mọi vật đều từ đất sinh ra rồi lại trở về với lòng đất nên tâm cũng như đất, bất sinh, bất diệt, rộng lớn vô lượng vô biên.

U Minh là tối tăm, hắc ám như lòng đất. Lấy cái tối tăm của địa ngục để dụ cho cái đen tối vô minh trong lòng người mê muội. Mặt biển tuy rộng song không bằng bầu trời bao la. Bầu trời tuy mênh mông bát ngát song đã thấm gì với lòng người rộng lượng vô biên ? Nhìn vào đâu mà thấy có ánh hào quang rực rỡ hay có bóng tối đen ngòm bằng nhìn vào lòng người thanh cao đạo đức hay nham hiểm thâm trầm ?

Bản là gốc, ám chỉ nguồn gốc của muôn loài là đất hay tâm.

Tôn là kính trọng. Bản Tôn là vật đáng kính trọng, quý báu trong ta. Đó là tâm, phần quý giá nhất trong cơ thể của một sinh vật.

Như vậy về mặt Lý Tính thì Địa Tạng là danh từ chỉ cái gì cực kỳ tôn quý trong con người, có khả năng phá tan vô minh phiền não và giải thoát con người ra khỏi địa ngục hắc ám, thoát vòng khổ đau, dẫn con người từ địa vị phàm phu tiến tới nơi cao quý là nhập Niết bàn, thành Phật.

Danh từ Địa Tạng đồng nghĩa với danh từ Pháp Tạng (một ẩn danh của tâm), và Bồ tát Địa Tạng cũng chỉ là một cái tên ngụ ý như Pháp Tạng Tỳ kheo (tức Phật A Di Đà trong tiền kiếp) và Bồ tát Địa Tạng cũng như Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức) chỉ là những danh từ có tên không thực, tượng trưng cho tâm con người mà thôi.

Còn địa ngục là gì ? Theo Phật học đại Từ điển thì địa ngục (tiếng Phạn là Naraka hay Niraya) có nghĩa là nơi chứa đầy khổ não, chốn tù đày chẳng lúc nào yên vui cần phải được thoát ly ra khỏi. Mà địa ngục sâu kín nhất trần gian chính là địa ngục thiết lập trong tâm hồn của mỗi cá thể. Đó là thứ địa ngục khổ hơn mọi thứ địa ngục và cũng xuất phát mọi quang cảnh khổ đau nơi trần gian. Khi ngọn lửa tâm tư bùng cháy trong mỗi cá nhân thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không sao dập tát nổi. Bởi tâm trạng của thế giới loài người là phản ảnh trung thực của đời sống nội tâm và cộng nghiệp của nhân loại là tổng số các biệt nghiệp của từng cá nhân. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tuỳ thuộc vào sự biến đổi của tâm thức mỗi người và của toàn thể quần chúng. Khi đôi mắt đã đỏ ngầu cuồng vọng tham tàn thì cảnh vật bên ngoài sao không ngập tràn khói lửa ? Nhìn tha nhân qua sương mù cách biệt, ảm đạm, thì sao thấy được cảnh đời lung linh mầu sắc ? Trái lại, nếu dùng con mắt Phật mà “từ nhãn thị chúng sinh” thì sao còn diễn ra cảnh đâm chém giết nhau trên chiến trường không thương xót ? Đeo cặp kính màu đen thì cảnh vật hiện ra trong một mầu ảm đạm. Nhìn thiên hạ qua cặp kính màu hồng thì cõi trần gian này hoá thành Tiên cảnh, Bồng lai.

* Kinh A Di Đà cũng như Kinh Địa Tạng chứa đựng một chân lý: khuyên người đời nên trở về với Chân Tâm, diệt trừ vô minh để hiển bày Tự tính Di Đà hay Phật tính của mình. Với ý nghĩa trên thì Ngài Địa Tạng Bồ tát chỉ là một vị Bồ tát tiêu biểu cho những đức tính kiên quyết mong đạt tới Chân Tâm, bản tính của mình. Đó là người đã dùng trí tuệ Bát Nhã và ý chí sắt đã muốn diệt trừ phiền não, phá tan hắc ám vô minh để trở về với tự tính sáng suốt thanh tịnh của mình. Khi nào tâm ta buồn phiền, tuyệt vọng, bứt rứt, khổ đau, bị cuồng nộ vò xé, thì lúc đó ta đang sống trong địa ngục tối đen. Sống trong địa ngục vô gián là sống trong ngu muội, si mê triền miên, tâm bị đảo điên cuồng loạn. Người bị giam trong ba nghiệp thân, khẩu, ý cũng ví như người bị tù đày trong địa ngục thiết vi khó thoát.

* Kinh Địa Tạng nói: Trong việc cứu độ chúng sinh thì lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng thâm trọng hơn cả bốn vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm và Di Lặc. Ý Kinh muốn nói: Muốn được giải thoát khỏi khổ đau thì ngoài bốn đức tính: Trí tuệ (của Ngài Văn Thù), Hạnh nguyện (của Phổ Hiền), Đại Bi (của Quan Âm) và Đại Từ (của Di Lặc), còn cần phải có lòng dũng cảm, cương quyết và tinh tiến (của Địa Tạng) với hạt minh châu và cây tích trượng trong tay tiêu biểu cho Trí sáng suốt và lòng dũng cảm, quyết tâm thoát cảnh vô minh, ra khỏi ràng buộc của lục dục, thất tình, để được tự do, hạnh phúc.

Trong đoạn kinh nói về Bồ tát Địa Tạng nhận lãnh trọng trách cứu vớt chúng sinh từ thời Đức Thích Ca Niết bàn đến thời Đức Di Lặc ra đời, ý Phật muốn nói: Gặp thời mạt pháp, không có Phật tại thế thì phải nương tựa vào tâm mình. Quy y Bồ tát Địa Tạng của mình, mong được giải thoát phải có đủ hai điều kiện là Thệ và Nguyện.

Thệ là thề cương quyết hành động, không rụt rè lùi bước trước mọi khó khăn cản trở, do nội ma và ngoại ma thử thách lòng mình. Nguyện là phải thiết tha mong đạt tới mục tiêu. Muốn được thoát nạn, khỏi khổ đau mà không thề với lương tâm mình sẽ không tái phạm, lại chẳng cương quyết diệt trừ phiền não, vô minh thì không thể thành công được. “Nhất thiết duy tâm tạo” thì Cực lạc, Niết bàn hay Ta bà, địa ngục đều ở tâm ta và do ta tự tạo cả. Những gì ta tạo được thì ta cũng phá được, do đó chỉ có Bồ tát Địa Tạng của mình (hay tâm ta) mới phá được địa ngục do ta tạo ra, và chỉ có Phật A Di Đà của ta (hay tâm mình) mới dẫn ta tới miền Cực lạc được. Người theo về Lý bảo rằng: Nếu tin có Đức Địa Tạng và tin rằng Ngài có đủ  khả năng phá tan địa ngục để giải cứu cho chúng sinh có tội cũng như tin có Phật A Di Đà và tin luôn rằng Phật A Di Đà có thừa hùng lực dẫn dắt chúng sinh, dù nặng nghiệp về cõi Cực lạc Tây phương thì chẳng hoá ra luật nhân quả nghiệp báo lại chẳng có tác dụng sao ? Nếu sinh thời mà con người tha hồ gây tội ác, rồi ỷ lại, sau khi chết đã có người sống bỏ tiền ra thiết lễ cầu siêu đọc tụng các bộ Kinh A Di Đà và Địa Tạng, nhờ oai lực của Bồ tát Địa Tạng phá tan cửa ngục thiết vi để cứu vớt vong linh kẻ có tội ấy thoát khỏi địa ngục, rồi lại nhờ tha lực hùng hậu của Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp dẫn vong linh kẻ đầy nghiệp ác ấy về cõi Cực lạc Tây phương, thì chẳng hoá ra các Ngài lại nhận sự lạy lục, cúng dường của thân nhân họ mà cứu vớt họ thoát khỏi ngục tù và cho họ hưởng hạnh phúc đời đời hay sao ? Nếu muốn được giác ngộ giải thoát, diệt trừ vô minh để trở về với Chân Tâm thanh tịnh của mình thì bất cứ bộ Kinh Phật nào liễu nghĩa dùng để tụng cũng đều công hiệu cả, nhưng dùng Kinh A Di Đà và Địa Tạng để mong giải thoát khổ đau được kết quả hoàn toàn theo ý muốn của người sống thì khó đạt được lắm, bởi vì Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 7 có nói: Nếu thân nhân người quá cố biết cách cúng dường và tụng Kinh đúng phép thì trong bảy phần công đức, người chết chỉ được hưởng một phần, với điều kiện là thần thức của người chết biết hướng về Phật pháp, ăn năn sám hối, có Tín Tâm sâu xa, nghĩa là tha lực phải cộng với tự lực mới mong được cứu vớt. Ta nên biết rằng trong lúc ta nằm mộng khi còn sống, hay thời gian sau khi chết, còn ở trong thân trung ấm, thần thức chưa đi đầu thai kiếp khác thì Tiềm thức trở thành Thức và lúc đó là thời gian quyết định cho cuộc đời sau của mình. Nếu trong đời vừa qua ta làm được nhiều việc thiện thì Tiềm thức tạo ra những giấc mơ êm đềm đưa hồn ta vào cõi Niết bàn tưởng tượng, nhưng nếu trong cõi đời qua, ta lại làm nhiều điều ác thì sẽ có những giấc mộng hãi hùng đưa hồn ta tới địa ngục tưởng tượng để phải chịu cực hình. Song nếu Niết bàn hay địa ngục chỉ là những nơi tưởng tượng thì sự khổ đau, sợ hãi hay sung sướng, mừng vui trải qua trong thời gian đó, đối với người trong cuộc lại là sự thực, cũng như lúc thôi miên, Pháp sư tạo ra những cảnh vui buồn, sướng khổ tưởng tượng, song kẻ bị thôi miên lại cảm thấy thật sự có buồn vui, sướng khổ trong cơn hôn mê, chẳng khác nào kẻ bị mê sảng phải chịu cực hình trong cơn ác mộng vậy. Những hành động thiện hay ác đều để lại trong A lại da thức hay Tiềm thức những tấm âm bản (Plaque négative) hay hạt giống để hiện hình trong kiếp sau như những tấm âm bản trở thành dương bản trong cuốn phim ảnh được chiếu ra.

Như vậy thì sướng hay khổ, Cực lạc hay Ta bà đều do tâm tạo, và Đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát Địa Tạng cũng do tâm ta tạo ra mà thôi. Ta không làm điều ác chẳng phải vì lo sợ Trời, Phật bắt tội, phải chịu hình phạt đoạ địa ngục. Ta phải hiểu rằng chính bản thân ta phải trả giá đắt vì những hành vi phạm tội của mình.

Khi ta làm điều thiện thì gây được quả báo tốt lành cho mình được hưởng, dù ta không lưu tâm đến việc thiện đó. Cũng chẳng phải là Phật, Trời đã ban phúc cho ta khi ta làm điều lành. Chính ta tự ban thưởng cho mình nếu ta làm được điều thiện. Nghiệp báo là mối quan hệ theo luật nhân quả và biểu hiện cho hai phương diện: hoạt động tâm lý và hưởng thụ hoạ phúc. Người toạ nghiệp lành làm cho mình thành người tốt và tự cảm thấy mình được hạnh phúc do việc làm của mình gây ra, còn người tạo nghiệp ác thì trái lại.

* Nếu hiểu rõ lý “Nhất thiết duy tâm tạo” thì ta quyết phải thực hiện lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, dù việc làm của ta không ai chứng kiến, ta cũng cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác. Ta chẳng quan tâm, lo buồn vì đại nghĩa chưa thành, và quả tu chưa viên mãn tới lúc lâm chung. Hoặc nếu ta đã trót gây nghiệp ác lúc sinh thời thì ta cũng chẳng nên nghĩ rằng chết là hết, bởi lẽ bánh xe nhân quả nghiệp báo vẫn âm thầm lăn đều qua không gian và thời gian.

Kính thưa quý vị,

Trong phần bình luận về Kinh Địa Tạng ở trên, tôi đã đưa ra những ý kiến khách quan và tương phản của hai phái: một bên thiên về Sự Tướng, tin có Bồ tát Địa Tạng bằng thịt, bằng xương; một bên thiên về Lý Tính, cho rằng vị Bồ tát ấy tượng trưng cho tâm con người muốn tích cực thoát ly đau khổ, diệt trừ vọng niệm để trở về nguồn thanh tịnh của bản tâm hồi nguyên thuỷ. Cả hai phái đó đều lấy Kinh Địa Tạng làm căn bản để biện minh cho lập trường của mình. Một bên theo nghĩa đen, một bên theo nghĩa bóng; một bên theo Sự Tướng hay pháp Hữu vi, một bên theo Không Tính hay pháp Vô vi; một bên hướng ngoại cầu Tha lực, nặng về lễ bái, tín ngưỡng (như phái Sự trì danh của tông Tịnh độ thuần tuý), một bên thì xoay ngược luồng nhãn quang, hướng nội, nương vào Tự lực, quán chiếu tự tâm, hay “minh tâm kiến tính” (như phái Lý trì danh hiệu Phật của Thiền Tịnh song tu); một bên tu theo Phúc, một bên tu theo Tuệ, nhưng Tính Tướng vốn Bất Nhị, Lý Sự vốn không hai, bên nào cũng làm theo lời Phật dạy cả. Bởi vậy, người tu, tuỳ theo tình cảm và trình độ của mình mà chọn lối tu, không nên bài bác lẫn nhau. Tốt hơn hết là nên theo cả lối tu Phúc lẫn tu Tuệ, luyện cả Bi lẫn Trí, chẳng nên bám chặt vào Có hoặc Không. Theo về Sự hay tu Phúc thì được quả báo tốt lành, được sinh về Cõi Tây phương Cực lạc, tiếp tục đường tu, không sợ chướng ngại làm cho tâm thoái chuyển. Cho nên những vị Đại Bồ tát như Di Lặc, nhất sinh bổ xứ, tuy đã ngộ được tâm thanh tịnh rồi, nhưng vẫn tiếp tục hành trì tu Phúc, chuyên cần niệm Phật A Di Đà, cầu được vãng sinh Tịnh độ, không bỏ lỡ cơ hội nào chẳng lập đức bồi công, sáu thời siêng năng sám hối để tiêu trừ sạch nghiệp chướng tế vi cho mau chóng đạt tới ngôi chính đẳng, chính giác, đủ cho chúng ta thấy không thể bỏ Sự mà thuần theo về Lý được.

Với công đức thậm thâm vi diệu của sáu chữ hồng danh, cộng với sự tinh tiến hành trì thì mỗi câu niệm Phật diệt được một phần vô minh, trừ được một phần phiền não, hưởng được hai phần Phúc – Trí, lần lần hành giả đi sâu thêm vào cảnh giới thanh tịnh Chân Như.

CHƯƠNG 10: NHẬN ĐỊNH VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA TỊNH ĐỘ TÔNG, THIỀN TÔNG VÀ DUY THỨC TÔNG.

Tu Tịnh độ (thuần tuý) là hướng về ngoại cảnh hay hành Pháp tướng, nương vào Tha lực bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để trút bỏ phiền não, nhiễm ô, mong đạt tới Niết bàn Tịnh độ. Tu Thiền là hướng về nội tâm, hành Pháp tính, dựa vào Tự lực, quán sát tự tính để diệt trừ chúng sinh tính trong lòng mình, mong cho tâm tỏ ngộ.

Nếu Tịnh độ chủ trương Tin là tất cả, và tình cảm là then chốt, thì Thiền nhấn mạnh vào điểm “Thấy” (Kiến) bằng trực giác tâm linh, và quen dùng khối óc hơn là con tim.

So sánh hai pháp môn Thiền và Tịnh, ta thấy pháp môn Tịnh độ với phương pháp niệm hồng danh Phật A Di Đà thật là thuận tiện, giản dị, dễ tu, nhờ được Tha lực gia hộ nên ít bị chướng ngại, dù có gặp chướng ngại cũng dễ dẹp tan.

Còn tu Thiền, cậy vào sức mình, thường gặp nhiều cam go thử thách, chẳng hạn phải suy nghĩ nát óc để tìm giải đáp cho một câu thoại đầu hay công án bí hiểm, phải mất hàng tháng hàng năm ấp ủ canh cánh bên lòng, mà chẳng thấy tia sáng chân lý đâu cả. Bởi thế nên có câu: “Khô mộc đường Thiền thác lộ đa”. Y nói tu Thiền cậy vào tự lực thường gặp nhiều nỗi nguy nan, trong khi tham công án hoặc quán thoại đầu thường bị mất ăn, bỏ ngủ, tinh thần căng thẳng, xác thân khô đét như cây khô mộc, gặp phải nhiều chướng ngại khó vượt qua.

* Nhưng nếu bảo Thiền chỉ dựa vào Tự lực mà Tịnh độ tông hoàn toàn dựa vào Tha lực là vô tình đã đánh giá thấp pháp môn Tịnh độ bởi đã bỏ quên một yếu tố quan trọng của pháp môn trì danh hiệu Phật, là ý chí sắt đá của hành giả để mong tiến tới đích. Đáng lẽ phải nói: Tịnh độ tông nhờ vào ý chí cương quyết của người tu trong việc trì danh hiệu Phật tới chỗ nhất tâm bất loạn, tức là trông vào quyết tâm của mình để diệt vọng quy chân, lại còn được nhờ vào năng lực hộ trì của chư Phật và Long Thần hộ pháp mới được sinh về cõi Cực lạc Tây phương. Như vậy thì ngoài Tự lực của hành giả vốn có hạn, lại còn được nhờ vào Tha lực vô biên của Phật và Thánh chúng nữa thì lo gì mà chẳng thấy được bản tính chân tâm của mình ?

Pháp tướng dễ hành trì nhưng tiến chậm. Pháp tính khó tu hơn, lại đòi hỏi phải có lợi căn, nhưng tiến mau hơn. Tuy nhiên tới chỗ cùng đường thì hai bên lại gặp nhau ở chỗ Sự Lý viên dung, Sự Sự vô ngại.

* Tịnh và Thiền, bề ngoài dường như mâu thuẫn song bề trong đã đồng nhất trong sai biệt, để dung hoà hiện thực với siêu nhiên. Nếu Thiền là lắng đọng tư duy, và Định là tập trung tư tưởng, không để cho niệm lự dấy lên, và thắp sáng ngọn đèn chính niệm để duy trì thường trực tính năng biết nhiệm mầu hay tri kiến của mình, thì người tu Tịnh độ lúc nào cũng ở trong Thiền định, vì hành giả luôn luôn ở trong tĩnh lặng của Thiền. Ý của hành giả không đuổi theo trần cảnh và tâm của người này nhiếp câu niệm Phật trong định. Người tu không duyên theo vang bóng của việc đã qua, không lo nghĩ về hoàn cảnh hiện tại, cũng chẳng mơ tưởng đến việc vị lại: đó là Thiền. Người tu lía sắc tướng và chuyên cần trì danh hiệu Phật: đó là Định. Hiểu biết các căn, trần, và thân khẩu ý của mình đều trong sạch, đêm ngày hướng về cõi Phật, và lúc nào cũng ý thức được công việc mình đang làm: đó là Thiền Định. Nếu Thiền Định là phương pháp nhiệm mầu để thoát lý mối tương quan Tâm Cảnh, siêu lên ý niệm nhị nguyên để đạt tới tâm điểm của thực tại nhất nguyên, thì niệm Phật cũng là phương pháp đễ dẫn tới Niệm – Vô niệm, Vô niệm – Niệm, thoát ly sự phân chia chủ khách, ra khỏi sự khuấy động của tạp niệm để tới chỗ chính niệm, chính định và đạt lý Nhất nguyên, Bất Nhị.

* Niệm Phật với tâm vô niệm cũng giống như tham Thiền nhập Định để thể nhập vào tự tính thanh tịnh của mình, hoà tan vào bản thể của vũ trụ. Như vậy tu tịnh nghiệp cũng gồm đủ cả Giới Định Tuệ, Văn Tư Tu, và Thiền Tịnh nào có khác gì nhau ? Do đó, người tu tịnh nghiệp đương nhiên hành cả pháp Thiền hay thực hiện cùng một lúc pháp môn Thiền Tịnh song tu. Ngày đêm, trong bốn oai nghi, hành giả niệm Phật trong lúc đi, niệm Phật trong lúc đứng, lúc ngồi, lúc nằm, biết rõ lúc nào mình cũng đang niệm Phật. Hành giả ý thức rõ ràng công việc mình đang làm, bất cứ lúc nào, như vậy hành giả đã thực hiện công phu Thiền ở mức độ cao vậy.

– Xét trong Phật giáo Tiểu thừa có phép tu Tứ Niệm Xứ (Sattipattana) mà niệm Phật với Niệm Xứ khác gì nhau ? Thiền (tối thượng thừa) của Trung Quốc, so với Tứ Niệm Xứ của Ấn Độ và phép Niệm Phật giống nhau về mặt lý thuyết. Kinh A Di Đà nói đến bốn cảnh miền Cực lạc thì trong Thiền cũng có bốn cảnh của Thiền. Tịnh độ dạy Niệm Phật với nhất tâm bất loạn, chẳng khác nào người ngồi Thiền ở trong Đại Định. Thiền có Định của Thiền thì Tịnh cũng có Định của Tịnh. Chỗ “Nhất tâm bất loạn” của Tịnh so với “Nhất hạnh tam muội” của Thiền, nào có khác gì nhau ?

Mục 6: Nghi vấn về mâu thuẫn giữa Tịnh với Thiền.

Có nhiều nghi vấn giữa Tịnh độ tông và Thiền tông cần được soi sáng để phá bỏ những chỗ mờ ám tối tăm:

1.- Thiền tông cho rằng: Niệm Phật là có tướng hữu vi. Muốn đạt tới Vô tướng, Vô vi của Chân Tâm, Thể tính, không thể dùng lối niệm Phật được.

– Để trả lời câu chỉ trích trên, phái Tịnh độ cho rằng: Thiền sư khi ngồi Thiền, lúc tham thoại đầu hay giảng pháp đều không ở trong cảnh Hữu vi sao ? Nếu cho rằng Vô vi là làm những việc hữu vi mà không lưu ý đến việc mình làm thì Vô niệm cũng vậy, vì Vô niệm xuất phát từ đáy lòng mình, không từ căn trần hữu lậu. Vô là Thể của Niệm. Niệm là Dụng của Vô. Người đạt tới công phu, Niệm – Vô niệm, Vô niệm – Niệm, thì đã tới được chỗ Niệm Vô vi rồi. Khi ấy người niệm Phật thấy mọi pháp mà không bị nhiễm tướng của các pháp bởi vì hành giả đã lấy Tuệ Bát Nhã chiếu soi. Niệm trước, niệm sau cứ mặc chúng tự nhiên lui tới. Ác niệm đến thì tự tiêu. Thiện niệm đến thì hành động, làm xong lại xả: Hành giả ở trong trạng thái Chân Tâm, như bóng soi gương mà chẳng dính vào mặt gương nên không tạo ô nhiễm. Niệm mà như không niệm, không niệm mà vẫn niệm, như thế gọi là Vô niệm. Khi nói “Niệm – Vô niệm”, người ta đã dùng cái Không để vô hiệu hoá cái Hữu, nhưng khi nói “Vô niệm – Niệm” người ta đã dùng cái Bất Không để vô hiệu hoá cái Không. Hành động Niệm được Không hoá bằng Vô niệm. Đến lượt Vô niệm lại bị phá huỷ bằng Bất Không (tức Hữu niệm) đẻ cho lý Bất Nhị hay Trung Đạo, hoặc Chân Không Diệu Hữu tỏ bày. Đó là Vô Tâm mà Niêm. Niệm Vô Tâm không mong cầu gì cả thì Sự Lý viên dung, Năng Sở hợp nhất, một tấm gương phản ảnh vào một tấm gương, Chủ thể nhập vào đối tượng, nhạc sĩ nhập vào cây đàn, hoạ sĩ nhập vào bút vẽ, thi sĩ nhập vào nguồn thơ, người niệm nhập vào Đức Phật của mình. Niệm như thế gọi là “Vô niệm – Niệm, Niệm – Vô Niệm”, chứ chẳng phải tuyệt đối bỏ hẳn ngôn ngữ, hành động, sống như khúc gỗ, tảng đá vô tri mới là Vô niệm. Niệm – Vô niệm là đi sâu vào thế giới tâm linh vô sai biệt và vô phân biệt mà không qua cửa ải phân biệt Niệm với Không niệm, tức là không chặt đứt mối dây liên hệ với đời sống hàng ngày của mình. Niệm như vậy còn có ý nghĩa là niệm mà không dụng công, niệm một cách tự nhiên, như mây bay gió cuốn, hữu vi một cách vô vi, và vô vi một cách hữu vi, cho nên không tác động vào bản thể tự nhiên vốn bất động. Vì không còn tướng niệm nên không cần dụng công diệt trừ ta niệm và nuôi dưỡng chính niệm. Ta đã thanh tịnh trong suốt như gương thì tâm không ngại cảnh, cảnh chẳng ngại tâm, sự sự đều vô ngại, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đó là diệu dụng của tâm Bồ đề. Cũng như Hành – Vô hành, hay Hành vô biệt niệm thì tâm không phân biệt, không gây nhân quả vô diệt vô sinh, thể nhập vào hiện tiền, cắt đứt được tư duy, do đó phá được cái Ta, và hoà đồng Khách Chủ vào Chân Thể của sự vật.

2.- Có người lại đặt nghi vấn: Muốn thấy tướng Vô tướng của các pháp, phải dùng Vô tướng, Vô  niệm, nhưng pháp môn Tịnh độ lại dùng lối Hữu tướng, Hữu hình, để đạt tới chỗ có hình tướng là cảnh Cực lạc Tây phương cùng Phật A Di Đà, như thế phỏng có trái lý Thực tướng Vô tướng của các pháp chăng ? Bởi vì Chân tính thì Vô tướng, mà đã Hữu tướng, hữu hình thì không thể là Chân tính được. Lấy cái hữu hình thì nắm bắt sao được cái vô hình tướng ? Hình ảnh viên ngọc tươi thắm trên núi lửa và bông sen nở trên đống than hồng là những hình ảnh mô tả sự nhiệm mầu của Chân Tâm chỉ đạt tới do một tâm trạng vô tướng, vô tác, vô đắc, vô cầu, bởi thế mà Thiền tông đã dùng bài thơ sau đây để chỉ cái khó đạt được của Chân Tâm Pháp tính, nếu dùng lối hữu tướng hữu niệm của phái Tịnh độ tông:

Diệu tính hư vô bất khả phân.

Hư vô tâm ngộ, đắc hà nan ?

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

Liên phát lô trung thấp vị can.

Dịch:

Chân tính hư vô khó đến nơi

Hư tâm mới đạt tới mà thôi.

Trên núi ngọc thiêu mầu còn nhuận

Trong lò sen nở sắc thường tươi.

– Xin thưa: Pháp môn Tịnh độ dẫn vào phương pháp niệm Phật và cảnh Cực lạc Tây phương, tự nó không thể đưa thẳng chúng sinh đến chỗ chứng được trực tiếp thực tướng “Không” nhưng nó lại có công năng dẫn chúng sinh đến cõi Tịnh độ, ở đó có hoàn cảnh thuận lợi để đưa tới chỗ chứng được thực tướng “Không” một cách dễ dàng, bởi vì ở thế giới Cực lạc Tây phương, chúng sinh chung sống với các bậc Hiền thánh trong một môi trường lý tưởng cộng nghiệp tốt lành, có đủ phương tiện để học hỏi giáo lý Không và thành tựu được Phật đạo một cách chắc chắn.

3.- Một nghi vấn nữa được nêu lên ở đây là nguyện vọng của người tu Tịnh độ được vãng sinh Cực lạc quốc, so với nguyện vọng của pháp tu Thiền để được thành Phật có khác nhau không ?

Thoạt nghe ai cũng tưởng rằng mục tiêu của phái tu Tịnh độ thua kém phái tu Thiền, nhưng xét kỹ ta lại thấy pháp môn Tịnh độ là nơi mà người tu theo bất cứ pháp môn nào cũng đều phải ghé qua trước khi đặt bước vào toà nha Như Lai. Nếu chưa được vãng sinh về cõi Tịnh độ thì chưa đạt được tâm Không, còn mang nặng ưu tư phiền muộn thì tâm chưa Định, đó là ý nghĩa của bốn chữ “Vãng sinh Tịnh độ”. Tâm còn mang nặng sắc, tài, danh, lợi, tham luyến nhiễm ô thì mong gì được thành Phật ? Như vậy ta đã thấy rõ chủ đích của pháp môn Tịnh độ là rũ sạch tà niệm để tâm được trong sáng và định ở chỗ sáng đó. Hễ có Định là có Tuệ và đây là cái mà kinh nói: “Hoa khai kiến Phật tức văn Phật thừa, đốn khai Phật tuệ…”. Thấy Phật là thấy được chân tâm bản tính, chuyển được Bát thức thành Tứ Trí, đổi được ba độc tham, sân, si thành ba pháp giải thoát Giới, Định, Tuệ và thắng được sáu tên giặc (lục căn hay lục thức) buộc nó phải hàng phục sáu pháp Lục độ, như vậy Tịnh nào có thua kém gì Thiền ?

4.- Lại có người cho rằng: Tịnh độ tông đặt niềm tin vào Tha lực, lấy đó làm điểm tựa cần thiết cho việc siêu sinh. Thoạt nghe, ta thấy Tịnh độ giống như Thiên Chúa giáo chỉ tin tưởng vào sự cứu rỗi của Chúa mà không tự tin ở sức của mình, nhưng xét kỹ, ta lại thấy không đúng như vậy, bởi vì tuy ở pháp môn Tịnh độ, người Phật tử phải tin vào Tha lực của Phật A Di Đà nhưng vẫn phải nỗ lực niệm Phật đêm ngày mới tới được chỗ “Nhất tâm bất loạn”. Ngoài ra hành giả còn phải tạo thêm nhiều phúc đức nhân duyên nữa, nhất là trong lúc lâm chung phải giữ sao cho “thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như vào Thiền định” mới mong được vãng sinh. Như vậy thì người niệm Phật tới mức độ ấy khác hẳn tín đồ bên Thiên Chúa giáo chỉ thuần ỷ lại vào ân sủng của Chúa để được đưa lên Thiên đường. Người tu Tịnh nghiệp ở trong trạng thái ấy cũng giống như tham Thiền trong chánh Định. Có khác chăng chỉ ở mức độ cao thấp mà thôi.

Theo kinh Hoa Nghiêm thì giữa Thiền và Tịnh, Lý và Sự, Tri và Hành vẫn có mối dây liên hệ mật thiết theo lý: Lý Sự và Sự Sự vô ngại pháp giới. Thiền tông và Tịnh độ tông cùng chung một mục tiêu: đưa hành giả vào trạng thái đại Định để phát sinh Tuệ giác. Việc tiếp dẫn của Phật A Di Đà về cõi Tây phương Cực lạc được coi như một chiếc cầu bắc ngang nối liền tâm linh của hành giả với Chân Như pháp giới, tức là nối liền tuệ giác siêu thoát của người tu với cái tâm đại đồng của vũ trụ. Đó là một thứ liên giác thể nhập, và với ý đó thì Thiền, Tịnh vốn cùng chung một điểm là phá chấp Ngã và chấp Pháp. Thiền tông và Tịnh độ tông không hề mâu thuẫn một khi cả hai tông đó đều cùng nhằm đạt tới Phật tính, Chân Tâm, một phái bằng lối niệm Phật với nhất tâm bất loạn, một phái bằng lối nhập định tam muội. Giây phút đột biến đạt đạo của Thiền Tịnh song tu, thấy Niết bàn, Tịnh độ ở tại tâm, ngay tại đây và ngay trong lúc này. Mối dây liên lạc giữa hai tông này được thắt chặt một cách cụ thể trên thực tế, bằng chứng là có những ngôi chùa mệnh danh là Thiền Tịnh Đạo tràng, ở đó có nhiều vị Thiền sư chuyên cần niệm Phật A Di Đà và quán tưởng cõi Tây phương Cực lạc để mong cầu được vãng sinh. Với pháp môn Tịnh độ lúc nào cũng làm chủ được tâm mình, và lúc nào cũng quan sát thiện ác chính tà, trong bốn oai nghi, lúc nào cũng niệm Phật thì sáu chữ hồng danh nhắc nhở hành giả phải  làm việc thiện, giữ tâm thanh tịnh, không để Căn, Trần, Thức dấy lên, và ba nghiệp thân, khẩu, ý được trong sạch thì chừng đó tâm định sẽ sinh tuệ. Như vậy thì người tịnh nghiệp sống sáu thời trong cảnh Thiền định, chứ chẳng phải chỉ ngồi Thiền trong chốc lát ở một nơi mà thôi.

Trong chốn tấp nập xôn xao, chung sống với đủ mọi hạng người mà vẫn niệm Phật. Tâm không dao động thì hành giả thực hiện được lối tu Thiền cao tột vậy. Nếu quan sát thật kỹ, thì trong pháp môn Tịnh độ bộ Kinh A Di Đà dạy phương pháp trì danh niệm Phật nghiêng về Sự tướng, như bộ Kinh Quán Vô Lượng Thọ lại dạy 16 phép quán, nghiêng về Lý tính. Với phương pháp thực nghiệm tâm linh, quán tưởng Phật A Di Đà cùng cõi Tây phương Cực lạc và niệm hồng danh Phật, thì pháp môn Tịnh độ, theo dòng Quán Niệm của Tổ Tụê Viễn gồm cả Thiền lẫn Tịnh, có đủ cả hai lối tu Đốn và Tiệm. Mục đích của Thiền là soi sáng ý nghĩa của sự sống, còn mục đích của Tịnh là thanh toán vấn đề sinh tử, hai bên bổ túc cho nhau. Thiền thì chủ trương nhìn thẳng vào tâm mình để nhận thấy tính mình là tính Phật, trong khi Tịnh độ tông lại nhằm tới cõi Tịnh độ (vốn là tâm mình) cũng để thấy rõ tính mình là tính Phật A Di Đà, cho nên Hư Vân Đại sư mới nói: Tịnh độ tông tức Thiền tông không khác, vì cả hai đều cùng chung một mục đích là thanh tịnh hoá tâm con người. Chỉ vì sau người đời quen thói phân biệt nên mới lấy niệm Phật làm Tịnh, và chấp Thiền định là Thiền, gây nên chia rẽ, chứ xưa kia Đức Phật Thích Ca đắc đạo có phân chia ra Thiền với Tịnh như ngày nay đâu ? Để bày tỏ lý Thiền và Tịnh tuy hai mà một, Tây Trai Lão Hoà Thượng mới để lại bài thơ sau đây:

Tức tâm là Phật, ý không ngoa.

Tịnh khác Thiền đâu ? vẫn một nhà.

Sắc hiển trang nghiêm mầu Diệu Hữu

Không kiêm vô ngại cõi hằng sa.

Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc,

Biển giác bao la đức hải hà,

Ngoảnh lại đường tu ai sớm tỉnh.

Nỗi thương ác đạo mãi vào ra.

* Thiền tông và Tịnh độ tông không có pháp môn nào cao thấp, hơn kém, nhưng về căn cơ thì Thiền tông có lợi cho hàng thượng căn, còn Tịnh độ tông lại nhiếp đủ mọi hạng người. Thiền tông không phổ cập đại chúng bằng Tịnh độ tông, nhất là trong thời đại ngày nay, tinh thần đạo đức của nhân loại sa sút, và số người hiểu rõ về triết lý cao siêu của đạo Phật còn rất hiếm, cho nên muốn đạt tới chính quả, hiện nay cần nên theo con đường Tịnh nghiệp mới mong khỏi sa đoạ.

* Cùng một pháp môn Tịnh độ mà ngày xưa được trọng thị hơn ngày nay chỉ vì bên cạnh Tịnh độ tông còn có Thiền tông. Hai pháp môn này, trong quá khứ đều song song phát triển. Nhiều vị cao Tăng đã theo Thiền Tịnh song tu và hiểu rõ lý niệm Phật, thấy được Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ và nhìn nhận rằng trong pháp môn này có Sự Lý viên dung, Sự Sự vô ngại. Tiếc rằng đến nay Thiền tông gần như bị thất truyền đường lối vào cửa Thiền chỉ có một thiểu số cao Tăng có thực tu, thực chứng lý Không, ẩn náu nơi rừng thẳm non cao, lánh cư ở những nơi khuất tịch, không gây được ảnh hưởng sâu đậm trực tiếp trong quần chúng cho nên pháp môn Tịnh độ thuần tuý mà vắng bóng Thiền, với lối trì danh hiệu Phật cầu vãng sinh Tịnh độ trở thành một lối tu của đại chúng, phần đông gồm những người ít học, già nua, ốm yếu, không tự tin, quen ỷ lại chẳng biết rằng trong mỗi chúng sinh đều có viên ngọc quý vô giá là Phật tính, Chân Tâm và với bảo bối đó thì cầu gì chẳng được ? Do đó, số đông Phật tử ngày nay tu theo pháp môn Tịnh độ mà chẳng hiểu lý thâm sâu của pháp vô lượng nghĩa này, một pháp khó hiểu, khó nói như lời Phật đã dạy. Muốn cho pháp môn Tịnh độ lấy lại được phong độ xưa thì ngày nay đành phải dựa vào Pháp Tướng Duy Thức học vậy. Căn cơ của người bình dân Việt Nam thời nay  chưa thích hợp với pháp môn nào khác ngoài pháp môn Tịnh độ và muốn cho người căn cơ từ bậc trung trở xuống thông hiểu được sự mầu nhiệm và ý nghĩa thâm sâu của pháp môn này thì không gì hơn là giải bày cho họ hiểu về thuyết huân sinh, huân trưởng và cộng nghiệp, biệt nghiệp của Duy Thức học.

* Vũ trụ quan của Phật giáo theo pháp môn Duy Thức được thiết lập trên nền tảng tự biến và cộng biến. Mỗi người sống trong một hoàn cảnh hay thế giới hiện tượng riêng gọi là thế giới Đới chất cảnh được nhận thức bằng giác quan riêng của từng cá nhân. Ngoài thế giới Đới chất cảnh còn có một thế giới Tánh cảnh, làm bản chất cho cái thế giới Đới chất cảnh của từng người và đó là thế giới của Thực tại tự thân, do Cộng nghiệp của chúng sinh thành lập. Mỗi cá nhân có một nghiệp lực riêng tạo ra hoàn cảnh của chúng sinh sống hay thế giới Y báo hoặc Tổng báo của chúng sinh ấy, và thân mạng hay Chánh báo của y. Hoàn cảnh và thân mạng ấy tiêu hoại đi, khi một giai đoạn sinh mệnh kết thúc, nhưng cái nghiệp lực kia vẫn còn cái đà tồn tại (élan vital) và phát sinh ra một giai đoạn sinh mệnh mới, gồm một căn thân mới sinh hoạt trong một Cộng nghiệp mới. Cái vòng sinh tử tiếp nối triền miên ấy gọi là Luân hồi. Thế giới bản chất Tánh cảnh hàm chứa trong Thức A lại da của mỗi chúng sinh, gồm có đủ cả phần Tánh cảnh (hay thế giới Thực tại trung thực) và phần Đới chất cảnh (hay thế giới méo mó của thực tại biến đổi theo sự sai biệt của từng cá nhân). Thức A lại da có tác dụng chấp trì sinh mệnh và chứa đựng tất cả những hiện tượng thực chất, cũng như những ảnh hưởng biến chất không để rơi mất. Thế giới Tánh cảnh ấy do A lại da thức của nhiều chúng sinh trong cộng đồng phát hiện, trong đó có phần phát hiện chung gọi là Cộng biến, và phần phát hiện riêng gọi là Tự biến. Xã hội của loài người là một hình thức Cộng biến do Thức A lại da của tất cả cá nhân trong tập thể tác động sinh khởi, hay do hoạt động (hoặc nghiệp lực về thân khẩu ý) của các cá nhân trong xã hội đó tạo ra. Xã hội (hay môi trường sinh hoạt) là Cộng biến, còn hoàn cảnh hay số phận riêng của từng người trong tập thể, do nghiệp riêng của mình trong tập thể tạo ra là Tự biến. Trong Cộng biến có Tự biến và trong Tự biến có Cộng biến. Mỗi cá nhân trong đoàn thể tuy cùng hưởng những quyền lợi về chế độ xã hội như nhau nhưng vì mỗi người có biệt nghiệp riêng và ý chí tự do khác nhau, hành động và suy nghĩ khác nhau, nên đã tự tạo cho mình những hoàn cảnh không giống người khác, kẻ sướng, người khổ chẳng đồng đều.

* Pháp môn Duy thức là một phương pháp đi từ Tướng vào Tánh, từ Sự đến Lý, một môn học phân tích tâm lý tỉ mỉ, nói rõ sinh tử, nghiệp báo, một môn học nghiêng về suy luận và lý trí. Hiểu được học thuyết Duy thức, ta thấy rõ tầm quan trọng của việc niệm Phật cầu vãng sinh, một công việc huân sinh, huân tập bằng hình ảnh và âm thanh (phương pháp nghe nhìn) nhằm gieo những chủng tử Phật cực giác và cực lành vào A lại da thức, và tác dụng của A lại da đối với 7 thức kia, do đó mới nhận thấy rõ sự thần diệu của việc niệm Phật là thanh tịnh hoá dần dần tâm con người. Bằng phương pháp niệm danh hiệu Phật, ta ngăn chặn không cho những chủng tử hữu lậu thuận lợi cho vô minh tà kiến nẩy nở, để chúng không được hiện hành tác hại nữa, và nhường chỗ cho những chủng tử vô lậu, vị tha, từ bi hỷ xả được sinh trưởng tiếp nối. Chủng tử có thể hoặc tồn tại, biến chuyển hay tiêu diệt. Chúng hiện hành để tạo nên những chủng tử mới biến chuyển từng sát na. Bởi A lại da thức là tổng thể của mọi chủng tử, và chính A lại da thức cũng luôn luôn biến chuyển theo luật Hằng Chuyển, cho nên bằng phương pháp niệm Phật, ta có thể làm cho A lại da thức khỏi bị nhiễm ô, và trang bị cho nó những hạt giống thanh tịnh, đưa nó tới giai đoạn chỉ còn thuần những chủng tử vô cấu, có cơ hội biến hành và tham dự vào một cộng nghiệp tốt lành. Đó là nguyên lý của công phu niệm Phật cầu vãng sinh để biến đổi biệt nghiệp và cộng nghiệp, hay đạt tới Chân Tâm, Phật Tính của mình, và mong chuyển biến cõi Ta bà thành nơi Tịnh độ.

* Nghiệp có thể Thiện, Ác hoặc Vô ký và mang tính cách cá nhân hay tập thể. Cũng bởi biệt nghiệp của từng cá nhân có mối tương quan mật thiết với cộng nghiệp của xã hội, cho nên mỗi hành động, ý nghĩ, tư tưởng của cá nhân gây hậu quả cho xã hội, cũng như những quyết định của xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cá nhân. Đóng vai trò trọng yếu cho sự tạo nghiệp là ý thức tự do của con người. Sự quán chiếu tự tâm và sự luyện tập những hình ảnh và âm thanh vào Ý thức và Mạt na thức, tạo nên những động lực có tác dụng chuyển biến tận gốc các Thức ấy trong căn để của A lại da thức, ở nơi tận cùng thâm sâu, trong Vô Thức của hành giả. Một ngày nào đó, bằng quán tưởng và niệm Phật, sự chuyển biến phát hiện, và khi ấy thì những chủng tử Phật tiềm tàng lu mờ từ lâu, dưới danh nghĩa là Tuỳ miên, bỗng trở thành rõ nét, và thành hình Phật trong sáng nơi tâm của hành giả đột nhiên bừng giác ngộ, biến đổi tâm Thức thành bốn Trí hay chuyển được A lại da thức thành Đại Viên Cảnh Trí để tự tách ra khỏi khối Cộng nghiệp luân hồi sinh tử. Sức mạnh khiến cho mặt nước Chân Như yên lặng bỗng nhiên nổi sóng gió, A lại da thức là những tác động vô thức của bản năng sinh tồn, lôi cuốn con người vào bóng tối vô minh, tạo nghiệp bất thiện. Bản năng sinh tồn ấy chính là các khuynh hướng âm thầm chấp ngã, chấp pháp, nhiễm đấy tính chất ích kỷ, mê mờ, do Mạt na thức gây ra từ khi con người mới sinh ra đời. Càng tạo nghiệp xấu bao nhiêu thì Dục vọng càng nẩy nở và ngã ái, ngã kiến, ngã chấp, ngã si… càng bành trướng hoành hành. Chống lại sức mạnh mù quáng đó là Ý chí Tự do Sáng suốt, tạo điều kiện cho những chuyển biến hướng nội, về mục tiêu Chân, Thiện, Mỹ để được giải thoát.

Trong Bát Thức Tâm Vương chỉ duy có Ý thức (thức thứ 6) là có khả năng tự do hoạt động, không bị nghiệp lực ràng buộc. Trái lại, nó còn có thể hoán cải được nghiệp nữa. Tuỳ theo nghiệp tốt hay xấu mà phạm vi hoạt động của ý thức hay ý chí tự do rộng hẹp khác nhau. Người mang nghiệp quá nặng nề xấu xa, sống trong một cộng nghiệp (môi trường) có nhiều nghịch cảnh, lại phải mang một tấm thân đần độn, ngu si, bị vô minh bịt kín ánh sáng chân lý do đó cũng ít có ý chí tự do. Ý chí tự do này tác động trên biệt nghiệp dễ hơn trên cộng nghiệp. Trên đường dẫn tới giải thoát, càng lên cao bao nhiêu, con người lại càng thoát ly được những cộng nghiệp xấu xa, hạn chế bớt ý chí tự do, và càng tiến đến những môi trường (cộng nghiệp) được hưởng một chế độ tự do rộng rãi hơn thì ý chí tự do được phát triển dễ dàng hơn. Sống trong cộng nghiệp con người không thể thay đổi được những định luật của thế giới cộng nghiệp, tuy nhiên vẫn có thể dùng những phương tiện thích nghi để tăng trưởng thiện nghiệp, tiêu trừ ác nghiệp riêng, do đó mà tuy cùng sống chung trong một nghịch cảnh nhưng nếu biết tu Tịnh nghiệp thì ít bị chi phối bởi môi trường chung mà vẫn được hưởng quả báo của một biệt nghiệp tốt lành hơn, so với những người cùng cảnh ngộ.

* Trên lập trường Tứ Đế thì Khổ Đế và Tập Đế liên quan đến bản năng sinh tồn mù quáng và bị luật nhân quả trói buộc chặt chẽ, còn Diệt Đế và Đạo Đế thì liên quan đến ý chí tự do sáng suốt và vấn đề tu dưỡng là để đối phó với luật nhân quả thiên nhiên khắc nghiệt, bằng cách chuyển nghiệp thành Nguyện, cố gắng gây thiện nghiệp để cải tiến sinh mệnh ngay ở kiếp này. Chính vì lẽ đó mà Phật khuyên chúng sinh nên nỗ lực thoát ly bản năng sinh tồn của tiên thiên mù quáng mà thực hiện cho được Ý chí tự do của Ý thức hậu thiên sáng suốt bằng tu đạo. Giữa hai nẻo thiện ác, con người có toàn quyền lựa chọn. Trên bước đường thăng hoa từ Cộng nghiệp với chúng sinh tiến tới Cộng nghiệp với Thánh hiền, từ Thức phân biệt nhiễm ô chuyển thành Tâm vô phân biệt thanh tịnh, từ tham lam ích kỷ, si mê tiến đến thấu triệt lý Vô ngã, Vô thường, hiểu rõ thực tướng “Không” bất biến của vũ trụ nhân sinh, tự do ý chí hay khí chất hậu thiên của con người càng ngày càng phát triển để chống lại khuynh hướng vị kỷ, và phân biệt bất bình đẳng, chỉ biết tuân theo mệnh lệnh của bản năng sinh tồn, hay của khí chất tiên thiên mù quáng. Tự do ý chí vừa là mục tiêu, vừa là công cụ. Là mục tiêu vì trước sau con người cũng phải tìm cách thoát ly đau khổ để được giải thoát,vì nếu không có tự do ý chí thì con người sẽ không tự lựa chọn được giữa hai nẻo Thiện Ác, và không thực sự đóng góp được vào công cuộc tiến hoá chung. Không thể cải thiện được nội tâm một cách sâu sắc. Không thể tự giác, tự độ, giác tha, độ tha, giác hạnh viên mãn. Tất cả sự chuyển biến đó đều do công phu của Ý thức của con người vẫn được hướng về nẻo Thiện bằng phương pháp Thiền định hoặc Niệm Phật để Ý thức được chuyển thành Tuệ giác hay Diệu quan sát trí, cùng với Mạt na thức được chuyển thành Bình đẳng tánh trí, đó là điều kiện thiết yếu để phá Ngã và Pháp chấp và trở về với Chân Tâm bình đẳng, vô phân biệt của mình hay được vãng sinh Tịnh độ, tức là được sống trong Cộng nghiệp tốt đẹp của thế giới Cực lạc Tây phương trong đó chỉ có toàn những vị Bồ tát thuần thiện, thuần lương.

Thoạt nhìn bề ngoài chúng ta không khỏi có cảm tưởng cho phương pháp niệm Phật và quán tưởng Phật đượm mầu sắc dị đoan, thần bí, nhưng nhìn kỹ, xét sâu ta thấy phương pháp này hợp với lý Y tha khởi và Viên thành thực tính của Duy Thức học. Bởi vì tâm niệm Phật là nhân lành, nguyện lực của Phật a Di Đà và nỗ lực niệm Phật của người tu là Tăng thượng duyên, cảnh giới Cực lạc hay tâm chân như thanh tịnh là quả. Đó là thế giới mà chúng ta góp phần xây dựng tạo thành. Nhân sao quả vậy. Không có Chính báo và Y báo nào tốt đẹp bằng Chính báo và Y báo ở cõi Tây phương Tịnh độ của Phật A Di Đà mà Phật tử hàng ngày thường quán tưởng và mong cầu về đó. Khi dùng phương pháp quán niệm thì hành giả thanh tịnh hoá được ba căn thân, khẩu, ý và dùng Sự để hiển Lý, tiến tới Lý Sự viên dung, hay tâm cảnh nhất như Bất Nhị. Bởi vì A lại da thức và những chủng tử nằm trong đó đều có năng lực phát sinh ra các hiện tượng tâm lý và vật lý, và chủng tử lại là nguồn gốc của mọi hiện hành theo luật nhân quả cho nên khi niệm Phật thì hành giả gieo vào tạng thức của mình những hạt giống Phật, được huân sinh huân trưởng tại đó, để đợi thời cơ thuận tiện phát khởi. Mỗi chúng sinh có một A lại da thức riêng nằm trong khối A lại da thức chung của toàn thể. Không có một A lại da thức nào tồn tại độc lập và biệt lập cả. A lại da thức nào hiện hữu là nhờ sự có mặt của A lại da thức kia, trong mối tương quan, tương duyên trùng điệp chỉ khi nào A lại da thức của một cá nhân trở thành vô cấu, do công phu tinh luyện lâu ngày để trở thành thật trong sạch, thì mới tách rời khỏi khối A lại da thức chung của cộng đồng chưa giác ngộ để nhập vào bản thể sáng suốt thanh tịnh của vũ trụ, hay nhập vào bản thể Chân Như Pháp giới. Nói khác đi, thì chừng nào công phu tu luyện niệm Phật của hành giả đã chín mùi thì người đó nhập vào Pháp giới tính, hay thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà và được chung sống trong Cộng nghiệp tốt lành của các bậc Hiền, Thánh. Trái lại, nếu công phu niệm Phật còn non thì các chủng tử Phật của người đó gieo mà chưa đủ điều kiện để hiện hành, sẽ rơi vào khối A lại da thức chung, trong đó có đủ thứ chủng tử thiện lẫn ác và tiềm phục tại đây. Tuy còn ở trong trạng thái chủng tử chưa hiện hành nhưng tất cả những chủng tử này vẫn tiếp tục chuyển biến không ngừng dưới hình thức được nhận định là bản thân của Cộng nghiệp.

Duy Thức học chủ trương rằng: sinh mệnh và môi trường đó chúng sinh hoạt động (hay Chính báo và Y báo) do cả hai loại A lại da thức riêng của cá nhân, và của chung toàn thể cộng đồng tạo thành. Đó là thuyết Cộng biến và Tự biến, hoàn cảnh sinh sống của cá nhân là Tự biến, và hoạt động của cộng đồng là Cộng biến. Then chốt của sự tạo thành một thế giới chính là nghiệp lực hay nghiệp cảm Duyên khởi. Thấu hiểu được tác dụng của Cộng biến và Tự biến của dị thục, ta mới thấy sự kiến tạo thế giới Cực lạc cũng như sự tạo lập một cõi Bồng lai hay Tịnh độ nơi hạ giới này là hợp lý, nhờ đó mà phá tan được mọi nghi ngờ về “nan tín chi pháp”. Vũ trụ quan của Phật giáo dựa trên thuyết “Duyên sinh Cộng nghiệp” hay “Trùng trung duyên khởi” ở vào thế động, rất phù hợp với tư tưởng tiến bộ và quyền bình đẳng, tự do của con người, không phân biệt mầu da sắc tộc, có thể dùng làm nền tảng để thực hiện lý tưởng hoà bình và đại đoàn kết của nhân loại trên toàn hành tinh này. Trên một quy mô nhỏ hẹp hơn thì một quốc gia lấy tín ngưỡng vũ trụ quan Duyên sinh cộng nghiệp làm điểm tựa, có thể đạt được một sự đoàn kết quốc gia sâu rộng giữa toàn dân trong nước, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo và có thể tạo lập được một nền văn minh nhân bản, hướng thiện, làm cho xã hội đó sớm trở nên hùng tráng, ấm no, hạnh phúc, bởi vì theo lý Duy Thức thì các hiện tượng sinh diệt từng sát na, hiện hành trở về chủng tử, chủng tử trở thành hiện hành, nương nhau mà huân sinh, huân trưởng, biến đổi theo luật tương quan, tương duyên, cho nên việc niệm Phật thường xuyên là cố để cho những mầm giống Phật hiện hành trong tâm của hành giả. Niệm Phật mà đạt tới điểm cao nhất, tới giai đoạn nhất tâm bất loạn thì quả Phật sẽ thành. Do đó mà khi ta thấu hiểu được lý nhân quả hay lý Y tha khởi của Duy Thức, ta không còn dám coi thường việc niệm Phật cầu vãng sinh và sẽ nhận thấy pháp môn Tịnh độ thật là tuyệt diệu.

* Tịnh độ tông gần với Duy thức tông bởi vì cả hai tông này đều cùng chủ trương tùng Tướng nhập Tánh. Tịnh độ tông dùng phương pháp niệm Phật để đi tới “Niệm – Vô niệm, Vô niệm – Niệm” mà ngộ được Chân Tâm, tức là gián tiếp đạt đạo quả bằng cách gieo mãi chủng tử Phật vào tiềm thức của hành giả, cũng như Duy Thức tông phải dùng Thức để truyền Thức, mượn ngôn ngữ hình danh để truyền đạo mà nhập vào Duy Thức tính, như vẽ hình con chim trên giấy tờ để lưu bóng con chim đang bay. Không như Thiền tông dùng Tâm truyền Tâm để ngộ đạo một cách trực tiếp, chỉ thẳng vào Tâm để trực ngộ Chân Tâm, không phải nhờ trung gian bất cứ một sự vật gì cả, cũng như chỉ thẳng vào con chim đang bay trên hư không mà chẳng phải mượn bút vẽ để lưu bóng con chim trên tờ giấy. Phương pháp của Duy thức là phân tích vạn vật thành 100 pháp để nhận thấy rõ vạn vật đều là nhân duyên giả sinh giả hợp, không có thực thể cố định. Đây là tướng Không, và khi đã đi tới chỗ rốt ráo thì cúng tới Chân Không, đồng một Thể tính với Tính Không của Thiền vậy. Cũng như người tu Tịnh nghiệp mà được vãng sinh Tịnh độ là được về nơi để luyện cho tâm trở về với Chân Như Pháp giới, kết quả không khác gì nhau. Tuy trên nguyên tắc Thiền tuyên bố bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền, nhưng trên thực tế Thiền vẫn phải dùng ngôn ngữ, văn tự làm phương tiện để khai tâm, dẫn đến chỗ ngộ nhập Thực tại vô ngôn, vô niệm. Du chưa nhờ Duy thức mà được chứng ngộ, nhưng người học Duy thức ngày nay có thể dùng sở học của mình về môn học này để làm cơ sở cho một đức tin vững vàng và lành mạnh để thực hành pháp môn Tịnh độ, và như vậy thì việc niệm Phật A Di Đà trở thành phần thực hành, còn phần lý thuyết lại do pháp môn Duy Thức soi sáng. Bởi vậy một học giả đã nói một câu rất có lý: “Học Phật ngày nay nên nghiên cứu về pháp môn Duy Thức vì nó phù hợp với khoa học thực nghiệm đương thời, còn phần thực hành thì nên theo pháp môn Tịnh độ”.

CHƯƠNG 11: NHẬN ĐỊNH VỀ THA LỰC VÀ TỰ LỰC

Vấn đề Tha lực và Tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi.

Đứng trước sức mạnh cuồng bạo của thiên nhiên, loài người tự cảm thấy mình nhỏ nhoi yếu đuối, sợ bị tiêu diệt, nên mới phải thần phục sức mạnh của tạo hoá và dựa vào Tha lực để an tâm lập mệnh. Đó là căn bản của bản năng sinh tồn mang nặng tính chất ỷ lại và vô minh, ngã si và vị kỷ. Nhưng mặt khác, trong con người biết suy nghĩ, lại có sức mạnh tinh thần quật khởi, có ý chí khát khao tự do muốn vươn lên để đòi hỏi con người phải ức chế dục vọng để tự cứu mình thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên nhất là ngày nay khoa học đã tiếp tay giúp loài người đoạt quyền tạo hoá trong nhiều lãnh vực, thì loài người đã cảm thấy rằng mình đã nhiều phen thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên.

Giữa hai lập trường trái ngược đó, hoặc là ỷ lại vào tha lực, thường thường là một đấng Thần linh cao cả, ban phúc giáng hoạ cho con người, giao phó tính mệnh của mình vào tay con tạo xoay vần, không còn tin ở tài sức của mình nữa, hoặc là chỉ dựa vào Tự lực vùng lên với tinh thần dũng mãnh để tự giải thoát, không cầu mong ở bất cứ ai. Còn một khuynh hướng thứ ba là dung hoà cả hai phái trên, đi theo con đường “Thần, Nhân hợp tác” hay “Tự tha đồng hiệp lực” (Synergisme). Trong Phật giáo Đại thừa, vấn đề Tha lực và Tự lực đã từng được nhiều nhà bình luận cổ kim tranh biện, làm nổi bật hai luồng tư tưởng khác nhau:

1.- Một đường thì thừa nhận chúng sinh nào cũng có Phật tính và khả năng thành Phật, do đó phải tìm cách phát huy năng lực sẵn có của mình: đó là lập trường của phái Thiền tông chủ trương “trực chỉ nhân tâm kiến tính thành Phật”, quy Tự lực vào một mối nhằm đạt tới Phật tính chân tâm của mình.

2.- Một đường thì tin rằng: Các vị Bồ tát đã sẵn có lòng từ bi và lập nguyện sâu dày cứu độ chúng sinh, nếu chưa độ tận chúng sinh thoát vòng khổ đau sinh tử, thì các Ngài quyết không thành Phật, cho nên chẳng ai lại dại mà không cầu Phật cùng các Bồ tát có thần lực hơn hẳn mình cứu giúp để được giải thoát: đó là lập trường của phái Tịnh độ tông và Chân ngôn tông, quy về nguyện lực của chư Phật và Thánh hiền.

Lập trường của Thiền tông là chỉ trông cậy vào chính mình. Khắc phục tự tâm để tiến tới giác ngộ, giải thoát. Những người tu Thiền phải là bậc thượng căn, hội đủ năm điều kiện thiết yếu sau đây mới mong đạt tới Thánh quả:

1.- Giữ giới trang nghiêm.

2.- Căn cơ bén nhọn.

3.- Thông hiểu giáo lý và phân biệt rành rẽ chân vọng, chánh tà.

4.- Có ý chí cương quyết tiến tới mục đích đã định, không chịu lùi bước trước mọi chướng ngại trên đường tu.

5.- Ngoài ra còn phải nương cậy vào một bậc Thiền sư dẫn đạo cho mình, tức là vẫn phải đi theo con đường “Tự, Tha đồng hiệp lực”. Tuy phần lớn nhờ vào ý chí sắt đá của mình để quyết định công phu tu tập, nhưng muốn chứng ngộ thì Thiền sinh phải tuỳ thuộc vào một yếu tố then chốt gọi là “Thời tiết nhân duyên bất khả tư nghị”, nghĩa là dù hành giả có nỗ lực tới đâu mà “thời tiết nhân duyên” chưa tới thì vẫn chưa thể chứng ngộ được. Bởi vì sự chứng ngộ là trạng thái bộc phát bất thần, cũng như hòn than hồng phải được thổi hay quạt vào để cho sức nóng của nó gia tăng tới mức độ cao tột, mới mong bốc thành ngọn lửa được. Có thể nói đó là một loại “Thần Khải” (Révélation). Sự bộc phát bất thần ấy tức là sự “hốt nhiên khai ngộ” mà người Nhật Bản gọi là Satori, là giây phút thần diệu, thiêng liêng xảy ra trong trường hợp đặc biệt mà người tu coi là một sự kiện mặc nhiên khai ngộ, siêu việt mọi suy tư, ngôn ngữ. Giây phút thần diệu thiêng liêng ấy chỉ đến với Thiền sinh vào lúc hành giả ở trong Đại Định hay Quán tưởng chín mùi, và chỉ riêng người chứng ngộ ấy tự biết mà thôi, cũng ví như người uống nước trà mới thưởng thức mùi vị đậm nhạt, thơm ngon và nóng lạnh của chén trà mình vừa mới uống. Như trên đã nói: tuy sự hốt nhiên khai ngộ là kết quả chủ yếu của công phu tu luyện bền gan lâu dài của hành giả, nhưng dù cho khắc phục, gian nan khổ luyện tới mức nào cũng vẫn chưa đủ, mà còn phải đợi “thời tiết nhân duyên” bất khả tư nghị kia tới với mình mới thành tựu được việc lớn hằng ước mong. Bởi thế cái “thời tiết nhân duyên” ấy đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong sự thành công của hành giả. Câu nói: “Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông” thường được dùng đến có nghĩa là Thiền sinh phải đợi tới lúc thời tiết nhân duyên đến với mình. Và câu “Thôi trác đồng thời” nghĩa là tình trạng quả trứng khi sắp nở, chim con trong quả trứng thôi thúc muốn thoát ra ngoài hì ngay lúc đó chim mẹ phải mổ vào vỏ trứng, làm cho cái vỏ đó rạn nứt mới giúp cho chú chim con phá được vỏ trứng vây bọc nó mà chui ra ngoài. Cảnh chứng ngộ của Thiền sinh cũng vậy, phải do nỗ lực song phương của hành giả phối hợp với Tha lực là thời tiết nhân duyên, trong ngoài nhất trí mới mong đạt tới giây phút thiêng liêng của sự Đại Ngộ. Như vậy thì Tự lực vẫn cần phải có Tha lực, nhưng ở vào mức độ có giới hạn, không ỷ lại quá đáng vào Tha lực mà thôi.

Xét về chủ nghĩa Tha lực, nghĩa là không tin ở tài sức của mình mà chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của một thế lực ngoại lai, thường là một đấng thiêng liêng nào đó, nhưng nếu không diệt được Tự ngã, tức là không từ khước được ý chí tự kỷ một cách triệt để thì không thể hướng vào tuyệt đối được. Cũng ví như người đi biển gặp nạn đắm thuyền, cố bám vào một mảnh ván trôi lênh đênh giữa biển khơi trong cơn giông tố, nghĩa là ở trong cảnh tuyệt vọng tột đỉnh chờ chết, không còn tin vào sức mình để được cứu thoát nữa, nếu không thiết tha mong cầu Thần lực của Thượng đế thì khó lòng thoát khỏi thuỷ tai. Muốn được cứu thoát tất phải nỗ lực xả kỷ và tinh tấn cầu nguyện lực của Phật để được giải thoát mà không tin tấn diệt trừ vọng niệm, cùng những nết xấu tật hư, chỉ niệm Phật suông mà thôi, trong khi vẫn buông thả cho lục dục, thất tình của mình làm càn thì tất nhiên không thể đạt được nguyện vọng. Cũng ví như người sắp chết đuối, chỉ còn cái phao để bám vào, nếu không biết giữ gìn cái phao cho tốt, lại còn phạm lỗi huỷ hoại cái phao đó thì Tha lực cũng khó hòng cứu nổi. Cuối cùng chúng ta đi đến kết luận: Tự lực vẫn phải nhờ vào Tha lực, và trong Tha lực vẫn có Tự lực hàm chứa. Tha lực với Tự lực chẳng qua chỉ là sự bất đồng trên mặt danh từ mà thôi, chứ thực chất thì không có sự phân khu biệt gì trong vấn đề đó cả. Trong Tự có Tha, trong Tha có Tự, chỉ vì câu nệ danh ngôn nên mới bày đặt ra Tự và Tha mà thôi. Cả hai đường lối Sự trì danh và Lý trì danh hiệu Phật A Di Đà đều đòi hỏi phải có sự nỗ lực quyết tâm vượt bậc vững tin ở tài sức của mình. Và cũng tin cậy vào cả nguyện lực của chư Phật gia hộ nữa. Có Tự lực dũng mãnh lại thêm được Tha lực gia hộ thì Tự lực ấy càng vững mạnh, tăng lên gấp bội và trở thành một sức mạnh vô biên, muốn gì chẳng được ? Như vậy thì bất luận dựa vào Tha lực hay Tự lực danh từ tuy khác nhau, song đều đưa tới kết quả là diệt trừ được phiền não, nhiễm ô, được giác ngộ, giải thoát, và chung cuộc, nếu dựa vào Tha lực lấy việc niệm danh hiệu Phật làm nhân, sẽ được hái quả Vãng sinh Tịnh độ, nghĩa là có Định thì có Tuệ, do đó mới nói rằng: Vãng sinh Tịnh độ tức là thành Phật hay là trở về với Chân Tâm, Phật tính của mình.

CHƯƠNG 12: PHƯƠNG PHÁP TU ĐỂ ĐƯỢC VÃNG SINH CỰC LẠC QUỐC HAY TRỞ VỀ VỚI CHÂN TÂM BẢN TÍNH CỦA MÌNH.

* Pháp môn Tịnh độ có bốn lối trì danh gọi là Tứ Hạnh, tuỳ căn cơ sở thích của người tu lựa chọn.

1. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà (không cần tụng kinh trì chú hay quán tưởng của Tịnh độ tông thuần tuý).

2. Niệm Phật A Di Đà kiêm tham Thiền, quán tưởng Phật cùng cảnh Cực lạc Tây phương của Thiền Tịnh song tu.

3. Niệm Phật A Di Đà (là chính) và tụng kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kim Cương, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, hoặc các phẩm Phổ Môn, Phổ Hiền hạnh nguyện (là phụ) của Giáo Tịnh song tu.

4. Niệm Phật A Di Đà (là chính) và Trì Chú Đại Bi, Vãng sinh, Chuẩn Đề, Lục Tự Đại Minh chân ngôn (là phụ) của Mật Tịnh song tu.

Dưới đây tôi chỉ xin đề cập đến hai lối tu Niệm Phật thuần tuý và Thiền Tịnh song tu mà thôi. Căn bản của pháp môn Tịnh độ để được Vãng sinh Cực lạc quốc, hay được trở về với Chân Tâm, bản tính của mình dựa trên phương pháp niệm hồng danh Phật A Di Đà và quán tưởng Phật với cõi Cực lạc Tây phương tới mức nhất tâm bất loạn.

Phật dạy: “Muốn được tiếp dẫn về miền Cực lạc phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà từ 1 đến 7 ngày lên tiếp và luôn luôn tưởng nhớ tới Phật A Di Đà. Phật thương chúng sinh như mẹ hiền thương con thơ dại, nếu con không nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì lòng mẹ nhớ thương con cũng thành vô ích. Với lòng đại bi, Phật thương nhớ chúng sinh, nhưng chúng sinh cũng phải nhớ tưởng tới Phật A Di Đà và mong cầu tha thiết được về quốc độ của Ngài, như hai mẹ con xa nhau lâu ngày cùng mong được tái ngộ. Đạo cảm ứng giao thông mới tạo được mối giao cảm, bằng không thì khó có được sự tiếp dẫn mầu nhiệm. Để đạt tới sự cảm thông ấy, thì người tu Tịnh độ, ngoài việc niệm danh hiệu Phật, còn cần phải tưởng nhớ tới Phật cho nên trong pháp môn Tịnh độ, ngoài lối trì danh hiệu Phật theo Sự Tướng, người tu còn quán tưởng Phật và cõi Tịnh độ Tây phương theo Lý trì danh hay lối Thiền Tịnh song tu.

* Trong đạo Phật, Thiền tông hướng về Trí, còn Tịnh độ tông lại hướng về Bi. Trí mà thiếu Bi thì cái Trí ấy khô cạn. Bi mà thiếu Trí là cái Bi mù quáng. Trong cuộc sống phải có đủ cả Trí lẫn Bi, dung hợp hài hoà, với mong tạo được hạnh phúc và giải thoát cho toàn thể sinh linh. Vì thế mà Thiền Tịnh song tu được coi là phương pháp lý tưởng của người tu để đạt tới đích: “Thượng cầu Bồ đề, hạ hoá chúng sinh” bằng con đường Lục độ và Tứ Vô lượng tâm của đạo Bồ tát.

Để ca tụng đường lối của Thiền Tịnh song tu, Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ của Liên Tông có bài kệ như sau:

Không Thiền tông, có Tịnh độ,

Vạn người tu, vạn người đỗ.

Thấy được Phật A Di Đà

Còn lo gì chẳng khai ngộ ?

Có Thiền tông, khôngTịnh độ,

Mười người tu, chín ngại khó.

Đến khi ấm cảnh bày ra

Nhắm mắt lại, nghiệp liền thọ.

Không Thiền tông, không Tịnh độ,

Chịu giường sắt, cột đồng đỏ.

Tu muôn kiếp với ngàn đời

Chẳng tìm được nơi nương tựa.

Có Thiền tông, có Tịnh độ,

Như thêm sừng cho mãnh hổ.

Đời hiện tại làm thầy người

Kiếp vị lai làm Phật Tổ.

Mục 7: Phương pháp tu của phái Tịnh độ thuần tuý.

* Niệm Phật thì Tâm được tĩnh lặng, buông xả mọi tạp tưởng, cũng như ly nước đục, muốn cho trong cần để yên lặng cho cặn nhơ từ từ lắng xuống. Trong khi niệm thì danh hiệu Phật phát xuất từ tâm thành tiếng ở miệng, tai nghe, tiếng lại trở về tâm. Tâm tưởng, miệng niệm, tiếng đậu ở tai, rồi lại trở về tâm phát xuất, cứ tuần tự diễn biến như thế, thì mọi tạp niệm đều chấm dứt. Muốn đạt tới cảnh “nhất tâm bất loạn” thì không có cách nào mới lạ cả chỉ cần một lòng tin kiên cố, rồi tập trung tâm lực toàn diện vào việc niệm danh hiệu Phật. Phải niệm sao cho tiếng niệm nọ tiếp nối với tiếng niệm kia không có kẻ hở. Việc tập trung tâm thức vào câu niệm Phật làm cho danh hiệu Phật trở thành một loại Thần chú (Dharani) có năng lực đưa hành giả tới điểm nhất tâm. Với niệm Phật chỉ cần một cái tâm chất phác, đơn thuần. Tin sâu, Nguyện thiết và Hành trì tinh tấn là đủ. Lâu ngày niệm lực càng mạnh sẽ tới được điểm nhất tâm bất loạn. đó là trạng thái ly Không Thời gian, xả bỏ tri thức một cách tuyệt đối, khiến không còn thụ cảm ký ức, khái niệm về thiện ác, sướng khổ, có không, Niết bàn, địa ngục, giác ngộ, mê mờ… gì cả. Lúc đó thì tâm dứt bỏ được vọng tưởng trở thành vô tâm, và thực hiện được cái Tâm hư, Vô trụ, Vô đắc, Vô cầu, Vô công, Vô danh…

* Khi còn sơ cơ, hành giả cần phải dùng xâu chuỗi và niệm thành tiếng rõ ràng, và ấn định thời khoá biểu hàng ngày để nhớ rõ câu niệm, lấy đó làm tiêu chuẩn, tiếp lên mãi mãi. Hành trì như vậy một thời gian cho quen, lâu ngày niệm lực thuần thục, hoá thành cảnh niệm mà không niệm, không niệm mà vẫn niệm. Tới được thói quen đó rồi thì không cần ghi số câu niệm cũng được và như thế thì lúc nào tâm cũng ở trong chính niệm, các vọng niệm không còn quấy phá mình nữa. Tâm lúc đó ở vào trạng thái “nhất niệm tam muội” hay “nhất tâm bất loạn”. Nếu lúc đầu đã vội đốt giai đoạn, không chịu qua cầu trước tướng, đòi được viên dung tự tại ngay trong khi vọng thức còn đương sôi nổi thì làm sao có được chính niệm ? Muốn đạt tới “nhất tâm bất loạn” bằng phương pháp trì danh hiệu Phật có thể niệm rõ ràng thành tiếng hay niệm thầm trong bụng bốn chữ A Di Đà Phật, hoặc thêm hai chữ “Nam mô” thành sáu chữ. Trì bốn chữ có lợi là dễ nhập tâm và niệm được nhiều câu. Trì sáu chữ có lợi là phát tâm thành kính và cảm ứng đạo giao dễ thành tựu. Có người chủ trương nên dùng tâm niệm thay cho khẩu niệm vì niệm lâu dễ mỏi. Không ai có thể niệm thành tiếng suốt đêm ngày dù chỉ là niệm nhỏ tiếng. Bởi vậy, nếu không niệm to tiếng để buộc tâm viên ý mã không cho nó được tự do rong ruổi trong buổi sơ cơ thì dùng lối Tâm niệm quả là dễ đạt tới điểm nhất tâm bất loạn, bởi lẽ với Tâm niệm, hành giả nhiếp được tâm trong chính niệm. Niệm niệm Phật không dứt thì xua đuổi được tạp niệm, dễ đạt tới Niệm – Vô niệm, Vô niệm – Niệm, tức là luôn luôn ở trong chính niệm vậy.

* Niệm Phật theo sự Tướng (hay Tịnh độ thuần tuý) chủ trương dựa vào niềm tin hơn là luận giả. Tín là chính yếu và Nguyện là phụ thuộc. Trên thực tế, đối với người sơ cơ cần phải có Nguyện và Hành để bồi đắp cho đức Tin thêm vững bền. Tin là nguyên lý của trường phái Tịnh độ tông và Mật tông và cũng là lập trường của Tổ Từ Mẫn Tuệ Nhật của Liên tông đời Đường bên Trung Quốc. Có vững tin mới đưa tới trạng thái nhất tâm bất loạn và như thế thì mới đạt tới kết quả của công phu niệm Phật như sau:

Xét ra niệm Phật dễ mà không.

Khẩu ý buông lung giữ chẳng đồng.

Miệng niệm Di Đà, tâm tán loạn.

Dù cho khán cổ vẫn hoài công.

* Niệm Phật chân chính phải là niệm với tinh thần “tam luân không tịch” nghĩa là không còn năng và sở niệm, nhân và quả niêm, Ngã và Pháp niệm nữa.

* Để thức tỉnh những ai niệm Phật đừng rơi vào vọng niệm, và có được tinh thần “tam luân không tịch” nói trên, chư Tổ đã dùng câu thoại đầu: “Người niệm Phật là ai ?” làm cho hành giả phải giật mình tỉnh ngộ và thốt lên rằng: “Ủa! Không phải là tôi niệm, mà là ma chướng nào đã nhập vào tôi để niệm rồi!” . Bấy lâu nay mình vẫn chủ trương diệt Ngã và biết rõ là không có người niệm (Vô ngã) sao nay lại còn mê muội chấp là có người niệm ? Bởi vì cái mớ ngũ uẩn và phương tiện để tu hành đều do nhân duyên gọi là kết tụ mà thành, đâu phải là thật có bền lâu không hề biến đổi ? Cái Tôi chân chính (Chân ngã) vốn xưa nay bất động không hề niệm, vậy thì ai niệm đây ? “Người niệm” là ai ? và ai sẽ được về Tây phương Cực lạc ? Xét cho kỹ, nghĩ cho cùng thì chính cái Giả ngã hay cái nhóm ngũ uẩn giả hợp nó vọng niệm, chứ đâu phải là Tôi hay cái Chân ngãniệm ? Niệm tức là động, động thì tức quai, không còn là chân nữa. Nói cách khác thì chính cái “Tác ý” phát minh ra nguyện lực thiết tha mong cầu được về Tây phương Cực lạc đã kết duyên với Tín Tâm tạo thành động lực thúc đẩy làm công việc niệm Phật, lại nhờ những trợ duyên là Tinh tiến, Tự lực và Tha lực tạo thành cái nhân duyên hay người niệm, đưa tới trạng thái thanh tịnh của tâm là cái quả hay kẻ thụ hưởng cảnh vui Niết bàn. Ngoài Tác ý và Thọ là hai yếu tố tinh thần trong nhóm năm Tâm Sở biến hành (là Tác ý, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư) hoặc Thức và Thọ là hai yếu tố tinh thần trong nhóm ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) một gây nhân, một hưởng quả, ngoài ra không tìm thấy bóng dáng người niệm Phật và kẻ được về Cực lạc Tây phương. Hai yếu tố đó chỉ là những huyễn ảnh do tâm con người tạo ra mà thôi. Sở dĩ phải có những cái huyễn đó thì mới đạt được tới cảnh giới Niết bàn Tịnh độ, hay trở về với chân tâm bản tính của mình vốn là Tâm Phật. Song những thứ này vẫn là những huyễn pháp ở bậc cao hơn mà thôi ; bởi vì không có thực pháp nào làm nhân để tu hành, cũng không có thực pháp nào làm quả để chứng ngộ cả, chỉ vì chúng sinh đã có sẵn đầy đủ trong tâm mình hạt giống Bồ đề từ vô thuỷ. Ta với Phật đếu có giác tính như nhau.

Ta chỉ khác Phật ở chỗ cam tâm sống mãi trong mê mờ tối tăm mà không chịu thắp sáng ngọn đèn lòng hay tri kiến của mình để nhìn thấy chân lý mà thôi. Người ngộ đạo phải niệm Phật với tinh thần phá ngã, phá pháp, triệt để như vậy mới đúng với câu: “Tu như huyễn pháp, hành như huyễn sự”.

* Cũng như cống án Thiền: “Ai là người niệm Phật” thì chữ Ai (chỉ vọng ngã, vọng thức hay chúng sinh khi còn mê) tức Tác ý hay Thức là nhân để tu hành, và chữ Phật (chỉ Chân Tâm, Chân Ngã hay chúng sinh khi đã giác ngộ) là Thọ hay Quả của công việc tu hành. Từ mê đến ngộ là quãng đường hành trì để phá vô minh vọng thức, triệt để phá chấp ngã và chấp pháp, để mong chứng được “đệ nhất nghĩa Không” hay thấy được Chân Tâm, Phật tính của mình. Khi còn là chúng sinh mê muội thì Ai niệm Phật chưa phải là Phật. Lúc đã ngộ rồi thì Ai tức Phật, và Phật tức Ai. Nếu còn phân biệt Ai và Phật là hai đối tượng năng sở, chủ khách, nhân quả, khác nhau thì còn chưa hiểu được lẽ “Tức Tâm tức Phật”, “Chúng sinh tức Phật, phiền não tức Bồ đề”, “Ta bà tức Phật độ” và “Phật vốn là tâm luống phải tầm”, và như vậy là còn giữ nguyên ranh giới giữa Tâm và Cảnh, Kiến phần và Tướng phần, chưa thực sự diệt được Ngã và Pháp, chưa thực hiện được cái lý “Tương tức, Tương nhập”, “trùng trùng duyên khởi”, hay cái “lý Bất Nhị”, “Chân Không Diệu Hữu”, và “Sự Sự nhất thiết vô ngại”.

Sau đây là bài thơ để hiển bày cái lý thâm sâu đó:

Đừng tìm Cực lạc với Di Đà.

Tịnh độ, Ta bà vốn ở ta.

Giác tính không phân chia cao thấp.

Hương trầm chẳng ngại toả gần xa.

Trăng Thu sáng tỏ trời cao rộng.

Gió Hạ giải nồng khắp mọi nhà.

Tịnh, nhiễm xưa nay đồng một thể

Giác, mê vốn dĩ chẳng hai mà.

Trên căn bản thì tâm bất động. Động là hiện tượng khách trần. Do một niệm khởi mà chân tâm vốn bất động, bỗng trở thành Vọng thức, sinh ra đủ thứ quả báo tốt xấu. Mọi niệm tưởng đều nằm trong không gian và thời gian, cho nên khi nào vượt được ra ngoài khuôn khổ của Không – thời gian, giới hạn tự do của con người mới được giải thoát và thấy được Chân Tâm là một phương pháp thần diệu để phá không gian và thời gian, diệt trừ vọng niệm đã buộc chặt con người vào khuôn khổ chật hẹp đó, vì khi niệm Phật tới giai đoạn “nhất tâm bất loạn” thì ta quên cả Phương lẫn Thời, quên mọi sự vật, bặt mọi tư duy, phá được ngã lẫn pháp để chỉ còn nhớ là mình đang ở trong chính niệm, hay ở trạng thái chánh định của chân tâm. Niệm Phật tam muội hay Bảo vương tam muội thì diệt được vô lượng tội chướng và chúng sinh tính, tăng trưởng được vô biên phúc tuệ và vô lượng công đức.

* Trong khi niệm Phật, đối với người sơ cơ, vọng tưởng thi nhau đến quấy phá. Lúc đó phải niệm Phật thành tiếng rõ ràng và dùng xâu chuỗi để đếm số câu niệm Phật cho khỏi quên cốt để buộc chặt tâm mình lại cho nó khỏi rong ruổi, cũng như kẻ chăn bò phải dùng đoạn dây thừng xỏ mũi bò mới điều khiển nổi con vật còn hung hăng. Cũng có thể chẳng cần quan tâm để ý đến những vọng niệm, coi chúng như khách vãng lai đến rồi đi, còn cái tâm chủ nhà thì vẫn ở lại để coi nhà. Lối nào cũng chỉ nhắm vào mục tiêu đưa tới định tâm và khi đã niệm quen rồi thì dùng lối tâm niệm, thay cho khẩu niệm là tốt hơn hết.

Phương pháp niệm Phật có nhiều lối:

1.- Phản văn trì danh là lối miệng niệm, tai nghe, tâm điều khiển từng tiếng và bắt kịp những tưởng đó. Tư tưởng và âm thanh dung hợp nhau. Cách niệm này khiến hành giả dễ gạn lọc được vọng niệm và mau đạt được tâm thanh tịnh.

2.- Sổ châu trì danh là lối miệng niệm Phật, tay lần tràng hạt. Với lối này, niệm lực được mạnh nhờ sự phù trợ của xâu chuỗi, cũng ví như người leo núi, lúc đầu chưa quen, phải dùng cây gậy để chống đỡ thì leo dốc mới dễ dàng, đỡ mỏi và khỏi trượt chân. Với cách này thì tiếng niệm phải rõ ràng và nhớ rõ số câu niệm của mỗi thời, tiến lên mãi mãi, nhờ vậy mà chữa được bệnh giải đãi, đạt tới định tâm. Niệm như vậy lâu ngày thành thói quen sau không cần ghi số câu niệm mà tâm lúc nào cũng ở trong chính niệm.

3.- Ký thập trì danh là niệm mà đếm số câu, cứ 10 niệm là một đơn vị, lại lần một hạt ở xâu chuỗi. Với lối này phải nhớ số câu niệm, nếu không sẽ đếm sai và như vậy thì tâm chưa định. Phương pháp này buộc hành giả phải chuyên tâm vào công phu niệm Phật, kết quả tốt cho người mang tâm vọng động.

4.- Tuỳ tức trì danh là niệm thầm không ra tiếng, lúc niệm nương vào hơi thở, mỗi hơi thở, không cứ được bao nhiêu câu cũng coi là một niệm, và khi đếm mười hơi thở thì gọi là Thập niệm. Cách niệm này do Từ Vân Đại sư chế ra, căn cứ vào Kinh Quán Vô Lượng Thọ để giúp những người đa đoan công việc, với dụng ý dùng hơi thở để nhiếp tâm. Đủ 10 hơi thở hay 10 niệm là làm tròn công phu một buổi niệm Phật, rất tiện cho những người bận công việc mà vẫn nhiếp được tâm bằng lối niệm Phật.

5.- Truy đỉnh trì danh là lối niệm Phật mà không để một kẻ hở, niệm nọ niệm kia tiếp nối nhau như hạt mưa sa, nhờ vậy mà tâm của hành giả dễ định vì oai lực của câu niệm buộc vọng niệm phải lắng xuống cho tâm trở nên thanh tịnh.

6.- Lễ bái trì danh là lối vừa niệm vừa lễ Phật. Lễ Phật nhẹ nhàng, chậm rãi, đúng oai nghi. Lời niệm phải rõ ràng, rành rẽ, đi đôi với việc lễ bái. Trong khi đó thì ý cũng phải thành khẩn, thiết tha. Ba căn thân, khẩu, ý phối hợp với nhau chặt chẽ và tập trung vào một mối. Phương pháp này trị được bệnh hôn trầm nhưng chỉ những người cường tráng, sức lực gân cốt có thừa mới áp dụng được bởi lẽ lễ lâu dễ mỏi, người yếu sức khó lòng đương nổi.

7.- Kim cương trì danh là lối niệm chỉ hơi động môi đôi chút, niệm nhanh như cây truỳ bằng kim cương liên tiếp giáng xuống như cái máy. Điểm quan trọng là dù niệm thầm nhưng vẫn không hề rối loạn, lời niệm vẫn phải gắn bó với tâm niệm. Với lối này lâu ngày thành thói quen, sức niệm càng mau, càng nhiều, sớm đạt tới điểm nhất tâm bất loạn. Khi nào sức dồn chứa những chủng tử Phật đã nhiều thì bất cứ lúc nào, dù thức hay ngủ, câu niệm Phật cũng từ tạng thức của hành giả hiện hành phát ra. Để có thể niệm được nhiều câu và đỡ mỏi. Hoà Thượng Đào Nguyên khuyên nên:

1. Ngồi mà niệm, trừ phi đau yếu mệt mỏi quá phải nằm để niệm là điều bất đắc dĩ.

2. Niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” hay ba chữ “Nam mô Phật”, thay vì sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” để niệm được nhiều câu trong cùng một thời gian.

3. Dùng xâu chuỗi nhẹ, hạt vừa phải.

4. Trong khi niệm phải gác bỏ mọi việc trần gian ra ngoài để tâm khỏi tán loạn.

* Lục Tổ Huệ Năng nói:

Vô niệm, niệm mới chánh,

Hữu niệm, niệm thành tà.

Ta phải hiểu nghĩa chữ Vô niệm ở đây như thế nào mới đúng ? Vô niệm tức là vô tà niệm, vô dục niệm, chứ không phải là vô chính niệm. Trong khi niệm, hành giả không được tưởng tới bất cứ điều gì ngoài Phật A Di Đà, và cõi Tây phương Cực lạc. Người niệm phải luôn luôn nhớ tới Giác đức của Phật, tưởng tới 48 lời nguyện của Ngài và suy xét tường tận ý nghĩa 10 danh hiệu Phật. Có hiểu tường tận về Phật mới làm tăng trưởng đức tin của mình và quý trọng Ngài hơn, đúng như câu nói của một nhà nghiên cứu về Phật giáo người nước Anh bình luận về Đức Phật.

The more I know Him

The more I love Him

The more I love Him

The more I know Him

(Càng hiểu Phật, tôi càng kính yêu Ngài, càng kính yêu Ngài, tôi càng hiểu rõ Ngài thêm).

* Người Phật tử tu tịnh nghiệp, trong bốn oai nghi, lúc nào cũng ý thức được sáng suốt công việc mình đang làm là niệm Phật không ngừng.

Tổ Hụê Năng nói: “Chẳng phải Vô niệm là không niệm mà là thường xuyên lúc nào cũng niệm Phật với tâm vô nhiễm và diệt hết các niệm tưởng đối đầu: Năng Sở, Có Không… đó gọi là “Vô niệm”. Muôn niệm tan vào nơi không niệm, mà trong vô niệm, Niệm hằng sa”. Tổ Huệ Năng lấy Vô niệm làm tôn chỉ vì Ngài cho rằng: Người đời miệng nói Kiến tính mà vẫn vọng động thì Kiến tính sao được ? Có giới dục, khử tà, thì tâm mới định hay ở trong chính niệm và như thế mới Kiến tính được. Danh từ Vô sih hay Bất sinh cũng vậy, phải hiểu theo nghĩa tương tự. Vô sinh nghĩa là chỉ cần sinh một lần chót, về thế giới Cực lạc Tây phương nữa mà thôi, không cần phải đoạ lạc mãi trong sáu ngã luân hồi nữa. Các hiện tượng tuy có sinh diệt, nhưng tướng sinh diệt đó là giả. Các hiện tượng giả sinh, giả diệt nên gọi là Vô sinh, Vô diệt hay Bất sinh, Bất diệt. Nếu cho rằng Vô niệm là Không niệm, Vô sinh là Không sinh thì chẳng hoá ra lại rơi vào hư vô chủ nghĩa, và như vậy là muốn tránh chấp Có lại lạc vào chấp Không sao ? Bởi vậy Lục Tổ Hụê Năng lại phải bổ túc thêm hai câu nữa:

Có không đều chẳng tưởng

Mới ngự xa bạch ngưu.

Một vị cao tăng có để lại cho hậu thế bài thơ dưới đây:

Có niệm, đồng không niệm

Không sinh tức là sinh,

Chẳng phải rời nửa bước

Thân tới Pháp vương thành

Thời nay hiếm thấy người tu tịnh nghiệp mà có được tác phong niệm Phật đạt tới trình độ “Niệm – Vô niệm, Vô niệm – Niệm” như các bậc thượng căn thuở xưa. Thời nay chỉ cần tin sâu, nguyện thiết và tinh tấn niệm Phật đã là quý lắm rồi, vì nếu tạo được thói quen siêng năng niệm Phật thì giờ phút lâm chung ta đã tạo được cảnh thanh lương tự tại để được chung sống với các vị Hiền Thánh, còn lo gì đến vấn đề Hữu niệm lẫn Vô niệm nữa ? Nếu chẳng biết lượng sức mình mà cứ muốn đạt ngay tới điểm Vô niệm từ ban đầu rồi chẳng làm nổi, lại sinh tâm phiền não, chán nản, thực đáng thương.

Mục 8: Phương pháp niệm Phật của phái Thiền Tịnh song tu.

Người theo phái Thiền Tịnh song tu có nhiều lối quán tưởng đi đôi với việc trì danh hiệu Phật A Di Đà, đại để như:

1.- Thực tướng niệm Phật tức quán Pháp thân Phật A Di Đà bao trùm cả hư không bao la, kết quả mau chứng được Chân Như thực tướng hay Lý Chân Không Diệu Hữu, hoặc Chân Tâm thanh tịnh của mình. Phương pháp này của Thiền tông nhưng đối tượng quán tưởng lại là Phật A Di Đà nên cũng thuộc về tông Tịnh độ. Pháp quán này do các bậc thượng căn sử dụng nên trong Tịnh độ thuần tuý hàng hạ căn ít khi dùng đến.

2.- Quán tưởng niệm Phật là quán Chính bào và Y báo tức quán thân mình và cuộc sống trong cảnh Cực lạc Tây phương. Phương pháp này được Phật Thích Ca dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Nếu quán tưởng thành thục thì bất cứ lúc nào hành giả cũng thấy mình như được sống trong thế giới Cực lạc, kinh hành dạo chơi cùng với các vị Đại Bồ tát, được nghe các loài chim hót lên lời kinh tiếng kệ du dương, lại được học hỏi chính pháp Đại thừa cùng các vị “nhất sinh bổ xứ”. Công đức của pháp quán này lớn lao vô cùng, nhưng ít người theo được vì sự quán tưởng khó hành trì đối với người căn cơ thấp kém, chỉ những bậc Thiền sư quen ngồi Thiền định mới áp dụng được mà thôi.

3.- Quán tượng niệm Phật là chăm chú nhìn vào một bức tranh hay một pho tượng Phật A Di Đà bày trước mặt, quan sát vẻ đẹp trang nghiêm của Phật từng chi tiết, cho đến khi không có ảnh tượng Phật A Di Đà trước mặt mà lúc nào cũng thấy Phật với đầy đủ tướng tốt, trang nghiêm. Từ quán tượng niệm Phật đến “Nhất tâm bất loạn”, hành giả cảm thông được với Phật, và hình tướng giả của Phật biến thành Thực Tướng của Phật chói rạng sáng ngời trong tâm của hành giả, bởi vì năng lực tinh thần và vật chất, hay Tâm và Vật chỉ là một, tượng Phật là cảnh mà Quán niệm là Tâm. Khi đã hiểu rõ lý Nhất như rồi thì sự cảm thông giữa hình tượng giả bên ngoài biến thành Thực Tướng của Phật trong tâm hành giả là một sự kiện đương nhiên xảy ra.

4.- Quán chiếu hay Giác chiếu trì danh là lối niệm Phật hồi quang phản bản, khiến cho hành giả đi sâu vào cõi hư linh siêu thoát, cảm thấy tâm Phật với tâm mình giao hoà và ngưng đọng trong một khối mông mênh viên chiếu. Niệm như vậy tuy chưa mãn phần ở thế gian này nhưng tâm đã chứng được cảnh Thường tịch quang Tịnh độ, thân tuy còn là xác phàm, mà lòng đã ngự ở nơi Liên Đài siêu thoát, và chứng được “Tức thân thành Phật” đúng như câu:

Thân tuy còn ở Ta bà

Mà lòng đã gửi bên toà Liên hoa.

Chỉ tiếc rằng lối tu này đòi hỏi phải có công phu tu tập lâu ngày khó khăn, kết hợp Tịnh và Thiền ở mức cao độ, dành riêng cho hàng thượng căn, bậc sơ cơ thiểu học, ít người dám nghĩ tới.

5.- Liên Hoa trì danh là tưởng như mình đang đứng trước màn lưới đế châu tại cung Trời Đế Thích, thấy giữa mỗi mắt lưới có đính một viên minh châu toả hào quang sáng ngời, hạt nọ hạt kia chiếu vào nhau, ánh phản xạ tạo thành một khối lung linh rực rỡ, nói lên cái lý “trùng trùng duyên khởi”, “một là tất cả, tất cả là một” và “tương tức, tương nhập”, “Sự sự vô ngại” của Kinh Hoa Nghiêm. Lại thấy như mình đang đứng trước mỗi hạt châu, mà trên mỗi hạt châu lại có một toà sen ngàn cánh, trên mỗi cánh sen có một tượng Phật A Di Đà toả ánh linh quang ngời sáng. Lại tưởng như mình đang hành lễ chiêm ngưỡng và nguyện cầu hằng hà sa số Phật trong khắp đạo tràng này, tưởng mình như được tắm gội trong bầu hào quang huyền diệu, nhiệm mầu ấy của Phật Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức.

Nói chung thì các lối trì danh và quán tưởng kể trên mỗi lối có một công dụng trị bệnh cho hành giả để diệt trừ vọng niệm, trở về với Chân Tâm, cách nào cũng có lợi ích cả, tùy căn cơ của từng người lựa chọn để đi sâu vào con đường Tịnh nghiệp. Tất cả những lối niệm Phật mà miệng niệm, tâm tưởng tới Phật được gọi là Định Tâm niệm Phật. Trái lại, miệng tuy niệm Phật mà tâm lại nghĩ tưởng tới đâu đâu, gọi là Tán Tâm niệm Phật, kết quả so với nhau, cách xa nhau như trời vực. Tuy nhiên, dù là Tán Tâm nhưng vẫn gieo được vào Tạng thức của hành giả những mầm giống Bồ đề, lúc đầu còn lu mờ, lâu ngày thành rõ nét, rồi cũng có lúc hiện hành ra ngoài rồi huân tập trở lại bên trong làm cho Tán Tâm hoá thành Định Tâm niệm Phật. Bởi vậy, dù lúc đầu chưa quen lối định tâm, nhưng nếu cứ kiên tâm niệm Phật thì lâu ngày, với thói quen niệm Phật cũng đạt tới điểm nhất tâm bất loạn, chỉ sợ lòng người giải đãi bất chuyên mà thôi.

Để giải thích cho hàng sơ cư cách niệm Phật sao cho đạt tới điểm nhất tâm bất loạn, Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ dạy rằng: “Phải dùng tâm thành kính mà niệm Phật liên tục, lúc nào cũng giữ tâm ở trong chính niệm, cũng như người bị tử tội sắp đem đi hành hình, hay người bị mắc nạn nước lửa bức bách, ở trong cảnh thập tử nhất sinh, hoặc người bị giặc cướp hay ác thú rượt đuổi gấp sau lưng, phải lớn tiếng cầu cứu luôn miệng để gọi người tới cứu mình mới mong thoát nạn, người tu Tịnh độ phải coi việc niệm Phật gắn liền với tính mạng của mình, không được lãng quên giây phút nào cả, dù phải bận công việc, khi làm xong, lại trở về ngay với việc niệm Phật, coi đó là công việc hệ trọng hàng đầu, còn mọi việc khác đều không đáng kể. Người tu Tịnh độ phải nương vào hơi thở của mình mà niệm cho tới lúc nhắm mắt, tắt hơi, còn hơi thở là còn niệm, như vậy mới gọi là tâm chí thành, chí thiết, và mới mong được Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về quốc độ của Ngài.

– Về mặt Sự Tướng, do công phu niệm Phật A Di Đà tới nhất tâm bất loạn, hành giả chắc chắn sẽ được đời nghiệp vãng sinh.

– Về Lý tính cho rằng thế giới Cực lạc ở ngay trong tâm mình, chỉ cần Kiến tính là thành Phật. Hai điểm ấy chẳng khác nhau, chẳng qua chỉ là hai lối diễn tả để chỉ một cái đích chung là được giác ngộ, giải thoát khỏi cảnh khổ đau trong tam giới mà thôi.

* Một điểm đáng lưu ý là: Niệm Phật cho tới nhất tâm bất loạn là muốn ám chỉ tời việc niệm Phật trong giờ phút lâm chung, cần phải định tâm, dồn hết tâm lực vào việc niệm Phật trong thời điểm quan trọng đó. Bởi vì khi sắp lìa trần cần phải có những tư tưởng tốt lành, trong sáng để có được một nghiệp lực tốt, ảnh hưởng quyết định mạnh mẽ tới kiếp lai sinh. Chỉ cần có từ 1 đến 10 niệm trong sạch lúc bấy giờ cũng đủ để được vãng sinh về cõi Tây phương Cực lạc. Nhưng muốn được “nhất tâm bất loạn” khi lâm chung thì bình nhật phải niệm Phật cho chuyên, cho thuần để có được thói quen niệm Phật, và có được nhiều chủng tử Phật dồn chứa trong A lại da thức, ngõ hầu khi sắp lìa trần, hành giả vừa mới khởi niệm thì chủng tử Phật liền hiện hành ngay. Lúc đó dù không cần tâm vô niệm, mà cảnh vô niệm cũng hiện bày. Trái lại, nếu bình nhật chẳng năng niệm Phật thành thói quen, thì khi lâm chung sẽ bị cận tử nghiệp lôi cuốn, tâm thức tuỳ theo nghiệp rối loạn, chính niệm chẳng thành tựu thì mong gì có được nhất tâm ? Trong giây phút lâm chung, năm căn của người hấp hối như năm cánh cửa khép kín, duy còn căn thứ sáu là Ý thức hoạt động yếu ớt để tiếp xúc với ngoại cảnh. Người đang hôn mê lúc bấy giờ ở vào tình trạng như người nhập định, hoặc người tu theo Duy Thức mà thu thúc lục căn, chính trong lúc ấy mà người sắp lìa trần tự lực hướng về cõi Phật, lại nhờ được Tha lực của những người chung quanh nhất tâm niệm Phật để trợ lực cho người ấy thì có thể gây được chính niệm để được Cận tử nghiệp hướng dẫn thần thức của người ấy về miền Cực lạc.

Bởi băn khoăn về vấn đề cần phải giữ cho tâm thanh tịnh lúc lâm chung để niệm Phật với nhất tâm bất loạn, Ngài Đại Ca Diếp đã hỏi Phật và được Phật giải đáp. Câu chuyện được ghi lại trong Luận Tà Trí như sau:

“Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng hay những lúc gặp tai biến bất ngờ như rủi bị ngựa xe cán chết ngay, hay bị voi điên đuổi gấp, ác thú rượt bắt, hoặc bị người đời đánh đập, bắn giết mà chết bất đắc kỳ tử, không kịp niệm Phật trước khi tắt thở thì thần thức con sẽ phải sinh về nơi đâu ?”

Để trấn an Ngài Đại Ca Diếp, Phật dạy rằng: “Ông cứ an tâm, chớ lo, không bị sinh vào ác đạo đâu mà sợ. Bởi vì như cây kia thường vẫn nghiêng về hướng Đông, nếu gặp gió bão, cây ấy bị trốc gốc thì nó phải ngã về hướng Đông mà đổ xuống. Người tu tịnh nghiệp cũng vậy. Nếu hàng ngày người đó chuyên cần niệm Phật A Di Đà chẳng may bị chết thình lình thì sẽ nhờ sức huân tập của ý thức niệm Phật, lâu ngày dồn nén trong Tạng thức mà được sinh về cõi Cực lạc Tây phương chẳng sai”.

Mục 9: Kết quả công phu niệm Phật A Di Đà

Niệm Phật nhằm đạt cho được Phật tính nghĩa là có những đức Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bình đẳng vô phân biệt giống như Phật vậy. Niệm Phật mà chẳng thực hiện được chút nào những hạnh cao cả đó, không thấy được Phật tính, Chân tâm của mình, còn bị thất tình lục dục chi phối thì chỉ là nô lệ cho việc niệm Phật mà thôi. Tuỳ theo công phu hành trì niệm Phật mà người tu Tịnh nghiệp, lúc sinh thời, có thể đạt được những đạo quả sau đây:

1. Đoạt người chẳng đoạt cảnh.

2. Đoạt cảnh chẳng đoạt người.

3. Người và cảnh đều đoạt

4. Người và cảnh đều chẳng đoạt.

Ba lớp tu này ám chỉ hai cảnh mê và ngộ khác nhau. Ba tầng trên: Tâm và Cảnh, hoặc cả Tâm lẫn Cảnh đều quên. Đến tầng chót (Tâm và Cảnh đều chẳng đoạt) tức là ở vào trạng thái sau khi Tâm và Cảnh đều không quên thì Chân Tâm, Giác tính mới hiển lộ rõ ràng, và hành giả ở vào trạng thái Chân Không tỏ bày Diệu Hữu. Cũng giống như Thiền sư sau nhiều năm tu tập đã vượt qua các giai đoạn thấy núi là núi, thấy sông là sông, sông khác với núi, rồi thấy núi chẳng phải là núi, thấy sông chẳng phải là sông, rồi tháy núi tức là sông, thấy sông tức là núi, và sau cùng trở về trạng thái “bình thường Tâm là Đạo”, thấy núi vẫn là núi, thấy sông vẫn là sông, đâu đâu cũng đều là đạo mầu cả. Núi đứng đó mặc núi, sông đứng đó mặc sông, núi và sông chẳng phải hiện diện để cho ta bàn luận về chúng, vì bàn luận, suy tư đều sai lầm cả. “Động niệm tác quai”, “ngôn ngữ tắc đạo đoạn”. Nói cách khác thì có ba trình độ chứng ngộ hợp với ba căn thượng, trung và hạ của những người tu.

1. Đối với hàng thượng căn thì Tâm là Phật, Tâm là cõi Tịnh độ. Tâm ở vào cảnh Vô niệm. Chủ thể niệm và đối tượng niệm không khác. Tâm, Cảnh đều thanh tịnh thì đó là Phật thân. Phật thân ấy với thân của hành giả là một theo lý Bất Nhị tịch nhiên thường tồn, siêu việt mọi tư duy nên gọi Thân Tâm ấy là Phật sống.

2. Đối với hàng trung căn, còn phải nhờ vào sự chuyên cần trì danh hiệu Phật để tâm thuần thục. Thiện niệm hiện hành thì ác niệm tiêu diệt. Dùng lối niệm Phật không dứt thì trừ được vọng niệm, và tâm thường trụ nơi chánh niệm. Được như vậy thì khi mệnh chung, hành giả đạt được cảnh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

3. Đối với hàng hạ căn, miệng phải chuyên cần niệm Phật, tâm luôn luôn tưởng tới hình tượng Phật, sau khi mệnh chung tuỳ theo tâm dao động ít hay nhiều sẽ được sinh về cõi Đồng cư Tịnh độ dành cho phàm, Thánh cùng ở chung. Ở đây dễ tu vì tránh được nguy cơ làm cho tâm thoái chuyển. Chỉ cần được sinh về cõi này là được dự vào hàng Thánh, như vậy chẳng khác gì lối tu Đốn ngộ của Thiền tông.

– Người niệm Phật mà đạt được “Niệm – Vô niệm, Vô niệm – Niệm”, tức là trừ được Tư hoặc và Kiến hoặc, và sẽ được sinh về cõi Phương tiện Thánh cư độ, dành cho hàng Thanh văn, Duyên giác.

– Người niệm Phật mà ngộ được lý Nhất Tâm phá được vô minh từng phần, sẽ được sinh về cõi Thực báo trang nghiêm độ, dành cho hàng Bồ tát.

– Người niệm Phật mà phá được hết vô minh, vọng thức sẽ đựơc sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ dành cho chư Phật.

– Niệm Phật mà tâm thanh tịnh hay đạt tới nhất tâm bất loạn thì phá được cả chấp ngã, chấp pháp chứng được Duy Tâm Tịnh độ.

– Người niệm Phật mà được vãng sinh về Cực lạc thế giới thì chứng được một trong chín phẩm hoa sen, (hạ, trung và thượng phẩm), mỗi phẩm có ba cấp (thượng, trung và hạ cấp) thuộc ba hạng căn cơ khác nhau (thượng, trung và hạ căn) cộng thành chín bậc.

CHƯƠNG 13: ĐÀO SÂU VÀO LÝ BẤT NHỊ

Các pháp trên thế gian này đều không có tính riêng biệt và độc lập. Chính con người đã dùng tâm phân biệt của mình mà gán cho các pháp những nhãn hiệu riêng mà thực ra chúng không hề có một cách bất di dịch, do đó nếu đào sâu vào lý Bất Nhị ta sẽ có những nhận định sau đây về các vấn đề: Sống chết, Vui buồn, Sướng khổ, Gần xa, Không, Có, khó tu và dễ tu, thuận cảnh và nghịch cảnh, giác và mê, trói buộc và giải thoát, Tịnh độ và Ta bà v.v… là những sự việc mật thiết với đời sống thường nhật của người tu.

Mục 10: Nhận định về vấn đề Sống và Chết

Mọi sinh vật trên trời đất luôn luôn ở trong trạng thái đồng thời sống và chết. Từng giây phút ta đào thải những chất cặn bã và những tế bào chết trong cơ thể để tiếp thu những chất dinh dưỡng để tạo ra những tế bào mới. Như vậy thì hiện tượng sống chết là việc thường tình ở đời. Trong sự sống có sự chết. Hễ là phổi thở ra, dẹp xuống mà không hút dưỡng khí vào để phồng lên là chết. Nếu quan sát thực tướng của sự sống chết ta thấy: chúng ta chỉ sống vẻn vẹn từng sát na sinh diệt của một luồng tư tưởng mà thôi. Khi một tướng tâm sinh khởi thì sự sống chết bắt đầu và sự sống chấm dứt cùng với sự hoại diệt của tướng tâm ấy, để rồi lại tiếp tục sinh ra khi một luồng tư tưởng khác bắt đầu. Tướng tâm sinh diệt từng sát na và sự sống của chúng sinh cũng sinh diệt từng sát na cùng với sự sống của một luồng tư tưởng. Khi tướng tâm không sinh không diệt nữa thì sự sống ngưng lại trong một thân tứ đại. Vì lẽ đó mà người ta không thế sống lại cái tướng tâm của giây phút vừa qua, cũng như tướng tâm của giây phút hiện tại không thể giống như tướng tâm của giây phút vừa qua hay sắp tới được. Hiện tượng sống, chết tiếp nối nhau như ngày và đêm hay như sự chuyên vần tuần tự của bốn mùa qua lại. Trong sự Sống đã có mầm của sự Chết và ngược lại. Hình ảnh những đợt sóng xô đẩy nhau trên mặt biển khi nổi, khi chìm là hình ảnh trung thực nhất của hiện tượng Sống Chết, biểu hiện nguồn sinh lực vô biên của vũ trụ. Chết với Sống là hai mặt sấp ngửa của một đồng tiền, hay hai khía cạnh của một Thực tại duy nhất. Sự Sống Chết nối tiếp nhau từng sát na, cũng như bánh xe bò lúc nào cũng dính trên mặt đường. Điểm này vừa rời mặt đường thì điểm kia lại tiếp theo liền đó. Nói cách khác thì sự sống chết là một chuỗi dài liên tục những hiện tượng không giống nhau tiếp diễn trong một cuốn phim. Vì thế mà Triết gia Héraclite đã nói một câu có ý nghĩa tương tự: “Chúng ta không ai có diễm phúc được tắm hai lần trên một dòng sông”. Thực ra thì cái chết và cái sống chẳng cái nào quan trọng hơn cái nào cả. Chính cái Chết đã nuôi dưỡng cái Sống, nếu không có cái Chết thì không thể có cái Sống được. Có cái Chết của những tế bào già nua bị thải ra ngoài cơ thể do sự bài tiết, để thay thế bằng những tế bào khác khoẻ mạnh hơn thì sinh vật mới sống được. Ta thử ngẫm xem: nếu muôn loài đều sống mãi không chết thì lấy chỗ đâu cho vạn vật sinh trưởng, lấy đâu thức ăn để nuôi dưỡng muôn loài ? Vậy thì Sống với Chết đều quan trọng như nhau, và chỉ là quy luật tự nhiên thường tình chi phối muôn vật trong vũ trụ. Có Sinh phải có Diệt. Có Diệt phải có Sinh. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn lại khuyết, sum họp để rồi phân ly. Mọi sinh vật đều bình đẳng trước cái Sống và cái Chết. Mạnh yếu, giàu nghèo, sang hèn, lớn nhỏ, đẹp xấu… tất cả đều chịu chúng số phận trước Tử thần. Dù kín cổng cao tường, dù được lính gác ngày đêm bảo vệ, dù có bạc vàng đầy kho, cũng không che chở mua chuộc được sự sống và ngăn cản được sự chết để trở thành Bất Tử. Bởi vậy ta chớ nên lo sợ cái chết xảy ra. Nếu ta quán tưởng sự chết, như thế thì ta tránh được lỗi Thường kiến và Đoạn kiến, ta bớt được lòng tham vị kỷ, ta thấy rõ Thực tướng vô tướng của sự vật ở đời, hiểu được lý bất nhất, bất dị của hiện tượng Sinh diệt, ta rõ được mối tương quan bất nhị, giữa Tử và Sinh, do đó ta mới thuận nghiệp mà sống, an lạc tự tại. Khi đã thực sự biết rõ giá trị của Sống Chết thì ta làm được mọi việc lợi ích cho đời.

Hiện hữu hay không hiện hữu ?

Cái hiện hữu (hay sự sống) của con người không ngoài cái hiện hữu tuỳ thuộc vào một tràng nhân duyên. Mỗi vật hiện hữu đều do nhân duyên, và nó sẽ tiêu diệt ngay khi những tác dụng của tràng nhân duyên chấm dứt. Những làn sóng trên mặt biển quả là hiện hữu nhưng ta có thể bảo làn sóng đó có tự ngã không ? Làn sóng chỉ có khi có gió dao động nước. Mỗi làn sóng tuỳ thuộc vào sự phối hợp của những cường độ và phương hướng của gió, đến lúc gió im hay gió đổi chiều thì làn sóng cũng chấm dứt hoặc đổi chiều theo. Vậy thì không thể nói là sóng có tự ngã biệt lập với nhân duyên gây ra nó được. Khi con người còn là một hiện hữu tuỳ thuộc vào một tràng nhân duyên thì nó không có gì để mà cố duy trì lấy sự sống không tuỳ thuộc vào nó, và con người cũng không thể nhìn mọi vật chung quanh mình từ quan điểm ngã vị trung tâm. Mọi người phải từ bỏ cái tiểu ngã của mình và cố gắng giúp đỡ kẻ khác, coi người như mình, theo tư tưởng “một là tất cả, tất cả là một”. Con người cá nhân phải nhận thức cái hiện hữu cộng đồng tức xã hội quanh mình, vì con người không thể nào lại hoàn tonà độc lập hiện hữu được. Không có một vật nào trong vũ trụ này lại có thể trường tồn hay tự tại được vì mọi vật đều Vô ngã, Vô thường trong không gian và thời gian. Không một sát na nào mà sự vật lại không biến đổi. Nếu ta có thể tìm được một thế giới nào mà ở đó không có không gian và thời gian thì thế giới đó mới đích thực là Niết bàn, giải thoát.

Đã hiểu rõ sự Sống Chết là một hiện tượng biến đổi tự nhiên và giá trị của sự Sống Chết, cùng mối tương quan giữa người và người, người và xã hội, ta chẳng còn nên lãng phí thời giờ quý báu để làm những việc vô ích hay chỉ lợi riêng cho mình. Ta cũng chẳng còn tư tưởng ham sống sợ chết. Nếu cần phải chết để bảo vệ một lý tưởng cao đẹp ta sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình mà không hề tiếc nuối. Nếu ta đã hiểu rõ sự Sống Chết ta sẽ tích cực gây thiện nghiệp để được quả báo tốt lành, ta sẽ nhẹ nhàng cất bước ra đi, khi cần phải chết, không đắn đo luyến tiếc, như từ bỏ một chiếc dép rách cũ nát. Hiểu rõ được lý Bất Nhị của sự Sống Chết, ta chẳng còn mong cái Chết tới sớm để trút bỏ gánh khổ não đè nặng trong lòng, cũng chẳng mong nó đến muộn để tận hưởng miếng đỉnh chung của cuộc đời tục luỵ. Giờ phút lâm chung điểm lúc nào ta nhẹ nhàng cất bước ra đi lúc đó, lòng thảnh thơi, không buồn, không vui.

Mục 11: Nhận định về vấn đề vui buồn, sướng khổ và thiện ác ở đời.

a. Sướng khổ, buồn vui, thiện ác đều là những trạng thái tâm hồn và nhận thức của con người khi còn ở trong mộng. Người ngủ mê không biết mình đang ở trong cơn mê, cũng như người bị vô minh làm mờ ám tâm hồn, không biết mình đang ở trong cảnh hắc ám vô minh. Cuộc đời là một giấc mộng dài. Cũng như người ngủ mê man, khi thức giấc mới biết là mình vừa qua một cảnh mộng. Mọi cảnh vật ở ngoài, cũng như mọi sự việc ở đời đều do tâm ta biến hiện. Nội thức thì có, nhưng cảnh vật và sự việc ở ngoài đời thì không. Người ngủ mê chấp cảnh trong chiêm bao thật có, cũng như người si mê chấp cảnh đời có vui buồn, sướng khổ thật sự. Nếu ai bảo rằng cảnh đời chẳng khác nào cảnh chiêm bao hay những cảnh chiếu trên màn ảnh thì nhất định người si mê không chịu tin. Chỉ khi nào người ngủ mê tỉnh giấc hay người bị vô minh dứt bỏ được tấm màn vô minh che lấp chân tâm thì lúc đó mới tin rằng cảnh đời là huyễn và hiểu được lý Vô ngã, Vô thường. Do đó muốn có một trái tim bình thản trước cuộc đời, và muốn thoát cảnh vui buồn sướng khổ của nhân thế phải có quan niệm nhân sinh theo bài thơ dưới đây:

Đời người chẳng khổ cũng không vui,

Vui khổ là tâm bệnh cả thôi.

Khổ đấy vui nầy đều cưỡng gọi

Mê, vui khổ tự sinh sôi,

Mê tình ví chẳng sinh ra nổi,

Quả Phật, chân tâm ắt sáng ngời,

Khổ, sướng, buồn vui đều giả huyễn,

Đừng nên sợ khổ chớ ham vui.

*

Xin chớ so đo, khổ với vui,

Có chi là khổ, có chi vui ?

Vui trong tham dục, vui liền khổ

Khổ chốn tu hành, khổ hoá vui

Nếu biết có vui là có khổ

Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui.

Mong sao được sống không vui khổ

Để thoát ra ngoài cảnh khổ vui.

– Thọ vui thọ khổ đều là Vô thường, bởi vì các pháp đều dịch biến. Khi đã hiểu rõ nguồn gốc của khổ, vui là Tà kiến và Ái dục, ta phải cố phá cho được chấp Ngã và chấp Pháp để không còn chạy theo vui buồn sướng khổ nữa.

* Đời người, ngoài thì bị thiên nhiên đe doạ, trong thì bị ý chí mù quáng thao túng, nhưng trong sự thúc phọc đó, con người biết suy nghĩ vẫn hoài bão tự do, hướng thượng, tìm hạnh phúc. Điểm nổi bật của đạo Nhất thừa chính là ở nơi khổ đau là tìm được giá trị của cuộc đời. Giá trị ấy không ở chỗ lấy sướng khổ về vật chất làm thước đo để đánh giá nhân phẩm theo cấp bậc trong xã hội, dựa trên tiền tài, danh vọng, mà lại lấy sự thực hiện sinh mệnh vĩnh cửu, thực hiện cái hiểu biết sâu rộng và toàn diện, cùng thoả mãn nhu cầu Đại Bi vô hạn đối với toàn thể sinh linh làm mục tiêu và lý tưởng để đánh giá nhân phẩm. Muốn thực hiện được điều đó thì phải coi thường khổ đau và vui sướng, tự chủ được lòng mình và vượt qua vui buồn, sướng khổ nhờ đó mà lý tưởng Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức được thực hiện lần lần.

Cái đích của người tu học Phật pháp phải là: một mặt thì hướng thượng, từ bỏ thế giới tương đối đầy phân biệt và sai biệt, cùng những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn, để trau dồi những tư tưởng xả kỷ, thanh cao, nuôi dưỡng Tâm Bi để sống với lý Bất Nhị, rồi mặt khác lại rời bỏ cái tháp ngà ấy, không trụ ở cảnh giới tuyệt đối thanh cao mà quay về hướng hạ, sống trong thế giới tương đối sai biệt trong vô sai biệt, và phân biệt trong vô phân biệt, hoà quang đồng trần, đem cái tâm rộng lớn Từ, Bi, Hỷ, Xả, Bình đẳng, Bất Nhị từ chỗ tiêu cực không làm điều ác, tiến đến tích cực làm mọi điều lành, không khước từ những việc thiện nhỏ nhặt nhất, để phục vụ xã hội nhân sinh.

* Phật dạy trong kinh Kim Cương:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ, diệc như điện,

Ứng tác, như thị quán.

Với lời kinh ấy, Phật khuyên chúng sinh chớ nên chạy theo khách trần ảo ảnh, để chuốc lấy luỵ vào thân. Người muốn bước chân vào cửa đạo, sợ cảnh khổ nơi thế gian, coi khổ đau có thật, nên Phật mới phải thuyết Kinh A Di Đà dạy người đời: Đời là bể khổ, phải nên tránh khổ cầu vui bằng cách niệm Phật A Di Đà để cầu được về cảnh Cực lạc Tây phương. Đó là đối với người ít học, ham vui sợ khổ. Nhưng đối với người đã hiểu rõ lý niệm Phật tức là niệm Tâm thì ở đâu cũng thế thôi, bởi vì khi tâm đã thanh tịnh thì đâu đâu cũng là đạo tràng và cõi Phật cả. Lúc còn mê tướng phiền não, khổ đau có thật, do ngoại cảnh gây ra nên phải tìm cách lánh xa cõi trần, cầu mong về nơi Tịnh độ để hưởng lạc thú vĩnh viễn, nhưng khi đã ngộ rồi, biết rõ buồn vui, sướng khổ đều do tâm tạo thì chẳng còn lo sợ nữa. Tâm mang nặng ưu tư, tham luyến, sân hận, si mê thì ở cảnh nào cũng cảm thấy mình bị trói buộc đau khổ.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?

               (Kim Vân Kiều)

Trái lại, người ngộ đạo thư thái, hồn nhiên thì lúc nào cũng thấy mình được giải thoát, và giờ phút nào cũng cảm thấy mình được sống trong Niết bàn, Tịnh độ. Phiền não, khổ đau chính là hạt giống Bồ đề, vì có phiền não, khổ đau thì tâm mới trở thành an vui, cho nên trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy rằng: “Phải lấy thân, tâm làm ruộng rẫy, lấy phiền não làm hạt giống, lấy trí tuệ làm mầm mống, còn Như Lai thì ví như hoa quả, thóc lúa vậy”.

* Phật cũng dạy: “Thế gian này không thật, cũng không hư”. Thế giới Cực lạc Tây phương mà cho là khong thật có khi nào tâm con người đã thoát vòng tục luỵ không còn bị phong trần làm vẫn đục nưa. Tâm mà an nhiên tự tại thì tâm ấy là tâm Phật, tâm ấy là cõi Tịnh độ, Niết bàn. Thế giới Cực lạc được coi là thật có khi nào ta còn cảm thấy khổ não, bất an, nhưng khi đã siêu lên mọi sự vui buồn, sướng khổ của tình người thì chẳng còn cần gì Niết bàn, Tịnh độ nữa. Xét ra thì Tịnh độ, Ta bà, hạnh phúc và khổ đau đều chỉ do tâm con người mà ra cả. Những danh từ ấy chỉ để cho người còn mê, mang nặng tâm phân biệt dùng mà thôi. Đứng trước mọi Phật pháp, muốn lựa chọn một pháp môn nào thích hợp với căn cơ trình độ, tính tình của mình, ta hãy tự xét kỹ lòng ta. Nếu còn cảm thấy đau khổ, buồn vui, sống chết đều thật cả, còn ham sống sợ chết, thì ta đừng ngần ngại mà chọn ngay pháp môn Tịnh độ làm chốn dung thân, nương cậy vào Tha lực để đới nghiệp vãng sinh, thoát vòng sinh tử. Trái lại, nếu ta tự xét thấy lòng mình đã đủ vững mạnh trước cảnh nghèo đói bần hàn, đứng trước tám ngọn gió thổi xuôi, thổi ngược mà lòng ta vẫn chẳng lung lay, coi phú quý, sống chết như phù vân, thì tha hồ muốn chọn pháp môn nào tu cũng được.

B. Vấn đề thiện, ác cũng vậy. Không có cái tuyệt đối thiện hay tuyệt đối ác ở cõi đời này. Ta thường quan niệm những gì có tính cách xây dựng thì coi là thiện, còn cái gì có tính cách phá hoại thì coi là ác. Thật là lầm to! Bởi vì cái coi là nhơ bẩn, thối tha như phân bón hay nước tiểu mà người đời thường ghê tởm lại làm cho cây hồng tốt tươi trổ hoa thơm ngát, như vậy thì cái thối tha, nhơ bẩn của nước tiểu và phân bón phải được coi là Thiện chứ không Ác. Cũng như Âm không luôn luôn xấu và Dương không luôn luôn tốt. Cương và Nhu cũng vậy, cái nào cũng có đủ cả hai mặt thiện, ác. Khi cần đến Cương thì Cương là tốt. Khi cần đến Nhu thì Nhu là hay. Cần Tiến thì Tiến là tốt. Cần Thoái thì Thoái là nên. Cần duy trì thì giữ, cần xả thì bỏ, không nhất thiết phải câu nệ, khư khư trụ mãi vào một bên. Người đạt đạo cảm đâu ứng đó, tuỳ thuận Tâm Bi và Trí Bát Nhã. Tu là đi từ chỗ tối ra chỗ sáng, diệt trừ phiền não, vô minh, cuối cùng phải vượt lên trên cả thiện lẫn ác, hữu và vô, mới mong thoát khỏi gọng kìm của nhị nguyên, tương đối để đi tới bình đẳng, vô phân biệt, không còn danh ngôn khái niệm nữa.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu chuyện Bồ tát Văn Thù dạy Thiện Tài đồng tử về lý Bất Nhị. Một hôm Bồ tát Văn Thù sai Thiện Tài vào rừng hái lá thuốc về dùng và dặn: “Hễ thấy thứ gì không phải là thuốc thì đêm về”. Thiện Tài lùng kiếm khắp nơi, chẳng tìm được thứ gì không dùng làm thuốc được, đành phải trở về tay không, bạch lại sự việc với thầy.

Văn Thù lại bảo: “Vậy thấy thứ gì làm thuốc được thì đem về đây”. Lần này Thiện Tài khệ nệ ôm về một bó lá thật to tỏ vẻ hân hoan đã làm vừa lòng thầy.

Văn Thù cầm lấy mớ lá và nói với đại chúng: Đây vừa là tiên dược để trị bệnh, lại vừa là độc dược giết người. Không gì chẳng phải là thuốc vì khắp thế gian này toàn là thuốc cả bởi vì toàn thể nhân loại đều có bệnh. Vì có bệnh nên mới phải có thuốc. Vì có thuốc nên nhân loại mới bị bệnh. Thuốc và bệnh trị lẫn cho nhau và cùng nhau tồn tại. Nếu không có bệnh thì chẳng cần đến thuốc. Nếu không bệnh, không thuốc thì chẳng cần gì phải nói chuyện giữa chúng ta, ngay cả độc thoại cũng chẳng cần thiết. Suy rộng ra thì tất cả mọi pháp trên thế gian này chẳng có pháp nào thật là ác hay thật là thiện tuyệt đối cả. Cảnh giới Tịnh độ là nơi không còn cái ác nữa, đến cả cái thiện người ta cũng không lưu ý tới, bởi vì tất cả ở đây thuần thiện cả. Cái thiện không còn đối tượng để so sánh là cái thiện tuyệt đối, và cõi Tịnh độ thuộc về Bình đẳng giới trong Nhất nguyên tuyệt đối vậy. Khi còn ở thế giới Nhị nguyên tương đối, ta cần phải tích cực làm điều thiện, tránh điều ác, nhưng đã tới thế giới Nhất nguyên, ta phải siêu lên trên mọi tư tưởng đối đãi giữa ác và thiện đó mới là lập trường chân chính của đạo giải thoát Tuyệt đối, Bất nhị.

Mục 12: Nhận định về vấn đề xa và gần.

* Xa và gần do lòng mình đặt ra, tuyệt nhiên không do hoàn cảnh bên ngoài. Hai người không quen biết nhau không hề tưởng nhớ tới nhau, thì ở gần nhau mà vẫn là xa. Hai người thương nhớ nhau, nghĩ tới nhau luôn thì dù ở cách xa nhau hàng vạn dặm đường vẫn là gần nhau. Quốc sư Đại Đăng một buổi gặp Nhật Hoàng Đậu Đề Hồ tâu rằng: “Bệ hạ và thần xa nhau từ vô lượng kiếp mà vẫn chưa hề rời nhau trong phút giây. Bệ hạ và thần đối diện nhau suốt ngày mà vẫn chưa hề gặp nhau lần nào!”. Đó là quan niệm về xa và gần của những tâm hồn đã vượt lên trên tất cả đối đãi phân biệt về không gian và thời gian để đứng trên mảnh đất trong sạch, “Cõi Tịnh độ của tâm”.

* Người theo sự tướng cho rằng: “Cõi Tây phương Cực lạc thật xa, cách chốn Ta bà này hàng vạn ức cõi Phật”: đó là quan niệm của người chưa hiểu lý Bất Nhị. Theo lý đó thì chỉ có một cõi Tịnh độ mà thôi và đó là tâm của ta. Người mê, khi niệm Phật cầu vãng sinh, coi cõi Cực lạc là nơi xa với sức yếu hèn của con người mang nặng nghiệp chướng thì khó lòng tới đó được, phải tận lực cầu khẩn Tha lực của Phật tiếp dẫn mới có thể được toại nguyện. Người có trí tuệ, trái lại cho rằng chỉ cần thanh tịnh tâm mình là đủ. Làm cho tâm mình trong sạch tức khắc được sống trong Niết bàn Thường lạc, ngã tịnh, và điều kiện được về cõi Tịnh độ của tự tâm chỉ cần ngăn cản không làm tám điều tà, trừ mười điều ác, và cố gắng làm mười điều thiện là đủ. Về mặc tiêu cực, tám điều tà phải lìa là: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, sinh mạng tà, phương tiện tà, niệm tà và định tà.

Về mặt tích cực mười điều tiện phải thực hiện là:

1. Phóng sinh và tha thứ (thay vì giết hại và căm thù).

2. Bố thí (thay vì trộm cướp, tham lam ích kỷ).

3. Tôn trọng phẩm giá phụ nữ (thay vì tà dâm)

4. Nói lời ngay thẳng, thành thật (thay vì gian dối, quanh co).

5. Nói lời đoàn kết, ôn hoà (thay vì nói lời ác độc, chia rẽ).

6. Nói lời đoan trang, chân chính (thay vì nói thô tục, điêu ngoa, trái đạo lý luân thường).

7. Nói lời ân nghĩa, có ích cho đời (thay vì nói lời đòn xóc hai đầu và điều đâm thọc).

8. Vun trồng và thực thi những tư tưởng thanh cao, quý báu (thay vì có những tư tưởng vị kỷ, thấp hèn).

9. Có lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả thương xót chúng sinh, coi người như mình.

10. Có tâm chân chính và hành động theo chính tư duy.

Mục 13: Nhận định về dễ tu và khó tu – Tu trong thuận cảnh và trong nghịch cảnh.

a. Dễ tu và khó tu. Người đã “minh tâm kiến tính” thấy tâm mình vốn “tịch” và tính mình vốn “không”. Tâm tính không tịch tức là Chân Tâm. Tự tính của mình xưa nay vẫn “Như thị”, không hình tướng, tịch tĩnh, lóng trong, an nhiên tự tại. Đó là thế giới vô sai biệt và vô phân biệt, đối lập với thế giới của giả tạo, vọng động, đầy phân biệt và sai biệt của trí giác. Nhưng cái thế giới của tri giác phân biệt và sai biệt lại chính từ chỗ tịch tĩnh, không tịch, mầu nhiệm của tâm linh sinh ra, cho nên người hiểu rõ lý Bất Nhị và Chân Không Diệu Hữu của vạn pháp, thấy sự việc ở đời chẳng thực, chẳng hư, chẳng không, chẳng có, chẳng tâm chẳng vật một cách dứt khoát, mà mọi sự ở đời lại huyễn sinh, huyễn diệt, từ Tạng thức biến hiện, một cách huyền diệu, do đó mà tâm của người ấy bình thản trước cảnh buồn vui, phúc hoạ, dễ khó, thuận nghịch và sống chết như tâm của Bàng Long Ẩn Cư sĩ thuở xưa.

Đản tự vô tâm ư vạn vật,

Hà tằng vạn vật thường vi nhiễu

* Trong vũ trụ chỉ có một thế giới duy nhất, vô vi, tịch tĩnh, không sai biệt và không phân biệt của tâm. Nhưng ý thức của con người lại bị thói quen, thành kiến do Sở tri chướng tích luỹ lâu đời biến cải cái Nhất Tâm Chân Như ấy thành thế giới hiện tượng nghìn sai muôn khác, phân hoá bởi vọng động và thể hiện trong nếp sống bình nhật. Thế là cái một biến thành cái vạn. Thế giới hiện tượng sai thù từ cái một sinh ra thì vạn hữu tức là Chân Tâm nên ta nhận thấy chân tướng của sự vật thì đã vén được bức màn vô minh che lấp chúng nên chẳng ý thức được điều đó thì ta cứ dấn thân mãi vào vòng mâu thuẫn vướng vít đầy phân biệt sai thù, khi nhìn sự vật ở đời hời hợt qua bề ngoài của hình danh, sắc tướng. Tu là để thấy rõ Chân tướng, Vô tướng của sự vật, thấy rõ lý Bất Nhị của các pháp trên thế gian và sống trong ánh sáng Chân lý Vô ngã, Vô thường biến dịch của cuộc đời dâu bể. Khi mê còn giữ tâm phân biệt, còn thấy đời là bể khổ nên còn tìm mọi cách, hết chạy sang Đông lại chạy sang Tây để mong thoát khỏi nghiệp báo sinh tử, nhưng lúc đã ngộ rồi, hiểu rõ nghiệp báo sinh tử, khổ đau đều do tâm tạo thì không còn thấy buồn, thương, đau khổ nữa. Chỉ vì Biến kế Sở chấp mà người đời mới thấy buồn, vui, sướng, khổ, dễ tu, khó tu… mà thôi, chứ vạn pháp xưa nay vốn vô tự tính. Cùng một hoàn cảnh, nếu còn chấp có Ngã và Ngã sở, còn bị lệ thuộc vào Căn, Trần, Thức thì còn là phàm phu, còn phải gánh chịu khổ não, đau buồn. Nếu biết phá bỏ mọi chấp trước và giữ cho tâm trong trắng, phẳng lặng thì tuy sống trong Niết bàn thanh cao vui sướng. Nhưng làm sao biết được mình đang sống trong trần lao điên đảo, hay đang được hưởng cảnh tự tại, thanh lương ? Phải sống chung với thiên hạ, lăn lộn trong cuộc đời phồn tạp mới biết rõ là tâm mình có còn bị tám ngọn gió thổi ngược, xuôi làm cho ta điên đảo hay không ? Có bị thử thách trong cuộc sống hàng ngày mới biết rõ trình độ tu chứng của ta.

Đời sống, nhất là trong nghịch cảnh, là tấm gương trung thực để ta soi tỏ được lòng mình.

b. Nhận định về việc tu trong thuận cảnh và tu trong nghịch cảnh.

Không thể nào bảo thuận cảnh hay nghịch cảnh, cảnh nào dễ tu hay khó chứng, vì dễ, khó, thuận, nghịch đều tuỳ thuộc vào lòng mình, hoàn cảnh bên ngoài không có tự tính riêng biệt. Cùng một bầu trời mưa tầm tã mà người nông phu đang khát khao có nước để tưới cây, cày ruộng, dù phải lội bùn ướt đẫm quần áo, vẫn thấy sung sướng như Trời ban cho vàng bạc. Còn người ở đô thị, đi ngoài đường phố, gặp cơn mưa bất thần, bị bẩn chân ướt áo, lại thấy khó chịu bực mình. Có người cho rằng thuận cảnh khó tu, vì đang sống hạnh phúc tràn trề với vợ đẹp con ngoan, danh cao lộc hậu, khó dứt bỏ công danh sự nghiệp hơn người nghèo túng, chẳng có một tấc đất cắm dùi, hay một đồng tiền dính túi, trong cảnh cơ cực, bữa đói bữa no. Với những gì mình đang nâng niu quý báu bỗng dưng lại coi như khói mây ảo ảnh thật là khó. Như Thái Tử Tất Đạt Đa đương ở ngôi quyền quý cao sang tột đỉnh, bỗng dưng dứt bỏ ngay tất cả để sống cuộc đời khất thực, lang thang, thật ít người làm nổi.

Nhưng có người lại cho rằng sống ở cõi Ta bà cực khổ, gặp những cảnh gai mắt, nghịch tai mà làm ngơ, nhẫn được mới mau chứng ngộ. Như Đề Bà Đạt Đa là kẻ bạo nghịch đã tìm mọi cách để hại Bồ tát Đạt Đa, mà Ngài vẫn không mạng dạ oán thù, lại còn nhớ công ơn kẻ đã làm cho mình chứng được Tứ Vô Lượng Tâm và đạt được lý Oán thân Bất Nhị. Như vậy thì cả hai bên đều có lý. Ở trường hợp sau, coi người thân nghịch không khác. Ở trường hợp đầu, Bồ tát phải tìm đến những nơi lầm than cơ cực, lửa bỏng dầu sôi để chia sẽ nỗi khổ đau với những kẻ xấu số mong luyện Tâm Từ.

“Vô nhân kiến xúc, đạo quả nan thành”: không có nhân khiến cho tâm can xúc động thì đạo quả khó bề thành tựu. Cho nên người tu không sợ chướng ngại, vì có chướng ngại mới có duyên lành để tiến bước trên đường tu. Chướng ngại là thước đo đạo tâm của hành giả. Với cảnh ngộ nào cũng tu huyễn, luyện Trí Bát Nhã, coi sự việc ở đời là Vô thường, Vô ngã, nên luyện được Tâm Bi và Tâm bình đẳng vô phân biệt. Nếu nhận xét một cách khái quát thì cảnh thuận thường dễ khiến người đời chạy theo bả vật chất, do đó mà nhụt dần tinh tiến, mất dần đạo tâm. Ở đời, ta hay bị hại bởi lời đường mật, ít ai bị chết bởi câu nghịch nhĩ chân ngôn, cho nên ở trong thuận cảnh cần phải đề phòng nhiều hơn ở trong nghịch cảnh. Bởi vì nghịch cảnh có tác dụng thức tỉnh lòng người, làm cho ta thoát ly được ác tưởng và cố gắng phấn đấu để vươn lên cao tới nơi giải thoát rốt ráo ; còn cảnh thuận lại âm thầm ru ngủ thức Tâm, làm cho con người dễ thoái đoạ, trở nên yếu hèn vì quen sống trong nhung lụa, xa hoa. Nếu nói theo chiều thuận thì chúng ta ở đời này thật là ít phúc nên mới phải sinh vào cõi Ta bà trong thời mạt kiếp, không còn Phật tại thế nên khó tu. Nếu nói theo chiều nghịch thì chúng ta thật là tốt phúc mới được sinh ở cõi này, được gặp nhiều hoàn cảnh thuận tiện để hành Bồ tát đạo, luyện Tứ Vô Lượng Tâm và Lục độ Ba la mật. Dù ở hoàn cảnh nào, thuận hay nghịch ta cũng phải phấn đấu với lòng mình từng phút giây. Những ác tưởng là những phản ứng tự nhiên của Thức hay của bản năng mù quáng gây nên những hành động lỗi lầm, dẫn tới nghiệp quả bất thiện. Đó là những bệnh mà ta phải đề phòng cẩn mật. Để nhớ tới chúng ta phải dùng Trí để niệm. Mỗi người trong hoàn cảnh riêng của mình tự tìm cách để cảnh giác mình và nhớ tới Lương Tâm hay Chân Tâm, Phật tính của mình. Nếu thực hành được điều đó là bước đầu ta dấn thân vào đường hành Bồ tát đạo. Ở cõi Trời cao tột tuy được hưởng nhiều hạnh phúc, không bị vật chất bức bách, nhưng lại thiếu những cảnh đau thương để thức tỉnh lòng mình. Trái lại, ở chốn trần gian khổ nhẫn này, hàng ngày phải tiếp xúc với nhiều cảnh ngộ đau buồn thì người có Tâm Đạo khó cầm lòng được trước những thống khổ của tha nhân, nên mới mạnh dạn dấn thân vào vòng tục luỵ mà hoà quang đồng trần để cải hoá cõi Ta bà mong nó trở thành thế giới Cực lạc.

* Trong kinh Duy Ma Cật, Phật dạy ông Xá Lợi Phất: “Ông nên hiểu rằng người mù không thấy mặt trăng, mặt trời đó không phải là lỗi tại các tinh tú đó. Chỉ vì tâm của chúng sinh bất tịnh nên mới thấy cõi Ta bà này nhơ uế, xấu xa, chứ thực ra thì cõi thế gian này vốn vẫn trang nghiêm, thanh tịnh. Thế gian mà chúng sinh đang sống đây, xưa nay vẫn bằng phẳng, tốt đẹp, không có gai góc, hầm hố bẩn thỉu. Đối với Phật nhãn thì cõi Ta bà này lúc nào cũng đầy hương vị thơm tho”. Nơi nào đầy nước mắt đau thương, những nơi nước đọng, bùn lầy, chính là quốc độ mà Bồ tát tự nguyện dấn thân vào đó để thực thi bản nguyện của mình. Cũng ví như hoa sen thơm ngát và thanh khiết chỉ mọc ở chỗ bùn lầy hôi tanh, mà không thấy sinh ra trên gò cao sạch sẽ. Bồ tát cũng vậy. Các Ngài không trốn tránh cuộc đời lầm than, chỉ ưa vào chốn dầu sôi lửa bỏng, để xoa dịu vết thương của muôn loài đau khổ. Hạnh phúc ở đời phải tìm ở nơi vong thân xả kỷ, xa lìa những tư tưởng khinh mọn thấp hèn. Hạnh phúc đời chỉ có khi con người tìm thấy nguồn vui của mình trong niềm vui của thiên hạ. Niềm vui thanh khiết, bao la, chẳng ở đâu xa, mà buồn vui, sướng khổ, dễ khó, thuận nghịch trong việc tu hành, tìm sự giải thoát đều ở đáy lòng mình.

Đời người không phải lúc nào cũng duyên dáng ngát hương như đoá hồng tươi, cũng chẳng phải lúc nào cũng buồn thương chán ghét như bụi hồng đầy gai nhọn. Hoa là hoa mà gai là gai. Cái gì thuộc về hoa là của hoa. Cái thuộc về gai là của gai. Không vì sợ gai nhọn chích vào da thịt mà ngại không dám hái hoa ngát thơm tươi đẹp. Cũng không vì quá yêu hoa mà lao mình vào bụi gai, bất chấp hiểm nguy để chuốc lấy tai biến. Người lạc quan cho thế gian này là tuyệt đẹp như cánh hồng nhung tươi thắm ngọt ngào. Người bi quan lại cho cõi đời tục luỵ này là nơi đầy gai nhọn gây khổ cực đau thương. Đối với bậc liễu đạo nhìn thế gian này “Như thị, như thị”, không hẳn tươi đẹp hay khổ đau một chiều, mà lại nhìn đời bằng cặp mắt thực tiễn, không buồn, không vui, không say mê vẻ quyến rũ của sắc hương, nhưng nhận định rõ Thực tướng vô tướng của hoa để hành động thận trọng cho khỏi bị gai nhọn đâm vào da thịt mà vẫn thưởng thức được tính hoa của đất trời huyền diệu, thấy đâu đâu cũng là đạo mầu, đâu đâu cũng là Tịnh độ.

CHƯƠNG 14: NHẬN ĐỊNH VỀ KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN

Mục 14: Lý tương đối của các pháp trong vũ trụ.

Danh hiệu Phật A Di Đà (Vô lượng quang, Vô lượng thọ, Vô lượng công đức) và thế giơi Cực lạc Tây phương cách xa chúng ta hàng vạn ức Phật độ, đã gợi ý cho chúng ta nghĩ tới hai pháp Phương và Thời trong 24 pháp Tâm Sở bất tương ưng hành của Duy thức tông cùng sự liên quan tương đối của vạn pháp trong vũ trụ Vậy ta phải có một nhận xét sao về Không gian và Thời gian ?

* Theo chân lý thì hai pháp này chỉ là những pháp hư giả, chúng không có tự tính riêng biệt. Chúng Vô ngã. Đó là những sản phẩm do con người tạo ra, dựa vào sự xoay vần của trái đất quanh mình nó và quanh mặt trời. Rồi con người lại tạo ra nào là đồng hồ để đo thời gian, nào là thước tấc để đo không gian, với mục đích là cụ thể hoá những gì mơ hồ trong đầu óc. Giả sử trái đất này ngừng quay hay không còn mặt trời nữa, thì ý niệm về không gian và thời gian cũng tiêu tan luôn, đồng thời với ý niệm, nhỏ, to, trên, dưới, trong, ngoài, quá khứ, hiện tại, vị lai, v.v… sẽ sụp đổ tan tành cùng một lúc với toàn thể vũ trụ. Do đó ta thấy không có gì tuyệt đối, thường tồn trong thế tương đối này cả. Cái này phải dựa vào cái kia để tồn tại theo lý Tương tức, Tương nhập, trùng trùng duyên khởi, và Sự Sự nhất thiết vô ngại mà Kinh Hoa Nghiêm đã đề ra. Theo chân lý thì không có một khoảng cách nào tuyệt đối xa hay tuyệt đối gần, cũng không có một quãng thời gian nào tuyệt đối mau hay tuyệt đối chậm cả. Không có một điểm nào trong không gian được coi là cố định, bất di dịch, có thể dùng làm tiêu chuẩn để ấn định vị trí cho các vật thể khác. Chữ “Định tinh” thật là vô nghĩa và phải xoá bỏ trong Tự điển của loài người, bởi vì không có một vật thể nào trong vũ trụ lại chẳng hằng chuyển. Do đó, tìm một thứ gì tuyệt đối độc lập và biệt lập hoàn toàn đối với các vật thể khác thật là uổng công. Toàn thể nhật nguyệt sơn hà trong bầu khí quyển mênh mông đều có những mối tương quan tương duyên chằng chịt với nhau, không thể tách rời nhau ra được. Tất cả đều nằm trong Tương đối mà nhà Bác học Einstein mới khám phá ra cách đây non một thế kỷ.

* Trong Lã Thị Xuân Thu có câu chuyện “Khắc chu cầu kiếm” được Cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trích dịch trong tác phẩm Cổ Học Tinh Hoa nói về một người đi thuyền vô ý đánh rớt thanh gươm ở giữa dòng sông. Anh ta liền đánh dấu vào mạn thuyền, nơi lưới kiếm bị rơi xuống nước và nói rằng: “Ta đanh rơi thanh gươm ở chỗ này đây”. Khi thuyền vừa cập bến, anh vội thuê người lặn xuống sông, nơi đánh dấu ở mạn thuyền để mò, nhưng tìm sao được thanh gươm ngay gần bờ sông ? Thấy vậy, thiên hạ đều cười, chê anh chàng là ngốc. Thiên hạ chê cười vì anh ta đã không biết là con thuyền đã di động và thanh gươm đổi vị trí, tương đối với chỗ thanh gươm bị rơi. Đó là quan niệm của người xưa về nghĩa tương đối của không gian.

* Trong thi văn, người ta cũng thường thấy các văn nhân thi sĩ đề cặp đến hiện tượng “thời gian ngừng trôi”. Thi sĩ Lamartine trong bài thơ “Le Lac” đã để lại những câu bất hủ:

Ô Temps! Suspends ton vol! Et vous, Heure propice, suspendez, votre cours!

(Thời gian hạ cánh chớ bay! Giờ Hoàng đạo xin ngừng ngay bước dồn!)

Các chàng si tình đều cảm thấy lòng mình như bị lửa đốt khi phải đợi chờ người yêu, vi mỗi phút đợi chờ dài hơn một thế kỷ! Trái lại, nếu được gần nhau trong một thời gian, rồi lại phải ly biệt thì thấy thời gian ở bên nhau đi mau quá mỗi khắc, mỗi giây tựa như mọc cánh tung bay!

* Với những người phải chịu cực hình ngồi trên ghế điện chờ chết, hoặc trên đống than hồng, cũng cảm thấy mỗi phút trôi qua là cả một thiên thu bất tận! Hiển nhiên là các văn nhân thi sĩ cũng như những gã si tình hay phạm nhân phải chịu cực hình đều cảm thấy thời gian chẳng phải là một cái gì tuyệt đối, hoàn toàn độc lập với thế giới chung quanh, mà lại tương đối, tuỳ thuận vào tâm thức của con người trong cuộc. Quan niệm về thời gian tương đối của khoa học ở chỗ, trong thi ca, thời gian tương đối lâu hay mau tuỳ thuộc vào tâm của con người, còn trong thuyết tương đối của Einstein thì Thời gian Tương đối lại là một hiện tượng vật lý có thể kiểm chứng, đo lường được. Ở đây tôi chỉ xin nói sơ lược về thuyết tương đối của Einstein. Thuyết này có hai phần:

1.- Tương đối đặc biệt hay thu hẹp (Relativite Spéciale ou restreime) công bố năm 1905, nói về các vật thể chuyển động đều và chịu ảnh hưởng về hấp lực của các thiên thể khác trong vũ trụ. Thuyết Tương đối đặc biệt hay tu hẹp được tóm tắt trong những đề tài về Tương đối của vận tốc của khoảng cách, của thời gian, và của khối lượng.

a. Tương đối về vận tốc: Một cậu bé chăn trâu đứng ở bên đường nhìn thấy một chiếc xe hơi chạy vụt qua trước mặt cậu rất nhanh. Nhưng lúc ấy một người ngồi trong toa xe lửa chạy với tốc độ nhanh gần bằng xe hơi, lại thấy chiếc xe hơi này chạy quá chậm, gần như bò trên mặt đường tựa một con ốc sên. Nếu xe lửa lại chạy nhanh bằng xe hơi, thì đối với người ngồi trong xe hơi hay người ngồi trong toa xe lửa, đều cảm thấy hai chiếc xe này cùng đứng yên không chuyển động, mà chỉ thấy cây cối, cột điện hay nhà cửa ở ven đường thi nhau chạy ngược chiều mà thôi.

b. Tương đối về thời gian: Một chiếc đồng hồ luôn luôn di chuyển, nghĩa là được mang theo với người đi du lịch, ngồi trên phi cơ, chạy với một nhịp độ khác chiếc đồng hồ ở yên một chỗ dưới đất. Đồng hồ được di chuyển càng mau bao nhiêu thì nhịp độ của chiếc đồng hồ ấy lại càng chậm bấy nhiêu. Một hiện tượng thường xảy ra cho người đi du lịch bằng phi cơ là phải điều chỉnh lại đồng hồ mang theo khi đáp xuống phi trường nước ngoài vì giờ địa phương nơi đến khác với lúc khởi hành. Người ta đã tính được rằng: trên một chiếc xe hơi chạy với tốc độ 90 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại một phần nhỏ của một giây đồng hồ trong một ngày. Vì thời gian quá ngắn nên ít người để ý tới, song sự chậm đó thực sự có xảy ra. Nếu được di chuyển trên một hoả tiễn bay với tốc độ 150.000 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại 3 giờ 10 phút trong một ngày, và nếu lại được di chuyển nhanh bằng tốc độ của ánh sáng (300.000 c/s giây) thì chiếc đồng hồ này ngưng chạy! Thực ra thì đó chỉ là  một giả thuyết mà thôi, bởi vì trên thực tế không có một vật nào trên trái đất này lại chạy nhanh bằng ánh sáng cả (trừ tư tưởng con người). Nhưng giả thử lại có một loại hoả tiễn chạy nhanh tới 200.000 c/s giây, thì bằng phương pháp trắc viễn để đó nhịp tim, nhịp mạch máu và nhịp phát triển bộ phận trong cơ thể của phi hành gia sẽ thấy các cơ quan này hoạt động với nhịp độ chậm hơn lúc bình thường khi còn ở mặt đất, song phi hành gia ngồi trên hoả tiễn đang bay lại chẳng cảm thấy có sự thay đổi gì khác thường cả, bởi vì các máy móc và lục phủ ngũ tạng của người đó đều hoạt động chậm lại như nhau.

* Những câu chuyện thần thoại như Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai hay chàng Từ Thức lạc vào Tiên động được sống với nàng Giáng Tiên trong một thời gian mặn nồng hương lửa, sau lại trở về cõi tục để ngao ngán tiếc rằng mình đã là người của thế hệ mấy trăm năm về trước. Hoặc những câu chuyện khoa học giả tưởng trong đó có những người được đưa tới các hành tinh xa lạ, có nhịp độ quay chậm hơn trái đất, sau một thời gian sống thần tiên ở những phương trời xa lạ ấy sẽ thấy mình đã trải qua một thời gian lâu hàng thế kỷ so với đời sống ở trần gian.

c. Tương đối về khoảng cách: Khi một hoả tiễn vọt lên trời, thì người ở dưới đất thấy hoả tiễn ngắn hơn lúc nó còn nằm ở mặt đất. Ngược lại, người ngồi hoả tiễn lại cảm thấy nhà cửa, cây cối và mọi vật ở dưới đất nhỏ bé và ngắn hơn so với lúc bình thường.

d. Tương đối về khối lượng: Theo Khoa học Vật lý cổ truyền thì khối lượng và năng lượng là hai thứ hoàn toàn khác nhau và không bao giờ thay đổi (Loi de conservation de la maitère ét loi de conservation de l’ énergie). Einstein đã bác bỏ hản hai thuyết trên và cho rằng: Khối lượng của một vật thể tăng lên cùng với vận tốc của nó. Sự chuyển động hay vận tốc là một hình thức của năng lượng, và sự gia tăng khối lượng của một vật thể kéo theo sự gia tốc hay năng lượng của vật thể ấy. Einstein đã cô đọng thuyết này trong công thức E = MC² trong đó E (Energie) là Năng lượng ; M (Masse) là Khối lượng của vật thể ; và C (Constant) là hằng số 3 x 105  tức tốc độ của ánh sáng. Công thức này có nghĩa là một vật chuyển động nhanh bao nhiêu thì sức mạnh của nó cũng tăng lên bấy nhiêu, do đó mà một hòn sỏi rơi gần mặt đất không gây ảnh hưởng gì cả, nhưng nếu nó lại rơi từ cửa sổ của một cao ốc chọc trời sẽ bay vun vút xuống và có thể gây tai hại khủng khiếp đối với những gì ở dưới đất, bởi vì sức mạnh (năng lượng) của nó có thể bằng một khối đá lớn giáng xuống từ trên cao. Khi một vật ở nguyên một chỗ thì năng lượng của nó bằng khối lượng của nó E = M. Như vậy theo Einstein, vật chất không còn là một thứ cố định, không thay đổi, như khoa học cổ điển đã quan niệm lỗi thời nữa. Vật chất sinh ra Năng lượng, và Năng lượng sinh ra vật chất. Khối lượng và Năng lượng hỗ tương. Năng lượng có Khối lượng và Khối lượng có Năng lượng. Nói theo lối Phật giáo thì Khối lượng và Năng lượng tương duyên tương sinh, tương tức tương nhập với nhau chứ không biệt lập và độc lập. Các Khoa học gia ngày nay còn cho rằng: Bản thể của vạn hữu không phải là vật chất mà là Năng lượng (tinh thần) và toàn thể vạn hữu chỉ là Năng lượng mà thôi, vì nếu lấy Điện tử làm cơ sở cho vật chất thì nó không còn là vật chất nữa khi nó ở trạng thái tinh thể loãng và ba động, cho nên các tân khoa học gia mới đi tới kết luận: “Vật chất là năng lượng ở thể cô đọng. Và Năng lượng là vật chất ở thể loãng”, hay “Vật chất chỉ là Tinh thần ở trạng thái chậm lụt” (la matière n’est qu’un ralenti de l’. Esprit) bởi vì Điện tử, nền tảng của vật chất, lại không có khối lượng khi nó ở thể loãng. Theo phương trình của Einstein (E = MC²) thì khi người ta biến đổi hoàn toàn một gramme than đá thành năng lượng thì sẽ được một số năng lượng tương đương với 25 triệu kilowatt/giờ điện, đủ sức cung cấp nguồn điện lực cho một tập thể dân cư của một quận sử dụng tuỳ thích trong suốt một năm, hoặc có thể đun sôi 270 triệu lít nước. Còn nếu chỉ đốt cháy một gramme than đá theo lối thường thì nhiệt lượng phát ra chỉ vừa đủ để làm ấm một ly nước lạnh mà thôi. Nhiệt lượng sinh ra do sự đốt cháy là kết quả của sự phản ứng hoá học thông thường. Nếu cân số tro than còn lại và số thán khí bay ra thì ta sẽ thấy khối lượng vẫn bằng một gramme than đá nguyên chất. Phương trình E = MC² giải thích được tại sao mặt trời cùng các tinh tú có thể chói sáng rực rỡ và phát ra nhiệt độ hàng tỷ tỷ năm qua mà vẫn chẳng thấm vào đâu, còn nếu chúng bị đốt cháy theo lối thông thường, thì chúng đã bị tắt, giá lạnh và tiêu tan từ lâu rồi, chứ không thể còn tồn tại cho tới ngày nay nữa.

Công thức E = MC² đưa tới việc chế tạo ra nguồn năng lượng nguyên tử. Để hình dung mức độ nguyên tử năng to lớn đến bậc nào, ta có những tài liệu sau: nếu phá hết một kilogramme Uranium, thì năng lượng hoặc nhiệt lượng của 1kg uranium gấp 3 triệu lần nhiệt lượng của 1kg than đá đốt cháy theo lối bình thường. Sự biến đổi vật chất ra năng lượng được ứng dụng vào việc chế tạo ra Pile hay bom nguyên tử. Cách 40 năm sau khi công thức Einstein ra đời, hoàn cầu có dịp được kiểm chứng bằng thực nghiệm của khoa học, và toàn thể nhân loại thời đó đều bàng hoàng xúc động khi phải trả giá đắt cho cuộc thí nghiệm của hai trái bom nguyên tử ném xuống tàn sát hơn 35 vạn nhân mạng tại hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Vậy mà bom hạch tâm ngày nay với sức tàn phá của hàng triệu tấn thuốc nổ T.N.T, so với bom nguyên tử đầu tiên thời xưa còn mạnh gấp hàng ngàn vạn lần!

* Einstein lại còn đưa ra thuyết Không gian bốn chiều để đánh đổ quan niệm lỗi thời về Không gian ba chiều (rộng, dài và cao). Theo ông thì Không gian liên tục và thay đổi cùng với Thời gian trôi qua. Ông cho rằng: thuyết Không gian ba chiều không đủ để diễn tả Thực tại, mà còn cần phải thêm chiều thứ tư nữa là Thời gian mới đo được chính xác bởi vì quả đất không ngừng quay. Không những trái đất xoay quanh trục của nó mỗi ngày 40.000 cây số, và xoay quanh quỹ đạo mặt trời mỗi giây đồng hồ 30 cây số, mà nó còn bị lôi cuốn vào cơn lốc xoay tít của tất cả mọi vật thể khác trong vũ trụ nữa. Muốn ấn định vị trí một phi cơ đang bay cần phải biết rõ phi cơ ấy ở kinh tuyến nào, vĩ tuyến nào, độ cao nào, và ở thời điểm nào nữa. Do đó để diễn tả vị trí của một vật thế đang di động (mà vật thể nào lại chẳng di động hoặc bị di động ?), ta phải dùng đến quan niệm Không gian và Thời gian (Espace Temps), nghĩa là Không gian và Thời gian là một, tương tức, tương nhập luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể duy nhất bất khả phân.

Không gian 4 chiều là hình của Không gian 3 chiều di động từng sát na. Thế giới mà ta đang sống là một khoảng bao la, vô giới hạn, trong đó mọi hiện tượng tâm vật và sinh lý đều diễn ra đồng thời ở trên hai bình diện Không gian và Thời gian, không thể tách rời hai phần đó ra được. Có Không gian là có Thời gian và ngược lại. Nếu vì một lý do gì mà Thời gian ngừng trôi theo như nguyện vọng của những chàng trai si tình như Thi sĩ Lamartine, hay một vật thể nào trong vũ trụ lại đóng vai trò Định tính, đứng yên một chỗ, không bị di động trong cơn bão lốc đang xoay tít của toàn thể, thì bao nhiêu tinh tú, sơn hà, nhật nguyệt của vũ trụ đều bị ảnh hưởng tức khắc, theo lý “Trùng trùng duyên khởi”. Theo Einstein thì không có một điểm nào trong Không gian lại cố định cả. Toàn thể vũ trụ đều ở trong Không, Thời gian 4 chiều, mật thiết liên đới với nhau. Sự cách trở được diễn ra đồng thời trên cả hai mặt Phương và Thời chứ không phải chỉ thuần ở trên mặt Không gian hoặc Thời gian mà thôi. Ánh sáng là một hình thức năng lượng nên nó cũng có khối lượng (E = M). Khi ánh sáng xuyên qua những khối vật thể lớn thì nó bị hút bởi các vật thể ấy và đi theo một đường cong thay vì đường thẳng, bởi vì không gian ở đây cong hơn ở những nơi có vật thể tương đối bé. Sự có mặt của một vật thể trong vũ trụ làm cho Không gian bao quanh nó bị cong lại, vì vậy mà không thể có được đường thẳng tuỵêt đối theo kiểu Toán học cổ điển. Einstein cho rằng đường thẳng chỉ có ở những đoạn ngắn, còn ở quãng xa nó trở thành cong chứ không thẳng nữa, và những đường thẳng song song đều gặp nhau ở tâm điểm của trái đất. Cũng theo Einstein chỉ có thời gian địa phương chứ không có thời gian phổ quát, vì vậy mà ý niệm về “bây giờ” chỉ được áp dụng cho “ở đây” mà thôi, chứ không thể áp dụng cho một nơi xa xôi nào khác.

Tóm lại, theo thuyết của Einstein thì Không gian và Thời gian không được coi là hai thực thể cố định tuyệt đối độc lập và vô cùng tận. Hai thứ đó đều không có thực, cũng chẳng thực không. Nếu tách rời ra thì không có Không gian và Thời gian có tự tính riêng biệt, mà chỉ khi nào chúng phối hợp với nhau chặt chẽ thành một khối duy nhất mới diễn tả được thực tại. Trên thực tế thì Không gian chỉ là cái dùng để chỉ khoảng cách giữa hai vật thể, và Thời gian chỉ là cái dùng để chỉ sự liên hệ trước sau giữa các biến cố trong trời đất. Sự hiện diện của các vật thể và các biến cố kéo theo sự có mặt của Không gian và Thời gian. Không gian chỉ là một (Sự) trong những số lượng biến đổi (Vô ngã), và Thời gian chỉ là một (Sự) trong tương đối (Vô thường). Thế giới của Không gian và Thời gian chẳng qua chỉ là một ngục tù mà chúng ta khó lòng thoát ra khỏi, bởi vì chúng ta luôn luôn bị trói buộc trong vòng nhân duyên. Khi nào con người chưa tìm được một thế giới không bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian như thế giới Cực lạc Tây phương của Phật A Di Đà (Vô lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô lượng Công đức) thì con người vẫn là một sinh vật khổ đau.

Ta nhận thấy: bằng đường lối quan sát các hiện tượng khoa học ở đầu thế kỷ XX đã khám phá ra được chân lý Tương đối trên mặt Không gian và Thời gian và cho nhân loại nhận thấy rõ thuyết Khối lượng và Năng lượng (E = M) hay vật chất và Tinh thần hoặc Tâm cảnh Nhất như.

Bằng đường lối thực nghiệm tâm linh, các Thiền sư trong đạo Phật đã nhận thấy rõ Chân lý Tương đối cách đây trên 2500 năm. Theo đạo Phật thì quan niệm Không gian và Thời gian là hai “Sự” khác biệt hẳn nhau hoàn toàn không đúng, và với lý “Sự sự vô ngại” Pháp giới thì Không gian và Thời gian không còn là hai “Sự” biệt lập và độc lập với nhau mà chúng hoà hợp với nhau như nước với sữa để trở thành một “Sự” duy nhất Không – Thời gian trên mặt danh từ cũng như trên mặt thực dụng.

* Một phương pháp của đạo Phật để đạt tới thực tại tuyệt đối là loại trừ những cảm giác chủ quan do lục căn, lục thức của cá nhân tiếp xúc với lục trần, có tính cách “biến kế sở chấp” tính và phân biệt tính đã ghép vào thực tại tuyệt đối. Duy thức học Phật giáo chủ trương dùng phương pháp “Thu thúc lục căn” để đạt tới Thực tại tối hậu, nghĩa là ngăn không để cho lục căn lục trần tiếp xúc với nhau. Nếu ta nhắm mắt, bịt tai lại, không nhìn, không nghe sự vật diễn biến chung quanh, ta vẫn còn thấy có một ý niệm về thời gian diễn biến bên trong, trôi đi không ngừng như một dòng suối âm thầm chảy. Ý niệm đó cho ta cái cảm giác miên tục của dòng sinh mệnh không chia cắt thời gian thành quá khứ, hiện tại và vị lai. Ý niệm này có tính cách trực giác, không qua trung gian của một giác quan nào cả. Đồng thời lại có một ý niệm thứ hai xuất hiện: đó là ý niệm về Không gian. Những gì mà ta trông thấy quanh mình đều không phải là thực tại tuyệt đối ở ngay chính thời gian mà chúng được quan sát, vì thực ra đó chỉ là bóng ma của những vật ấy trong quá khứ mà thôi.

Thí dụ như ánh sáng mặt trời mà ta nhìn thấy lúc này chỉ là thứ ánh sáng ở vào 8 phút đã trôi qua, vì ánh sáng phải mất 8 phút để đi từ mặt trời tới trái đất. Sự kiện trên cũng đúng với những vật ở quanh ta. Ở đây khoảng cách về thời gian trước sau tuy ngắn ngủi, song không vì thế mà ta có thể phủ nhận được nó. Sự cách trở như vậy đã xảy ra ở cả hai mặt Không gian và Thời gian, chứ không chỉ thuần tuý diễn ra ở một phương diện nào mà thôi. Nói cách khác thì chúng ta nhìn ngoại vật không chỉ riêng về mặt Không gian mà còn cả về mặt thời gian trong quá khứ nữa. Do đó, không gian và thời gian, dưới con mắt của nhà Duy Thức học rõ ràng có tính cách tương tức, tương nhập, không hề cách biệt, độc lập và xa rời nhau.

* Toàn thể Pháp giới, Hư không giới đều bị không gian và Thời gian bao vây, khó thoát.

  Mặt khác toàn thể vũ trụ và Pháp thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, cảm ứng điều hoà, nhịp nhàng như tuân thủ một nhịp điệu huyền vi của một trái tim khổng lồ. Trái tim ấy là A lại da thức của toàn thể Pháp giới mà mặt trời là vật tượng trưng (hay là Phật A Di Đà được nhân cách hoá), là nơi phát nguyên của động lực sinh thành, theo luật “trùng trùng duyên khởi” và “tương tức tương nhập” có diệu dụng ứng hiện ra muôn ngàn hiện tượng dung thông vô ngại, sinh sinh hoá hoá, từ vô thuỷ đến vô chung, góp phần vào mục tiêu đưa toàn thể thế giới tới đích “Chân, Thiện, Mỹ” – nguyên động lực ấy là cái “Thiên Địa chi Tâm” hay cái Tâm diệu dụng của người giác ngộ dự phần đóng góp vào cứu cánh tròn đầy của vũ trụ.

* Thể tính của Không gian và Thời gian vốn Vô vi, bất sinh bất diệt, bất khứ bất lai, nên Không gian và Thời gian chính là Chân như, là Như Lai, hay cái Thể Chân Không Diệu Hữu của muôn vật, Không gian và Thời gian kết hợp lại tạo ra thế giới vạn hữu là đại vũ trụ, con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái khối đại vũ trụ ấy, cho nên khi hành giả quán chiếu tự tâm, đi sâu vào nội giới để kiến tính thì bắt gặp Không gian và Thời gian bên trong và bên ngoài giao hội tại nội tâm. Khi ấy thì tâm của hành giả vượt qua mọi đối đãi giữa Hữu và Vô, nội và ngoại, trên và dưới… và cảm thấy một sự sống động liên tục, bất nhị, hằng chuyển.

* Khi nói đến sự chứng ngộ về Hư không trong Thiền quán ở cõi “Thức vô biên xứ” và “Hư không vô biên xứ”, người ta đề cập đến chiều thứ tư là Thời gian. Nói cách khác thì Không gian và Thời gian mà ta vẫn quan niệm xưa nay là “Tĩnh” và bao la như một cái khung bất động, thực ra nó vẫn “Động” bởi vì vũ trụ không ngừng quay và chiều thứ tư của Không gian, chính là đường gặp gỡ của Không gian và Thời gian cùng chuyển động. Về mặt tâm linh, sự tiếp nối giữa không gian và thời gian trở thành một sự đi sâu vào nội giới. Sự tiếp nối đó được diễn ra trong Tâm định, giữa lúc Thiền sư đi sâu vào nhập định tam muội. Khi tiến sâu vào đáy lòng mình bằng con đường Thiền quán thì hành giả cảm thấy không gian và thời gian co rút ngắn lại, tưởng chừng như tụ vào điểm “Không” nhưng kỳ thực nó lại vươn lên, tiến tới bao la vĩnh cửu, vô cùng cực, ở chỗ thâm sâu vô đáy của Chân tâm. Trái lại khi ngó ra phía ngoài, hành giả lại cảm thấy không gian với thời gian như giãn dần và toả rộng, trải dài khắp nơi, tưởng chừng như đi tới cùng cực, mà thật ra nó lại biến vào hư vô, không thấy tăm hơi, cho nên mỗi phút giây trong Thiền quán vào Hư không Vô biên giới ví tựa thiên thu vô tận. Trong sự dung thông dung nhiếp của Không gian và Thời gian, nghĩa là trong cái “nhất điểm tối hậu và vô lượng” nối liền sát na với a tăng kỳ kiếp, nối liền “nhất niệm, vạn niên” và “vạn niên, nhất niệm” ấy có nhiều tên gọi khác nhau, nào là: Số không, giọt nước, cái hạt, cái mầm, tinh trùng, điện tử, đương xứ… Đó là nơi khởi điểm của một Tâm Định, từ đó sức Thiền quán lần làn toả rộng, bao la, khắp pháp giơi, đồng thời cũng là nơi chấm dứt của mọi sự thể nhập. Chính tại nơi tụ điểm này mà không gian bên trong và bên ngoài gặp nhau tại nội tâm, để cùng tại đây mà không gian trong và ngoài hoà nhập với thời gian. Hành giả lúc đó cảm thấy sự hiện diện của nó ở nhịp đập âm thầm của con tim.

* Đối với Thời gian, đạo Phật cho rằng: Quá khứ, Hiện tại và Vị lai liên tục ví như một dòng suối hằng chuyển không ngừng. Người tu hành sống thư thái, ung dung, không quan tâm tới thời gian qua lại, hoà hợp với thiên nhiên trong nhịp vận hành của toàn thể vũ trụ. Muốn hiểu quan niệm nhân sinh trên ta hãy đọc bài kệ sau đây:

Chư hành vô thường.

Thị sinh diệt pháp.

Sinh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc ?

Chữ  “Hành” ở đây bao gồm cả ba thời:  quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tư tưởng và hành động của ta đều là những pháp Vô thường, luôn luôn sinh diệt. Khi đã siêu lên trên sự Sinh Diệt của các pháp, không trụ tâm vào đâu cả thì con người được an lạc, tự tại, ở trong cảnh tịnh tĩnh Niết bàn. Vậy muốn thoát vòng tử sinh, phải xa lìa các pháp hữu vi sinh diệt. Tâm không được trụ vào bất cứ điểm nào của không gian và thời gian.

* Như trên đã nói: Không gian và Thời gian là những pháp tương đối, tương tức, tương nhập, dung thông với nhau theo lý Sự Sự vô ngại Pháp giới. Những điểm không gian và thời gian tiếp nối nhau như những hạt điện âm dương trong một dòng điện để đi đến chỗ không còn phân biệt nổi đâu là không gian, đâu là thời gian nữa, bởi lẽ không có một sự vật nào ở yên tại chỗ mà không bị xê dịch từng sát na theo cái đà hằng chuyển của toàn thể vũ trụ trong cơn lốc vô ngã, vô thường. Dù cách xa tới đâu, dù lâu dài bao nhiêu thì không gian và thời gian cũng chỉ là ý niệm hay những pháp mê vọng do tâm con người tạo ra mà thôi. Chính mê vọng đã dệt thành màng lưới không gian và thời gian để giam hãm tâm hồn chưa giác ngộ. Còn sống trong thế giới nhị nguyên tương đối, phân biệt và sai biệt. Thực tại về Không gian và Thời gian vốn là Chân Không Diệu Hữu, bất biến tuỳ duyên và tuỳ duyên bất biến. Rời bỏ mê vọng, diệt trừ những tư tưởng phân biệt và sai biệt thì khoảng cách dù to đến đâu cũng chỉ là ở trong gang tấc, và thời gian, dù lâu dài đến đâu, cũng chỉ ở trong phút giây. Cực lạc hay Ta bà chỉ do một niệm của tâm khởi. Khoảng cách ngàn trùng vẫn là khoảng cách của mê vọng và Cực lạc Tây phương vẫn ở trong cuộc sống này và ở tại đây. Thực tại thì Nhất Như không biến đổi, chỉ có Tâm vọng động của con người mới chuyển biến không ngừng.

* Ta nghĩ sao về con số “Ba a tăng kỳ kiếp” (Số 3 kèm theo 47 số không) là thời gian cực dài của lối tu Tiệm ngộ, theo Sự Tướng hữu vi, hay lối tu đãi Phú so với một Niệm hay Sát na Tam muội (1giây đồng hồ chia cho 10, kèm theo 43 số không, 1”:1043  ) là thời gian cực ngắn của giác ngộ tại tâm, hay trực giác tâm linh, theo lối tu đốn ngộ của Vô vi pháp phải chăng chỉ do một cử chỉ quyết liệt, cực nhanh của tư tưởng quay đầu trở lại, dứt khoát từ bỏ ác niệm, đoạn tuyệt nếp sống xưa, thay vì hướng ngoại chạy theo tiếng gọi của vật chất, tham, sân, si, phù du biến ảo lại hướng nội, kiến tính, để làm sáng tỏ những đức căn bản sẵn có của tự Tâm, tìm về với Lương Tâm, Phật tính của mình.

* Biết vọng là Chân. Biết là mê muội mà từ bỏ mê muội thì liền trở thành Phật sáng suốt, giác ngộ. Ta phải biết Chết đi để sống lại, chết đi những nết xấu tật hư của thất tình lục dục để được giải thoát khỏi cái Ta điên dại, điên cuồng, chỉ quen phân biệt ngã, nhân, để sống theo ý nghĩa thiêng liêng cao cả của Chân lý “Vật vật đồng nhất thể”, “Một là Tất cả, Tất cả là Một”.

* Khi đã từ bỏ được quan niệm sai lầm về Không gian và Thời gian là hai thực thể độc lập tuyệt đối và vô cùng tận ta cũng rời bỏ được quan niệm sai lầm về mạnh và yếu, lớn và nhỏ tuyệt đối, về một và nhiều, về quá khứ, hiện tại, vị lai. Lúc đó ta không còn phân biệt nữa, và ta có thể “đem tương quá khứ và hiện tại đặt vào tương lai, đem tương lai và hiện tại đặt vào quá khứ, một niệm đặt vào trong muôn niệm, đem muôn niệm đặt vào trong một sát na…

Dùng tâm bình đẳng vô phân biệt nhìn vũ trụ ta sẽ thấy không những một hạt bụi chứa cả không gian vô cùng mà còn chứa cả thời gian vô tận nữa, và một niệm không những chứa không gian vô biên mà chứa cả thời gian vô hạn nữa, nếu ta biết nhìn sự vật không hời hợt qua sắc tướng bề ngoài, mà lại nhìn sâu vào cốt lõi, chân thể của chúng ở bên trong, hay nếu ta biết nhìn sự vật, qua lăng kính tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi và nhất thiết vô ngại. Với nhãn quan ấy ta sẽ thấy: phải có cái này mới có cái kia, cái này là cái kia, cái kia là cái này… Tất cả những diễn biến trong vũ trụ đều do sự suy động của ngọn gió nghiệp và luật nhân quả tuần hành. Sự diễn trình biến đổi của vạn hữu có tính cách tuyệt đối bình đẳng. Không có một vật nào quan trọng hơn vật nào bởi lẽ vạn vật đều vô tự tính, Vô ngã, Vô thường như nhau.

Theo quan niệm “Nhất trần Pháp giới” thì một hạt bụi chứa đủ những bí ẩn ngang các tinh cầu, và bao hàm cả tam thiên đại thiên thế giới. Dưới con mắt của nhà Vật lý học đương thời, họ cũng nhận thấy rõ là vũ trụ đồng nhất thể, dù là Tinh cầu, Nhật nguyệt, côn trùng hay chất óc của con người, tất cả đều được cấu tạo bằng những nguyên tử như nhau. Trong mỗi nguyên tử có cùng một loại vi trần là Dương điện tử và Âm điện tử cùng Trung hoà tử. Nếu phân tích đến cùng cực thì chỉ còn là một hệ thống về vật chất tiêu tan, và cái gì cũng vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa là vi trần vừa là làn sóng ; vừa là Vật lại vừa là Tâm. Khuynh hướng của những nhà Vật lý học ngày nay là quy cả vũ trụ vào trong các làn sóng điện ngắn dài.

Vật chất không thường còn mãi mãi mà nó có thể biến đổi giả diệt giả sinh. Hễ vật chất diệt thì năng lực sinh, mà năng lực diệt thì vật chất lại sinh. Năng lực (tinh thần) và vật chất thay phiên nhau biến hoá. Cái tướng sinh diệt của vạn hữu do đó chỉ là giả tướng, còn bản thể của chúng thì không hề sinh diệt. Và như vậy thì khoa học ngày nay cũng đi tới kết luận như Phật giáo là: Thế giới vật chất hữu hình thật ra chỉ là những bóng hình không tướng, bất sinh, bất diệt, bất giảm, bất tăng (Rien ne se perd, rien ne se créé – Loi de Lavoisier) và chứng minh được câu: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc…” của Bát Nhã Tâm Kinh, cũng những câu: “Ba a tăng kỳ kiếp chẳng khác một Sát na”, “Trong một hạt bụi chứa cả ngọn núi Tu Di”, “Ở đầu một sơi lông hiện ra mười phương cõi Phật”, và “ngồi trong hạt cải mà chuyển được Đại Pháp Luân” của Kinh Hoa Nghiêm. Ta cũng thấy rõ ý nghĩa những câu trong bài Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán, do Trúc Thiền dịch dưới đây:

Khoảnh khắc là vạn niên

Mười phương trước mắt liền.

Cực nhỏ là cực lớn

Đồng nhau, bặt cảnh duyên.

Cực lớn là cực nhỏ,

Đồng nhau chẳng giới biên.

Một tức là Tất cả,

Tất cả tức là Một.

Quý hồ được như vậy,

Lo gì chẳng tròn đầy

* Theo tài liệu của khoa Vật lý học ngày nay thì trong một giọt nước có khoảng 6 triệu triệu tỷ nguyên tử. Nếu một người chỉ nhỏ bằng một hạt nguyên tử thì toàn thể dân tộc Việt Nam 60 triệu người, ngồi quây quần sát vào nhau, chỉ chiếm một khoảng nhỏ xíu trên đầu một chiếc kim gút mà thôi. Hình ảnh này trung hợp với câu thơ của một Thiền sư đời Lý:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng.

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

(Càn khôn rút lại đầu lông xíu.

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng).

* Khoa học ngày nay đã nhận thấy rằng nguyên tử tuy rất nhỏ, song điện tử (Electron) mang tính chất Âm điện, Proton mang tính chất Dương điện và Neutron hay Trung hoà tử, mang thành tính chất trung tính, ba thứ này hợp lại tạo thành một hạt nhân nguyên tử, còn nhỏ hơn nguyên tử hàng 2 tỷ lần. Nếu một nguyên tử to bằng một quả bóng lớn thì hạt nhân nguyên tử chỉ bằng một hạt bụi nhỏ mà thôi. Trong khoảng gần như trống rỗng chung quanh hạt nhân nguyên tử thì các hạt Điện tử Electron quay trên một quỹ đạo tròn hay đẹp, chẳng khác nào những hành tinh quay chung quanh mặt trời vậy. Hạt cải tuy nhỏ so với vũ trụ, cũng như hạt nhân nguyên tử so với nguyên tử tuy chẳng ra gì song chúng đã được tạo lập trên sự liên hệ của toàn thể. Tất cả vũ trụ đều hoà hợp trong một tấu khúc chung để tạo nên hạt cải hay hạt nhân nguyên tử, cũng như hạt nhân nguyên tử đã hoà hợp với toàn thể để tạo ra nhật nguyệt, tinh cầu. Cái cực đại phải dựa trên cái cực tiểu để tồn tại. Không có cái cực tiểu thì không thể có cái cực đại được. Càn không nằm gọn trên đầu một sơi lông tơ chính là ý nghĩa ấy. Sự lớn nhỏ sai biệt trên mặt Sắc tướng và hiện tượng không còn là sự lớn nhỏ nữa nếu ta đứng trên bình diện tuyệt đối bình đẳng và dưới cặp mắt của nhà tu hành đạt đạo, sống với tâm vô phân biệt, hay sống với lý Bất Nhị và Sự Sự nhất thiết vô ngại. Hiểu lẽ mạnh yếu, lớn nhỏ của các pháp trong vòng tương đối, lại hiểu lẽ Sống Chết chỉ là thường tình trong cõi đời này thì tâm của người đạt đạo lúc nào cũng tự tại an lạc.

Mục 15: Vũ trụ và con người

Đứng trước vũ trụ bao la, giữa không gian và thời gian rộng lớn bất tận, con người phải đóng một vai trò như thế nào để xứng đáng với địa vị của mình trong Tam Tài ? Con Đường Lý Tưởng phải chọn để tiến tới đỉnh Vinh quang Hạnh phúc Tuyệt đối phải ra sao ? Và sự liên hệ mật thiết giữa con người biết suy nghĩ với vũ trụ vô hồn phải như thế nào ? Đó là những mối ưu tư chính đáng và những hoài bão thiết tha của những người có Đạo Tâm.

* Xét ra thì Con người và Vũ trụ chỉ là Một theo lý Vạn vật đồng nhất thể. Cả hai đều phải chịu chung quy luật Sinh, Trụ, Dị, Diệt trong guồng máy dịch biến chu trần: Nguồn sống là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống mầu nhiệm cao cả, thiêng liêng tràn lan khắp nơi, triền miên, ẩn hiện, có mặt trong toàn thể các sinh vật, từ cỏ cây côn trùng, muông thú… cho tới loài người. Thậm chí đến cả những khoáng chất, những thể xác vô giá vô tri vẫn có sự Sống. Mọi sự vật trên đời này chẳng gì không là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống là ánh sáng. Trí huệ biến chiếu muôn phương. Nguồn sống được thần linh hoá dưới nhân cách Phật Tỳ Lô Giá Na hay Phật A Di Đà. Đứng trước sự sống thì muôn loài như nhau. Ai làm ngăn trở nguồn sống, xúc phạm tới sinh mạng của kẻ khác, vật khác thì người ấy đắc tội với Phật, Trời. Đạo và Phật ở ngay trong lòng ta, sở dĩ ta chưa thấy được Phật của mình chỉ vì Phật ở trong ta còn bị giam giữ (Như Lai tại triền). Nếu ta biết làm sáng tỏ chiếc đèn lòng của mình để vô minh tan biến, thì Đức Phật A Di Đà của ta sẽ xuất triền và tỏ rạng.

* Theo lý bình đẳng của các pháp thì chẳng phải Tâm có trước hay Vật có trước, mà Tâm, Vật đồng thời có. Vật sở dĩ có là do tâm biến hiện, mà Tâm biến hiện vì có huyễn tướng vật thể tồn tại. Tâm Vật hoà hợp tương tức tương nhập mới là Thể viên mãn tạo ra vũ trụ vạn hữu.

* Chẳng phải vì thích ứng với hoàn cảnh mà con người tồn tại trải qua quá trình chuyển biến từ cấp sinh vật hạ đẳng, leo dần tới địa vị con người. Chẳng phải vì sự tuyển lựa tự nhiên và đấu tranh đào thải mà con người hiện hữu. Không có một định mệnh khắt khe nào an bài số phận con người. Không có một vị Thần Linh nào ban ân giáng hoạ cho ai cả. Cũng không phải vì ngẫu nhiên, vô tình hay hữu ý mà vạn vật xuất hiện, mà chính là do nhân duyên mà vạn hữu được kết hợp. Mọi vật đều giả diệt, giả sinh thuận theo luật nhân quả nghiệp báo tự nhiên mà hiện hữu… Hạnh phúc hay không đều do mình tự tạo. Trên lý Vô ngã, Vô thường, đạo Phật đã xây dựng thuyết Duyên khởi trùng trùng để làm sáng tỏ lẽ sống chết, nào là: Nghiệp cảm duyên khởi, Lục đại duyên khởi, A lại da duyên khởi, Chân như duyên khởi và Pháp giới trùng trùng duyên khởi.

* Thiên nhiên, con người, bản năng và tâm linh đều biến đổi không ngừng. Sự khác biệt giữa con người và vạn hữu chỉ ở phần Sắc Tướng, hình hài, tuỳ nghiệp Thức phải mang. Con người và vạn hữu đều cùng chung một cấu trúc. Một tế bào trong cơ thể con người giống như của vũ trụ, do đó tâm con người là tâm điểm của vũ trụ, còn xác thân tứ đại của con người là khung cảnh của đại vũ trụ thu hẹp lại. Vũ trụ hằng chuyển trong con người, và mọi định luật dịch biến trong vũ trụ đều áp dụng cho con người cả hai phần Danh và Sắc. Do đó con người phải có bổn phận cao cả như vũ trụ mỗi ngày mỗi tươi đẹp hơn.

Sinh ra, lớn lên, làm việc để trả nợ cơm áo, con người thấy mình, khi bước vào đời, mang một nhiệm vụ cao cả, là phải gánh vác cho sự tiến bộ chung của toàn thể nhân loại. Nếu có một sự vô tình lảng tránh trách nhiệm chung ấy, của một phần tử nào trong xã hội loài người, thì đó chỉ là bức màn vô minh rủ xuống chỗ đó để che lấp phần linh quang riêng của phần tử đó mà thôi. Bước chân vào đời, con người không thể tự coi mình đứng ngoài vòng vũ trụ và xã hội loài người, hay coi vũ trụ và nhân loại là đối tượng khách quan với mình. Nhiệm vụ đồng hành của con người và vũ trụ được thể hiện ở sự tiến hoá chung của nhân loại trong mối tương quan chằng chịt nhân quả trùng điệp của mọi người trên trần gian. Bởi vậy sống ở đời theo đúng nghĩa của chữ Sống, phải hành động như một sinh linh có ý thức trách nhiệm cao, nhận gánh vác sự mạng do vũ trụ vĩ đại đặt lên đôi vai nhỏ yếu của mình, có như thế thì con người mới khỏi bị tấm màn vô minh vây bủa, đưa đẩy mình vào con đường ích kỷ nhỏ hẹp, chỉ biết có phận mình, không thấy quyền lợi của tha nhân, sống thản nhiên góp mặt với đời cho qua những ngày vô vị để rồi trở về với cát bụi, tàn lụi như cỏ cây.

Nhìn dòng nước chảy hay đám mây lơ lửng bay, là thấy cảnh vật mỗi lúc mỗi đổi mới. Đời người cũng vậy. Dòng nước sau đẩy dòng nước trước chảy mau về đại dương. Thế hệ người đi sau thôi thúc lớp người đi trước phải dồn bước về tương lai. Thế hệ hiện tại có trách nhiệm đối với thệ hệ mai sau. Lớp người đi trước mang di sản của tiền nhân để lại trao cho thế hệ đến sau cùng với công sức của mình.

Những bước tiến gắn liền trách nhiệm của mọi người trong một thời đại và mọi khung cảnh, chẳng những đối với các bạn đồng ngũ ngày nay mà cả đối với những người ở các thế hệ mai hậu nữa. Hai tiếng “nhân sinh” mang cả hình thức của không gian sinh động và của thời gian chuyển biến không ngừng.

Cá nhân không thể sống tách rời khỏi cộng đồng xã hội loài người, mà xã hội nhân quần cũng không thể tồn tại nếu vắng bóng cá nhân. Đời sống xã hội đã gắn liền với đời sống cá nhân theo lý Cộng nghiệp, Tự nghiệp, và Cộng biến, Tự biến trong thế liên hoàn trùng trùng duyên khởi.

Nhìn dòng nước chảy, ta thấy có sự kết hợp chặt chẽ giữa các giọt nước trong dòng suối với nhau để tạo thành một dòng suối luân lưu bất tức. Dòng nước ngưng chảy nếu các giọt nước bị đứt đoạn, mất keo sơn gắn bó. Cuộc đời cũng vậy. Dòng đời lơ lửng nhân thế trôi nổi. Bọt nước Vô thường biến hiện ở nơi đầu ghềnh sinh tử. Xã hội nhân sinh, tập thể biến dịch hằng chuyển mang sắc thái mông lung, nhưng vẫn giữ được cái tính đặc thù, vì trong cái Thể chung vẫn có Tướng, Dụng riêng. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn nhận cái Thể chung ấy mà xoá bỏ những nét dị biệt của nhóm nhỏ, để tiến tới sự nhận định về thiết lập một xã hội Chủ thể duy nhất là xã hội của toàn thể loài người nói chung. Không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, văn hoá, tôn giáo…

Nhân loại là Thể tính không riêng tư, còn cá nhân và các đoàn thể quốc gia và đảng phái chính trị là những hình thức dị biệt sai thù, quyền lợi khác nhau. Xã hội của toàn thể loài người hiện nay đang lâm vào tình cảnh cốt nhục tương tàn, cá lớn nuốt cá bé, gây bởi lòng vị kỷ cá nhân. Chữ “Cá nhân” ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là đoàn thể quốc gia mang nặng tính chất phân biệt chủng tộc và sắc thái ái quốc bộ lạc cuồng nhiệt. Chúng ta hãy mau dẹp bỏ mọi tư tưởng kỳ thị đưa tới những chế độ chủng tộc hẹp hòi ác độc, dã man, phát xít, những chế độ nuôi dưỡng và bám giữ lấy những quyền lợi cá nhân, gia đình và quốc gia nhỏ bé, để nới rộng vòng tay nhân ái bao quát, tiến tới sự liên kết và thiết lập một cộng đồng hay đại gia đình của loài người nói chung bằng tình thương thay vì tranh chấp hận thù. Hãy công bằng, nhân ái với mọi người, diệt trừ ngã ái, ngã si, hiểu sau lẽ phải là mọi sự vật đều Vô ngã, Vô thường, Biến dịch, nhưng lại diễn ra trong thường hằng của bậc thang tiến hoá chung.

Đám mây u ám với những sấm sét ầm ầm còn kéo đến bao phủ đe doạ khắp nơi, một cơn bão khủng khiếp có thể tận diệt muôn loài, nhưng đó lại có thể là triệu chứng một cơn đau của một cơ thể đầy nhựa sống, cố sức vươn lên, chuyển biến, từ trạng thái vô minh đến tuệ giác, từ cuồng loạn tới thái bình thịnh trị vĩnh cửu, để loại bỏ những cặn bã mà trở nên tốt đẹp. Mây đen tuy kéo đến bao phủ bầu trời, nhưng nếu lại được một ngọn gió dịu hiền cuốn sạch, thì nền trời xanh biếc lại phô bày mầu thiên thanh tươi mát. Sự cứu vãn nhân loại bắt đầu từ sự cứu vãn tâm linh của từng cá nhân ý thức được hiểm hoạ của một sự tận diệt muôn loài, biết quay đầu về chân lý, và trở về với Chân tâm, Phật tính của mình.

Mục 16: Đạo và Đời

Sống giữa một kỷ nguyên mà Khoa học được tôn sùng như một vị Thần linh uy quyền vạn năng, có thể làm mưa làm gió biến đổi thời tiết, chế ngự thiên nhiên, chuyển những vùng sa mạc cát bỏng khô cằn thành đồng ruộng phì nhiêu, phá băng giá, lấp cạn biển, bạt núi rừng, ngăn thác nước, đem điện lực của Trời và sức mạnh của sóng, nước, gió, lửa phục vụ cho con người nâng cao đời sống của nhân loại ngang hàng Thần tiên, nhưng cũng có thể bắt sinh linh đi ngược trở về đời sống hang động thời Tiền sử.

Ta cần phải biết rõ mặt trái, mặt phải của khoa học ra sao, cùng những điểm dị đồng giữa Khoa học và Đạo học (nhất là đối với Đạo Phật) để tìm một con đường lý tưởng, thích hợp với loài người, và để người người cùng nhau, tay trong tay siết chặt đem hết tâm lực ra cùng xây dựng một đời sống mới tốt đẹp hơn.

* Điểm giống nhau giữa Phật giáo và Khoa học hiện đại là từ 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã đẩy lui vấn đề siêu hình ra phía sau hậu trường hoạt động, đẩy lui những tư tưởng khổ khan, trừu tượng để báo động tình trạng khẩn trương về thân phận khổ đau của con người.

Giống như các tư tưởng gia đương thời. Phật giáo đã thức tỉnh con người ý thức được chình mình và giúp con người nhận thức được hoàn bị hơn, lại chỉ cho con người phương thức để tự giải thoát, không như những triết gia hiện đại nhìn cuộc đời thấy hoàn toàn là phi lý, xấu xa và bi quan chán nản đến buồn nôn, không giải quyết được gì cả. Trái lại, với lý Vô ngã, Vô thường và Tứ Diệu Đế đã bao hàm ý thức giác ngộ về mình và người, đã chứa sẵn một năng lực giải thoát cho toàn thể.

Chỗ giống nhau ở hai bên ở điểm nhà Khoa học dùng trí phân biệt của sáu Thức để suy gẫm tìm tới lý tưởng biến hoá sinh diệt của sáu Trần, nhưng ngoài trí phân biệt ấy. Phật giáo còn dùng cả cái Trí Vô phân biệt làm công cụ quán chiếu tự thân. Đối tượng nghiên cứu của Phật học chẳng hạn cuộc ở sắc, thanh lục trần mà con Tâm pháp và Vô vi pháp nữa. Nhà Khoa học ngày nay tuy đôi khi cũng dùng Tâm để nghiên cứu trong địa hạt Điện tử, nhưng đối với bản thân của Tâm thì lại bỏ quên, hay chỉ nghiên cứu qua loa, hời hợt và nguyên nhân không ngoài hai lý do:

a. Khoa học thường vẫn cho Tâm và Vật là hai đối tượng riêng biệt và cho rằng hiện tượng của vật chẳng phải do cái Tâm chủ quan có thể thay đổi được nên họ cho là đã nghiên cứu hiện tượng của vật chất thì hà tất còn phải nghiên cứu Tâm lý nữa.

b. Dù có một số Khoa học gia đã nhận thấy tầm quan trọng của Tâm và đem Tâm ra khảo cứu, nhưng công cụ để khảo cứu lại vẫn dùng cái Tâm phân biệt, nhị nguyên, chứ không dùng cái Tâm vô phân biệt, nhà Tâm lý học ngày nay vì đã dùng những công cụ không tinh xảo là cái Thức chủ quan để nghiên cứu, nên những gì mà họ khám phá được trong khu bí ẩn của Tâm chỉ là một mớ ít ỏi những hiện tượng hoặc phản ứng của Tâm lý trên Sinh lý, còn đối với những pháp như Tâm Vương, Tâm Sở trong Bách pháp thì vẫn chưa thu hoạch được gì đáng kể.

Đối tượng thực hiện của Phật giáo chẳng phải là vật chất thô kệch mà là Tâm pháp tế vi, nên công cụ và phương pháp dùng để thực nghiệm chẳng giống như công cụ và phương pháp dùng trong các phòng thí nghiệm.

Khoa học đưa đến cái biết dựa trên Thức biến đổi từ lúc này qua lúc khác, còn Phật học lại đưa đến cái biết dựa vào tâm ngàn đời không thay đổi.

Đó là cái biết “thực biết” bắt nguồn từ “Chân” còn cái biết của Khoa học do Vọng mà có. Làm sao có thể so sánh Chân với Vọng, cũng như hạt châu với mắt cá được, tuy vẫn biết Vọng phát xuất từ Chân, và chẳng thể lìa Chân mà có được.

Vì cái biết của Khoa học là cái biết tương đối, nên cái Hành do đó chứa đầy mâu thuẫn, khổ đau. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật tân tiến, với các máy tính điện tử, các máy truyền thanh, truyền hình tối tân đã làm cho loài người đạt tới trình độ Ngũ thông, tạo được nhiều báu vật và tiện nghi vật chất để phục vụ cho đời sống của con người, điều đó chẳng ai còn hoài nghi phủ nhận cả.

Ngày nay khoa học đã đạt được những thành tích đáng kể nhằm mở rộng tầm hiểu biết của con người trong lãnh vực không gian bằng cách đặt những máy móc trên các vệ tinh nhân tạo để chụp hình rồi chuyển về trái đất những ảnh rõ rệt về sự hình thành của những Thiên hà cách xa Thiên hà của chúng ta hàng tỷ tỷ năm ánh sáng. Với cây đũa thần Nguyên tử năng, khoa học đã làm lung lay tới cội rễ lý luận của nhiều tôn giáo trên hoàn cầu xưa nay vẫn đặt niềm tin vào sự hiện diện của một vị Thượng đế toàn thiện toàn năng, ban phúc giáng hoạ và ta ra muôn loài, do đó đã làm mất niềm tin vào giá trị thiêng liêng của tinh thần đạo đức nơi đa số quần chúng ở Tây phương vốn sùng thượng vật chất.

Nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương lại khác hẳn vì khoa học càng tiến bộ bao nhiêu lại càng gần chân lý của đạo Phật bấy nhiêu. Bởi nhận thấy bước đường mà khoa học phải đi còn dài mới khám phá được mọi bí ẩn của thiên nhiên, nên Einstein đã nói: “Những điều mà chúng ta biết chỉ như một giọt nước, còn những điều mà chúng ta chưa biết thì mênh mông như đại dương”. Và cũng bởi nhận thấy những tư tưởng cao thâm của Phật giáo phù hợp với bước tiến của khoa học trong lãnh vực: “Vạn vật đồng nhất thể”, nên nhà bác học Einstein có những lý thuyết  phù hợp với các lý thuýêt tân tiến nhất của loài người thì đó phải là Phật giáo. Chính những phương pháp làm việc và kết quả của những phát mình khoa học ngày nay là những điều chứng mình cụ thể nhất cho lời Phật dạy từ trên 25 thế kỷ qua. Xin đan cử một vài thí dụ:

1. Nhà Khoa học nào có khả năng phát minh lớn nhất, là người đã biết xa lìa những kiến thức mà mình đã thu thập được từ trước tới nay, cũng giống như người Phật tử mà rũ bỏ được Phiền não chướng và Sở tri chướng mới được coi là ngộ đạo.

2. Nhà Vật lý nói rằng: Khi đi sâu vào thế giới Điện tử thì phải giã từ mọi ý niệm về có, không; nhân, quả; trước, sau; sinh, diệt… nghĩa là tất cả những cặp mâu thuẫn xưa nay vẫn áp dụng trong đời sống thường nhật, cũng giống như người tu hành phải lìa bỏ mọi chấp thô, chấp tế, huyễn lớn huyễn nhỏ ở mọi cấp tu chứng mới tiến tới ngộ vô thượng chính đẳng giác.

3. Phật dạy: “Nếu đập tan cái Ngã chấp thì sẽ được năng lực tinh thần hùng hậu không gí sánh nổi”. Ngày nay các nhà Vật lý học đã chứng minh rằng: nếu đập tan vật chất đến cực vi thì có thể biến vật chất hết sức nhỏ, thành năng lực hết sức lớn. Hai điều này thật giống nhau nếu ta hiểu rằng người tu hành khi đã phá được Ngã chấp thì có được Đại Hùng, Đại Bi, Đại Dũng, và với sức mạnh liên kết của Đại Trí thì nguyện vọng gì cũng đạt được, sức cản nào cũng dẹp tan.

Theo Khoa học gia ngày nay, các chất tử (Corpuscule de matière) có những phối hợp chằng chịt hỗ tương. Chúng dung thông dung nhiếp với nhau để tồn tại. Như vậy đủ chứng minh được quan niệm Tương tức Tương nhập, Trùng trùng duyên khởi, và Sự sự nhất thiết vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.

Những lời vàng ngọc Phật dạy từ ngàn xưa tới nay và mãi mãi sau này, lúc nào cũng là Chân lý Tuyệt đối không bao giờ đổi thay. Còn những lý thuyết của Triết học và Khoa học thì cái nọ phủ nhận hoặc thay thế cái kia, và mãi mãi ở tư thế tìm tòi, thử nghiệm.

Đạo Phật và Khoa học khác nhau trên căn bản: một bên thì đi sâu vào Tâm linh, một bên thì đi sâu vào Lý trí. Lấy Tâm linh làm nênf tảng, đạo Phật có khả năng đưa nhân loại tới cảnh hoà bình thịnh trị vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn, trong một nền văn minh tột đỉnh bằng các thuyết: “Nhất thiết duy tâm tạo”, “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, “Tương tức, tương nhập”, “Trùng trùng duyên khởi”, “Vạn vật đồng nhất thể”, “Bất Nhị”, “Bình đẳng tuyệt đối”, “Trung Đạo”, “Mình là người, người là mình”, “Một là Tất cả, Tất cả là Một”, “Lý Sự viên dung”, “Sự sự vô ngại”… để thẳng tiến tới đỉnh cao là đập tan chấp ngã, chấp pháp, sáp nhập tâm linh con người và vũ trụ thành một khối theo lý “Vạn vật đồng nguyên”, để xây dựng một xã hội lý tưởng cho nhân loại ngày mai.

* Bản chất của Triết học và Khoa học thuộc về Nhị nguyên Tương đối, cưa đạt được tới Nhất nguyên Tuyệt đối, còn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, tuỳ thuộc vào địa phương và thời gian mà thay đổi lập trường, chưa một ai trong giới khoa học hiện nay dám tiên đoán rằng: Khoa học có thể đạt được thực tại Tuỵêt đối và đem lại hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu cho loài người trong bao lâu nữa, bởi vì khoa học chưa đi đúng đường lối, dùng lý trí nhiều hơn tình thương, và vẫn còn coi ngoại vật là đối tượng của mình. Còn Phật Pháp đã là sự thật Tuyệt đối từ lâu rồi, không vì không gian và thời gian mà thay đổi, và chắc chắn với đường lối Bồ tát đạo, lấy nhẫn nhục, từ bi vô lượng và tình thương chân thật, coi mình như người, người như mình mà xử thể tiếp vật, có thể dẫn nhân loại tới chỗ chân thường, chân lạc.

Khoa học chỉ chú trọng tới ngoại giới và xao lãng phần nội giới phong phú, sâu sắc, do đó không trực giác được Thực tại toàn diện. Người ta phải nhìn nhận rằng: Khoa học thất bại không chứng minh được là Vật chất đẻ ra Tinh thần. Và Ngẫu nhiên sinh ra sự Sống. Buộc lòng người ta phải chấp nhận sự phản ngẫu nhiên hay tin vào sự có mặt, bất khả tri của trực giác tâm linh siêu hình hay sức mạnh tinh thần đạo đức, không thể có vô ý, vô tình và ngẫu nhiên để giải thích sự tiến hoá của quần sinh trên quá trình dẫn tới Chân, Thiện, Mỹ. annh lamtcaiee tay sie

Các triết gia và khoa học gia đều vọng cầu vào Lý trí và ỷ lại vào Tri thức, trong khi Phật giáo lại lên án và phủ nhận Lý trí cùng phá bỏ Tri thức, coi đó là những chướng ngại cho việc tiến tới Bình đẳng tính và Vô phân biệt tính của Chân Tâm. Sự cách biệt chia rẽ giữa Thượng đế và con người, giữa con người và đồng loại khác màu da, chủng tộc, đảng phái, thành kiến; giữa con người và thiên nhiên ngày càng thêm sâu đậm, làm cho tâm con người ngày càng phức tạp, đa đoan.

Vì hướng đi của khoa học quá phiến diện, máy móc, nên loài người sống bên nhau mà thiếu niềm tin ở thiện căn của con người, và thiếu Bác ái, Từ bi; chỉ đối xử với nhau thuần bằng khối óc khô khan vị kỷ, chỉ thấy quyền lợi của cá nhân mà không thấy quyền lợi của tất cả, nên dễ ly tán, phân tranh, giết hại nhau không thương xót. Kết quả khốc hại của học thuyết Duy lý do Lý trí hướng dẫn, làm cho con người tự huỷ diệt mình khi muốn huỷ diệt người khác, vì thế mà nhân loại ngày càng sa đoạ. Khi đã nhận có Ta thì đồng thời cũng nhận có cái chẳng phải Ta đối lập. Ở phi ngã là tất cả những gì ở ngoài ta và cả ở trong ta nữa. Ở ngoài ta nó xui giục ta chiếm đoạt cho đầy lòng tham nên tâm trí ta luôn luôn căng thẳng trong cuộc chạy đua với tham vọng như hình với bóng. Ở trong ta nó đẻ ra con người khổ đau, tự xé xác moi ruột gan mình, đầy đoạ mình trong những cơn cuồng loạn tinh thần.

Với sức mạnh tâm linh, Phật giáo còn giúp con người:

1. Đấu tranh với chính mình để tự giải phóng khỏi những độc tố ràng buộc của Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến… hầu đạt tới một đời sống thanh cao, hạnh phúc.

2. Đấu tranh với hoàn cảnh, vũ trụ để giải phóng con người khỏi hệ luỵ vào thiên nhiên, biến cải luật thiên nhiên tàn bạo thành sức mạnh giúp cho con người khỏi đói lạnh. Bài học lịch sử của những trận thế chiến vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ: không có quốc gia nào hoàn toàn thắng lợi, không bị thiệt hại mà toàn thể loài người nói chung đều bị tổn thất bởi hậu quả của các loại vũ khí giết người bén nhạy, gieo rắc tai hoạ khắp nơi, và tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải chịu chung những khoản thuế nặng nề để chi cho ngân sách Quốc phòng. Toàn thể nhân loại nghèo đi rất nhiều vì đã phí phạm tài nguyên thiên nhiên, máu xương, tiền của trên các bãi chiến trường.

Càng tôn thờ xa hoa vật chất lại càng dìm sâu tinh thần, đạo đức xuống bùn đen bấy nhiêu. Với lòng vị kỷ tham tàn con người còn đang thi đua xản xuất ráo riết hàng loạt mọi thứ khi giới giết người tối tân, chẳng khác nào một nhóm trẻ điên cuồng cầm dao gậy đe dọa đánh chém nhau, hay cầm mồi lửa đe doạ thiêu đốt nhà nhau, thật là một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp!

* Hai yếu tồ then chốt của sự tiến hoá và hạnh phúc của nhân loại là Trí tuệ và Từ bi. Thiếu Trí tuệ thì con người sẽ khổ vì dốt nát ngu đần. Thiếu Từ bi, thì Trí tụê là lợi khí sắc bén để tiêu diệt lẫn nhau, hòng thoả mãn lòng tham vô đáy. Tình thương bao la và Trí tuệ sáng suốt đi đôi với nhau mới xây dựng được chân hạnh phúc. Có Trí mà thiếu Bi là cái Trí sát nhân của Ma vương, Ác quỷ.

Sự khác biệt giữa Đạo học và Khoa học ở chỗ có thực hiện được không lòng Bác ái Từ bi, có thể hiện được hay không lý Bất Nhị và Tâm Bình đẳng, Vô phân biệt. Hiện thời phần đông nhân loại vẫn còn đi xuống dốc, mang nặng hành trang sai biệt và phân biệt giai cấp giàu nghèo, lớn nhỏ, chủng tộc, màu da và chủ nghĩa đủ loại mà thiếu Tâm từ, cho nên còn lùi bước thay vì hướng thượng tiến lên để đạt tới hoà bình, tự do, hạnh phúc thật sự.

* Xét kỹ thì khoa học chỉ là một con dao hai lưỡi, tự thân nó không tốt cũng không xấu, tuỳ Tâm con người sử dụng. Nó có thể tạo ra Bồng lai, Tiên cảnh hay thiết lập cõi Địa ngục ở nơi cõi trần gian này.

* Nhưng cũng may thay trong cảnh hoàng hôn u ám của thế giới ngày nay, đã le lói những tia hy vọng ảo mờ báo hiệu Hoàng kim thời đại có thể sắp tới. Bởi vì gần đây đã thấy xuất hiện một nhóm học giả Tây phương (Nhóm Cahiers de l’ Étoile bên Pháp), năm 1928, đã xuất bản tờ tuyên ngôn hô hào nhân loại trở về nguồn với đạo Nhất Nguyên. Đồng thời cũng có một số khoa học gia lỗi lạc nhận thấy rõ mối nguy cơ của một hướng đi lệch lạc của nhân loại thiên về  máy móc, cơ khí, nhằm đáp ứng lòng tham vô đáy, mải chạy theo bả vinh hoa vật chất, đã đi sâu vào thế giới Điện tử thì buộc lòng họ phải suy tư, và đặt chủ quan của họ vào công cuộc khảo cứu, thay vì vẫn quen đưng ở vị trí khách quan để nghiên cứu ngoại giới.

Khoa học ngày nay đã trở nên trừu tượng hơn xưa. Nhiều nhà khoa học đường thời khuyên ta nên dùng thần trí mà rọi sâu vào thế giới tâm linh. Với lối nhìn đó, họ trở nên linh động, uyển chuyển và lý thuyết hơn xưa, thay vì quyết đoán ngạo nghễ một chiều như đa số học giả thuộc thế kỷ thứ 19.

Những nguyên lý: “Vật chất và Năng lượng bất diệt” được trở thành: “Vật chất là năng lượng, và năng lượng là vật chất ; “Nhất thể lưỡng diện”, “Khí chất tương sinh”, hay “Tương tức và tương nhập” v.v…

Chính nhờ những nhà khoa học tân tiến này mà nhân loại ngày nay đã thấy rõ Tâm và Vật chỉ là một, hay “Vật chất và Năng lượng không hai” (E = M).

* Các Khoa học gia đó cho rằng: “Những hiểu biết về vũ trụ và những trực giác trừu tượng của con người, rồi đây sẽ quy về một mối, và cái một tiềm ẩn trong vũ trụ rồi đây sẽ phơi bày ra ánh sáng. (Toutes les perceptions que l’homme a de l’Univers se ramènent finalement à l’Unité, et la profonde Unité cachée de l’Univers sera enfin dinudée). Như vậy thì càng tiến xa trên đường khám phá ra Thực tại tối hậu của vũ trụ. Khoa học lại càng gần Chân lý Tuyệt đối “Không hai” của đạo Phật bấy nhiêu.

* Ta nhận thấy: thảm hoạ của một cuộc thế chiến bằng những khí giới tân tiến của khoa học sẽ tận diệt loài người, và Hạnh phúc tuyệt đối của nhân loại ở một cõi Địa Dưỡng văn minh, xán lạn, chỉ do ở sự lựa chọn giữa hai nẻo Thiện và Ác; một là trở về với Chân Tâm, Phật tính, sống một cuộc đời lành mạnh biết đủ và biết ngưng lại đúng lúc, hai là buông thả cho thất tình lục dục tự do tung hoành, theo tiếng gọi của Tham, Sân, Si… tiến sâu vào ngõ hẻm của vật chất xa hoa phù phiếm. Hạnh phúc của nhân loại chỉ có nếu Bi, Trí phát triển song song, hay nếu đạo và đời cùng tiến bước về nẻo Thiện.

* Đã đến lúc chúng ta phải thức tỉnh và hướng ngay về Tâm mình là xoá nhoà biên cương cố chấp, hoà Tâm linh vào Thực tại đại đồng, hiệp cùng bao cái Ta khác, bạn và thù để thực hiện lý Bất Nhị, thay vì chỉ nghĩ đến mình, lại hết lòng phục vụ tha nhân, khiến cho niềm an lạc vô tư nảy nở, thay đổi hẳn nếp sống xưa, làm cho ta nhìn đời bằng cặp mắt khác, buộc ta phải sửa mình để tuân theo một nếp sống mới, lành mạnh, trong cảnh thanh tịnh của tự tâm.

* Phần đông chúng ta chẳng thực tế chút nào cả. Ta chỉ thở than luyến tiếc bóng ma của thời quá khứ. Ta cứ ngồi mất thời giờ bới đống tro tàn của dĩ vãng, hoặc ước ao, khát vọng đợi chờ tương lai mờ mịt, chẳng biết bao giờ tới mà chẳng chịu quan tâm đến hiện tại sờ sờ ngay trước mắt. Nhưng quá khứ đã mất hút rồi, còn tương lai lại chập chờn hư ảo xa vời, đòi hỏi những điều kiện chẳng thuộc mình giải quýêt. Chỉ có thực tại nhãn tiền mới chính là của ta. Nhà văn André Maurois đã có những vần thơ đẹp ca ngợi phút giây vĩnh cửu hiện tại:

Laisses au vague avenir ses lointaines promesses.

Et au sterile passé son sourire d’adieu

Bannis les rêves d’or et les molles tristesses

Le Présent est à toi, et le reste à Dieu.

Tạm dịch:

Những lời hứa hẹn xa vời

Hãy xin để lại cho thời mai sau.

Nụ cười buồn vĩnh biệt nhau.

Thì xin giữ lại nhịp cầu đã qua.

Mộng vàng uỷ mị lìa xa.

Phút này mới thật của ta trên đời.

Ngoài ra muôn sự tại Trời!

Cùng với ý nghĩa đó, một Thiền sư Việt Nam đời Lý đã để lại mấy dòng thơ đạo vị như sau:

Đản tri kim nhật nguyệt

Thuỳ thức cựu xuân thu

Thuỷ trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân.

Dịch:

Việc ngày nay, biết ngày nay,

Còn xuân thu trước ai hay làm gì ?

Ngoại cảnh, nào đâu phải,

Hoa vàng với trúc xanh ?

Lộ vẻ chân toàn vẹn.

Kìa mây trắng, trăng thanh!

Xưa một vị Trời đã hỏi Đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Cớ sao chư Tăng lại có một nếp sống tự tại, hạnh phúc dù hàng ngày chỉ dùng có môt bữa cơm chay ?”.

Phật trả lời: “Vì họ không than van sầu muộn về những chuyện đã qua, không nóng nẩy khát vọng về những điều chưa tới, chỉ ung dung tập trung tư tưởng vào việc hiện tại. Tâm không tham luyến sân hận, lúc nào cũng thảnh thơi trong cảnh hoan lạc đạo an bần”.

* Bí quyết để có được hạnh phúc bền vững thật là giản đơn. Tuy nhiên đã mấy ai thực hiện được Chân lý đến nơi đến chốn ? Đó là nếp sống bình thường, giản dị, với những gì sẵn có không mơ ước hão huyền cái chưa tới, cũng chẳng luyến tiếc dĩ vãng xa xưa, vì ta đã hiểu rõ lý Vô ngã, vô thường, nhân quả, biến dịch của mọi sự vật trên đời này. Với triết lý: “Tri túc, tri chỉ”, và “Bình thường tâm là đạo” ta thấy mọi sự vật ở trên đời đều theo lý Bất Nhị, và Như thị, nên ta chẳng chạy theo vật chất tài danh, không quan tâm đến vẻ bên ngoài, chỉ cần luyện cho cái tâm biết đủ, luôn luôn bình thản và mát dịu như nước.

* Có những bậc già nua mà tâm hồn còn tươi trẻ như nụ hồng hàm tiếu. Họ chẳng muốn hưởng thú an nhàn, nghĩ dưỡng già chẳng làm gì cả, mà say sưa hoạt động không ngừng để mưu cầu hạnh phúc cho đời, tiếc từng phút trôi qua vô ích. Tâm trí và tài năng của họ trổ hoa tươi đẹp trong tuổi vãn niên như những nhánh phong lan phô bày sắc hương trên cành khô mộc. Lại có những kẻ tuy tuổi còn niên thiếu mà tâm hồn đã sớm cằn cỗi, xác xơ như những khúc cây hết nhựa, chứa đầy thành kiến mục nát và tư tưởng lạc hậu, việc gì cũng đắn đo suy tính, như những ông già bất lực không dám làm điều gì, sợ thiệt đến thân, chỉ thích sống biếng lười, lại cho như thế là không ngoan, tuy sống mà như đã chết, vì không thích ứng được với dòng đời luôn luôn biến chuyển.

Ta phải biết sống trong hiện tại, vui với đạo giải thoát, thảnh thơi với Tâm bình thường, rũ sạch bụi trần để chỉ thấy một mùa xuân thanh lương tươi mát ở trong ta. Ngày đã qua thì chìm trong bóng tối. Phút chưa tới thì huyền ảo mơ hồ. Chỉ có tại đây và bây giờ là Chân thật (Đương xứ tức Xuân). Sao lại chán ghét cái hiện tại, luyến tiếc quá khứ và đợi chờ tương lai ? Hướng về ngày mai hay nhớ tới ngày trước đều là thái độ trốn tránh hiện tại, hay trốn sống một cuộc đời bình thường. Ta mang cái tâm điên đảo mà ngồi vào bàn ăn, hay leo lên giường ngủ với tâm trạng đang ăn mà ngậm bồ hòn cay đắng, hay ngủ mê mà ôm hết nỗi xót xa đau đớn vào lòng thì trách chi Phật chẳng bảo chúng ta không biết cách ăn cách ngủ!.

CHƯƠNG 15: NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC CÕI TỊNH ĐỘ

Tín ngưỡng về Tịnh độ, một nơi được coi là an lạc, thanh tịnh, trang nghiêm, khác hẳn cõi tục luỵ trần gian này đã có từ thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế. Trong Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Phật đã dạy bà Vi Đề Hy, vợ vua Tần Bà Ta La biết là có cõi Cực lạc Tây phương, quốc độ của Phật A Di Đà, ở đó có chân hạnh phúc, khác xa cõi Ta bà uế độ này. Lại một buổi trong vườn Um Ma La, xứ Tỳ Na Ly nước Ấn Độ, Đức Phật đã giảng cho Đồng tử Bảo Tích am hiểu về 17 cõi Tịnh độ như sau:

1.- Trực Tịnh độ.

2.- Thân Tịnh độ.

3.- Đại thừa Tịnh độ.

4.- Bố thí Tịnh độ.

5.- Trì giới Tịnh độ.

6.- Nhẫn nhục Tịnh độ.

7.- Tinh tiến Tịnh độ.

8.- Thiền định Tịnh độ.

9.- Trí tụê Tịnh độ.

10.- Trí Vô lượng Tịnh độ.

11.- Trí Nhiếp pháp Tịnh độ.

12.- Phương tiện Tịnh độ.

13.- Phẩm trợ Tịnh độ.

14.- Hồi hướng Tịnh độ.

15.- Thoát ly bạt nạn Tịnh độ.

16.- Giới hạnh trang nghiêm Tịnh độ.

17.- Thập thiện Tịnh độ.

(Xin coi Phật Học Từ Điển về danh từ Thập thất chủng Tịnh độ).

Chúng ta thấy ở đây Phật đã lấy những đức tính cao đẹp của tâm mà đặt tên cho các cõi Tịnh độ, vì nếu thay thế danh từ Tịnh độ trong thập thất chủng Tịnh độ ở trên bằng chữ Tâm, ta sẽ có những danh từ: Trực Tâm, Thâm Tâm, Đại Thừa Tâm, Bố Thí Tâm, Trì Giới Tâm v.v…

Ngoài các cõi Tịnh độ nằm trong tâm con người còn có những cõi Tịnh độ ở ngoài tâm, và tuỳ theo không gian và thời gian, ta có những loại Tịnh độ như sau:

a. Tịnh độ tha phương trong tương lai có:

1. Tây phương Cực lạc thế giới hay Tây phương Tịnh độ dưới quyền quản trị của Phật A Di Đà mà hàng Phật tử tu tịnh nghiệp đều mong cầu được vãng sinh về đó.

2. Đâu suất Tịnh độ dưới quyền điều khiển của Đức Di Lặc, một vị Bồ tát nhất sinh bổ xứ, kế thừa Đức Phật Thích Ca sau này ở cõi Ta bà. Ngài sẽ xuất hiện trong hội Long Hoa để tế độ toàn thể loài người còn sống sót ở nhân gian mà chưa được siêu thoát để được về cung trời Đâu Suất.

3. Diệu Hỷ Tịnh độ là nơi cực kỳ sung sướng dưới quyền quản trị của A Sơ Phật hay Đại Mục Như Lai.

4. Đông phương Tịnh độ của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, là nơi thanh tịnh tuyệt đối. Không còn bệnh khổ phiền não, thân tâm thường lạc. Muốn được sinh về các cõi Tịnh độ trên thì điều kiện chung là phải phát tâm dũng mãnh quy hướng về các nơi đó với Tin sâu, Nguyện thiết, Hành trì tinh tấn trong việc niệm danh hiệu các vị Phật giáo chủ ở các cõi này.

b. Tịnh độ nơi Đương xứ hay Quán Chiếu Tịnh độ là cõi Tịnh độ nơi Tâm của hành giả khi đã giác ngộ thấy Phật ở quanh tâm mình và ngay lúc này nghĩa là được trở về với Chân Tâm thanh tịnh của mình. Khi đã lóng trong mọi vọng niệm phiền não ở giây phút Đại Định.

c. Tịnh độ trong tương lai ở cõi trần gian này tức là cõi Ta bà uế độ này được cải thiện thành nơi Cực lạc, thanh tịnh để nhân loại, người người cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời.

* Phật pháp chỉ là phương tiện ví như chiếc cầu thang có nhiều bậc phải leo từng bậc từ thấp tới cao. Tuy biết các pháp chỉ là huyễn mà vẫn phải tuần tự leo từ bậc dưới (là huyễn nhỏ) rồi tiến dần lên bậc trên cao hơn (là huyễn lớn) chứ không thể đốt giai đoạn, nhảy vọt một cái lên bậc thang cao nhất, không qua các huyễn nhỏ ở các cấp dưới.

Trên đường đi tới Chân lý cứu cánh thì Cực lạc Tây phương được coi như một “Hoá thành dụ”, nghĩa là một diệu pháp phương tiện trong Chân Không, rất cần đối với hành giả ở cõi Ta Bà, còn phải dấn bước trên đường tu, cố gắng đạt tới bằng Tín, Nguyện và Hành để được giải thoát và tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.

Tuy vậy phải quan niệm cõi Cực lạc Tây phương cũng chỉ là một trạm nghĩ tạm thời, ở đó một thời gian để thanh tịnh hoá hoàn toàn tâm mình, và quãng đường tu tập ở các cõi Tịnh độ tha phương chỉ là giai đoạn để nỗ lực tu thân, hành Bồ tát đạo bằng cách tái nhập thế mới mong đạt tới Phật quả..

Sự khác biệt căn bản giữa các cõi Tịnh độ ở góc nhìn của người tu và trình độ giác ngộ của hành giả, tu làm sao để thực hiện đầy đủ mục tiêu: “Thượng cầu Bồ đề, hạ hoá chúng sinh” hay “Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn”.

Nếu cho việc từ bỏ cõi Ta bà là nơi cực khổ và nhìn nhận khổ đau có thật để mong được sống mãi mãi ở nơi Cực lạc hưởng lạc riêng tư, thì đó chỉ là thái độ tiêu cực, có tu mà chưa hành, chỉ mong đạt tới đích của Tiểu thừa, cầu phá Ngã mà chưa phá Pháp, mong tự độ, tự giác mà chưa độ tha. Còn chán ghét Ta bà, còn mong cầu về Cực lạc thì tâm còn phân biệt, chưa đoạn trừ được Tứ Tướng.

Đem tâm yêu ghét, nhị nguyên đó mà cầu đạo cả Vô thượng Bồ đề thì tâm đó như vầng trăng còn lu mờ, chưa thật tỏ sáng. Người ngộ đạo phải sống theo chân lý Bất Nhị, phá triệt để các pháp mới tới được Trung đạo. Người tu khi đã đến ngưỡng cửa của Niết bàn phải tỏ thái độ dứt khoát như Ngài A Nan, buông lời thệ nguyện: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhất chúng sinh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn”, rời bỏ ngay Niết bàn an lạc rồi tự nguyện nhập Ta bà, xả thân hành đạo Bồ tát để độ tận chúng sinh.

* Đại thừa Phật giáo không thoả mãn với tư tưởng giải thoát cá nhân nửa vời ích kỷ mà muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp bằng tình thương, hay thực hiện một sự giải thoát tập thể cho toàn thể nhân loại.

Lý tưởng của người tu hạnh Bồ tát là xây dựng một xã hội đại đồng, bình đẳng, tự do, hạnh phúc chân chính bằng cách giác ngộ Phật tính ở ngay trong lòng mỗi người. Trong xã hội tươi đẹp đó thì con người làm chủ cả mình lẫn thiên nhiên, ai nấy đều tự cứu lấy mình và giúp ích tha nhân cùng hưởng phúc.

Vì hiểu rằng: Khổ đau, nghiệp chướng là lẽ thường ở đời nên người hành đạo Bồ tát không lẩn trốn khổ đau, còn coi đó là phương tiện để xây dựng hạnh phúc, là ngọn lửa hồng để nung luyện chí cao, hay là duyên lành để thúc đẩy chóng kết thành Phật quả.

Người hành đạo Bồ tát hiểu rằng: giá trị và ý nghĩa của cuộc đời không ở chỗ tìm sự sung sướng an lạc cho bản thân làm mục tiêu, mà lại lấy sự thực hiện hạnh phúc tuyệt đối cho muôn loài làm lý tưởng và sự nghiệp của mình. Muốn được giải thoát rốt ráo phải là vì người, nếu chỉ làm tròn hạnh phúc cho cái Ta nhỏ bé mà chưa thực hiện được hạnh phúc cho mọi cái Ta khác, thì lý tưởng ấy vẫn còn chưa trọn vẹn.

Từ hai loại Niết bàn của Tiểu thừa là Hữu dư và Vô dư Niết bàn có tính cách cá nhân, phải tiến tới Vô trụ xứ Niết bàn, hay Tự tính thanh tịnh hoặc Bất trụ Niết bàn của Đại thừa có tính cách vị tha, xã hội.

Tuy lấy Bình đẳng tính làm phương tiện để đạt tới Bình đẳng giới nhưng lại không trụ ở đó mà lại trụ ở Sai biệt giới, giúp đỡ mọi người đau khổ, nghèo khó ở hạ tầng giai cấp xã hội. Tuy lấy giải thoát khỏi khổ đau và mong cầu Tịnh độ, Niết bàn làm lý tưởng: vừa tự ý dấn thân vào trong vòng luân hồi để Chân, Thiện, Mỹ hoá cõi đời này bằng những hành vi tích cực hành thiện, lại vừa đáp ứng được lý tưởng “Thượng cầu Bồ đề, hạ hoá chúng sinh”, theo đuổi đường lối “Tam luân Không tịch”.

Trong quá trình tiến tới mục tiêu lý tưởng ấy, hành giả vẫn cảm thấy vui buồn như mọi người, nhưng lại thản nhiên trước mọi khổ đau, vượt trên mọi phân biệt, đối đãi, và dồn hết tâm lực của mình để phụng sự nhân loại. Dùng “Bất trụ xứ Niết bàn” và “hoàn tướng hồi hướng” làm nhân sinh quan, Bồ tát tự nguyện hồi nhập Ta bà và thực thi Tứ Nhiếp Pháp, cùng mọi người đồng cam cộng khổ để dễ độ đời. Đạo Bồ tát lấy việc kiến thiết một cõi Tịnh độ nhân gian để đề cao lý tưởng của mình, cho nên nếu xa rời công trình xây dựng cõi Địa đường chung thì mất hết ý nghĩa cao đẹp của Đạo Bồ tát.

Lý tưởng kiến thiết một cõi Tịnh độ nhân gian bắt nguồn từ những tư tưởng: “Phiền não tức Bồ đề”, “Chúng sinh tức Phật”, “Sự tức Lý” của Bất Nhị pháp môn, nêu cao ý nghĩa “Nhất chân Pháp giới” hay “Vạn vật đồng nhất thể”, “Chúng sinh giai hữu Phật tính”… là những tư tưởng cao đẹp. Kết tinh trong các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v… mà cũng là chủ trương của Pháp môn Tịnh độ.

Theo tinh thần Đại Bi, Đại Trí của đạo Bồ tát thì không thể trốn tránh trách nhiệm của mình cùng những phiền não của cuộc sống phồn tạp hàng ngày, bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác”, mà phải lặn lội vào đời sống thực tế, gắn bó đạo với đời, để cải thiện đời sống xã hội ngày càng đẹp tươi hơn.

Cầu vãng sinh Cực lạc để được tự giải thoát trong khi quanh mình chúng sinh còn quằn quại trong khổ đau còn vị kỷ, mà phải phát tâm vô thượng Bồ đề, cầu giải thoát cho tất cả nữa. Có độ tận chúng sinh về nơi an lạc cuối cùng mới thực hiện được đúng đường lối của đạo giải thoát Chính đẳng chính giác. Có vãng sinh Tịnh độ, lại có hồi chuyển Ta bà thì Bồ tát mới Tịnh độ hoá được cõi trần gian này: đó là điểm son làm nổi bật tính cách hoạt động tích cực của đạo Nhất thừa, đồng thời đánh giá cao quan niệm về Tịnh độ nhân gian trong tương lai, so với cõi Tịnh độ tha phương, hoặc ở tại tâm, nơi đương xứ, mới chỉ được coi là giải thoát nửa vời, tiêu cực.

Bồ tát đạo nói chung, và pháp môn Tịnh độ nói riêng, là con đường đón nhận tứ chúng đồng tu để tiến tới Niết bàn, Tịnh độ. Không thiếu gì Cư sĩ tại gia xưa và nay đã đạt đạo nhờ đi theo con đường tịnh nghiệp. Nói đến Cư sĩ lừng danh phải kể đến Ngài Duy Ma Cật thời Phật còn tại thế. Sau này Trung Quốc có Bàng Long Ẩn, và ở Việt Nam có Tuệ Trung Thượng Sĩ đã không thua kém tài đức đối với hàng xuất gia chân chính. Riêng trong pháp môn Tịnh độ nhiều người đã đạt được Tánh và được dự về cõi Tây phương Cực lạc nhờ âm thầm tinh tiến tu theo tịnh nghiệp, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh.

* Bởi vì sự thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian không thể thực hiện được một sớm một chiều, nên người có tâm phải phát nguyện rộng lớn, ra vào trần gian hết kiếp này đến kiếp khác để độ tận chúng sinh, quyết thực thi bằng được lý tưởng cao đẹp của mình, bất cứ trong thời gian lâu dài bao nhiêu cũng được. Người hành Bồ tát đạo tu theo Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Nhiếp Pháp, nguyện đi vào cuộc đời để phục vụ tha nhân, lấy hạnh phúc của con người làm nguồn vui của mình. Tinh thần vị tha là đức tính của người giác ngộ, chỉ biết giúp ích mọi người không vì lợi danh. Không biết mệt mỏi, không quan tâm đến lời khen chê, đe doạ hay trách móc, việc xảy đến thì làm tích cực với tinh thần vô uý, xả kỷ, không làm không được.

* Đạo cốt ở Hành, không ở nói suông. Có hành mới thấy cái khó khăn, khó tin, khó nói. Nói suông chỉ biến đạo thành mớ lý thuyết vô vị. Càng Hành càng hòa hợp, cởi mở, gỡ những mớ bất đồng và hiểu lầm sinh mâu thuẫn tranh chấp, tưởng chừng như không hoà giải nổi. Có Hành mới mở toang cánh cửa của Trí, cánh cửa huyền vi của đạo. Có Hành mới thấy rõ Chân lý Sự Sự nhất thiết vô ngại. Có Hành mới chọc thủng được tấm màn bí ẩn của chữ nghĩa trong các kinh điển Phật giáo, mới xé rách được cái áo khoác ngoài của Sắc, Tướng, Hình, Danh, và mới nhận được lẽ nhiệm mầu của Chân lý Bất Nhị, và “Một là Tất cả, Tất cả là Một” của muôn pháp, do cùng một tâm sinh ra, rồi lại quay trở về tâm, đồng nhất trong sai biệt, thù đồ nhưng đồng quy.

* Nhưng thiết lập một xã hội bình đẳng, tự do, hạnh phúc tuyệt đối, một cõi Tịnh độ nhân gian. Không phải là phá huỷ tất cả bằng sắt, máu, mà phải dùng tình thương vô hạn, thay vì những hành động bạo tàn, chém giết chẳng ghê tay, bởi vì tình trạng bi đát của loài người, với những bất công, sai biệt của ngày nay là kết quả nghiệp báo của tâm mê vọng của chúng sinh thuộc quá khứ và hiện tại. Lay đổ nền móng cũ mà không chuyển được cái tâm của con người thì cách mạng khó thành công và mãi vẫn còn dang dở. Nguyên nhân để cấu tạo một xã hội công bằng, bác ái là Nghiệp lực. Phá huỷ sự sai biệt bất công mà không lưu ý đến nguyên nhân phát sinh ra nó là Tham, Sân, Si thì sự phá huỷ đó vô ích, bởi vì gieo nhân lành, duyên tốt thì mới được hái quả tốt lành.

Lẽ vô thường biến dịch và nhân quả của thiên nhiên là nguyên lý giúp chúng ta xây đắp một xã hội lý tưởng cho ngày mai. Sự thăng hoa hay thoái bộ trên đường dẫn tới hạnh phúc hoàn toàn do lòng người có thực muốn hoán cải hay không ? Câu “Tâm bình, thế giới bình” trong Kinh Hoa Nghiêm phải được coi là phương châm hành động cho những người cầm đầu thiên hạ ngày nay muốn đạt tới một nền hoà bình vĩnh cửu.

Trong phạm vi của cá nhân, ai ai cũng đều có bổn phận giữ cho Tâm bình, cố gắng hành Thập Thiện và thực thi Tứ Vô Lượng Tâm. Chẳng ai có thể bảo là mình đã góp phần nhiều nhất để kiến thiết cõi Tịnh độ chung, bởi vì sự đóng góp tích cực nhất và nhiều nhất chính là sự toàn thắng được lòng mình, và như vậy thì chỉ có mình mới tự đánh giá được mình đúng mức mà thôi, bởi vì chỉ có mình mới tự biết mình đã diệt trừ được lòng Tham, Sân, Si và phá huỷ được Ngã chấp và Pháp chấp tới mức nào.

Chỉ có Tuệ và Bi, một lòng thương yêu nhau chân thành coi nhau như bạn hiền cùng chung lý tưởng mới mong đến tới đích Tự do, Bình đẳng, Hoà bình, Ấm no, Hạnh phúc tuyệt đối. Chúng ta ước mong khoa học sẽ phá huỷ được căn bản của những tư tưởng sai lầm, và triết học Tây phương ngày càng thâm nhập sâu hơn vào lý Bất Nhị, và bản thể Nhất Nguyên của vũ trụ để đưa loài người ngày nay càng gần hơn tới Chân lý do đấng Giác ngộ chân chính đã đề xướng. Đó chính là cái mà tôi muốn nói trong câu đã viện dẫn ở đoạn trên: “Khoa học sẽ dần dần tiến ngày càng gần hơn tới đạo Phật”.

Không ai bảo ai mà tự nhiên các triết gia và khoa học gia Tây phương hiện nay cùng tiến về hướng mà Phật đã vạch ra từ 25 thế kỷ về trước. Chúng ta hy vọng ngày trưởng thành của nhân loại về đạo đức và tinh thần sẽ sắp tới, mặc dù khoa học đã bác bỏ tất cả những gì làm điểm tựa cho niềm tin về những tôn giáo ở Tây phương, nhưng rồi các khoa học gia tân tiến cũng sẽ nhận thấy rõ vẫn còn có một tôn giáo tiến bộ, có cơ sở vững chắc về khoa học dẫn tới chân lý trường cửu để cứu nguy cho nhân loại bằng đường lối hoà bình.

Họ sẽ thấy viễn ảnh một thế giới đại đồng không có kỳ thị dân tộc, ấm no, hạnh phúc hoàn toàn, khi thừa nhận rằng mục đích cuối cùng của loài người là phải tìm cách ra khỏi tấm màn vô minh, và lấy tình thương chân thật đối phó với nhau mới mong giải thoát khỏi nạn tận diệt.

Chúng ta có thể đặt niềm tin ở khả năng sáng tạo của tim óc con người, tin ở căn bản của lương tâm con người, với tinh thần nhận thức được toàn bộ Thực tại để giải toả những mối bất đồng giữa Tâm Vật, Tự Tha, và san bằng mọi đố kỵ, mâu thuẫn. Chúng ta có thể tin giá trị siêu việt của triết lý đạo Phật, một đạo Từ Bi và Giác ngộ có sức mạnh tâm linh mầu nhiệm, có khả năng hoán cải được con người trở về với Chân Tâm, Phật tính bằng đường lối hoà bình và mở rộng cho nhân loại triển vọng tốt đẹp là con đường Bồ tát đạo lý tưởng để thoát khỏi ngõ bế tắc hiện tại trong lãnh vực tranh chấp nhau về ý thức hệ và về quyền lợi riêng tư, tránh được hiểm hoạ tàn sát lẫn nhau, và chạy đua nhau trên phạm vi sản xuất các loại vũ khí giết người tập thể.

Bởi lẽ “Nhất thiết duy tâm tạo” và “Nhất thiết chúng sinh giai hữư Phật tính” nên chúng ta có thể tin rằng việc thiết lập một nền Tịnh thổ ở cõi trần gian này chẳng phải là ảo mộng! Tin tưởng đó là hoài bão của Thái Hư Đại Sư bên Trung Hoa và cũng là mộng vàng của nhà Bác học có đạo tâm nước Pháp Le Comte du Nouy hằng ấp ủ với thuyết viễn đích (Téléfinalité) chủ trương đề cao phẩm giá con người, đặt niềm tin bất diệt ở tương lai tốt đẹp của tinh thần, đạo đức và giá trị của khoa học, tin tưởng vào cuộc tiến hoá không ngừng của nhân loại và ở định mệnh cao cả của con người, với sự tiếp tay của khoa học, để đạo phục vụ đắc lực cho đời, trong mưu cầu hạnh phúc chung của nhân loại.

Con người phải lo cải thiện tâm hồn hơn là hoàn cảnh vật chất. Mọi người đều phải góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội huy hoàng cho ngày mai, và điều kiện tiên quyết để đạt tới cảnh thần tiên ấy là ta phải thoát ly những dục lạc và toàn thắng được những ác tưởng của mình. Tóm lại: theo Le Comte du Nouy thì chúng ta đều có bổn phận phát huy cái đức Sáng sẵn có ở trong ta, nỗ lực không ngừng tự cải thiện mình và tin tưởng vào tiềm năng huyền diệu của con tim, đem hết tài năng sáng tạo của mình phục vụ nhận loại, vượt qua mọi chặng đường khó khăn nhất, và chỉ ngừng lại khi nào đạt tới đỉnh cao của Chân Thiện Mỹ.

* Quan niệm về thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian hay trở về với Chân Tâm của mình, cũng là quan niệm của Nho giáo chủ trương: “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản”, vạn hữu biến dịch theo hai chiều vãng lai phản phục tuần hoàn, vừa phân tán để đào thải những cặn bã thấp hèn, vừa súc tích những tinh hoa trong sáng của trời đất để trở về nơi nguyên thể. Từ quan niệm “Vạn vật đồng nhất thể” tiến tới chủ trương “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính” và “Tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”, ta nhận thấy rõ Phật cũng như Nho đều chủ trương Bản thể tuỵêt đối, bất diệt Chân Tâm của mình, biến hoá để trở thành Thánh, Hiền, Tiên, Phật, hay “phối thiên đạt đạo”, tức là kết hợp với tuyệt đối thể vừa là căn nguyên sinh xuất, lại vừa là đích cuối cùng mà muôn loài phải tiến tới.

* Nhưng thực hiện giấc mộng vàng này phải dựa vào tự lực hay tha lực đây ? Tổng quát mà nói thì việc kiến thiết cõi Tịnh độ trong tương lai, nơi trần thế này phải do nỗ lực của từng cá nhân góp phần tích cực diệt trừ những thói hư tật xấu của mình, song công cuộc xây dựng cõi Tịnh độ lại là một công cuộc vĩ đại đòi hỏi một nỗ lực phi thường, vả chăng chẳng phải riêng cá nhân nào được hưởng một màn hình mà toàn thể nhân loại đều chung hưởng hạnh phúc đời đời, nên sự thành công mau hay chậm còn phải dựa vào một yếu tồ mầu nhiệm, bất khả tư nghị là phật lực gia hộ thêm nữa mới mong thành tựu hoàn mãn và mau chóng. Như vậy “Miêu thuyết phải nhường bước cho Viên thuyết”, như vượn con vẫn phải nhờ vượn mẹ hết lòng bao bọc nâng đỡ trong lúc còn chưa đủ lực chuyền cành một mình. Trước nỗi khổ và cộng nghiệp sâu dầy của nhân loại, người có đạo tâm lo âu, khắc khoải nhưng không còn cách nào hơn là cầu nguyện thiết tha mong cho Tha lực sớm hiệp cùng Tự lực của mỗi người để thoát cảnh khổ chung.

* Cõi Tịnh độ nhân gian được xây dựng trong một tương lai xa hay gần, một phần nhờ Tha lực của chư Phật và Bồ tát âm thầm tiếp tay, còn phần lớn do chúng ta có chịu xuất toàn tâm lực để kiến tạo nó hay không ?

Lỗi ở chúng ta có biết sớm ăn năn hối cải, rũ sạch trần cấu và chịu quay về với bản tâm tự tính hay không. Yếu tố quan trọng vẫn là yếu tố cá nhân, và nhiệm vụ trọng đại của loài người ngày nay phải cùng nhau cố gắng thanh lọc tâm tư, diệt trừ ba độc, đoạn tuyệt thú tính và phát huy nhân phẩm của mình. Không nên tìm hiểu xem nỗ lực của ta có lợi ích gì cho công cuộc chung, và kỷ phần đóng góp của ta vào lợi ích cộng đồng phỏng được là bao ? Chỉ riêng sự cố gắng tận lực làm Thập thiện cũng đáng kể rồi. Và chỉ với tâm thành đó cũng đủ làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa cao cả thiêng liêng.

* Những bước tiến vĩ đại mà khoa học đã đạt được trong công cuộc chinh phục không gian và chiến thắng thiên nhiên thực sự chưa đem lại cho loài người hạnh phúc mong muốn khi chưa có một sự phát triển tương đương về mặt đạo đức, tinh thần. Trong hiện tình thế giới ngày nay, sự phát triển toàn diện và thực sự có ích chỉ có được trên bình diện liên minh hoà giải giữa hai nền văn minh Đông, Tây ; giữa khối óc duy lý của khoa học và trái tim siêu lý của tôn giáo; giữa giá trị nhiệm mầu của con tim rung động trước nỗi khổ đau của tha nhân với sự khô cằn của khối óc thuần lý, vị kỷ ; giữa tiêu cực và tích cực ; giữa tương đối và tuyệt đối; giữa bản năng sinh tồn mù quáng của thức giác, quen chạy theo lục dục thất tình, với sự tự do lựa chọn của trí sáng suốt, biết đủ, và sự lựa chọn đó lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào quyết định của ta.

* Thế giới này được cải thiện do quan hệ hỗ tương nhân duyên chằng chịt, nên mọi người cần phải tự cải thiện ngăn ngừa ngã ái, ngã si, hăng hái làm việc thiện để giúp đỡ lẫn nhau trong tinh thần xả kỷ, lợi tha để cộng nghiệp được tốt lành. Bởi lẽ xã hội chi phối cá nhân, nhưng ý chí mỗi cá nhân góp lại cũng có thể cải biến được cộng nghiệp của xã hội. Nguyên tắc này phù hợp với tinh thần: Tự giác, giác tha của nhà Phật vì sự giác ngộ của mỗi người về Phật tính sẽ gây ảnh hưởng dây chuyền tốt cho người khác quanh mình theo lý trùng trùng duyên khởi.

Mối liên hệ hỗ tương giữa cá nhân và đoàn thể được thể hiện qua hình ảnh của “lưới đế châu” nói trong kinh Hoa Nghiêm. Cái lưới của Phạm Thiên vây bủa khắp vũ trụ, chiều dọc là thời gian, chiều ngang là không gian, mỗi mắt lưới là một hạt kim cương lóng lánh sáng ngời, tượng trưng cho một cá nhân. Một cá nhân (hay nghiệp quả về thân, khẩu, ý của từng người) cũng như một hạt kim cương phản chiếu vào một đời sống (hay một hạt kim cương khác) ở mọi khía cạnh (hay hành động về thân khẩu ý) và nhắc đi nhắc lại tới vô cùng. Chẳng khác nào trong một buồng sáu bề lát kính, nhìn vào đâu cũng thấy hình bóng mình phản chiếu, nhắc đi nhắc lại hoài: đây chính là cái lưới ảo hoá mà Ôn Như Hầu đã nói: “Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy…”. Và Lão Tử cũng bảo là: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát).

* Sự quan hệ hỗ tương mật thiết giữa cá nhân và cá nhân là điều kiện thiết yếu để thành lập một xã hội an lành hạnh phúc. Điểm xuất phát của sự thiết lập một cõi Tịnh độ nhân gian là “tại đây và lúc này”. Nếu mọi người đều cùng sớm thực hiện được điểm xuất phát đó thì cảnh Địa đường sẽ được thiết lập chẳng lâu.

* Theo luật “Trùng trùng duyên khởi” và “Một là Tất cả, Tất cả là Một” thì sự Cộng biến và Tự biến tác động lẫn nhau, đưa tới sự hình thành xã hội, là môi trường sinh hoạt của cá nhân. Như vậy thì cõi Tịnh độ trong tương lai, tại chốn Ta bà này được xây đắp nhanh hay chậm là bởi hành vi cải thiện tim óc của từng cá nhân trong cộng đồng thế giới, song song với việc cải thiện guồng máy xã hội của mối quốc gia trong mọi lãnh vực văn hoá, đạo đức, chính trị, kinh tế… chỉ lo cải thiện con tim khối óc của từng cá nhân là những bộ phận nhỏ mà không lo cải thiện toàn thể cơ cấu xã hội loài người hay toàn bộ guồng máy vĩ đại của xã hội nhân loại thì chỉ là câu chuyện muốn sửa bóng cho ngay mà hình thì không thẳng, cứ giữ nó mãi trong tình trạng cong vẹo hiện thời, không chịu sửa đổi. Bởi vậy đồng thời với việc thanh tịnh hoá tâm hồn của từng người, cũng cần lo thanh tịnh hoá tình trạng xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.

Hiện nay tinh thần, đạo đức của nhân loại đang ở mức độ quá thấp gây nên bởi cuộc sống giả tạo, hời hợt chạy theo vật chất xa hoa, lệ thuộc quá nhiều vào máy móc và đồng tiền. Phải lấy Tuệ và Bi, lấy Tình thương sáng suốt, tôn trọng sự sống thiêng liêng của muôn loài để kiến thiết một xã hội công bằng và thuần lương, căn cứ vào sự phát huy tiềm năng và phẩm giá của con người.

Dù thời gian dùng để kiến thiết cõi Tịnh độ nhân gian này còn dài lâu và khó khăn đến đâu cũng phải cố gắng thực hiện bằng được bởi tình thương và hợp tác chân thành thay vì thù hận và mưu mô xảo quyệt đấu tranh. Toà lâu đài hạnh phúc trạng lệ của loài người không thể xây dựng bằng máu xương và nước mắt, mà phải bằng Trí tụê và Từ bi. Thời gian để kiến thiết toà lâu đài tuỳ thuộc vào Nghiệp quả của toàn thể loài người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng đích sẽ tới nơi, vào một buổi bình minh êm đẹp trong tương lai, xa hay gần tuỳ sự tinh tiến và hợp tác chân thành của tất cả.

Mọi trở ngại việc quay về với Chân tâm, Phật tính của mỗi người, và  mọi trở ngại bước thăng hoa của nhân loại tới một nền văn minh huy hoàng vĩnh cửu, hoặc mọi trở ngại tình trạng ổn định của một nếp sống lành mạnh, đạo đức đều chỉ làm trì trệ việc thành tựu cõi Địa đường này mà thôi. Chúng ta chớ nên dục tốc bất đạt!

* Hiểu được thực tướng của các pháp là “Không”, lại hiểu được chân lý “Chân Không Diệu Hữu” và Lý Bất Nhị, con người sẽ đạt được Thực tại tối hậu hay Niết bàn tại tâm, và xã hội sẽ giảm được nhiều phần tội lỗi khổ đau, bất công chia rẽ. Xã hội loài người sẽ toàn thiện và niềm an lạc sẽ ngự trị trên cảnh Địa đường này, trên mảnh Tâm điền này, nếu mỗi người đều thực muốn hướng về nẻo Chân, Thiện, Mỹ. Con người toàn thiện sống trong một xã hội thực sự hạnh phúc, hay thế giới lý tưởng tuỵêt đối, chỉ thành tựu được khi nào toàn thể nhân loại đều ý thức được tầm quan trọng của Chân lý Vô ngã, Vô thường, Nghiệp báo biến dịch, cùng vững tin ở đường lối hoà bình của đạo Bồ tát và sức mạnh vô biên của tâm từ vô lượng kết hợp với Trí sáng suốt của khoa học, biết dùng cây đũa thần Nguyên tử năng để phục vụ cho hạnh phúc chân chính và trường cửu của con người.

* Con đường tiến hoá của nhân loại được diễn ra trên hai chiều thuận nghịch, vãng lai, từ Nhất đến Vạn, rồi từ Vạn đến Nhất, hay từ Thiện đến Ác rồi từ Ác đến Thiện, chứ không phải chỉ trên một chiều tiến thẳng hay tiến theo hình trôn ốc về một phía. Sự tiến hoá đó đi từ Bản thể Chân Tâm tiến ra Hiện tượng Vạn hữu, rồi từ Hiện tượng Vạn hữu hoàn về Bản thể Chân Tâm. Việc quay trở về với Chân Tâm là quyền năng của chúng ta, ai ai cũng có thể làm ngay trong đời hiện tại, bằng cách quán tưởng, niệm Phật, cầu kinh; hồi đầu trở lại nội tâm, đoạn tuyệt hẳn nếp sống xưa, không cần đợi tới kiếp lai sinh mới làm được những việc đó. Với phương pháp “Quán Niệm Âm Văn” dựa vào nhĩ căn viên thông và hồi quang phản bản, quay ngược Tụê giác chiếu thẳng đáy lòng, ta có thể tóm thâu thời gian và không gian vào sát na tam muội, để quá khứ và vị lai gặp nhau tại đương xứ, có gì lâu xa đâu ?

    Xem thêm:

  • Luận Câu Xá – Phẩm 8: Phân biệt định - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 1: Phân Biệt Giới - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Đại Cương Luận Câu Xá - Luận Tạng
  • Luận Phật Thừa Tông Yếu - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - Luận Tạng
  • Luận Bảo Hành Vương Chánh - Luận Tạng
  • Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 7: Phân biệt trí - Luận Tạng
  • Sớ Giải Kinh A Di Đà - Luận Tạng
  • Thành Duy Thức Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Luận Câu Xá – Phẩm 6: Phân biệt hiền thánh - Luận Tạng
  • Luận Tứ Đế - Luận Tạng
  • Luận Thích Ma Ha Diễn - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học - Luận Tạng
  • Thiền Tông Khảo Luận - Luận Tạng
  • Ý Nghĩa Quyết Định Của Pháp Hoa Huyền Tán - Luận Tạng
  • Thanh Tịnh Đạo Luận - Luận Tạng