1
2
3
4
5

QUYỂN 4

7. PHÚNG TỤNG (Những vị trì tụng kinh Hoa Nghiêm) [146]:

7.1- Thích Phổ Viên:

Không rõ Sư họ gì, theo lời truyền thì dường như Sư có cuộc sống du phưong, không có trụ xứ nhất định.

Vào đầu thời Chu Vũ (690-705), Sư đến Tam Phụ[147]. Sư có tướng mạo phương phi, nói năng chậm rãi, rõ ràng, như phong thái của đấng đại trượng phu. Sư trải qua nhiều vùng sông núi nổi tiếng, thường tu hạnh đầu-đà, thích làm việc thiện, cứu giúp mọi loài, đặc biệt chú trọng đến lợi ích chúng sanh. Có người đến xin quy y, Sư liền tiếp độ, dạy họ phương pháp tu hành, khuyên tuân theo khổ hạnh. Sư thường tụng kinh Hoa Nghiêm, nương theo kinh tu tập thiền định, dụng công ngày càng tinh tấn, đến nỗi không biết đêm ngày.

Có lần đi khất thực, đến một thôn xóm nọ, Sư nương ở nơi rừng cây, gò mả nhiếp tâm tư duy. Đêm ấy, bỗng có một con quỷ hình dáng vô cùng ghê sợ, có 4 mắt, 6 nanh, thân đầy lông, tay cầm gậy, đi đến trước mặt Sư. Sư mở to mắt, nhìn chằm chằm vào nó, không lộ vẻ sợ hãi. Chẳng bao lâu, con quỷ biến mất. Những việc như vậy không phải ít.

Một hôm, có người đến xin đầu của Sư. Khi Sư sắp chặt đầu cho, thì họ bảo thôi, không lấy nữa. Họ lại xin mắt, Sư định khoét mắt cho, thì họ bảo dừng lại. Họ lại xin tay, Sư liền cột cổ tay lên cây, chặt ngang khuỷu tay cho họ, rồi ngất xỉu, ngã xuống đất, nhân đó thị tịch tại sông Phàn ở Giao Nam. Nghe tin này, đạo tục đau buồn, thương tiếc như mất cha mẹ; sau khi trà-tỳ, phân chia linh cốt, xây tháp tôn thờ tại nhiều nơi.

7.2- Thích Phổ Tế:

Sư người Bắc Sơn, Ung Châu[148]. Khi mới xuất gia, Sư y chỉ thiền sư Viên tu pháp khổ hạnh, ở một mình trong rừng vắng, không ngủ nhờ nhà người, ngồi kiết-già tu định.

Về già, Sư vẫn ở nơi hoang vắng hiểm trở, sống chung với cọp sói. Tuy Sư có chí thoát trần thế, nhưng luôn nghiên cứu kinh điển, lại thường tụng kinh Hoa Nghiêm, cứ 2 ngày một biến, và lấy đây làm sự nghiệp. Tiếng Sư tụng kinh ôn hòa, âm điệu hùng hồn, vang khắp. Có lần, Sư dụng tâm quá sức, đến nỗi máu nôn ra mấy đấu[149], phải nghỉ tụng kinh, bỏ ăn uống suốt cả 3 ngày. Thấy vậy, các vị đồng môn thương xót, mang đến các loại thuốc, nhưng Sư bảo: “Kinh dạy: Những bệnh mà thầy thuốc ở đời chữa trị, tuy có bớt nhưng cũng tái phát, còn những bệnh mà Như Lai chữa trị, khi khỏi rồi thì không bao giờ bệnh lại. Vậy dùng thuốc làm gì?” Nói xong, Sư tắm gội sạch sẽ, trang nghiêm hương hoa, đảnh lễ chư Phật khắp mười phương, lớn tiếng tụng kinh, bệnh liền bình phục.

Đến khi Phật pháp suy vi, Sư vào núi Thái Bạch[150]…, nhưng không mang theo thức ăn, đúng thời ăn rau rừng, uống nước suối mà không hề bệnh hoạn. Sư phát nguyện, một khi Tượng giáo[151] hưng thịnh, sẽ xả thân cúng dường. Từ đó, Sư tu theo hạnh Phổ Hiền[152] và nguyện sanh về cõi Hiền Thủ[153].

Đầu những năm Khai Hoàng (581-600), Phật pháp lại hưng thịnh, tâm nguyện đã thành tựu, nên Sư thực hiện việc xả thân cúng dường. Thế là, Sư tập hợp chúng tăng tại sườn núi phía Tây hang Khôi, phát đại thệ nguyện, rồi gieo mình xuống vực mà chết. Đạo tục xa gần kéo đến, chật cả hang núi. Sau đó, các đệ tử xây Bạch tháp trên đỉnh núi để cúng dường.

7.3- Thích Biện Tài:

Sư xuất gia từ thuở nhỏ, thờ pháp sư Dụ làm thầy. Qua thời gian tham học giáo nghĩa, Sư cho kinh Hoa Nghiêm là rốt ráo, cùng tột trong tất cả các kinh, nên dốc lòng nghiên cứu, nhưng vẫn không đạt được yếu chỉ. Buồn than cho nghiệp chướng sâu dày, Sư chí thành phát lồ sám hối. Đồng thời, để giữ kinh cho sạch sẽ, Sư tạo một hộp trầm hương, đặt kinh vào trong đó, rồi đội trên đầu, kinh hành suốt 3 năm.

Một hôm, Sư mộng thấy bồ-tát Phổ Hiền đến trao cho yếu chỉ vi diệu. Nhân đó, Sư đọc thông thuộc văn kinh, trước sau đều sáng tỏ. Đã cảm được bậc Thánh thầm gia hộ, Sư càng nỗ lực tu học, nên thấu triệt nghĩa lý. Bấy giờ, Sư bắt đầu hoằng hóa, làm lợi ích chúng sanh. Sau không biết Sư viên tịch ở đâu.

Lại có một vị tăng (không rõ họ tên) thấy điềm lành của Sư, liền khởi lòng tin sâu; do đó, học theo hạnh đội kinh, đến núi Thanh Lương, trụ xứ của bồ-tát Văn-thù, chí thành cầu gia hộ. Bấy giờ, vị tăng kinh hành và đảnh lễ, lúc nào cũng đội kinh trên đầu. Tối đến, vị tăng để kinh lên một cái giá 3 chân, đốt hương đảnh lễ, ngồi kiết già bên dưới, quán xét tư duy những nghĩa sâu xa vi diệu. Trải qua 17 năm, cũng có điềm lành ứng hiện như trước. Hộp trầm hương đựng kinh ấy đến nay vẫn còn.

Cùng lúc ấy, tại sườn núi Bão Phúc, Phần châu, có sa-di Huệ Cầu cũng đầu đội kinh đi nhiễu quanh tháp, trải qua 3 năm, được bậc Thánh gia hộ, tinh thông cả văn nghĩa. Vì vậy, người đương thời gọi tháp này là tháp Hoa Nghiêm.

7.4- Một vị Tăng khuyết danh, bạn đồng tu với ngài Thích Huệ Ngộ:

Một vị tăng ở đạo tràng Thiền Định, sống vào đời Tùy (581-618), đồng du phương với ngài Thích Huệ Ngộ. Vị Tăng ấy trì kinh Hoa Nghiêm, còn ngài Thích Huệ Ngộ trì kinh Niết-bàn. Hai vị ẩn cư tại Chung Nam, lấy hoa trái làm thức ăn, lấy núi rừng làm nơi cư ngụ. Trải qua nhiều năm, mỗi vị chuyên thọ trì kinh của mình, ngày đêm không ngừng.

Một hôm, bỗng có một người không biết từ đâu đi đến, vái chào rồi thưa rằng:

– Xin thỉnh một thầy về nhà để con được cúng dường.

Thấy hai vị nhường nhau, người kia nói:

– Xin thỉnh vị Pháp sư trì kinh Hoa Nghiêm.

Vị tăng bèn mang y bát, đi theo người kia. Đi được một đoạn không xa, vị Tăng hỏi:

– Nhà đàn việt[154] ở đâu?

Thưa:

– Ở phía Nam nơi này.

Tăng nói:

– Hướng Nam chỉ có núi, khe, đâu có thôn xóm.

Thưa:

– Đệ tử là thần núi này, nhà ở trong hang núi, xin Ngài chớ lo sợ.

Tuy rất kinh sợ và trong lòng lấy làm lạ, Tăng vẫn cố gắng đi theo con đường đá gập ghềnh. Bấy giờ, vị thần hỏi:

– Ngài thọ trì kinh Hoa Nghiêm mà chưa được thần thông ư?

Đáp:

– Chưa được.

Vị thần liền nhấc bổng Tăng bay lên hư không, chốc lát thì đến nơi. Vị Tăng thấy nhà cửa lộng lẫy, vô cùng tráng lệ; ngoài sân bày các thức ăn ngon quý hiếm, cúng dường khoảng 1.000 vị. Sắp đến giờ thọ trai, vị thần mời Tăng ngồi trên tòa cao. Tăng hỏi:

– Có các thầy nào khác nữa không?

Thần thưa:

– Nhiều lắm, lát nữa sẽ đến.

Tăng nói:

– Bần đạo tuổi hạ còn nhỏ, không đáng ngồi tòa này.

Thần thưa:

– Ngài trì kinh Hoa Nghiêm, đúng lý phải tôn kính.

Chốc lát, bỗng thấy hơn 500 vị tăng lạ, không rõ từ đâu, cầm tích trượng, ôm bát, từ hư không bay xuống, Tăng kinh ngạc, đứng dậy, muốn đảnh lễ, các vị tăng kia liền cản lại, thưa rằng:

– Xin Ngài chớ thi lễ. Ngài thọ trì kinh Hoa Nghiêm, là người đáng để chúng tôi cung kính.

Sau đó, im lặng, thọ trai xong, các vị liền bay lên hư không mà đi, nhưng không biết về đâu. Chỉ riêng Tăng không biết lối về, nên bảo vị thần:

– Mong đàn việt chỉ cho tôi con đường trở về.

Khi ấy, trong sân của vị thần có hơn 10 đứa bé, vóc dáng khoảng 3 tuổi, đang ở trần đùa giỡn. Vị thần bảo bọn trẻ:

– Một đứa trong số các ngươi hãy đến hầu Pháp sư.

Bọn trẻ đùn đẩy cho nhau, còn do dự chưa đi, vị thần nghiêm giọng quát. Lúc đó, một đứa trẻ vâng lời, đi đến thưa Tăng:

– Xin Ngài mở miệng ra.

Đứa trẻ nhìn vào miệng Tăng, rồi thưa:

– Ngài bị bệnh nặng.

Nói xong, đứa trẻ lấy một chút cáu bẩn ở trong móng tay để vào miệng của Tăng; lát sau, lại thưa:

– Xin Ngài mở miệng ra lần nữa.

Nhìn vào miệng Tăng, đứa trẻ thưa:

– Bệnh Ngài đã lành rồi.

Vừa dứt lời, đứa trẻ bay vào miệng Tăng. Đó chính là dược tinh[155], Tăng liền trở thành tiên. Thần thưa:

– Phiền Ngài đã đến đây, lại không có gì cúng dường trọng hậu, chỉ có chút lòng thành, mong Ngài đừng trách.

Tăng đáp:

– Thật hổ thẹn với đàn việt, nói không thể hết. Công đức thọ trì kinh này dùng để trang nghiêm Pháp thân.

Thế rồi, hai người từ biệt nhau. Tăng bay lên hư không, trở về chỗ cũ, ngồi kiết-già giữa không trung, từ xa nói với người bạn đồng tu:

– Tôi nhờ thần lực thọ trì kinh Hoa Nghiêm, nên được thuốc tiên. Nay người và tiên vị trí khác nhau, không thể ở chung; thời gian chung sống trước đây, có gì không phải, xin hãy hoan hỷ. Đời sau, chúng ta sẽ gặp nhau trước Đức Thế Tôn.

Nói xong, Tăng bay lên cao, khuất dần rồi mất hẳn. Quyển kinh vị Tăng thường tụng cũng đi theo, không biết ở đâu.

Bấy giờ, có thiền sư Ngũ Chúng tên Đạo Thọ, là người đức hạnh cao trong chốn Thiền môn, được hàng Nghĩa học tôn kính, đã trình bày chi tiết về câu chuyện này.

7.5- Thích Đàm Nghĩa:

Sư người Tinh Châu, sống vào đời Tùy (581-618), xuất gia từ thuở nhỏ, ở chùa Thập Lực, nghiêm trì giới luật và thay chúng làm những việc nặng nhọc. Sư tu hạnh đầu-đà, thường ở trên núi Ngũ Đài, nguyện nương nơi bồ-tát Văn-thù sách tấn tu học Phật pháp. Hằng ngày, Sư tụng 2 bộ kinh Pháp Hoa và một quyển kinh Hoa Nghiêm. Tu nhân như thế trải qua nhiều năm.

Sau đó, Sư cùng với đệ tử là Đàm Huấn đi qua các đài, lễ lạy cúng dường. Nhân đến Nam đài, Sư thấy một vị Tỳ-kheo-ni, không rõ họ tên, mặc áo vải, ăn rau rừng, dung mạo thanh nhã; đến nơi ở của vị này, thì thấy trống trãi, không có nhà cửa, chỉ thấy một tòa ngồi, bốn phía đều đóng cọc bằng gỗ, bện cỏ làm chiếu, kết trúc làm tòa, và ngồi kiết-già ở đó. Sư bèn đến hỏi:

– Sư tu theo pháp môn nào?

Thưa:

– Chỉ tụng kinh Hoa Nghiêm.

Sư liền xin được nghe. Tỳ-kheo-ni thưa:

– Tôi và Đại đức, tăng ni khác biệt. Hơn nữa, trời đã gần tối, Đại đức không nên ở đây, thỉnh Ngài đến phía Nam hang này, nghỉ lại trong một thất đá.

Sư đang do dự chưa đi, Tỳ-kheo-ni liền đứng dậy để tránh đi. Sư nói:

– Vì muốn nghe kinh Hoa Nghiêm, nên tôi chần chừ chưa muốn đi.

Tỳ-kheo-ni thưa:

– Cứ đến nơi ấy nghỉ, vẫn nghe kinh được!

Sư bèn đến thất đá kia cách chỗ vị Ni khoảng 5-6 dặm, đốt hương cúng dường từ xa, liền nghe vị Ni tụng kinh Hoa Nghiêm, âm thanh rõ ràng, giống như ở bên cạnh. Khi vị Ni mới tụng quyển 1, từ xa Sư thấy luồng ánh sáng phóng ra từ miệng vị Ni; sắp đến quyển 2, ánh sáng kia lan rộng ra; từ quyển 3 trở đi, ánh sáng tỏa khắp hang núi giống như ban ngày. Từ xa Sư thấy hình dáng vị Ni giống như đang ở trước mặt. Đến canh 5, mới tụng xong quyển 4 và 5, lại tụng tiếp quyển 6, thì ánh sáng kia dần dần thu lại. Kinh vừa hết, ánh sáng cũng mất hẳn.

Sáng ra, Sư và các đệ tử mang hương hoa đến cúng dường, phát nguyện rộng lớn, đảnh lễ từ biệt rồi trở về. Thời gian sau, Sư cùng các đệ tử trở lại tìm vị Ni ấy, nhưng không biết ở đâu. Sau Sư cùng với đệ tử là Đàm Huấn đến chùa Thái Nguyên tại Kinh đô kể lại việc này cho pháp sư Hiền Thủ nghe.

7.6- Luật sư Uyển ở chùa Diên Hưng, tại Kinh đô:

Sư có giới đức tinh nghiêm, hành trì khổ hạnh.

Vào khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-649), một hôm, trên đường đến Bá Kiều, vì trời sắp tối, nên Sư nghỉ nhờ nơi một quán trọ. Chốc lát, có một vị tăng dung nghi khác lạ, y phục thô xấu cùng đến đó, chủ quán xếp đặt ở phòng khác. Vị tăng bảo chủ quán đem rượu thịt đến ăn uống thỏa thích. Sư vốn giới hạnh tinh nghiêm, thấy vậy bỗng khởi tâm khinh thường. Vị tăng ăn xong, dùng nước tro đậu súc miệng, vào phòng đóng cửa lại, rồi tụng kinh Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, trong chốc lát đã xong một quyển. Bấy giờ, Sư cảm thấy hổ thẹn, vội thúc liễm thân tâm, lắng nghe tiếng tụng kinh, chưa đến canh 5 thì đã xong quyển 6. Sư vô cùng hối hận, tự trách, buồn bã rơi lệ, vào phòng đảnh lễ sám hối vị tăng. Nhân đó, vị tăng nói lời từ biệt, mà không cho biết họ tên, cũng không biết đi đâu.

7.7- Cư sĩ Phàn Huyền Trí:

Cư sĩ là người Kinh Châu, thuở nhỏ tâm hạnh đã khác tục, phát nguyện học đạo. Năm 16 tuổi, cư sĩ bỏ nhà đến phía Nam Kinh đô, đảnh lễ thần tăng là thiền sư Đỗ Thuận tu tập các hạnh thù thắng. Thiền sư bảo đọc tụng kinh Hoa Nghiêm, đồng thời khuyên y cứ kinh này mà tu hạnh Phổ Hiền.

Cư sĩ rất tin kính pháp sư Chỉnh, nên vào chùa Chí Tướng ở núi Chung Nam, ôn luyện kinh Hoa Nghiêm, thông thạo trọn bộ. Sau đó, mỗi lần tụng kinh, trong miệng luôn có xá-lợi, tổng cộng có hơn mấy trăm hạt, cư sĩ thường mang theo để cúng dường cho mọi người. Các danh sơn thắng địa, không nơi nào cư sĩ không đến.

Sau đó, nhân khi đến ở tại làng Xích Sa – Phường Châu, cách thôn ấy 3 dặm về phía Bắc có một ngọn núi, trong đó có một động đá là trú xứ của những người học đạo. Cư sĩ ở lại nơi đây hơn 20 năm, ban ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, ban đêm tu tập Thiền quán, ung dung siêu thoát suốt năm như thế. Những khi cư sĩ tụng kinh, thường có các loài chim muông tụ tập, im lặng nghe kinh. Từ đó, các loài thú dữ như hổ, sói… cũng được thuần phục.

Có lần, cư sĩ bị người ác lén xô xuống vực sâu trăm nhận[156], nhưng không bị tổn thương gì.

Năm Vĩnh Thuần thứ 1 (682), người ta thấy trong khám thờ có luồng ánh sáng, cho là kỳ lạ nên đến xem, thì thấy cư sĩ đã mất từ lâu. Họ cùng đưa nhục thân cư sĩ ra ngoài thì ánh sáng liền mất. Họ hỏa táng thi thể và xây tháp tôn thờ. Lúc đó cư sĩ hơn 70 tuổi.

7.8- Sa-di Bát-nhã Di-già-bạc ở nước Vu-điền:

Sa-di là người có giới hạnh, lấy việc tụng kinh Hoa Nghiêm làm thường khóa. Trải qua bao năm, có nhiều điềm cảm ứng linh dị.

Một hôm, bỗng có 2 người đến chỗ Sa-di, lễ bái thưa hỏi, rồi chắp tay đứng qua một bên. Ngạc nhiên về hình dáng kỳ lạ của họ, Sa-di hỏi:

– Hai vị từ đâu đến?

Họ bèn chỉ tay lên trời, đáp:

– Đệ tử ở trên kia.

Nói rồi, họ dẫn Sa-di đến chỗ vắng, nói nhỏ:

– Chư thiên sai đệ tử đến thỉnh Pháp sư.

Nghe nói vậy, Sa-di rất bàng hoàng kinh sợ. Hai vị trời nói:

– Mong Ngài khởi lòng từ bi, chớ có lo sợ. Xin Ngài nhắm mắt lại.

Sa-di miễn cưỡng nghe theo, và được hai vị này đưa lên cõi trời. Đến nơi, Sa-di thấy lầu điện nguy nga, tráng lệ vô cùng. Bấy giờ, Thiên chủ quỳ thưa:

– Nay chư Thiên chiến đấu với A-tu-la[157], nhiều lần bị bại. Nay thỉnh Pháp sư tụng kinh Hoa Nghiêm dẫn binh chúng cõi trời, mong nhờ pháp lực mà Thiên chúng của tôi đánh thắng A-tu-la.

Theo lời cầu thỉnh, Sa-di ngồi trên xe báu, cầm tràng phan cõi trời, trì kinh Hoa Nghiêm vi diệu, dẫn binh chúng cõi trời tấn công. Quân A-tu-la vừa thấy, tự nhiên tan rã, rút lui. Chư Thiên vui mừng, nói với nhau:

– Nay Pháp sư mong cầu những gì, chúng ta sẽ đáp ứng cho Ngài.

Sa-di đáp:

– Tôi chỉ mong đạt quả Vô thượng Bồ-đề[158], chứ không mong cầu gì khác.

Chư thiên từ chối thưa:

– Sở nguyện rộng lớn của Pháp sư thật ngoài khả năng của chúng tôi. Chưa biết Pháp sư còn mong cầu điều gì khác chăng?

Sa-di đáp:

– Ngoài việc ấy ra, tôi không mong cầu gì cả.

Sau một thời gian ngắn, chư Thiên đưa Sa-di về chỗ cũ. Tất cả y phục đều được ướp hương trời, xông lên ngào ngạt, trọn đời không dứt. Vài năm sau, một hôm, Sa-di nói:

– Ta được sanh về cõi Phật thanh tịnh.

Nói xong, Sa-di nằm nghiêng bên phải, không bệnh mà thị tịch, nhằm ngày mồng 4 tháng 2 năm Vĩnh Xương thứ 1 (689).

Ba mươi lăm năm sau, Nhân-đà-la-ba-nhã, Tam tạng pháp sư nước Vu-điền ở Ngụy Quốc Đông tự tại Kinh đô kể lại việc này cho sa-môn Hiền Thủ nghe.

7.9- Một người họ Vương ở Kinh đô:

Vào năm Văn Minh thứ 1 (684), một người họ Vương ở tại Kinh đô, vốn không có giới hạnh, lại chưa từng tu thiện. Một hôm, ông bị bệnh mà chết giấc. Thần hồn của ông ta bị hai người dẫn đến trước cửa địa ngục. Gặp một vị tăng, hai người kia nói:

– Đây là bồ-tát Địa Tạng.

Bồ-tát liền dạy ông ta học thuộc bài kệ:

Nếu người nào muốn biết

Tất cả Phật ba đời

Phải nên quán như vầy

Tâm tạo các Như Lai.

Sau khi trao bài kệ, Bồ-tát bảo:

– Học thuộc bài kệ này sẽ thoát khỏi địa ngục.

Nghe nói vậy, ông ta học thuộc bài kệ, rồi vào gặp vua Diêm-la. Vua Diêm-la hỏi:

– Ngươi có công đức gì?

Đáp:

– Chỉ thọ trì một bài kệ 4 câu.

Vừa dứt lời, ông ta đọc bài kệ trên. Vua Diêm-la thả ông ta ra. Lúc ông ta đọc bài kệ, âm thanh vang đến đâu thì người thọ khổ đều được giải thoát.

Ba ngày sau, ông ta sống lại, ghi nhớ bài kệ này và kể lại sự việc cho các Sa-môn nghe. Sau khi tra cứu, biết được bài kệ này thuộc phẩm “Dạ-ma Thiên Cung Vô Lượng Chư Bồ-tát Vân Tập Thuyết Pháp” trong kinh Hoa Nghiêm quyển 12. Về sau, người họ Vương kể lại việc này cho pháp sư Tăng Định ở chùa Không Quán nghe.

7.10- Tỳ-kheo-ni Vô Lượng:

Tỳ-kheo-ni họ Mẫn, người Trường An. Tổ tiên nhiều đời ăn chay, tu thiện, sớm chiều tụng kinh không ngừng. Có lần, người mẹ họ Triệu mộng thấy một vị tăng Ấn Độ cầm 2 quả vàng trao cho bà và bảo: “Ta cho ngươi hạt giống tốt, nên giữ gìn cẩn thận”. Nhân đó, bà thọ thai và sanh ra Vô Lượng.

Thuở nhỏ, Vô Lượng có tâm thiện trời ban và đã thích xuất gia. Năm 11 tuổi, người chị bảo học thuộc các kinh như Bát-nhã, Quan Âm…, nhưng Vô Lượng hầu như không hiểu. Vô Lượng vô cùng hổ thẹn, sau đó chuyển qua thọ trì kinh Hoa Nghiêm. Vừa xem kinh văn, Vô Lượng cảm thấy như đã học từ trước, nên mỗi ngày học thuộc 5 tờ để tự sách tấn mình. Chưa đầy 3 tháng, Vô Lượng đã thuộc lòng 2 quyển. Sau do cố gắng quá sức, tâm lực suy yếu, Vô Lượng phát bệnh, phải ngưng tụng kinh nhiều năm. Vô lượng rất hối hận, bèn đến trước Phật đốt hương lập nguyện: Nguyện trọn đời trì kinh Hoa Nghiêm, tu đạo Bồ-tát. Nhân đó, Vô Lượng lành bệnh. Điều mong cầu đã thành tựu, từ đó, Vô Lượng tụng kinh không biết mỏi mệt. Năm 18 tuổi, Vô lượng thuộc làu trọn bộ Hoa Nghiêm, ôn tập nhiều năm lại càng tinh tấn.

Đến năm Vĩnh Thuần thứ 2 (683), vua ban chiếu cho độ người xuất gia. Gia đình Vô Lượng cả thảy 5 người đều xuất gia. Vô Lượng ở chùa Đạo Đức, em trai là Huệ Tung ở chùa Từ Bi, mới 14 tuổi đã đọc thuộc bộ kinh Niết-bàn. Nghiệm lại điềm mộng 2 quả vàng trước đây, chẳng phải là hai người này ư? Ba người còn lại, mỗi người đọc tụng các kinh khác nhau, có hơn mấy trăm tờ. Đạo tục đều lấy làm lạ, cho là việc hiếm có.

Sau khi Vô Lượng xuất gia, ý chí càng kiên cố, cứ 3 ngày tụng một bộ Hoa Nghiêm, và lấy đây làm thường khóa. Sau khi thọ giới Cụ túc, Vô Lượng tu khổ hạnh càng thêm nghiêm mật, không mặc y phục bằng tơ lụa, chỉ toàn vải thô xấu, không nhận lợi dưỡng trong tăng chúng, không dùng thức ăn do tăng nấu, sáu thời[159] lễ sám, ba nghiệp[160] thanh tịnh, lại bản tánh ôn hòa, có lòng từ ái. Mỗi khi thấy người nghèo khổ, bệnh tật, Ni sư thường khởi tâm thương xót. Những bạn đồng tu đều khen: “Tuy là người nữ, nhưng bậc trượng phu cũng khó sánh kịp”.

7.11- Chuyện chim Nhạn tụng kinh Hoa Nghiêm:

Tam tạng Nhật Chiếu người Trung Ấn Độ kể rằng: Có lần ta đến nước Nam Ấn Độ, trụ tại chùa Quật-vưu-già (Trung Hoa dịch là Nhạn). Nhân thấy chư tăng trong chùa ấy đều trì kinh Hoa Nghiêm, ta hỏi:

– Vì sao ngôi chùa này mang tên của một loài chim?

Chư tăng đáp:

– Xưa có vị Tỳ-kheo thường tụng kinh Hoa Nghiêm để làm phước nghiệp, nhưng lại phạm trai (ăn mặn). Sau khi mạng chung, vị ấy thác sanh làm một con chim Nhạn ở Nam Hải, thân cao đến 3 trượng, biết nói tiếng người và tụng kinh không ngừng.

Bấy giờ, có một vị cư sĩ vượt biển tìm của báu, bỗng một luồng gió dữ thổi đến làm chìm thuyền. Lúc ấy, cư sĩ chỉ bám được miếng ván, trôi đến một đảo hoang, y phục và lương thực đều cạn kiệt, lòng vô cùng lo lắng. Bỗng nghe trên cây có tiếng tụng kinh, cư sĩ liền đến đó thì thấy một con chim Nhạn đang tụng kinh Hoa Nghiêm. Cư sĩ kinh ngạc giây lát, rồi khen ngợi rằng:

– Tụng hay, tụng hay!

Chim Nhạn nghe khen, liền bay xuống nói với Cư sĩ:

– Ông có thể vì ta xây chùa được không?

Cư sĩ trả lời:

– Thân mạng ta đây còn chưa cứu được, làm sao có thể dựng chùa cho ngươi?

Chim Nhạn nói:

– Nếu ông làm được thì ta sẽ phụ giúp của báu và đưa ông về chỗ cũ.

Cư sĩ trả lời:

– Như vậy thì tốt lắm.

Chim Nhạn liền mang cư sĩ trên lưng, bay đến núi báu. Cư sĩ là người giỏi phân định của báu nên chọn rất nhiều châu báu quý giá, cùng để lên lưng Nhạn. Chim Nhạn bay lên không trung vượt biển, đưa cư sĩ đến nước Thiên Trúc. Đến bờ, chim Nhạn hạ cánh xuống và nói:

– Mong ông vì tôi mà dựng chùa, và lấy tên tôi để đặt hiệu chùa.

Cư sĩ cảm kính ân sâu, bùi ngùi từ biệt. Thế rồi, cư sĩ trình bày sự việc và dâng tất cả của báu lên vua. Vua bèn phong thực ấp 500 hộ để xây dựng chùa, đồng thời đặt tên là Nhạn.

TRUYỆN KÝ KINH HOA NGHIÊM

8- CHUYỂN ĐỘC (Những vị xem đọc kinh Hoa Nghiêm):

8.1- Thích Pháp Niệm:

Sư họ Vương, dòng họ thuộc bộ tộc Mậu ở Thái Nguyên. Năm 30 tuổi, Sư xuất gia, nhưng tính cao ngạo, thích du phương, sống buông thả theo thói quen, khiến mọi người đều xem thường.

Lần nọ, Sư mộng thấy mình đọa xuống địa ngục, chịu muôn vàn đau khổ. Tỉnh dậy, Sư ăn năn hối cải, nhưng chưa biết nơi quy hướng. Gặp lúc các sa-môn như Trí Cự…, tụng trì kinh Hoa Nghiêm, nhiều lần thầm có cảm ứng, nên Sư chuyên tâm xem đọc kinh này, không kể ngày đêm. Mỗi lần cầm quyển kinh thì nước mắt tuôn trào, ba năm như thế.

Sau đó, bỗng nhiên lông mày rụng hết, ghẻ nhọt nổi khắp thân, nhưng lòng Sư vẫn tràn đầy niềm vui, an nhiên nhận lãnh quả báo hiện đời. Sư lại mở hội đại bố thí để đáp đền công ơn các vị thần, lại càng siêng năng đọc tụng. Ba năm sau, bệnh ghẻ dần dần khỏi hẳn. Từ đó, Sư khuyến hóa mọi người y cứ kinh này mà sám hối lỗi lầm, thì trong 10 nhà đã hết 9 nhà thực hành theo.

Sau, Sư thị tịch tại trụ xứ, thọ 68 tuổi.

8.2- Thích Phổ An:

Sư họ Quách, người Kinh Dương, Kinh Triệu. Thuở nhỏ, Sư lễ thiền sư Viên cầu xuất gia. Sau khi vào đạo, Sư giữ vững tiết tháo, xả bỏ việc đời, tính tình nhu hòa, nhẫn nại, không gây oán. Sư thường thay chúng làm các việc nặng nhọc, nhận lãnh những điều khó khổ mà lòng vẫn vui vẻ, lại còn sợ không có việc để làm.

Khi lớn tuổi, Sư tham học nơi pháp sư Ái. Thời gian sau, Sư đã tinh thông Tam tạng[161], nhưng thường tu tập theo kinh Hoa Nghiêm, đọc tụng suy gẫm, và lấy kinh này làm mục đích tu hành.

Đến khi nhà Chu hủy diệt Phật pháp, Sư ẩn cư nơi rừng sâu tại Tây Kì ở hang Tiện Tử, núi Chung Nam. Sư sống nơi rừng sâu, thoát ngoài trần thế, đức hạnh trong sạch như suối, tiết tháo vững chắc như đá, và hành tung của Sư cũng như dấu chim, bóng cá.

Về sau, Sư mời pháp sư Tĩnh Uyên về ở chung nơi rừng vắng, chọn lấy yếu chỉ sâu kín, thể nhận được lý vi diệu, lại hành trì khổ hạnh, xả thân cho muôn vật. Có lúc bày thân nơi cỏ rậm cho các loài ruồi muỗi đến đốt, máu chảy khắp thân, nhưng Sư không hề sợ hãi. Có khi nằm như thây chết để thí thân cho loài hổ sói, mong chúng được sống mà mình xả thân để hợp bản nguyện, nhưng chúng đến ngửi mà không ăn; do đó, trong lòng luôn bất an, hận rằng chẳng tròn tâm nguyện.

Gặp lúc đất nước loạn lạc, đạo pháp mịt mờ, lệnh nước lại nghiêm ngặt, không cho tăng ni trốn thoát. Bấy giờ, hơn 30 vị tăng danh đức ở Kinh đô lánh nạn tại Chung Nam, nhưng chưa có nơi an ổn. Sư bèn mời tất cả các vị này đến ở yên tại một nơi sâu kín, chủ yếu ở các vùng bờ bãi, riêng mình thì lộ diện đi khất thực mà không sợ bị bắt giết. Cho nên, thức ăn và y phục cung cấp cho chúng tăng đều đầy đủ, việc tu hành cũng không ngưng trệ. “Thời loạn mới biết kẻ sĩ” đúng là Sư đó ư?

Lại có lệnh hễ ai bắt được một vị tăng sẽ được thưởng 10 xấp lụa. Có người bằng lòng đi tìm và muốn bắt Sư. Sư an ủi họ: “Xem ông là người nghèo khổ, ta xin giao mạng sống cho ông để ông được thưởng”. Thế là, cả hai cùng vào Kinh đô. Bấy giờ, vua bảo người kia: “Phép của nước ta nghiêm cấm đạo nhân ở trong nhân gian, ngươi lại không cho ở trong núi; nếu vậy thì họ sống nơi nào? Trẫm thấy vị Đạo nhân này thần thái chí khí phi thường, không mong cầu được sống, nên thả ông ta vào núi, cũng không cần tra xét”.

Sau này, nhiều lần bị bắt nhưng Sư cũng được thả như trước.

Lúc đó, pháp sư Ái đang lánh nạn tại một nhà giàu có tên là Đỗ Ánh ở Nghĩa Cốc. Ông đào một cái hang để giấu Pháp sư. Sau khi được thả về, nghe tin này, Sư đến thăm Pháp sư. Pháp sư nói:

– An Công thần thái chí khí hơn người, không sợ phép cấm nghiêm ngặt, có lẽ khó ai sánh kịp.

Sư thưa:

– Nay tôi được thoát nạn là nhờ năng lực trì kinh Hoa Nghiêm. Tất cả sở nguyện được thành tựu cũng đều nhờ năng lực này.

Nhân đó, Sư thỉnh pháp sư Ái về núi, tự mình lo liệu mọi thứ. Bấy giờ, người khắp nơi rầm rộ kéo về. Sư cùng pháp sư Ái mở rộng trụ xứ. Điều này được ghi đầy đủ trong Biệt truyện.

Đầu đời Tùy Văn Đế (Dương Kiên, 581-604), Phật giáo lại hưng thịnh, vua cho tìm khắp các vị tăng hiện còn và y theo phép xưa mà định đặt sắp xếp. Lúc ấy, hơn 30 vị ở hang Tiện Tử vâng chiếu xuất gia trở lại và ở tại Quan tự[162]. Tuy Sư rất vui với việc Phật pháp phục hưng, nhưng không chạy theo danh lợi, vẫn sống chốn núi rừng.

Khi ấy, bên khe nước giữa 2 hang Tí Ngọ và Báo Lâm, có vị cư sĩ đào một cái hang, làm am thất mời Sư về ở. Nơi này, vốn có một tảng đá lớn nằm ngay bên trên, sợ rơi xuống làm sụp am thất, nên Sư muốn dời tảng đá đi nơi khác. Sư nghĩ: “Xin dời tảng đá đi nơi khác, đừng để hư hoại thất này”. Bỗng nhiên, tảng đá lăn đi nơi khác, khiến ai nấy đều khen là lạ. Sư bảo: “Đó là nhờ năng lực của kinh Hoa Nghiêm”.

Bên trái khe Thạch Bích phía Đông của am, có Tố đầu-đà là người hung dữ nhất xóm làng, quậy phá cùng khắp, ngầm ghét Sư, nên toan tính giết hại. Ông ta cùng với ba người bạn, cầm cung, mang kiếm đến sát hại. Khi ông vừa giương cung lên bắn thì mũi tên không rời khỏi dây, cung thì dính chặt nơi tay, mắt trợn ngược, lưỡi cứng đơ, cứ đứng thừ ra suốt đêm, chỉ biết kêu la mà thôi. Nghe vậy, người đi đường loan truyền, xa gần đều tụ tập. Bấy giờ, người trong làng đến chí thành đảnh lễ, sám hối. Sư bảo: “Tôi hoàn toàn không biết, chắc là do thần lực của kinh Hoa Nghiêm. Nếu muốn khỏi nạn, chỉ cần bảo ông ấy sám hối!” Tố đầu-đà liền làm theo lời dạy, mới thoát khỏi.

Lại ở thôn Ngụy phía Tây của am, có ông Trương Huy sống bằng nghề trộm cướp. Đêm nọ, ông ta vào thất của Sư, lén lấy bình dầu cúng Phật khoảng 5 lít, rồi vác trên lưng đi ra. Vừa ra đến cửa, bỗng ông ta thấy đầu óc mờ mịt, như bị trói chặt, không thể cử động. Thấy vậy, họ hàng, làng xóm đều đến tạ lỗi. Sư bảo: “Tôi không biết gì, có lẽ là do thần lực của kinh Hoa Nghiêm. Hãy bảo ông ta sám hối, trả lại bình dầu”. Huy làm đúng theo lời dạy, mới thoát khỏi.

Lại có một hôm, ông Trương Khanh ngụ tại phía Nam của am, đến trộm tiền của Sư, giấu vào tay áo. Về đến nhà, ông ta lấy ra không được, lại bị cấm khẩu. Thấy vậy, thân tộc, hàng xóm dẫn đến Sư, theo kinh Hoa Nghiêm mà sám hối, ông ta mới thoát nạn.

Tại thôn Trình Quách, có ông Trình Huy Hòa rất kính tin Tam bảo, thường đến chỗ Sư để nghe pháp yếu. Có lần, ông ta bị bệnh nặng, chết đã 2 đêm, người ta bó thây, định đưa vào quan tài. Bấy giờ, trên đường trở về từ huyện Hộ, Sư đến chùa Đức Hạnh ở phía Tây Nam, cách thôn ấy 5 dặm về phía Đông. Từ xa, Sư gọi:

– Trình Huy Hòa, sao không ra đón ta?

Sư gọi nhiều lần như thế, những người làm ruộng thưa:

– Ông Hòa đã chết lâu rồi! Làm sao ra nghinh đón!

Sư bảo:

– Nói bậy, ta không tin!

Lát sau, Sư đến thôn ấy, lớn tiếng gọi, ông Hòa liền cử động. Thấy thế, người thân đứng bên cạnh cắt đứt dây. Sư bước vào nhà, lại gọi to lần nữa, ông Hòa liền ngồi dậy, chầm chậm bò đến Sư. Sư bảo người nhà dẹp bỏ quan tài và những đồ tẩm liệm; đồng thời, đặt tượng Phật lên cái sọt tre lật úp, rồi bảo ông Hòa nhiễu quanh. Thế là ông Hòa bình phục như xưa, sống thêm khoảng 20 năm. Sau đó, ông ta lại mắc bệnh, đến đảnh lễ cầu cứu. Sư bảo:

– Ông ấy đi đâu thì mặc, ta không cần biết!

Sư vừa dứt lời, ông ta liền mạng chung.

Từ đó, Sư được nhiều người biết đến, xin theo học đạo rất đông. Sư mở phước hội[163], thường có nhiều điềm cảm ứng.

Lại nữa, tại thôn Bạch phía Bắc ao Cô Minh, có một bà lão bị bệnh nằm liệt giường, câm cả trăm ngày, nên ra dấu cho con là muốn gặp Sư. Con hiểu ý mẹ, thỉnh Sư về nhà. Vừa trông thấy Sư, người mẹ bất giác bước xuống đảnh lễ, thưa hỏi, tới lui giống như ngày thường. Ngay đó, bà liền khỏi bệnh.

Bấy giờ, danh tiếng Sư càng vang xa, xóm làng tụ tập, trỗi nhạc, rao khắp thôn xóm, muốn mở đại hội bố thí.

Tại thôn nọ, gia đình ông Bạch Di Sanh vô cùng nghèo khó, lại có 4 người con gái. Người vợ chỉ được một tấm vải thô quấn quanh người, các người con gái thì không mảnh vải che thân. Riêng người con cả tên là Hoa Nghiêm, tuổi đã 20, có được 2 thước vải thô, định đem cúng dường. Lúc đó, Sư dẫn những người trong thôn, lần lượt đến nhà cô ta, nhưng xót thương cho cảnh nghèo khổ, mọi người đi ngang mà không vào nhà. Cô ta suy nghĩ: “Do nghèo khổ, nên ta không dự hội được. Nay lại không làm thiện, đời sau nghèo khổ gấp bội phần”.

Nghĩ thế xong, đi xin đồ vật khắp nơi, nhưng không ai cho cả, cô ta ngữa mặt lên trời than khóc. Bấy giờ, thấy một nắm rơm dùng để bít lỗ trống trong nhà, cô kéo lấy, giũ ra thì được hơn 10 hạt lúa, rồi bóc thành gạo. Cô đem hơn 10 hạt gạo này cùng với mảnh vải trước đây, vui vẻ đến phước hội; nhưng vì thân không y phục, nên phải chờ đến đêm tối, cô mới rón rén đi đến chỗ cúng dường. Đến nơi, từ xa, cô ném mảnh vải vào trong đống đồ bố thí, riêng 10 hạt gạo xin dâng để nấu cơm. Ngay đó, cô phát nguyện: “Nghiệp khốn cùng của con là do gieo trồng từ nhiều đời trước. Nghèo cùng mà hành bố thí là để mong cầu quả báo đời sau. Nay đem 10 hạt gạo này bỏ vào nồi, với tâm chí thành, nguyện cho con thoát cảnh nghèo khổ. Nếu cơm nấu xong biến thành màu vàng thì đúng như lời nguyện. Nếu không cảm ứng thì thân này biết làm sao?” Phát nguyện xong, cô gạt lệ trở về.

Thế là cả một nồi cơm 5 thạch[164] đều biến thành màu vàng. Đại chúng thấy thế vô cùng kinh ngạc, nhưng không rõ lý do. Họ tìm hỏi khắp nơi, Sư bảo: “Đó là do nguyện lực của con gái nhà Bạch Di Sanh”.

Lúc đó, trong phước hội thu được 10 hộc[165] lúa, liền đem trợ giúp cho cô. Về sau, Sư đem việc này trình lên vua, vua cho phép độ Hoa Nghiêm xuất gia, vào chùa trì kinh Hoa Nghiêm cho đến trọn đời.

Tuy Sư ở ẩn, nhưng thường cứu người giúp vật. Mỗi năm, vào mùa Xuân và Thu, xóm làng đều có cúng tế, sanh vật bị giết quá nhiều, Sư đi khắp nơi để chuộc các con vật, đồng thời khuyến hóa dân chúng thực hành tín nghĩa, đạo đức, làm cho 9/10 hội cúng tế trong thôn không sát sanh, hại vật.

Lần nọ, trong thôn bên cạnh thất của Sư, người dân bắt 3 con heo, định mổ thịt. Nghe tin này, Sư đến chuộc lại. Người dân sợ không giết được, nên ra giá 10.000 lượng. Sư bảo: “Bần đạo hiện có 3.000 lượng, có chịu bán không?”

Mọi người không đồng ý, lại còn phẫn nộ. Bỗng có một đứa bé quấn tấm da dê, đi đến tế đàn giúp Sư mua heo. Thấy cảnh tranh cãi, đứa bé xin rượu, vừa ăn uống vừa nhảy múa, phát ra ánh sáng rực rỡ xoay chuyển quanh thân, khiến những người tại tế đàn đều lóa mắt. Phút chốc, đứa bé biến mất, nhưng không rõ đi đâu. Sau đó, Sư cầm dao cắt thịt mình, rồi bảo: “Người và vật cũng đều là thịt. Nhưng heo ăn những thứ nhơ uế, mà các ông lại ăn thịt nó, còn con người ăn cơm, lẽ nào không cao quý hơn sao?”

Nghe Sư nói vậy, họ đồng loạt thả heo. Sau khi được cứu thoát, heo nhiễu quanh Sư 3 vòng, mũi miệng chạm vào Sư để tỏ ý vui mừng cảm tạ. Vì vậy, cho đến nay, trong vòng 50 dặm phía Tây Nam Kinh đô, các loài heo gà đều không bị giết để cúng tế. Những chuyện Sư hành từ khuyến thiện có cảm ứng đại loại đều như thế.

Sư tính vốn thành tín, ưa đọc kinh Hoa Nghiêm. Suốt đời chỉ một bát ba y, trải bao năm tháng lại càng thêm tinh tấn.

Vào năm Khai Hoàng thứ 8 (588), Tùy Văn đế nhiều lần ban sắc mời Sư vào Kinh đô để dạy cho Hoàng thái tử[166]. Khi ấy, Công chúa trưởng xây dựng chùa Tĩnh Pháp và thỉnh Sư về trụ trì. Tuy mang danh ở chốn kinh thành, nhưng Sư vẫn thường sống nơi vùng rừng núi.

Vào ngày 5 tháng 11 năm Đại Nghiệp thứ 5 (609), Sư viên tịch tại chùa Tĩnh Pháp, thọ 80 tuổi, di hài được an táng tại núi Chung Nam, sau xây tháp tôn thờ bên cạnh chùa Chí Tướng.

8.3- Thích Pháp An:

Sư họ Bành, người Thuần Cô, An Định, thuở nhỏ xuất gia ở tinh xá Cửu Lũng trên núi Thái Bạch. Sư chọn pháp Thiền làm sự nghiệp, trọn đời chỉ mặc vải thô xấu, ăn uống đạm bạc.

Vào khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581-600), Sư đến Giang Đô[167] yết kiến Tấn Vương[168]. Vương vừa thấy như đã quen từ lâu, bèn mời Sư trụ tại đạo tràng Huệ Nhật và thường thỉnh đi chung mỗi khi tuần du.

Một hôm, vua đến Thái Sơn, gặp lúc không có nước, Sư lấy dao chọc vào tảng đá, nước bỗng tuôn ra. Vua khen ngợi và hỏi:

– Thần lực gì vậy?

Sư đáp:

– Thần lực của Hoàng thượng!

Sư lại cùng vua vào hang, gặp một vị tăng mặc y phục thô xấu, cưỡi lừa trắng đi đến. Vua hỏi:

– Ai vậy?

Sư đáp:

– Lãng Công[169].

Sau đó, cả hai đến chùa Thần Thông, vào giảng đường thì thấy một vị thần dáng vẻ rất uy nghiêm, đang tựa vào miệng chim hạc nhìn xuống mọi người. Vua lại hỏi. Sư đáp:

– Thần núi Thái Bạch theo Hoàng thượng đó.

Người đương thời cho rằng, vị thần này ở đây đã 300 năm, ngủ không cần gối, đầu trườn thẳng ra ngoài giường, nước dãi chảy có khi gần một đấu mà chẳng biết vì sao.

Về sau, Tùy Dạng Đế (Dương Quảng, 604-617) càng trọng Sư hơn. Uy đức của Sư át cả Vương Công, ai gặp cũng đều tôn kính, tăng tục đi đường kính Sư như thần.

Có lần, vua đi chiêm bái các Thánh tích ở những nơi nổi tiếng, như núi Ngũ Đài…, đồng thời mời các vị ẩn dật ra giúp vua trị nước. Bấy giờ, tại đạo tràng Huệ Nhật có hơn 2000 tăng chúng tu học mà tứ sự luôn đầy đủ, đều nhờ đức hạnh của Sư vậy.

Vua lại đến Đông Đô[170], lập đạo tràng Bảo Dương, đặc biệt thỉnh Sư về đây hoằng pháp. Sư luôn đọc tụng kinh Hoa Nghiêm trải qua nhiều năm tháng. Có khi Sư nói: “Cảnh giới Phổ Hiền thường hiện trước mắt ta”.

Lần nọ, Sư vào hang đá sâu hơn trăm dặm trong núi Cửu Lũng để khắc kinh Hoa Nghiêm. Vì thế, hang đá này được gọi là Hoa Nghiêm đường.

Vào năm Đại Nghiệp thứ 11 (615), Sư không bệnh mà tịch, thọ 98 tuổi. Vua ra lệnh đưa kim quan của Sư về núi Thái Bạch, ngày nay mộ tháp vẫn còn. Tăng tục kính nhớ Sư, bèn lập tượng để cầu phước. Còn nơi Sư khắc kinh thì vách núi cheo leo hiểm trở; gần đây, người biết vì cố chấp mà không đi, kẻ muốn đi thì lại không biết đường.

8.4- Thích Giải Thoát:

Sư họ Hình, người huyện Ngũ Đài thuộc Đại Quận, xuất gia năm 7 tuổi, có chí nguyện cao xa. Ban đầu, Sư theo học định và xả nơi thiền sư Huệ Siêu[171] ở núi Bão Phúc, phía Tây Giới Sơn. Thiền sư Huệ Siêu đặc biệt có tài biết nhìn người, nhận ra Sư sẽ trở thành bậc pháp khí, nên bảo với chúng rằng: “Sự thể nhận Thiền học của Giải Thoát rất sâu, các ông không thể sánh kịp, không nên sai Thoát lao dịch việc Tăng như những người tầm thường khác”.

Không bao lâu, Sư tỏ ngộ chỗ uyên áo, hiểu thấu đến tận cùng. Năm 18 tuổi, Sư học hỏi khắp các tông, tham vấn nhiều bậc thạc đức, nghe được điều mới, hiểu thấu nghĩa xưa. Sau khi đăng tòa thọ giới Cụ túc, Sư lại chuyên trì Luật tạng. Chẳng bao lâu, Sư trở về nơi ở cũ, lập tinh xá Phật Quang trên núi Phật Quang ở phía Tây Nam Ngũ Đài sơn để tu tập. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, còn mỗi lần đọc kinh Hoa Nghiêm thì liên tục ngày đêm. Về sau, căn cứ vào kinh Hoa Nghiêm, Sư thực tập phép quán hào quang của Phật.

Sư cũng thường đến chùa Cổ Đại Phù ở phía Bắc vườn hoa thuộc Đông Nam Trung Đài, cầu gặp bồ-tát Văn-thù, và đã được nhiều lần diện kiến. Lần đầu, Sư vừa lễ bái thì Bồ-tát biến mất; lần sau, mới được nghe Bồ-tát dạy rằng: “Nay ông đâu cần lễ bái ta, hãy tự hối ắt sẽ tỏ ngộ”.

Thế rồi, Sư cung kính vâng theo lời dạy của Bồ-tát, rồi tự tìm cầu mà ngộ pháp Vô sanh, được pháp hỷ. Tuy nhiên, Sư cảm khái đây chỉ là lợi ích riêng, mà lòng lại muốn độ khắp chúng sanh, nên chí thành cầu Đức Phật chứng minh, bèn cảm được chư Phật ứng hiện nói kệ rằng:

Pháp của Phật sâu xa vắng lặng

Nhiều kiếp tu hành nay mới đặng.

Nếu người mở được pháp nhãn ấy

Hết thảy chư Phật đều ngợi khen.

Nghe bài kệ này, Sư hỏi lên không trung: “Pháp sâu xa vắng lặng này há có thể giáo hóa người được ư?” Khi ấy, các Đức Phật liền ẩn mất, chỉ còn có tiếng vọng lại:

Trí phương tiện là đèn

Chiếu thấy cảnh giới tâm

Pháp cứu cánh chân thật

Đều không thể thấy được.

Lần nọ, Đô đốc của châu này thỉnh Sư truyền giới pháp. Khi pháp sự kết thúc, Sư trở về Đông, Đô đốc và Tăng chúng tiễn đến cửa thành Đông thì mặt trời sắp lặn. Buồn vì không được đốt hương cúng dường các Đức Phật, Sư áy náy và hổ thẹn, chợt nghe trên thành có tiếng bảo rằng:

Chắp tay kết thành hoa

Thân làm vật cúng dường.

Tâm thiện, hương chân thật

Tán thán, khói trầm bay.

Chư Phật nghe hương ấy

Tức thời đến độ ngay.

Các ngươi nên tinh tấn

Chớ nghi ngờ mảy may.

Bấy giờ, chỉ mình Sư nghe được tiếng nói này, nên càng dõng mãnh hơn. Từ đó về sau, Sư chứng nhập ngày càng sâu, các bậc đức hạnh vui mừng cùng Sư kết làm quyến thuộc. Thế là, gần xa kéo đến thỉnh giáo rất đông, mỗi ngày có đến 300 người, ngay cả những bậc cao đức cũng tụ về. Vì mong pháp sự thành tựu tốt đẹp, nên Sư nhắc nhở bốn chúng rằng: “Mỗi người nên ăn ngày một bữa”. Phòng xá chật hẹp, nhiều người phải ngồi ngoài trời, nên Sư sai chúng đem bát, ghế xếp đặt khắp cả núi rừng. Sư ân cần khuyến dụ, tùy việc mà chỉ bảo, mong sửa đổi chỗ ngăn trệ cho mọi người, hoàn toàn không có phương pháp chuẩn mực nào. Cho nên, những người vân du không ai xem thường đạo tràng của Sư. Song, gần 50 năm, Sư chưa từng rời chùa, người học Thiền thành tựu có đến hơn 800. Ngoài ra, số người hâm mộ đạo phong của Sư mà tới lui còn hơn gấp bội.

Tôi thường đọc Truyện ký, gặp nhiều bậc cổ đức, như Nam Nhạc Huệ Tư[172] đạt được Thập tín, hiển giai vị cao, Thiên Thai Trí Giả[173] chứng đắc Ngũ phẩm đệ tử vị[174], tỏ công nghiệp rực rỡ; nhưng việc giáo hóa đồ chúng thành tài, thì chưa vị nào có đồ chúng đông như vậy. Nếu chẳng phải là bậc có hạnh vị cao, phương tiện hiện thân đồng với phàm phu, thì hẳn là nhờ sự gia trì của bồ-tát Văn-thù giúp hoằng dương Phật pháp vậy!

Lại nữa, tại núi Đại Hắc ở Đông Nam Thanh Lương, phía Tây Hằng Nhạc, có một Thanh tín nữ[175] bị mù, thường ngồi thiền một mình trong núi. Vào 6 ngày trai[176] mỗi tháng, các tăng tục tại Hằng Châu thường dâng hương hoa, món ngon đến cúng dường bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Một hôm, đúng giờ Ngọ, chợt nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang giáo hóa trong núi Phật Quang tại Ngũ Đài, cô nên đến đó, ắt được ngộ đạo”. Mọi người cũng đều nghe và rất vui mừng. Vâng theo lời dạy, cô gái đến núi Phật Quang. Hơn 200 dặm đường đi hiểm trở, cô gái mù dò đường đi trước trong khi không có người dẫn dắt. Thấy vậy, Sư kinh hãi bật dậy, ngay đó liền ngộ được thâm lý. Do đó, có thể nói rằng: “Sư là bậc Đại thánh, phương tiện giáng phàm”.

Sư sắp thị tịch, chư tăng biết được, nên đến từ biệt Sư suốt đêm. Đến khuya, có một con hổ đến dòng suối Sư thường uống nước, gào rống bi ai rất lâu. Đến giờ Ngọ hôm sau, Sư cạo râu tóc như thường, rồi lễ bái Tăng chúng. Sau đó, Sư trở về thiền phòng, ngồi ngay thẳng mà tịch, hưởng thọ 81 tuổi, nhằm năm Trinh Quán thứ 16 (642). Lúc ấy, Tăng tục buồn thương như cha mẹ mất, liền tạc khám thờ nhục thân Sư ngay trong chùa, quay mặt về hướng Tây, mở 2 cánh cửa hẹp. Cho đến nay, người đến chiêm lễ thấy Sư vẫn như còn sống.

Lúc sinh thời, Sư từng nói với những người trong thân tộc rằng: “Sau khi ta viên tịch, có một vị Đại nhân làm rạng danh ta, hiệu Thanh Lương phục hưng từ đây”.

Đến tháng 9 năm Lân Đức thứ 1 (664), Đường Cao Tông ban chiếu cho sa-môn Hội Di ở chùa Hội Xương, cùng với Quả Nghị, Chân Vạn Phước dâng ca-sa lên nhục thân Sư; đồng thời, đến cúng dường Thánh tích tại các ngọn núi danh tiếng. Từ đó, kẻ sĩ gần xa có lòng quy hướng đều nhớ mãi chốn này. Nghiệm lại thật đúng với lời Sư đã nói.

8.5- Thích Minh Diệu:

Sư xuất gia từ thuở nhỏ, kết giao với thiền sư Giải Thoát và đối xử bằng tình sư hữu[177]. Sư tánh tình nhu thuận, khiêm tốn, chưa từng lộ vẻ buồn vui. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, và siêng năng đọc kinh Hoa Nghiêm, về già lại càng thêm tinh tấn. Sư cao 7 thước, có giọng nói trầm bổng, nương thiền sư Giải Thoát học phép quán hào quang của Phật.

Có lần, Sư tuyệt thực theo thiền sư Giải Thoát đến đảnh lễ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở chùa Đại Phù. Đến phía Bắc vườn hoa, Sư chợt gặp một vị Đại đức dung nghi và y phục khác thường, từ hang Vương tử thiêu thân bước ra. Vị ấy từ từ đi thẳng đến phía Nam Phật đường, phía Đông chùa Đại Phù, rồi như muốn cùng đi về hướng Đông. Vừa mừng vừa lo, Sư định bước về phía trước chí thành đảnh lễ, nhưng chưa đi được vài thước, thì vị Đại đức ấy biến mất. Sư bùi ngùi hồi lâu, lòng càng tinh tấn.

Ngày sa-môn Hội Di ở chùa Hội Xương, đất Tây Kinh vâng lệnh vua đến núi Ngũ Đài, Sư đích thân đảnh lễ. Lúc đó, Sư thọ đến 106 tuổi mà thần thái vẫn uy nghiêm. Sau không biết Sư viên tịch ở đâu.

8.6- Sa-môn Thích-ca-di-đa-la:

Thích-ca-di-đa-la (Hán dịch là Năng Hữu), người Trường Quý, nước Sư Tử, đã chứng quả A-na-hàm.

Vào năm Lân Đức thứ 1 (664), Sư đến Trung Hoa, vua Đường Cao Tông (Lý Trị, 650-683) rất kính trọng, nên thỉnh Sư ở chung với chân nhân[178] Trường Niên và Đại tướng quân Hoài Hóa, tại cung Bồng Lai trong cung cấm. Được hơn một năm, Sư xin vua đi chiêm bái những Thánh tích khắp các danh sơn, rồi tìm đến đảnh lễ bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở núi Thanh Lương, Đại Châu.

Có lần, đến chùa Thái Nguyên tại Kinh đô, gặp lúc chư Tăng sắp tụng kinh Hoa Nghiêm, Sư hỏi người phiên dịch:

– Đây là kinh gì?

Thưa:

– Là kinh Hoa Nghiêm.

Sư tỏ vẻ cung kính và nói:

– Không ngờ nơi đây cũng có kinh này!

Nói xong, Sư chắp tay hoan hỷ, tán thán hồi lâu và nói:

– Công đức của kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm này thật khó nghĩ bàn. Tương truyền: Ở Tây Vức có người rửa tay trước khi đọc kinh này, trùng kiến nhờ thấm ướt nước rửa tay mà sau khi chết được sanh lên trời; huống gì thọ trì đọc tụng kinh này, thì phước báo càng không thể nghĩ bàn.

8.7- Cư sĩ Cao Nghĩa Thành:

Cư sĩ người huyện Lâm Phần, Tấn Châu, xuất thân trong một gia đình có truyền thống kính tin Tam bảo, được xóm làng kính trọng.

Vào tháng 2 năm Hàm Hanh thứ 4 (673), Cư sĩ thỉnh kinh Hoa Nghiêm ở chùa Hiền Kiếp tại huyện Hồng Động về thờ trong ngôi tháp nhỏ tại nhà. Đúng giờ Ngọ hôm tụng kinh, bỗng có ánh sáng lạ như mặt trời chiếu vào gương, soi rực rỡ trên vách, hồi lâu mới tắt. Khi tụng biến thứ hai, ánh sáng lại chiếu soi khắp bốn vách của Phật đường. Do đó, mọi người xa gần cùng đến xem và đều khen ngợi, kính ngưỡng.

8.8- Thích Hoằng Bảo:

Sư người Thái Khâu, huyện Trâu Bình, Truy Châu. Năm 18 tuổi, Sư xuất gia ở chùa Hoằng Chân.

Một hôm, nơi cổ của Sư bỗng nổi một cục bướu nhỏ, sau lớn dần bằng cái chén lớn, cứu chữa không khỏi, làm cho đầu chỉ ngước lên mà không thể cúi xuống, nên gió táp mưa sa đều chảy hết vào mũi miệng, uống ăn hay súc rửa gian khổ muôn phần. Không chỉ những người xung quanh khinh bỉ mà Sư cũng buồn tủi cho thân phận của mình.

Năm 35 tuổi, tình cờ gặp một vị tăng dạy đọc kinh Hoa Nghiêm để tiêu trừ nghiệp chướng đời trước, Sư bèn chuyên tâm chí thành, ngày đêm tha thiết, sám hối sáu thời. Nguyện tụng 100 biến, nhưng vừa hơn 40 biến, thì Sư nằm mộng thấy có người cầm dao bén cắt bỏ cục bướu. Vài ngày sau, nơi cục bướu nổi một mụt ghẻ lớn bằng trái táo. Sư lấy tay ấn nhẹ thì mủ chảy ra mấy chung, ngày ngày đều như thế, suốt 3 tháng liền. Từ đó, bướu ghẻ lành dần cho đến bình phục. Lúc ấy nhằm vào đầu năm Hàm Hanh thứ 2 (671).

Sư cùng các đệ tử dốc lòng truyền bá kinh luật. Vui mừng bởi được tái tạo trong chốn phù sinh và cảm niệm sự linh thông của Thánh lực, vui buồn lẫn lộn, Sư đổi hết tư tài lấy tiền chi phí, cung kính biên chép một bộ kinh Hoa Nghiêm, ngày đêm đọc tụng, thọ trì, khoảng vài năm mới hoàn thành tâm nguyện. Từ đó, mọi người gần xa đều phát tâm truyền bá kinh này.

8.9- Chuyện kinh Hoa Nghiêm phóng ánh sáng:

Vào năm Văn Minh thứ 1 (684), Tam tạng pháp sư Nhật Chiếu người Trung Ấn Độ phiên dịch kinh Hoa Nghiêm tại chùa Thái Nguyên (Ngụy Quốc Tây Tự) ở Kinh đô, Trung Quốc.

Một hôm, Sư kể rằng: Gần thành Chiêm-ba nước Nam Ấn Độ, có một ngôi chùa tên Tỳ-sắt-nô, các vị Tăng trụ nơi đây chuyên tu hạnh đầu-đà và học theo pháp Tiểu thừa. Bấy giờ, bỗng có vị pháp sư Đại thừa mang bộ Hoa Nghiêm đến. Các vị tăng Tiểu thừa không cung kính, nên vị pháp sư Đại thừa để bộ kinh lại, rồi không biết đi đâu. Vì tâm không kính tin, các vị tăng Tiểu thừa ném bộ kinh này xuống giếng. Sau đó, thường thấy một luồng ánh sáng đỏ rực từ trong giếng phóng ra bên ngoài, có lúc như ngọn lửa dữ, mọi người bèn vớt lên thì đúng là bộ Hoa Nghiêm. Tuy ngâm lâu ngày trong nước, nhưng bộ kinh không hề bị ướt. Vì vậy, các vị tăng Tiểu thừa mới tin bộ kinh này là lời Phật nói, nhưng vẫn cho là không bằng kinh Tiểu thừa, nên xếp dưới. Đến sáng hôm sau, lại thấy bộ kinh này nằm trên, các vị bèn la rầy mấy Chú tiểu:

– Chú nào tự ý dời kinh lên trên?

Thưa:

– Dạ, không ai động đến!

Các vị lại đem đặt xuống bên dưới, ngày mai bộ kinh cũng nằm lên trên như trước. Vài lần như thế, các vị tăng Tiểu thừa vô cùng kinh ngạc, mới biết kinh này hơn hẳn những kinh mình đã học. Thế là, các vị gieo mình xuống đất, khóc than kể lể, hồi tâm sám hối, cùng nhau thọ trì kinh này. Từ đó, kinh Hoa Nghiêm rất được thịnh hành tại nước này; đồng thời, các sư Tiểu thừa đều suy tôn, quy kính và vững tin kinh này.

Chú thích:

[146] Bản Hán là quyển 4.

[147] Tam Phụ: Tên đất. Đời Hán cho Kinh Triệu, Tả Bằng Dực, Hữu Phù Phong là Tam Phụ, tức vùng Trung bộ, tỉnh Thiểm Tây ngày nay.

[148] Ung châu: một trong 9 châu của Trung Quốc thời xưa, nay thuộc vùng Thiểm Tây, Cam Túc, Thanh Hải.

[149] Đấu: Cái chén lớn để uống rượu.

[150] Núi Thái Bạch: Còn gọi núi Thái Nhất, ở phía Đông Nam huyện Mi, tỉnh Thiểm Tây ngày nay.

[151] Tượng giáo: Đồng nghĩa Tượng hóa, sự giáo hóa vào thời Tượng pháp. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập V, trang 4986).

[152] Hạnh Phổ Hiền: Mười hạnh nguyện rộng lớn của bồ-tát Phổ Hiền: 1- Lễ kính chư Phật: Thường kính lễ tất cả Phật; 2- Xưng tán Như Lai: Thường xưng tụng công đức Như Lai; 3- Quảng tu cúng dường: Thường thờ phụng và cúng dường tất cả Phật; 4- Sám hối nghiệp chướng: Thường sám hối các nghiệp từ vô thỉ đến nay và tuân giữ tịnh giới; 5- Tùy hỉ công đức: Thường tùy hỉ công đức của tất cả Phật, Bồ-tát, cho đến 6 loài, 4 sanh…; 6- Thỉnh chuyển pháp luân: Thường lễ thỉnh tất cả Phật giảng nói giáo pháp; 7- Thỉnh Phật trụ thế: Thỉnh cầu Phật, Bồ-tát chớ nhập Niết-bàn mà trụ ở thế gian để nói pháp; 8- Thường tùy Phật học: Thường theo Phật Tì-lô-giá-na mà học giáo pháp; 9- Hằng thuận chúng sanh: Thuận theo sự khác biệt của các loài chúng sanh mà thực hiện các việc cúng dường; 10- Phổ giai hồi hướng: Hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh để nguyện thành tựu quả Phật.

Mười đại nguyện này tiêu biểu cho tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát, nên cũng gọi là Phổ Hiền nguyện hải. Vì Ngài có hạnh nguyện rộng lớn, nên được tôn xưng bồ-tát Đại Hạnh Phổ Hiền.

(Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập IV, trang 3716-3717, điều “Phổ Hiền và Phổ Hiền Bồ Tát”).

[153] Cõi Hiền Thủ: tức cõi Hoa Nghiêm. Đại sư Hiền Thủ Pháp Tạng là Tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm. Vì Ngài có công lớn trong việc làm hưng thịnh tông Hoa Nghiêm, nên về sau người ta gọi tông này là tông Hiền Thủ. (Theo Từ điển Phật học, trang 172).

[154] Đàn việt: Phiên âm tiếng Phạn, có nghĩa là người bố thí.

[155] Dược tinh: Tinh linh của cỏ thuốc.

[156] Nhận: Đơn vị đo chiều dài thời cổ Trung Hoa, bằng 8 hoặc 7 thước đời nhà Chu, khoảng 6, 48 m bây giờ.

[157] A-tu-la: Một loại quỷ thần hiếu chiến của Ấn Độ bị xem là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế-thích. Các kinh thường nêu ra 3 nhân sân, mạn, nghi làm chúng sanh sinh vào A-tu-la. Lại có kinh liệt kê ra 10 nguyên nhân sinh vào loài A-tu-la: 1- Thân làm việc ác nhỏ, 2- Miệng nói lời ác nhỏ, 3- Ý nghĩ điều ác nhỏ, 4- Khởi tâm kiêu mạn, 5- Khởi tâm ngã mạn, 6- Khởi tâm tăng thượng mạn, 7- Khởi tâm đại mạn, 8- Khởi tâm tà mạn, 9- Khởi tâm mạn mạn, 10- Lui sụt các căn lành. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập I, trang 56).

[158] Vô thượng Bồ-đề: Quả vị Phật. Vì quả vị Bồ-đề của Phật là cứu cánh vô thượng, nên gọi là Vô thượng Bồ-đề. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập VII, trang 6119).

[159] Sáu thời: Sáu thời trong một ngày đêm: sáng sớm, giữa ngày, cuối ngày (3 thời ban ngày); đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm (3 thời ban đêm). (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập III, trang 2581).

[160] Ba nghiệp: Ba nghiệp thân, khẩu, ý. Thân nghiệp có 2 loại thiện và ác khác nhau; nếu sát sanh, trộm cắp, tà hạnh thì thuộc về thân ác nghiệp; nếu không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm thì thuộc về thân thiện nghiệp. Khẩu nghiệp có 2 loại thiện và ác khác nhau; nếu vọng ngữ, ly gián ngữ, ác ngữ, ỷ ngữ thì thuộc về khẩu ác nghiệp; nếu không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ thì thuộc về khẩu thiện nghiệp. Ý nghiệp cũng có 2 loại thiện và ác khác nhau; nếu tham dục, sân khuể, tà kiến thì thuộc về ý ác nghiệp; nếu không tham, không sân, không tà kiến thì thuộc về ý thiện nghiệp. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập V, trang 4140).

[161] Tam tạng: Ba tạng Kinh, Luật và Luận tạng. Kinh tạng: Kinh điển do Phật nói, trên thì khế hợp với lý của chư Phật, dưới thì khế hợp với căn cơ của chúng sanh; các yếu nghĩa trong giáo thuyết của Đức Phật đều thuộc về loại Kinh bộ. Luật tạng: Luật nghi do Phật đặt ra có công năng sửa trị những điều xấu ác của chúng sanh, điều phục tâm tính của chúng sanh; các quy định về sinh hoạt của giáo đoàn do Phật đặt ra đều thuộc về loại Luật bộ. Luận tạng: Luận nghị về ý nghĩa của kinh Phật, đơn giản những chỗ súc tích thành sáng sủa để quyết trạch tính tướng các pháp; để phát triển giáo thuyết của Đức Phật xa hơn, nên người đời sau dùng trí tuệ thù thắng để giải thích, luận nghị giáo thuyết ấy bằng hình thức tổ chức hóa, hệ thống hóa. Luận tạng còn gọi là Luận bộ. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập V, trang 4168-4169).

[162] Quan tự: Tự viện được ban bổng lộc và chịu sự quản lí của triều đình. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập IV, trang 3793).

[163] Phước hội: Pháp hội để mọi người gieo trồng phước đức. Nghĩa là đem y phục, thức ăn và các vật dụng khác dâng cúng chư Phật, Bồ-tát, các bậc Đại đức hoặc ban phát cho người bần cùng.

[164] Thạch: Đơn vị đo trọng lượng thời xưa, bằng 120 cân, tương đương với 120 pao thời nay.

[165] Hộc: Đồ đong lường thời xưa, bằng 10 đấu, tức 10 thăng (ta quen đọc là thưng).

[166] Hoàng thái tử: Con trai trưởng của vua, hoặc người con trai của vua được phong thái tử để nối ngôi.(Theo Hán Việt Tân Từ điển, trang 273).

[167] Giang Đô: Giang Tô, Dương Châu, Trung Quốc.

[168] Tấn Vương: Tùy Dương Kiên, hiệu là Văn Đế, vị vua sáng lập nhà Tùy của Trung Quốc. Ông làm vua từ năm 581 đến 604. (Theo Từ điển Trung Việt, 1993, trang 1636).

[169] Lãng Công: Vị tăng đời Tần, từng kết dao với ẩn sĩ Trương Dung. Sư cất tinh xá, xây thạch thất trong núi Côn Luân ở hang Kim Dư thuộc phía Tây Bắc Thái Sơn, có hơn 200 người nghe tiếng tăm Sư bèn đến ở. Phù Kiên, Mộ Dung Đức, Hiếu Vũ Đế đời Tấn đều kính ngưỡng đức hạnh Sư, Phù Kiên muốn thỉnh Sư nhưng Sư một mực từ chối. Về sau, Mộ Dung Đức nhân danh là vua Đông Tề cấp cho Sư thuế tô của 2 huyện, tiếng tăm Sư càng vang xa. Người đương thời gọi hang Kim Dư là Lãng Công cốc, gọi chùa là Lãng Công Cốc Sơn Tự. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập VI, trang 5168, điều “Thần Thông Tự”).

[170] Đông Đô: Tức Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay của Trung Quốc.

[171] Huệ Siêu (546-622): Cao tăng Trung Quốc, sống vào cuối đời Tùy đầu đời Đường, họ Thẩm, người Kiến Khương, Đơn Dương (Giang Ninh, Ninh Tô). Lúc đầu, Sư chuyên tụng kinh Pháp Hoa, sau học pháp Nhất thừa tam quán của tông Thiên Thai nơi thiền sư Huệ Tư, cùng tu Huệ quán nhất thừa với các sư Trí Giả, Mệnh Công một thời gian lâu rồi vào ẩn tu ở Tung Sơn. Sau Sư được thái tử Dương Dũng kính lễ đãi ngộ, thỉnh Sư ra trụ tại chùa Đình Thủy, rồi chùa Ngộ Chân, chùa Thiền Định. Về sau, Sư xin trở về núi ẩn cư, nhưng người các nơi vẫn đến tham học. Đến khi nhà Đường lên ngôi thì danh tiếng của Sư càng vang dội. Sư thị tịch vào năm 622, hưởng thọ 77 tuổi. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập II, trang 1994).

[172] Huệ Tư (515-577): Còn gọi Nam Nhạc Tôn giả, Tư Đại Hoà thượng, Tư Thiền sư. Cao tăng Trung Quốc, sống vào thời Nam Bắc triều, người Vũ Tân, thượng Thái, Hà Nam, họ Lý, là Tổ thứ 2 tông Thiên Thai, Trung Quốc (có thuyết cho là Tổ thứ 3)… Một hôm, Sư mộng thấy bồ-tát Phổ Hiền lấy tay xoa đầu, từ đó trên đảnh nổi lên nhục kế. Năm 15 tuổi, Sư xuất gia, tham yết thiền sư Huệ Văn ở Hà Nam, được truyền pháp Quán tâm. Sư là người đầu tiên chủ trương đưa ra thuyết nói về thời suy vi của Phật pháp, tức là thời kỳ mạt pháp, cho nên xác lập tín ngưỡng Phật A-di-đà và Phật Di-lặc. Sư chú trọng đến việc thực hành Thiền pháp và cả việc nghiên cứu giáo lý, danh tiếng vang lừng, được vua Tuyên Đế kính ngưỡng. Sư truyền pháp cho ngài Trí Khải, là một môn hạ kiệt xuất trong hàng đệ tử. Sư viên tịch năm 577, thọ 63 tuổi. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập II, trang 1999-2000).

[173] Trí Giả (538-597): Còn gọi Trí Khải, Thiên Thai Đại sư, là Tổ thứ tư của tông Thiên Thai, Trung Quốc, nhưng được xem là người thực sự sáng lập tông phái này. Đại sư sống vào đời Tùy, người ở Hoa Dung, thuộc Kinh Châu, tỉnh Hồ Nam. Năm 18 tuổi, Sư lễ ngài Pháp Tự chùa Quả Nguyện cầu xuất gia. Không bao lâu, Sư học Luật tạng nơi ngài Huệ Khoáng, thông hiểu cả Phương Đẳng. Năm 560 đời Trần, Sư đến núi Đại Tô ở Giang Châu tham yết ngài Huệ Tư. Ngài Huệ Tư chỉ dạy Phổ Hiền đạo tràng, giảng nói 4 hạnh an lạc, Sư liền trụ lại đó. Một hôm, tụng đến phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa, Sư hoát nhiên khai ngộ, sau đó thay ngài Huệ tư khai giảng, lại nhận lời phó chúc của Ngài vào Kim Lăng hoằng truyền Thiền pháp. Tại chùa Ngõa Quan, Sư khai diễn đề kinh Pháp Hoa, lập ra tông nghĩa mới, phán thích kinh giáo, đặt nền tảng cho Giáo quán tông Thiên Thai. Năm 591 đời Tùy, Tấn vương là Dương Quảng mấy phen thỉnh Sư trở về Đông. Vì lòng thành của Vương, Sư đến Dương Châu truyền giới Bồ-tát, Vương ban hiệu Trí Giả. Năm 576, Sư lui về núi Thiên Thai và từ đó phát sinh danh hiệu Thiên Thai tông. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập VII, trang 5783; Từ điển Phật học, trang 451).

[174] Ngũ phẩm đệ tử vị: Gọi tắt là Ngũ phẩm. Giai vị Ngoại phàm trước Thập Tín, là hành vị thứ nhất trong 8 hành vị của Viên giáo tông Thiên Thai, tương đương với vị Quán hành tức trong Lục tức vị. Vì giai vị này dùng 5 phẩm tu hành, chuyên tâm vào chính mình mà thực tiễn hành trì, nên gọi là Ngũ phẩm đệ tử vị. Năm phẩm là: 1- Phẩm Tùy hỷ: Nghe pháp thật tướng vi diệu mà trong tâm tin hiểu vui mừng; 2- Phẩm Độc tụng: Sau khi tin hiểu thì đọc tụng giảng thuyết pháp mầu; 3- Phẩm Thuyết pháp: Thuyết pháp để dẫn dắt người khác, lại do công đức này mà quán xét tự tâm để tu hành; 4- Phẩm Kiêm hành lục độ: Ngoài việc quán tâm còn tu thêm Lục độ như: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ; 5- Phẩm chính hạnh lục độ: Lúc công phu quán tâm đã thuần thục, liền thực hành hạnh hóa tha, sự lý đầy đủ, đến đây thì lấy việc thực hành Lục độ làm chính yếu. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập III, trang 2990-2991).

[175] Thanh tín nữ: Cư sĩ nữ.

[176] Sáu ngày trai: Sáu ngày trai giới thanh tịnh trong mỗi tháng: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tính theo lịch của Trung Quốc, tháng thiếu có thể đổi ngày 28 và 29).

[177] Sư hữu: Vừa là Thầy vừa là bạn, những người có thể thưa hỏi.

[178] Chân nhân: 1- Những người hiền đức ở thế gian hoặc những bậc chân tu trong đạo Phật. (Theo Từ điển Phật học Huệ Quang tập I, trang 868). 2- Từ ngữ mà Đạo gia tôn xưng những bậc chân tu đắc đạo, hoặc người tồn dưỡng bản tánh. (Theo Hán ngữ Đại Từ điển).

    Xem thêm:

  • Những Truyện Cảm Ứng Về Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Kinh Tạng
  • Truyền Tâm Pháp Yếu Của Thiền Sư Hoàng Bá - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Trọn bộ 4 tập) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 2 - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 01 – Kính Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 03 – Kính Tăng - Kinh Tạng
  • Truyện Các Vị Cao Tăng Triều Tiên - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Truyện Các Vị Tỳ Kheo Ni - Kinh Tạng
  • Truyện Pháp Sư Bà Tẩu Bàn Đậu - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Niệm Tụng Đà La Ni Nhứt Kế Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 04 – Kính Tháp - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 02 – Kính Pháp - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhập Pháp Giới Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Hoa Thủ - Kinh Tạng
  • Tổng Quan Kinh Điển Nam Truyền (Pali) - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng