1
2

Tịnh Từ Yếu Ngữ

Minh Nguyên Hiền Thuật

Bản Việt dịch của Thích Minh Thành

***

QUYỂN 1: LỜI TỰA

“Tịnh Từ” nghĩa là gì?

Là do tôi nghe lời dạy của Đại sư Văn Cốc để đặt tên am. Am đặt tên “Tịnh Từ”, nghĩa là niệm Phật, phóng sinh.

Niệm Phật, phóng sinh mong cầu việc gì? Mong cầu được trở về bản tâm vốn thanh tịnh, vốn từ bi của mình.

Bởi lẽ, bản tâm của chúng ta vốn thênh thang thường thanh tịnh, mà chúng sinh lại không rõ bản tánh ấy nên thường thấyï vật ngoài tâm. Do đó, mắt bị hình sắc làm ô nhiễm, tai bị âm thanh làm ô nhiễm, mũi bị mùi hương làm ô nhiễm, lưỡi bị vị làm ô nhiễm, thân bị sự xúc chạm làm ô nhiễm, ý bị pháp trần làm ô nhiễm, trôi nổi ở bên ngoài không thể trở về. Từ đó, sinh khởi nghiệp chướng, gây ra tội lỗi, mãi đắm chìm trong thế giới uế trược nhỏ hẹp không có ngày giải thoát.

Đức Phật xót thương chúng sinh, nên vì họ nói pháp bỏ “nhiễm” trở về “tịnh”. Vì căn cơ của chúng sinh không đồng nhau, nên giáo pháp cũng có nhiều khác biệt, nhưng quan trọng và dễ thực hành nhất vẫn là pháp môn niệm Phật.

Nhất tâm niệm Phật dụng chí không phân tán, sáu căn đều thâu nhiếp. Tịnh niệm tương tục thì mắt không bị hình sắc làm ô nhiễm, tai không bị âm thanh làm ô nhiễm, mũi không bị mùi hương làm ô nhiễm, lưỡi không bị vị làm ô nhiễm, thân không bị sự xúc chạm làm ô nhiễm, ý không bị pháp trần làm ô nhiễm.

Nếu làm được như vậy thì tuy đang sống ở trong cõi Ta-bà mà toàn thân đã ngồi nơi thế giới Liên Hoa. Vậy còn lo gì thân đời sau lại không thanh tịnh!

Tuy tu Niệm Phật Tam-muội nhưng phước đức không đầy đủ thì khó thành tựu quả lành, cần phải tu mọi việc lành để làm trợ nhân. Việc lành tuy rất nhiều, nhưng hạnh từ bi là đứng đầu; hạnh từ bi tuy nhiều, nhưng ngăn ngừa việc sát hại, thực hành phóng sinh là bậc nhất.

Bởi vì, điều yêu quý nhất của chúng sinh là sự sống, còn cái chết là điều chúng sinh đau khổ nhất. Cho nên, hễ có cùng một dòng máu đỏ thì tâm tánh đều như nhau. Chỉ vì tập quen với sự tàn nhẫn, rất khó thực hành lòng nhân từ đồng thể, nên mới thản nhiên giết hại mà không cảm thấy xót thương.

Lẽ nào tâm tánh lại vốn như thế hay sao?

Thế nên, đức Phật hết lời nhắc nhở, ban đầu răn việc sát sinh, khuyên bảo rộng rãi sự phóng sinh. Ban cho cái yêu quý nhất và cứu giúp nỗi đau khổ nhất của chúng sinh. Công đức ấy đối với muôn loài thật không sao tính kể!

Tại thành Kiến Châu, hoặc Tăng hoặc tục vâng theo lời Đại sư Văn Cốc dốc lòng niệm Phật, phóng sinh đã lâu. Nhưng mọi người còn ngại không thể mở rộng truyền xa nên mới bàn với tôi, tôi bèn đem những lời dạy chính yếu trong các sách Tịnh độ và giới sát chép lại thành quyển “Tịnh Từ Yếu Ngữ” này, giao cho họ khắc bản. Mong rằng lời nói giáo hóa về tâm thanh tịnh và lòng từ bi trải rộng đến vô cùng.

Ôi! Ý nghĩa của “Tịnh Từ” thật rộng lớn, đâu chỉ ở nơi việc niệm Phật, phóng sinh mà thôi.

Niệm Phật và phóng sinh có thể nói là “Tịnh Từ”, nhưng không thể cùng tận hết ý nghĩa của “Tịnh Từ”. Nói đến cùng thì thanh tịnh cùng cực, giác tánh tròn đầy, thành tựu đạo Vô Thượng, cũng không ra ngoài ý nghĩa của một chữ “Tịnh” này. Cứu độ khắp tất cả loài hữu tình, từ bi đến muôn kiếp cũng không ngoài ý nghĩa một chữ “Từ”.

Chư Bồ-tát lớn, trên mong cầu quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh, từ trước cho đến sau tất cả các kinh điển Đại thừa cũng đều muốn làm sáng tỏ điều này, đến nỗi sách chất đầy nhà. Nay lấy hai chữ “Tịnh Từ” khái quát trọn vẹn ý nghĩa không còn dư thừa.

Chớ nên cho rằng Đại sư Văn Cốc đặt tên này chỉ có ý ở nơi niệm Phật, phóng sinh mà thôi. Các vị hãy khéo thể hội ý này mà suy rộng ra mới thấy được trọn vẹn ý của Ngài.

Tuy vậy, vẫn còn một câu mà hai chữ “Tịnh Từ” không bao quát được. Tôi muốn vì mọi người nói rõ ra, nhưng ngặt nỗi lưỡi tôi quá ngắn. Các vị nên chất vấn nơi Đại sư!

Mùng 05 tháng 0 8 năm Giáp Tuất

Niên hiệu Sùng Trinh (1634)

Thích Nguyên Hiền kính ghi

QUYỂN THƯỢNG

Sa-môn Nguyên Hiền ở chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn trước tác

1. Nguồn gốc giáo lý Tịnh độ

Thuở xưa, đức Phật xuất hiện ở đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, nói ra rất nhiều giáo pháp để thích ứng với mọi căn cơ của chúng sinh, nhưng cũng chỉ để trừ bỏ tập nhiễm nhơ uế, trở lại tâm vốn thanh tịnh của mình mà thôi. Vì chúng sinh có căn cơ chẳng đồng nhau, nên giáo pháp cũng có nhiều loại sai khác. Nhưng, muốn tìm một pháp tu trì dễ dàng nhất, vào đạo ổn thỏa nhất, thành công mau chóng nhất, không gì bằng pháp môn Tịnh độ.

Tịnh độ là gì?

Trong hư không bao la rộng lớn có vô số cõi nước, có cõi Tịnh, cõi uế. Chúng sinh có tâm tịnh thì sinh về cõi Tịnh, có tâm uế thì sinh về cõi uế.

Nếu sinh về cõi uế thì nghiệp chướng mỗi ngày một sâu, khó thành tựu pháp lành; còn sinh về cõi Tịnh thì nghiệp chướng mỗi ngày một tiêu trừ, dễ thành tựu pháp lành. Thế nên, người học đạo cần phải chọn lựa con đường tu hành cho mình về cõi tịnh uế một cách cẩn thận. Ngay cả cõi Tịnh độ cũng còn có nhiều sai biệt, trong đó cõi thù thắng nhất là thế giới Cực Lạc Tây Phương.

Thế giới này do vô lượng nguyện lực, vô lượng công đức của Phật A-di-đà tạo nên. Vì vậy, công đức trang nghiêm vĩ đại của cõi này, những thế giới khác không sao sánh kịp.

Ở đây chỉ nói sơ lược về cõi nước đó, đại khái gồm có hai mươi thứ thù thắng:

1. Vàng ròng làm đất, bảy báu làm ao. Mạng lưới, hàng cây, lan can, lầu các đều do bảy loại báu làm thành.

2. Trong cõi nước không có nỗi khổ của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

3. Chúng sinh được sinh về đều hóa sinh từ hoa sen trong ao bảy báu.

4. Thân thể sắc vàng, đầy đủ ba mươi hai tướng hảo.

5. Nơi thân có ánh sáng che át cả mặt trời, mặt trăng.

6. Sống lâu vô lượng, mãi mãi không có nỗi khổ của già, bệnh, chết.

7. Y phục và thức ăn tùy ý tự nhiên hóa hiện.

8. Tận mắt thấy Phật, nghe thuyết Diệu pháp.

9. Cùng các bậc Thượng thiện nhân chung ở một nơi.

10. Không có lời nói dâm dục và nữ sắc

11. Không có hận thù đối nghịch.

12. Không có ma quân, ngoại đạo.

13. Không có hàng Nhị thừa, nếu có thì đều hồi tâm hướng về Đại thừa.

14. Gió thổi, nước reo, chim hót đều tuyên Diệu pháp.

15. Trăm ngàn Thiên nhạc ngày đêm thường tấu vang.

16. Thần thông đầy đủ.

17. Hay đến khắp thế giới trong mười phương cúng dường tất cả chư Phật chỉ trong thời gian một bữa ăn.

18. Chư Phật hộ niệm.

19. Vừa sinh về cõi nước kia liền vào bậc Bất thối chuyển.

20. Chỉ trong một đời được thành Phật.

Thế giới ấy có rất nhiều sự thù thắng, lợi ích như thế, cho nên chúng sinh cần phải có tâm cầu sinh về cõi nước ấy.

Người muốn cầu vãng sinh cõi nước Cực Lạc, chẳng phải do làm những việc lành khác mà được, chỉ cần chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì được vãng sinh. Tại sao? Vì do sức đại nguyện của đức Phật ấy.

Thuở xưa, trong lúc còn tu đạo Bồ-tát, đức Phật A-di-đà đã phát bốn mươi tám đại nguyện để độ tất cả chúng sinh. Trong những lời phát nguyện ấy có một lời nguyện như vầy: “Nếu có chúng sinh muốn sinh về cõi nước Tôi, xưng danh hiệu Tôi cho đến mười niệm. Nếu không được vãng sinh Tôi nguyện không ở ngôi Chánh Giác”.

Do lời nguyện sâu rộng này, nên chúng sinh chỉ cần chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật nhất tâm không loạn, thì liền được vãng sinh. Người ấy lúc lâm chung, Phật A-di-đà phóng ánh sáng lớn cùng với chư Thánh chúng đến trước người ấy, đưa tay tiếp dẫn. Chỉ trong thời gian khảy móng tay là đã vãng sinh về cõi kia, ở trong hoa sen tươi đẹp. Khi hoa nở, người ấy được thấy Phật và được nghe Phật nói nhiều loại giáo pháp vi diệu. Nghe rồi, người ấy liền chứng ngộ được “lý không sinh không diệt”, từ đó thẳng tiến tu hành đến khi thành Phật.

Những điều đã nói trên được dẫn chứng từ nơi kinh luận và lời dạy của chư Tổ, nhất định chẳng có giả dối, do đó phải nên có lòng tin sâu chắc.

Nhưng trong những lời nói đó đều có Sự và Lý. Người tu không nên nghiêng lệch hay bác bỏ bên nào cả.

* Sao gọi là Sự? Tức là tất cả sự tướng nơi Tịnh độ đã nêu trên.

* Sao gọi là Lý? Nghĩa là thấu rõ tất cả sự tướng đó chẳng có vật gì nằm ngoài bản tâm.

Tuy nói Tịnh độ tại tâm mà chẳng ngại có thế giới Cực Lạc, vì thế giới kia đều do chính nơi tâm mình hiện bày.

Tuy nói bản tánh Di-đà mà chẳng ngại có giáo chủ cõi Cực Lạc, bởi vì giáo chủ đó cũng chính từ nơi bản tánh mà thành tựu.

Tuy lặng lẽ vô sinh mà chẳng ngại rõ ràng có vãng sinh, là vì vãng sinh vốn chính là vô sinh.

Bậc cao minh phần nhiều ưa bàn về Lý, mà thường chê cười việc tu hành trên sự tướng.

Hàng Trung Hạ phần nhiều chấp vào việc tu hành trên sự tướng, mê mờ nơi Lý chân thật. Tất cả hoàn toàn đều chẳng biết không có Lý ngoài Sự, Sự chính ở ngay trong Lý. Chấp Lý bỏ Sự lại rơi vào tai họa “chấp Không”.

Chấp Sự mà không rõ Lý vẫn có lợi ích được vãng sinh. Như thế, lẽ nào lại ưa chuộng bàn suông về “Không” mà chịu tai họa thật sự hay sao!

2. Chánh tín niệm Phật

Tu pháp môn này ban đầu cần phải có chánh tín. Chư Phật, chư đại Bồ-tát trong ba đời, cho đến các bậc Tổ sư đều phải có lòng tin này trước tiên, rồi sau đó mới vào được đạo.

Nếu không có lòng tin này thì người tu sẽ do dự không quyết định, chỉ tin suông không chân thật.

Chẳng luận là người không tu tập hay có tu tập mà lúc tin lúc không, khi thực hành khi bỏ phế, không có năng lực mạnh mẽ, không có ý chí quyết liệt, thì làm sao có thể thành tựu được công đức hiếm có này?

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ của công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin hay vượt ra khỏi các đường ma. Lòng tin hay được vào trong Chánh định”.

Sao gọi là lòng tin? Nghĩa là tỏ ngộ nguồn chơn, tin sâu Thật tướng. Nếu chưa được như thế thì nên tin chắc lời Phật.

Kinh A-di-đà nói: “Chư Phật trong sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài khuyên bảo nên tin kinh này”. Bởi vì phàm phu chúng ta tâm thức mê muội thấp kém, bị ràng buộc nơi thói quen cạn hẹp mà chẳng biết được chỗ rộng lớn xa xôi, cảnh giới sâu kín nhiệm mầu, vừa thấy việc khác thường liền nghi ngờ, không dám tin. Phàm phu chúng ta chỉ nên tin theo lời Phật. Đức Phật từ lòng đại từ, đại bi, đại trí tuệ mà nói lời thành thật, hoàn toàn không giả dối. Lời Phật không tin thì lời ai mới đáng tin?

Việc tin lời Phật, gồm có hai phần:

1. Tin về Lý.

2. Tin về Sự.

* Tin về Lý: là tin tâm ta tức là Tịnh độ, tánh ta tức là Di-đà.

* Tin về Sự: là tin phương Tây quả thật có Tịnh độ, phương Tây quả thật có Phật Di-đà.

Tuy nói Lý riêng biệt, mà thật ra trong Lý đó đều có Sự, như biển cả hay hiện bóng vạn vật. Tuy chỉ nói về Sự, mà tất cả Sự đều nằm trong Lý, như bóng vạn vật chẳng rời biển cả.

Sự Lý tuy một, mà cũng là hai; đồng thời chẳng phải một cũng chẳng phải hai. Tin hiểu như thế gọi là chánh tín.

Nếu chỉ tin Lý mà không tin Sự hay tin Sự mà không tin Lý, như thế gọi là lòng tin tin nghiêng lệch không phải chánh tín. Người tu hành chưa được chánh tín cần phải hỏi rộng các bậc đi trước, nghiên cứu rộng rãi kinh luận thì mọi nghi ngờ tự nhiên tan biến, chánh tín tự nhiên hiện bày. Như thế mới có thể khởi đại nguyện, tự sách tấn, phát đại hạnh tiến thẳng đến giác ngộ, không đợi đời sau.

Có một số người tư chất cao siêu, vừa xem kinh luận có chút hiểu biết, liền bảo rằng tôi được chánh tín, nhưng rồi bị thói quen lôi kéo té nhào, chẳng thể chuyển dời một bước.

Chẳng biết đó chỉ là cái hiểu bên ngoài, không phải là chánh tín. Nếu biết rằng cọp hay vồ người, lẽ nào lại dám khinh thường chạm đến. Nếu hiểu được lông loài chim Chẩm có chất độc hại người thì lẽ nào dám nếm. Ngày nay, cam chịu tai họa Cọp vồ, Chẩm độc mà không biết hối hận, thì làm sao có lòng tin?

Nếu là bậc trượng phu thông đạt, xin từ đây trở về sau, nên buông bỏ cái nhìn sai lầm trước kia!

3. Chánh hạnh niệm Phật

Người tu Tịnh nghiệp khi đã đủ chánh tín thì nên tu chánh hạnh. Chánh hạnh nghĩa là gì? Chính là niệm Phật.

Pháp niệm Phật trong kinh nêu ra nhiều môn. Ngày xưa, các Sư phần nhiều chuộng hai môn Quán tưởng và Trì danh.

Nếu tâm thô thiển, hiểu biết nông cạn thì không thể thọ trì môn Quán tưởng. Chỉ có môn Trì danh là đơn giản dễ dàng, ba căn cơ Thượng, Trung, Hạ đều được lợi ích. Vì thế, mới khuyến khích mọi người nên thực hành pháp Trì danh. Kinh Di-đà nói: “Chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn…” chính là nói về pháp này.

Pháp Trì danh có Lý và có Sự.

Lý trì: là đem ngay bốn chữ “A-di-đà Phật” làm thoại đầu, giữ vững danh hiệu Phật trong suốt hai mươi bốn giờ. Chẳng dùng tâm chấp có để niệm, chẳng dùng tâm chấp không để niệm; cũng chẳng dùng tâm chẳng chấp cả hai bên để niệm. Chấm dứt bờ mé trước sau, một niệm không sinh, chẳng trải qua thứ bậc vượt lên địa vị Phật.

Sự trì: là chỉ chuyên tâm nắm chặt một câu A-di-đà Phật như dựa vào núi Tu-di, lay không động. Sáng sớm cũng niệm như thế, tối cũng niệm như thế, đi cũng niệm như thế, ngồi cũng niệm như thế, trong giao tiếp hằng ngày cũng niệm như thế, dù gặp cảnh thuận nghịch cũng niệm như thế. Tịnh niệm liên tục, tự nhiên tâm được khai ngộ, so với Lý trì không hề khác biệt.

Nếu tâm chưa được khai ngộ, lúc lâm chung nhất định cũng được vãng sinh vào hàng Thượng phẩm ở cõi Cực Lạc.

Nếu như sức mạnh chưa đủ, công phu chưa thuần, cần phải tùy sức mình tu tập, hoặc sớm tối lễ niệm, hoặc mỗi sáng mười niệm, tích lũy công đức, dần dần vun bồi quả lành. Điều cốt yếu là tín nguyện vững chắc, lúc lâm chung chắc chắn được vãng sinh, nhưng chỉ là phẩm vị tương đối thấp, thấy Phật trễ. Nhưng, cũng như người thi đậu tên đứng cuối bảng thì cũng đâu phải việc xấu.

4. Tu thêm những việc phước

Người tu Tịnh nghiệp chuyên niệm Phật A-di-đà, cần phải tu mọi việc phước để trợ giúp thêm. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Người muốn vãng sinh Cực Lạc phải tu ba việc phước: một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ bi không sát hại, tu mười việc lành. Hai là thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn người tu hành. Ba việc này là nhân chân chính, là nghiệp thanh tịnh của chư Phật ba đời”.

Có một đệ tử tu Tịnh nghiệp, hỏi Đại sư Từ Chiếu rằng:

– Đệ tử chuyên tu Niệm Phật Tam-muội. Vậy có thể thực hành thêm bố thí, trì giới, cúng dường làm phước hay chăng?

Ngài Từ Chiếu đáp:

– Ông chuyên niệm Phật A-di-đà, nếu không trì giới thì có tội hủy phạm; nếu không bố thí thì tăng thêm nghiệp tham lam keo kiệt; nếu không cúng dường Tam Bảo thì có nghiệp ngã mạn; nếu không cung kính tất cả thì có tội khinh thường người. Do đó, hủy phạm thì rơi vào địa ngục, xan tham keo kiệt rơi vào ngạ quỷ, ngã mạn thì thường ở trong đường ác, khinh thường người đời đời nghèo hèn. Người bị những nghiệp ác như thế che ngăn, mà muốn sinh về Tịnh độ, có được hay chăng? Cho nên Pháp sư Tăng Triệu nói: “Hữu vi tuy giả dối nhưng nếu bỏ thì khó thành tựu Phật đạo. Vô vi tuy chân thật nhưng nếu chấp vào thì trí tuệ không được tỏ sáng”.

Nay các ông tu Niệm Phật Tam-muội cầu sinh Tịnh độ, mau thành tựu quả vị Phật, nên lấy việc chuyên niệm Phật làm chánh hạnh và tu thêm mọi phước đức khác. Sớm tối thường siêng năng cúng dường Tam Bảo, lễ bái sám hối, bố thí, trì giới, làm trong sạch thân miệng ý và tu thêm các việc thanh tịnh. Tất cả căn lành tu hành được đều hướng về Tịnh độ, thành tựu công đức niệm Phật. Như thế, có thể gọi là “đi thuyền nước xuôi, lại thêm đôi chèo tốt”.

5. Chánh nguyện niêm Phật

Đại sư Từ Chiếu nói: “Có hạnh mà không nguyện, hạnh ấy ắt trơ trọi; có nguyện mà không hạnh thì chỉ nguyện suông. Nguyện hạnh trợ nhau mới lên được Bảo địa”.

Hiện nay, thường thấy người vì bệnh khổ mà phát tâm niệm Phật, hoặc vì đền đáp ân của người thân mà khởi niệm, hoặc vì gia đình bình an, hoặc vì tăng thêm tuổi thọ mà niệm Phật. Nguyện đã không chân chính thì chỉ chuốc lấy quả giả dối. Dù cho có tu tập cả đời, nhưng đều là dụng công phu sai lầm. Lúc mạng chung đâu thể được vãng sinh, vì khi sinh tiền họ đâu có ước nguyện. Vì thế cho nên, người niệm Phật phải phát nguyện chân chính.

Chánh nguyện là chẳng nguyện được hưởng phước báo nơi cõi trời người, chẳng nguyện được quả vị nhỏ hàng Nhị thừa, chẳng phải nguyện chỉ riêng ta được vãng sinh Tịnh độ, được chứng ngộ Bồ-đề, mà chính là nguyện cho tất cả chúng sinh đều được vãng sinh Tịnh độ, chứng ngộ Bồ-đề.

Nguyện này vừa phát khởi, liền có thể đầy đủ vô lượng công đức, có thể tiêu trừ vô lượng nghiệp nhơ, có thể phá nát vô lượng lưới ma, mãi mãi làm hạt giống chân thật để thành Phật. Đây chính là tâm Bồ-đề.

Người tu hành phải phát nguyện mỗi ngày như thế, mỗi giờ phát nguyện như thế. Nguyện lực vững chắc không thay đổi thì tất cả muôn việc lành đều trở thành hạnh vi diệu giác ngộ, làm chánh nhân cho Tịnh độ. Như vậy lo gì không được vãng sinh!

6. Chánh niệm lúc lâm chung

Tuy công phu Tịnh nghiệp được tích lũy hàng ngày, nhưng lúc lâm chung một niệm sau cùng rất quan trọng. Chỉ do một niệm này mà sinh vào cõi Tịnh hay uế, đi vào đường Thánh, nẻo phàm.

Thường thấy người niệm Phật, lúc bình thường đều nói cầu sinh Tịnh độ, nhưng đến khi lâm chung phần nhiều không có được chánh niệm. Hoặc tham sống sợ chết, quyến luyến túi da này; hoặc khó chịu nổi sự phân ly khi nhìn thấy vợ con than khóc; hoặc bị tài sản ràng buộc không buông bỏ được; hoặc do cảnh không thuận ôm hận mà chết; hoặc vì bị bệnh khổ bức bách đau đớn mà qua đời. Vì đã mất chánh niệm, nên đành phải theo luân hồi đọa lạc.

* Hoặc có người tự nghi ngờ mình cả đời nghiệp nặng, nên không có phần ở cõi Tây Phương.

* Hoặc có người tự nghi ngờ mình niệm Phật quá ít, nên không dám mong được vãng sinh Tây Phương.

* Hoặc có người tự nghi ngờ mình còn nợ nần chưa trả xong, tâm nguyện chưa tròn, tham sân chưa dứt khó mà vãng sinh Cực Lạc.

* Hoặc có người tự nghi ngờ mình tuy có niệm Phật, nhưng vẫn ngại Phật không đến rước.

Bốn việc này đều do họ tự phát sinh nghi ngờ làm chướng ngại mất chánh niệm.

* Hơn nữa, lại có người thường ngày niệm Phật siêng năng, bỗng bị bệnh khổ, nằm liệt trên giường đau đớn không chịu nổi. Đó là do nghiệp cũ sâu nặng của đời trước, đáng lẽ phải rơi vào đường ác, nhưng do sức niệm Phật nên chuyển nặng thành nhẹ, cần phải chịu đựng, càng thêm chuyên cần niệm Phật nhiều hơn, thì chắc chắn được vãng sinh. Nếu oán trách Phật pháp không linh nghiệm, lại sinh tâm thối lui phải rơi vào địa ngục.

* Hoặc có người bình thường tuy nói niệm Phật, nhưng lòng tham sống thật nặng nề. Một hôm bệnh khổ đến mình, liền tin tà sư ma thuật, giết hại chúng sinh, đốt giấy tiền vàng mã, cúng tế yêu quỷ trông mong ban phước cứu giúp. Do tâm tà này nên không được chư Phật tiếp nhận.

* Hoặc có người do bệnh khổ, nghe lời thấy thuốc bảo uống rượu ăn thịt, hoặc giết hại sinh mạng để làm thuốc. Như vậy đã làm mất căn lành, nên phải theo nghiệp xoay chuyển.

Ba trường hợp ấy đều do bệnh sinh khởi chướng ngại, làm mất chánh niệm.

Nay tôi khuyên người tu hành đến lúc này chỉ cần tin chắc kinh văn, giữ vững chánh niệm, buông bỏ tất cả, niệm Phật đến giây phút cuối cùng. Xem ba cõi là ngục tù, nhìn vợ con là oan gia, coi tài sản như xiềng xích, nhìn thân mình như túi da hôi thúi, như đầu sọ vỡ nát.

Nên dặn dò sắp đặt trước quyến thuộc trong nhà và khách thăm bệnh, đều dạy họ niệm Phật trợ giúp, không nên nói chuyện tạp, không nên nêu việc nhà, không nên than ngắn thở dài, thương khóc rơi lệ. Đợi đến khi thân không còn hơi ấm mới có thể thương khóc.

Nếu y theo pháp này, nhất định được vãng sinh. Dù cho người bình thường chưa từng niệm Phật, nhưng có thể y theo đây cũng đều được vãng sinh.

Than ôi! Chết là việc vô cùng hệ trọng, trong khoảnh khắc đã qua đời khác, một niệm sai lầm muôn kiếp chịu khổ. Thế nên, mọi người phải cẩn trọng! Phải cẩn trọng!

7. Sự khó và dễ của hai cõi

Bồ-tát Long Thọ nói: “Tu hành trong cõi Ngũ trược gọi là khó hành đạo, như người què đi trên đường hiểm trở, một ngày chẳng đi quá mấy dặm. Tu hành ở Tịnh độ gọi là dễ hành đạo, như kẻ phàm phu nương vào sức mạnh của Chuyển Luân Vương, trong một ngày đi khắp tứ thiên hạ”.

Nay đem mười điều khó ở cõi Ta-bà để so sánh với mười điều dễ ở Tịnh độ:

1. Ta-bà không thường gặp Phật. Phật Thích-ca đã diệt độ, tà pháp mạnh mẽ; Cực Lạc thì Phật thường chẳng diệt, hiện đang làm giáo chủ.

2. Ta-bà mạt pháp nhiễu nhương, có nhiều ngoại đạo, dù bàn Phật pháp nhưng đa số nghiêng lệch sai lầm; Cực Lạc thì Phật và Bồ-tát, nước, chim, cây rừng thường tuyên thuyết Diệu pháp.

3. Ta-bà bạn bè tà ác, mong cầu lợi dưỡng, làm mê lầm người tu hành đọa vào ba đường ác; Cực Lạc thì Quán Âm, Thế Chí làm bạn thù thắng, các bậc Thượng thiện nhân ở chung một nơi.

4. Ta-bà có các loài ma não loạn, phá hoại chánh pháp; Cực Lạc tuy có Thiên ma nhưng đều hộ trì chánh pháp, giúp người tu hành mau được thành tựu.

5. Ta-bà luân hồi trong sáu nẻo, như bánh xe xoay vòng không có ngày dừng nghỉ; Cực Lạc thì hoa sen hóa sinh, không còn luân chuyển trong đường sinh tử khổ đau.

6. Ta-bà qua lại ba cõi theo nghiệp chịu quả báo, tuy sinh lên cõi Trời nhưng khó tránh con đường ác; Cực Lạc thì danh từ của ba đường ác còn không nghe, huống chi có thật.

7. Ta-bà trần duyên ác trược, thường làm chướng ngại đối với việc xuất thế; Cực Lạc thì lầu vàng điện ngọc, áo đẹp cơm ngon đều làm phương tiện trợ giúp tu hành.

8. Ta-bà con người sống trăm năm nhưng phần nhiều chết yểu, thời gian mau chóng, đại đạo khó thành; Cực Lạc thì tuổi thọ của chúng sinh ngang bằng với Phật.

9. Ta-bà tu hành phải đoạn trừ Kiến hoặc, Tư hoặc mới có thể được Bất thối chuyển. Người mới tu chưa tránh khỏi sự thối chuyển đọa lạc; Cực Lạc thì chúng sinh khi sinh về đều vào Chánh định tụ mãi không còn thối chuyển.

10. Ta-bà người tu hành trải qua muôn kiếp khó thành, như các vị đồ đệ nghe pháp trong thời Phật Đại Thông, thối chuyển Đại thừa chấp vào Tiểu thừa, trải qua vô số kiếp còn ở bậc Thanh văn; Cực Lạc thì chỉ một đời này thường theo Phật học, tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng.

Mười điều khó và dễ nói trên đây, thật cách xa nhau như trời với vực. Nếu cậy vào sức mình thì chỉ luống uổng tự nhọc nhằn. Nhưng nếu nương nhờ vào duyên thù thắng thì được sự lợi ích cao rộng.

Người tu hành nên chọn lựa!

8. Giải nghi Tịnh độ

Hỏi: Chư Phật, Bồ-tát lấy tâm đại bi làm sự nghiệp, đáng lẽ phải ở cõi xấu ác để cứu khổ chúng sinh. Tại sao lại nguyện sinh về Tịnh độ, chỉ vì lợi ích của riêng mình?

Đáp: Các Ngài nguyện sinh về Tịnh độ đâu chỉ vì lợi ích cho riêng mình, bởi lẽ không sinh về đó thì khó mà cứu khổ chúng sinh. Trong kinh nói: “Bồ-tát đã được Vô sinh pháp nhẫn (thấu rõ lý không sinh không diệt) mới được cho phép vào cõi thế tục hóa độ chúng sinh. Nếu chưa được vậy phải thường không rời Phật”. Bởi vì tập khí mê lầm chưa dứt, nhẫn lực chưa đầy đủ, nếu gặp duyên ác thì chắc chắn bị trở ngại việc tiến tu, tự cứu mình còn khó khăn huống gì cứu giúp kẻ khác?

Nếu ở nơi thế giới xấu ác này lại muốn cứu độ người khác, giống như chiếc thuyền không toàn vẹn, không chắc chắn mà muốn đưa nhiều người qua biển, thì mình người đều sẽ chìm đắm. Thế nên, luận Đại Trí Độ nói: “Kẻ phàm phu đủ mọi sự ràng buộc mà có lòng đại bi nguyện sinh vào thế giới xấu ác cứu độ chúng sinh, thật không có điều đó”.

Luận Vãng Sinh nói: “Người muốn dạo chơi nơi địa ngục, phải vãng sinh Cực Lạc được Vô sinh nhẫn, rồi mới trở lại trong sinh tử giáo hóa những chúng sinh chịu khổ nơi địa ngục”.

Hỏi: Người tỏ ngộ trong Tông môn không trải qua thứ bậc vượt lên địa vị Phật, cần gì nguyện sinh về Tịnh độ?

Đáp: Ông bảo rằng người tỏ ngộ thì tập khí mê lầm dứt hẳn, nhanh chóng đồng với chư Phật sao? Hay là tập khí mê lầm còn thì vẫn phải nhờ tiệm tu?

Nếu tập khí mê lầm còn, cần phải cầu sinh về Tịnh độ, nhờ duyên thù thắng ở cõi đó lần lần gạn lọc. Nếu cứ lưu chuyển trong cõi đời Ngũ trược với sự giải ngộ cạn cợt, qua đời sau liền mờ mịt, như thế làm sao bảo đảm không lui sụt! Như các ngài Thừa Thiên Giản, Chân Như Triết, Hải Ấn Tín… thuở xưa đều là những bậc minh triết trong Tông môn mà không có chút tự chủ đối với việc sinh tử. Thế thì những người khác cũng có thể biết được. Huống gì như Đồng tử Thiện Tài là hàng căn cơ viên đốn còn nguyện sinh Cực Lạc; Bồ-tát Long Thọ là Tổ được truyền y còn nhận lời thọ ký vãng sinh Tịnh độ. Sự tỏ ngộ của ông có thể ngang bằng Thiện Tài và Long Thọ hay chăng?

Giả sử, bảo rằng có thể ngang bằng với các Ngài thì ngại gì chẳng cùng sinh về Tịnh độ. Nếu chưa được vậy, đâu thể chậm trễ đối với việc vãng sinh?

Hỏi: “Tâm vốn lìa niệm, pháp vốn không sinh”. Nay dạy người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là tại sao?

Đáp: “Cho niệm là niệm, cho sinh là sinh” là sự sai lầm của chấp thường.

“Cho vô niệm là vô niệm, cho vô sinh là vô sinh” là mê lầm của tà kiến.

“Niệm mà vô niệm, sinh mà không sinh” là chân lý Đệ nhất nghĩa.

Thế nên, chỗ lý chân thật chẳng nhận mảy trần, thì không có chư Phật để niệm, không có Tịnh độ để sinh.

Trong cửa Phật, Sự không bỏ một pháp thì đều thâu nhiếp được các căn. Bởi có phương pháp chính yếu “trở về nguồn”, đó là mở ra một môn vãng sinh Niệm Phật Tam-muội.

Vì thế, trọn ngày niệm Phật mà không trái với vô niệm; rõ ràng vãng sinh mà chẳng trái ngược vô sinh. Tuy nói phàm Thánh đều ở nơi vị trí của chính mình, nhưng đạo cảm ứng qua lại; Đông Tây không đến đi, mà tinh thần vượt lên cõi Tịnh. Điều này không thể vấn nạn được!

Hỏi: Chúng sinh có thể niệm danh hiệu của các đức Phật khác, có thể cầu sinh về các cõi Tịnh độ khác. Cần gì riêng niệm Phật A-di-đà cầu sinh về Cực Lạc?

Đáp: Ở đây có sáu ý nghĩa:

* Một là vì tâm chúng sinh phần nhiều vẩn đục tán loạn, niệm khắp cả chư Phật khó thành tựu Tam-muội, nên chỉ chuyên niệm một đức Phật cầu sinh một cõi nước, khiến cho tâm ý buộc vào một cảnh thì dễ được vãng sinh.

* Hai là vì đại nguyện từ bi của Phật A-di-đà vô tận, tiếp dẫn những chúng sinh niệm Phật, cho đến mười niệm cũng được vãng sinh. Còn các đức Phật khác không có điều đó.

* Ba là vì Cực Lạc công đức trang nghiêm đủ mọi thù thắng, khác với những cõi Tịnh độ khác. Chúng sinh được sinh về dễ tiến đạo hơn.

* Bốn là vì phàm phu không trí tuệ, nên y theo lời Phật. Cõi Cực Lạc Tịnh độ này đã được đức Phật Thích-ca khẳng định và lặp đi lặp lại khắp trong các kinh điển. Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng thảy đều khen ngợi.

* Năm là nếu những chúng sinh nào không có duyên với Phật thì Phật không thể độ. Còn chúng sinh ở cõi này, chẳng luận già trẻ, sang hèn đều biết có Phật A-di-đà, bất chợt thốt ra đều niệm một câu A-di-đà Phật. Thế nên biết, chúng sinh ở cõi này có nhân duyên lớn với Phật A-di-đà.

* Sáu là vì thể tánh của chư Phật đồng nhau. Một là tất cả, tất cả là một; niệm một đức Phật tức là niệm chung tất cả Phật.

Do có sáu ý nghĩa trên, nên chỉ chuyên tâm về Cực Lạc, thì sự lợi ích thật vô cùng to lớn!

Hỏi: Phân chia Tịnh độ, uế độ; bỏ uế lấy Tịnh đều thuộc vọng tưởng, đâu đáng gọi là chân tu?

Đáp: Đó chẳng phải sự lấy bỏ trong vọng tưởng của thế gian, mà chính là phương pháp chung của chư Như Lai trong mười phương để chuyển phàm thành Thánh.

Nếu chẳng chán nản rời bỏ, làm sao chuyển phàm? Nếu chẳng ưa thích chọn lấy, làm sao thành Thánh? Từ phàm phu trở lên, mỗi địa vị đều có sự lấy bỏ, mãi đến bậc Diệu Giác mới hết lấy bỏ. Thế nên, bậc cao đức thuở xưa nói: “Chỗ tột cùng của lấy bỏ và không lấy bỏ chẳng khác nhau”. Như thế, sao có thể gọi là chẳng phải chân tu?

Vả lại, nên biết chân tục không hai, lặng lẽ, tác dụng vô ngại, thì trọn ngày lấy bỏ mà chẳng thấy có tướng lấy bỏ.

Ngài Tịnh Danh nói: “Tuy biết pháp của chư Phật cùng chúng sinh rỗng không mà thường tu Tịnh độ giáo hóa chúng sinh”, đó là nói về ý này.

Hỏi: Tâm chính là Phật, thì quán xét ngay nơi tâm mình là được, cần gì niệm Phật nào khác?

Đáp: Tâm mình cùng với chư Phật thật sự đồng một thể, thì quán xét tâm mình hay quán xét đức Phật khác chỉ tùy theo sự tiện lợi ở căn cơ. Lẽ nào lại chấp tâm mình là Phật, bảo rằng đức Phật khác ở ngoài tâm hay sao? Vả lại, niệm đức Phật khác là một phương tiện thù thắng của chư Phật, khiến cho được vãng sinh cõi nước kia, nhờ tha lực mau đến Bồ-đề.

Sự lợi ích ấy thật rất to lớn!

Hỏi: Tịnh độ ở nơi tâm, cần gì cầu sinh Cực Lạc?

Đáp: Ông nói Tịnh độ ở nơi tâm là đã chấp vào cái tâm nhỏ bé này làm Tịnh độ, mà Cực Lạc thì xa xôi ở ngoài mười muôn ức cõi. Như thế, hoàn toàn chẳng biết ý chỉ của Duy tâm.

Bảo rằng, Duy tâm nghĩa là tâm bao trùm hư không, lượng khắp pháp giới. Tùy tâm thanh tịnh thì biểu hiện cõi thanh tịnh; tâm uế trược thì biểu hiện cõi uế trược. Thế nên biết, người vãng sinh Cực Lạc chính bởi tâm thanh tịnh nên biểu hiện thanh tịnh, lẽ nào lại ở ngoài tâm?

Nếu tâm bị hạn cuộc nơi nhỏ bé rồi cho đó là Tịnh độ, thì chẳng những Cực Lạc không ở trong tâm mà Ta-bà cũng chẳng ở trong tâm; không chỉ Cực Lạc chẳng nên vãng sinh, mà Ta-bà cũng chẳng nên sinh vào.

Vả lại, nay hỏi ông đời sau quả thật có sinh hay chăng? Quả thật không sinh hay chăng?

Nếu như nói rằng có sinh thì đem cái gì sinh, rồi sau đó mới thành Duy tâm?

Nếu như nói rằng không sinh, đã rơi vào kiến chấp đoạn diệt. Đó là cái thấy của ngoại đạo, lý luận của ma Ba Tuần.

Có người bảo rằng: “Ta chỉ tự thanh tịnh tâm mình thì tự nhiên vãng sinh Tịnh độ, cần gì niệm Phật cầu vãng sinh?”.

Đáp rằng: Đã không niệm Phật thì không có nhân duyên Tịnh độ. Chỉ muốn ở nơi thế giới uế trược này tự thanh tịnh tâm mình, đây là điều Bồ-tát Long Thọ gọi là “khó hành đạo”. Bởi vì cõi này cảnh duyên uế trược tạp loạn, nhiều chướng ngại đối với sự tu hành, bảy người tiến tám người lùi, xoay vần trong sáu nẻo, trải qua số kiếp nhiều như cát bụi vẫn còn vướng mắc trong sinh tử. Cần phải đoạn hết Kiến hoặc và Tư hoặc mới ra khỏi ba cõi, chứng đắc đến Thất trụ (Bất thối trụ: đạo tâm tăng trưởng không còn lui sụt) mới gọi là Bất thối, mà còn chưa có phần vãng sinh Tịnh độ, sao lại nói là “tâm tịnh thì cõi tịnh?”. Như thế không phải là rất khó khăn hay sao?

Hỏi: Kẻ phàm phu chịu đủ mọi ràng buộc, tuy có niệm Phật mà tham sân chưa dừng, tâm thật sự chẳng được thanh tịnh thì làm sao vãng sinh?

Đáp: Đó là nhờ vào nguyện lực của Phật A-di-đà thâu nhận. Kinh Na-tiên nói: “Ví như có người muốn chuyên chở cả ngàn khối đá lớn qua biển cả, đều nhờ sức mạnh của thuyền nên đến được bờ bên kia”.

Tội lỗi của chúng sinh cũng như tảng đá to lớn, nguyện lực của Phật A-di-đà giống như chiếc thuyền, nên mới có thể vượt qua biển sinh tử. Tội vốn phải đọa nhưng nhờ nương Phật lực mà được vãng sinh.

Hơn nữa, người còn mang nghiệp được vãng sinh, lúc sắp mạng chung cần phải giữ chánh niệm vững chắc. Một niệm từ tâm thanh tịnh này còn nhanh chóng hiện ra cõi Tịnh, huống gì có công phu niệm Phật hằng ngày!

Hỏi: Những người tạo năm tội nghịch, mười nghiệp ác, chỉ niệm mười câu Phật được vãng sinh, điều này thật khó tin?

Đáp: Nói chung, một niệm lúc lâm chung rất quan trọng. Trong kinh nói: “Có người đàn bà qua sông, lỡ tay làm rơi đứa con xuống nước, vì lo cứu vớt con nên bị nước cuốn chết đuối. Do có một niệm lành thương con nên được sinh lên cõi Trời”.

Tỷ-kheo Vô Văn lúc lâm chung, vì khởi một niệm ác hủy báng Phật, bèn bị đọa vào địa ngục.

Thiên đường và địa ngục chỉ ở trong một niệm còn có thể chuyển đổi. Thế thì mười niệm được vãng sinh Tịnh độ còn nghi ngờ gì nữa? Huống chi trong những lời phát nguyện, đức Phật A-di-đà có nói: “Chúng sinh xưng niệm danh hiệu Tôi cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh về cõi nước của Tôi, Tôi không thành Chánh Giác”.

Nguyện lực đã kiên cố, tâm niệm lại dõng mãnh. Bên này cảm, bên kia ứng, nhanh như hình với bóng, âm thanh với tiếng vang. Như thế còn nghi ngờ gì nữa!

Hỏi: Trong kinh nói: “Niệm một câu Phật diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp”. Điều này thật khó tin, xin Ngài giải rõ?

Đáp: Lời này phát xuất từ chương Hạ phẩm Hạ sinh nói về người thành tựu mười niệm lúc lâm chung. Ông nghi ngờ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp là quan trọng, lại xem thường một niệm lúc lâm chung.

Nay y cứ vào ba pháp của tông Thiên Thai mà suy xét thì chưa có thể lấy xa gần, nhiều ít để bàn luận khinh và trọng.

* Một là ở nơi tâm: nghĩa là tâm tạo tội từ hư vọng điên đảo mà sinh khởi; tâm niệm Phật từ việc được nghe bậc Thiện tri thức nói về danh hiệu và công đức chân thật của Phật A-di-đà mà phát sinh.

Một bên giả dối, một bên chân thật, đâu thể so sánh với nhau được. Ví như căn nhà tối muôn năm, ánh sáng mặt trời vừa soi đến, tối tăm nhanh chóng tiêu tan. Lẽ nào do tối đã lâu ngày nên không thể tan biến?

* Hai là ở nơi duyên: nghĩa là tâm si mê hư vọng tạo tội, do duyên theo cảnh giới giả dối điên đảo mà phát sinh; tâm niệm Phật là do nghe danh hiệu và công đức chân thật thanh tịnh của Phật, duyên nơi tâm giác ngộ vô thượng mà phát sinh.

Một bên thật, một bên giả, đâu thể so sánh với nhau được. Ví như có người bị trúng tên độc, mũi tên cắm sâu, chất độc ngấm vào tổn hại da thịt, nhưng một khi nghe âm thanh của tiếng trống được thoa thuốc giải độc thì mũi tên bị đẩy ra, chất độc được giải trừ.

* Ba là ở nơi sự quyết định: nghĩa là lúc tạo tội do có tâm gián đoạn và tâm hối hận về sau, còn khi niệm Phật không có hai tâm đó, nên lúc xả bỏ sinh mạng do tâm lành mạnh mẽ liền được vãng sinh. Ví như sợi dây rất to, cả ngàn người bứt không đứt, nhưng đứa bé chỉ cần vung gươm bén mà chém thì trong khoảnh khắc liền đứt thành hai đoạn.

Ba sự lường xét trên, hoàn toàn nhìn từ khía cạnh tâm hay niệm mà bàn luận. Có thể thấy rõ ràng tự tâm vốn đã có đầy đủ sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn và ý nghĩa diệt trừ tội lỗi.

Huống chi danh hiệu được niệm chính là Phật A-di-đà, bậc thành tựu muôn vàn đức hạnh. Do đại nguyện nhiếp trì, công năng ấy đâu thể nghĩ bàn cho được. Ví như có người lấy gân Sư tử để làm dây đàn, một khi khảy đàn thì tất cả dây đàn khác đồng thời đứt đoạn. Lại như có người lấy các loại sữa trâu, dê, lừa, ngựa để vào thùng rồi cho vào một giọt sữa Sư tử, tất cả loại sữa khác đều trở thành nước.

Nay vừa xưng danh hiệu Phật, lẽ nào tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp lại không tiêu diệt?

Hỏi: Còn mang nghiệp được vãng sinh, điều đó tôi có thể tin. Nhưng vì sao lại được không thối chuyển?

Đáp: Điều này có năm nhân duyên khiến người vãng sinh được không thối chuyển:

1. Do nguyện lực của Phật A-di-đà thường thâu nhiếp giữ gìn.

2. Do ánh sáng của Phật luôn soi chiếu, tâm Bồ-đề thường tăng trưởng.

3. Nước, chim, cây rừng, gió reo, nhạc tấu đều thuyết giáo nghĩa khổ, không. Người nghe những pháp ấy thường khởi lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

4. Cõi nước Cực Lạc toàn là bậc Bồ-tát làm bạn lành, không có cảnh duyên xấu ác, không có quỷ thần, tà ma. Các thứ phiền não Tam độc… hoàn toàn không sinh khởi.

5. Do sống lâu mãi mãi, đồng với chư Phật, Bồ-tát.

Hỏi: Người đời đều nghi ngờ cõi Cực Lạc ở xa ngoài mười muôn ức cõi nước, lúc sắp lâm chung chỉ trong khoảnh khắc e khó đến được. Làm sao hiểu được điều này?

Đáp: Trong kinh không nói sao! Tâm bao trùm hư không, lượng trùm khắp pháp giới thì mười muôn ức cõi nước chỉ ở trong tâm ta, nào có xa xôi gì? Khoảnh khắc mạng chung sinh trong tâm ta, nào có khó khăn gì?

Vả lại, gọi mười muôn ức cõi nước là đối với cái nhìn của phàm phu, tâm lượng trong sinh tử mà nói. Nếu chúng sinh thành tựu Tịnh nghiệp, lúc lâm chung tâm an định tức là tâm thọ sinh Tịnh độ, vừa khởi niệm liền được vãng sinh. Thế nên, Tự Tín Lục nói: “Mười muôn ức cõi nước chỉ trong khoảnh khắc liền đến, vì tự tâm vốn diệu huyền vậy!”.

Hỏi: Lúc lâm chung niệm mười câu danh hiệu Phật đã có thể vãng sinh, thế thì chúng tôi cứ lo những việc khác, chỉ chờ lúc lâm chung niệm mười câu. Điều đó thế nào?

Đáp: Mười niệm được vãng sinh là điều trong muôn người chỉ được một. Ông muốn cầu may ở nơi muôn một hay sao?

Người lúc lâm chung thành tựu mười niệm, phần nhiều do nghiệp lành đời trước mạnh mẽ nên mới cảm được lúc sắp mất gặp bậc Thiện tri thức dạy bảo mà thành tựu mười niệm. Nếu không do nghiệp lành chiêu cảm thì bậc Thiện tri thức còn khó được gặp, huống gì thành tựu mười niệm!

Vả lại, luận Quần Nghi nêu ra mười loại người lúc lâm chung không niệm Phật được:

* Một là chưa hẳn được gặp bạn lành, nên không ai khuyên niệm.

* Hai là nghiệp khổ trói buộc thân, nên không an ổn niệm Phật.

* Ba là do bệnh hoạn không nói được, nên chẳng thể niệm Phật.

* Bốn là cuồng loạn mất trí, nên khó chú tâm tưởng niệm.

* Năm là bị nạn lửa cháy, nước cuốn nên không thể chí thành niệm Phật.

* Sáu là gặp phải cọp, sói làm hại, mà chẳng có bạn lành khuyên niệm Phật.

* Bảy là lúc lâm chung gặp bạn ác hủy hoại lòng tin, nên không thể niệm Phật.

* Tám là ăn uống quá độ, hôn mê đến chết nên chẳng thể niệm Phật.

* Chín là giữa quân trận chiến đấu, bị trúng thương chết đột ngột nên không thể niệm Phật

* Mười là bị rơi từ trên núi cao xuống, mất đi tánh mạng, do hoảng loạn nên không thể niệm Phật.

Mười duyên xấu ác trên, nếu bỗng gặp phải một điều thì thôi rồi, làm sao có thể niệm Phật!

Giả sử không gặp phải mười duyên xấu ác trên, mà chỉ do bệnh nhẹ rồi chết, cũng chưa tránh khỏi thân thể tan rã, Tứ đại phân ly như con rùa bị lột mai đau khổ bức bách, lúc ấy có thể niệm Phật được chăng?

Hoặc duyên đời chưa xong, ý niệm thế gian chưa dứt, tham sống sợ chết, tâm loạn sợ hãi, khi ấy có thể niệm Phật được sao?

Hoặc là cha mẹ khóc lóc, vợ con kêu gào, quyến luyến khó chịu được, lo buồn đau lòng, khi ấy có thể niệm Phật được chăng?

Tại sao không suy xét đến điều này khi còn trẻ, mà phải đợi lúc lâm chung mới thành tựu mười niệm? Điều đó dường như tự mình đã sai lầm rồi!

Hỏi: Niệm Phật là việc của đời sau, không biết đời hiện tại có lợi ích không?

Đáp: Trong kinh có nói đầy đủ, người thọ trì danh hiệu Phật sẽ được mười điều lợi ích thù thắng:

1. Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, Thần tướng đại lực cùng vô số quyến thuộc ẩn hình bảo hộ.

2. Thường được 25 vị đại Bồ-tát như ngài Quán Thế Âm… và tất cả chư vị Bồ-tát luôn theo bảo hộ.

3. Thường được chư Phật hộ niệm cả ngày đêm, Phật A-di-đà luôn phóng ánh sáng nhiếp thọ người này.

4. Tất cả ác quỷ đều không thể hại, tất cả rắn độc, rồng độc, thuốc độc đều không thể xâm phạm được.

5. Không bị những tai nạn nước lửa, giặc cướp, gươm đao, ngục tù, xiềng xích, chết đột ngột, điên cuồng mất mạng.

6. Những nghiệp đã làm trước kia thảy đều tiêu diệt. Những oan mạng đã bị giết chết ngày xưa đều được giải thoát, không còn theo báo oán.

7. Đêm nằm mộng an ổn vui vẻ, hoặc thấy sắc thân vi diệu thù thắng của Phật A-di-đà.

8. Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi sáng, khí lực mạnh mẽ, việc làm đều tốt lành lợi ích.

9. Thường được tất cả mọi người cung kính cúng dường, hoan hỷ lễ bái như kính Phật.

10. Lúc mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, được thấy Phật A-di-đà và chư Thánh chúng cầm hoa sen vàng tiếp dẫn vãng sinh Tây Phương Tịnh độ, mãi mãi về sau được hưởng niềm vui vi diệu thù thắng.

Mười điều trên, ở ngay đời hiện tại cho đến kiếp tương lai đều có lợi ích thù thắng. Vì thế, pháp môn khẩn yếu của thế gian và xuất thế gian không gì bằng niệm Phật. Điều đó nên tin chắc như thế!

Hỏi: Thế giới Hoa Tạng là cảnh giáo hóa của Bổn sư, tại sao không cầu sinh về Hoa Tạng mà cầu vãng sinh Cực Lạc?

Đáp: Trong Hoa Nghiêm Sớ có lời hỏi đáp, gồm bốn ý:

Một là do có duyên: nghĩa là đại nguyện của Phật A-di-đà phần nhiều chuyên về việc tiếp dẫn người ở cõi Ta-bà.

Hai là khiến cho tâm trở về nương tựa của chúng sinh được chuyên nhất: vì trong cõi Hoa Tạng có vô lượng thế giới ở khắp trong mười phương, tất cả đều tuyệt diệu, nên người mới phát tâm mờ mịt không biết nương tựa cõi nào. Do đó, phương tiện dẫn dắt họ chuyên chỉ về Cực Lạc.

Ba là vì chẳng ở ngoài Hoa Tạng: Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi, mà cõi Phật Hoa Tạng nhiều như số vi trần, nên biết không ở ngoài cõi Hoa Tạng.

Bốn là do Bổn sư: biển cả thế giới Hoa Tạng đều là cõi của Phật Tỳ-lô-giá-na, nên Cực Lạc tuy cách xa mười muôn ức cõi, nhưng vẫn nằm ở trong nơi đó. Lẽ nào chẳng phải đức Bổn sư tùy theo tên gọi mà có sự giáo hóa khác nhau sao?

Hỏi: Kinh nói: “Người sinh về trời Đâu-suất, theo Bồ-tát Di-lặc sinh xuống ba hội, tự nhiên được đạo quả”. Vậy cần gì phải bỏ Đâu-suất gần mà cầu Cực Lạc nơi xa xôi?

Đáp: Ông cho rằng Đâu-suất gần, Cực Lạc xa. Đó chỉ là dùng nhục nhãn và tâm lượng phàm phu mà nói thôi.

Cả ba cõi Ta-bà, Đâu-suất, Cực Lạc đều ở trong một tâm. Tâm không có sự phân biệt kia đây, sao bảo rằng Đâu-suất gần còn Cực Lạc xa? Vả lại, nếu so sánh giữa Đâu-suất và Cực Lạc thì có mười sự hơn kém khác nhau:

1. Cực Lạc mười niệm có thể vãng sinh; ở Đâu-suất cần phải tu các loại Tam-muội, vào sâu Chánh định, nên người khó được sinh lên.

2. Cực Lạc do nguyện lực đại bi của Phật A-di-đà thệ nguyện tiếp dẫn; ở Đâu-suất thì Bồ-tát Di-lặc không có thệ nguyện tiếp dẫn.

3. Cực Lạc do sức mạnh ánh sáng rộng lớn của Phật A-di-đà chiếu đến người tu hành (trong mười phương) thì thân tâm từ hòa, đến sinh trong cõi ấy; ở Đâu-suất không có điều đó.

4. Phật A-di-đà thuyết pháp nhiều gấp mười lần các đức Phật khác, chúng sinh tùy theo chí nguyện đều vui thích, những pháp muốn nghe tự nhiên được nghe; ở Đâu-suất không có điều đó.

5. Cõi Cực Lạc không có người nữ quấy rối chúng sinh; ở Đâu-suất thì Thiên nữ vi diệu, chư Thiên đam mê không thể tự cố gắng tu hành.

6. Người sinh về Cực Lạc đều được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ thần thông; ở Đâu-suất không có điều đó.

7. Người sinh về Cực Lạc tự nhiên hàng phục tiêu diệt được phiền não, liền lên bậc Bất thối chuyển; ở Đâu-suất, Bồ-tát Di-lặc tuy hàng ngày thuyết pháp Bất thối, giáo hóa chúng sinh, nhưng chưa hẳn lên được ngay bậc Bất thối chuyển.

8. Người sinh về Cực Lạc chỉ ngay trong đời này tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng; ở Đâu-suất theo Phật hạ sinh chưa hẳn đều chứng quả Thánh, huống gì đạo giác ngộ Vô Thượng!

9. Người sinh về Cực Lạc được tuổi thọ vô lượng ngang bằng với Phật; ở Đâu-suất không có điều đó.

10. Người sinh về Cực Lạc nếu muốn cúng dường chư Phật trong mười phương, thì các vật cúng dường tùy ý tự nhiên hiện ra trước mặt, trong khoảnh khắc đến khắp mười phương cúng dường chư Phật trong khoảng thời gian của một bữa ăn thì trở về cõi nước của mình; ở Đâu-suất không có điều đó.

Mười loại công đức trên, so sánh sự hơn kém rõ ràng, nếu xét kỹ thì khác nhau vô lượng. Người tu hành nên ở nơi đây tự chọn lựa.

Hỏi: Có người bảo rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, chỉ dành tiếp dẫn hạng căn cơ chậm lụt, giáo hóa những kẻ tầm thường. Còn nếu là bậc có thể vượt thẳng vào đất Như Lai thì đâu cần nhờ vào tha lực?

Đáp: Thuở xưa, Bồ-tát Văn-thù do niệm Phật mà được Nhất thiết chủng trí; Thiện Tài còn phải dùng mười đại nguyện vương cầu vãng sinh Cực Lạc; Thế Chí do nhờ Phật niệm Phật mà được vào Chánh định; phụ vương Tịnh Phạn và sáu vạn người dòng họ Thích đều vãng sinh Tịnh độ. Như thế, có thể gọi các Ngài là hạng căn cơ chậm lụt hoặc những kẻ tầm thường hay sao? Hơn nữa, đức Phật còn bảo ngài Di-lặc: “Thế giới này có 67 ức Bồ-tát Bất thối chuyển vãng sinh Cực Lạc, mỗi Bồ-tát đã từng cúng dường vô số chư Phật. Chư Bồ-tát có đạo hạnh nhỏ và tu công đức ít thì không thể tính kể. Các vị này đều sẽ vãng sinh. Không chỉ cõi này như thế, mà cõi Phật ở phương khác như cõi Phật Viễn Chiếu cũng có 180 ức Bồ-tát đều sẽ được vãng sinh. Những người vãng sinh ở vô lượng cõi Phật trong thế giới khắp mười phương không thể tính kể. Nếu Ta nói đầy đủ, dù trải qua một kiếp cũng chưa thể nói hết”.

Như thế, có thể bảo rằng tất cả các vị ấy đều là hạng căn cơ chậm lụt, hay những kẻ tầm thường sao? Còn như cho rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, thì đây chính là phương tiện quyền biến của giáo lý chân thật.

Các nhà giáo lý phân định về Quyền Thật theo nhiều cách khác nhau. Theo sự phân định của hai nhà Thiên Thai và Hiền Thủ đều suy tôn Pháp Hoa, Hoa Nghiêm là giáo lý chân thật nhất. Nay xét phẩm Dược Vương Bổn Sự trong kinh Pháp Hoa nói, người nữ nghe kinh điển này, y theo lời dạy tu hành, lúc mạng chung liền sinh qua thế giới An Lạc, được thần thông của bậc Bồ-tát, đạt trí tuệ thấu rõ lý không sinh không diệt của các pháp.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền dạy Đồng tử Thiện Tài phát mười đại nguyện vương, lúc mạng chung dẫn lối vãng sinh Cực Lạc, không bao lâu sẽ được đạo giác ngộ Vô Thượng. Thế nên mới biết, công đức của niệm Phật và công đức y lời dạy tu hành theo kinh Pháp Hoa đều như nhau, cùng với sự phát mười đại nguyện vương công đức cũng như nhau.

Đã phân định hai kinh ấy là giáo lý chân thật thì có thể biết rằng Tịnh độ chẳng phải là giáo lý phương tiện quyền biến. Cho dù bảo rằng Tịnh độ là giáo lý phương tiện quyền biến thì vẫn là phương tiện quyền biến nơi giáo lý chân thật. Việc đó mọi người có thể hiểu rõ.

Vả lại, tôi từng cứu xét luận Khởi Tín. Trong luận ấy nói: “Người mới học về lòng tin chân chính Đại thừa, do ở nơi cõi này không thường gặp Phật nên lo sợ lòng tin thiếu duyên sẽ bị lui sụt. Nên biết, Như Lai có phương tiện thù thắng giúp cho họ không thối thất, chỉ cần chuyên niệm Chân như Pháp thân của Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc chắc chắn được sinh về cõi nước ấy”.

Tôi còn khảo cứu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong ấy nói: “Phàm phu tâm tưởng yếu kém, chưa được Thiên nhãn, không thể thấy xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện kỳ diệu làm cho họ được thấy”.

Phàm gọi là phương tiện thù thắng, phương tiện kỳ diệu, đó đã là sự quyền biến rồi.

Hai phương tiện này, nếu từ khía cạnh rốt ráo mà bàn, thì không có hai và cũng không khác với phương tiện vi diệu trong kinh Pháp Hoa. Do đó nên nói, giáo lý Tịnh độ là phương tiện quyền biến nơi giáo lý chân thật.

Hỏi: Những người tham thiền phần nhiều hay nói: “Tham Thiền là pháp chân thật, niệm Phật là pháp quyền biến. Tham thiền là viên đốn, niệm Phật là tiệm tu”. Như thế có phải chăng?

Đáp: Ông thấy niệm một câu Phật hiệu gọi là pháp quyền biến, giữ một câu thoại đầu gọi là pháp chân thật. Nhưng đâu biết rằng, nếu danh hiệu Phật mà nói là quyền biến thì câu thoại đầu cũng không thể là chân thật được.

Ông không nghe nói sao: “Ba tạng kinh điển, những lời trong Ngũ Đăng Hội Nguyên đều là dây sắn, dây bìm hôi thối trói buộc chết người, chỉ là “tay không”, “lá vàng” để dối gạt trẻ thơ nín khóc”. Thế mới biết, chư Phật trong ba đời, các bậc Tổ sư hễ mở miệng vì người đều là quyền biến, cho dù mình “đã được vào từ nơi đó” cũng đều là chỗ quyền biến.

Tuy bảo rằng: “Ngay khi bỏ phương tiện, nói thẳng đạo Vô Thượng” thì cũng đã thành phương tiện mất rồi. Kinh Pháp Hoa ban đầu nói pháp một vòng, sau đó mới gọi là phẩm Phương Tiện, lẽ nào đó chẳng phải là pháp quyền biến sao?

Do đó nên biết, niệm Phật và tham thiền đều là những phương tiện quyền biến khéo léo để tiếp dẫn chúng sinh. Nếu thấu suốt thì không có pháp nào chẳng phải chân thật, chưa tỏ rõ thì pháp nào cũng là quyền biến.

Ông bảo rằng tham thiền là viên đốn, nghĩa là “một niệm không sinh” gọi là Phật. Thử xem câu: “Nhớ Phật, niệm Phật đến chỗ tâm khai ngộ thấy Phật”, và câu: “Một niệm không sinh”, sự thật có sâu cạn hay chăng?

Hơn nữa, Tiệm giáo của Đại thừa phần nhiều nói trải qua ba kỳ kiếp tu hành Lục độ, còn cần phải gieo trồng nhân tướng hảo trong trăm kiếp, sau đó mới thành tựu được đạo giác ngộ chân chính. Nhưng ở cõi Tịnh độ này, người sinh về liền bước lên bậc Bất thối chuyển, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vô lượng thần thông, sống lâu mãi mãi, chỉ trong một đời là thành tựu quả Phật. Như thế, lẽ nào Tiệm giáo có thể sánh kịp? Lại còn nước, chim, cây rừng đều phát ra âm thanh vi diệu; lưới báu, nhạc Trời đều tấu diễn pháp mầu. Như thế, chẳng những không thuộc về Tiệm, mà cũng không hạn cuộc nơi Đốn.

Nay phân định Tịnh độ là Tiệm giáo, thật ra dựa vào đâu nói như thế? Chẳng qua chỉ là lời nói cuồng dại không căn cứ, khiến cho mọi người thêm mê lầm rối loạn mà thôi.

    Xem thêm:

  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Giác Quả dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Năm Giới Tướng Của Ưu Bà Tắc - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Thụy Châu Động Sơn Lương Giới - Kinh Tạng
  • Nghi quỹ Đà-la-ni Tùy Cầu Tức Đắc Thần biến gia trì thành tựu Kim cang đảnh Du-già tối thắng Bí mật thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Quỹ Nghi - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Người Nữ - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 26 – Dối Trá - Kinh Tạng
  • Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Tu Đại Noa - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Nguyệt Quang Đồng Tử - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Vãng Sanh Tịnh Độ Bản Duyên - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 66 – Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy (Latukikopama sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tân Đầu Lô Đột La Xà Vì Vua Ưu Đà Diên Thuyết Pháp - Kinh Tạng
  • Tịnh Lưu Ly Tịnh Độ Tiêu - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Của Thiền Sư Quân Châu Động Sơn Ngộ Bổn - Kinh Tạng
  • Kinh Cựu Tạp Thí Dụ - Kinh Tạng
  • Bồ Tát Long Thụ Vì Vua Thiền-đà-ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu - Kinh Tạng
  • Tây Phương Yếu Quyết Thích Nghi Thông Quy - Kinh Tạng