Sự ám ảnh đó chi phối và ảnh hưởng đến các sinh hoạt trong xã hội, các thói tục trong dân gian và có thể cả nền văn hóa của một dân tộc. Riêng đối với Phật giáo thì vấn đề tình dục không được nhắc nhở đến nhiều, không có mấy kinh sách đề cập thẳng đến vấn đề này. Sự yên lặng đó hình như đã chứng tỏ quan điểm hết sức hiển nhiên và tất yếu của giáo lý nhà Phật, không có gì phải bàn cãi hay luận bàn thêm. Một cách đơn giản, đối với Phật giáo tình dục là một trong những nguyên nhân và nguồn gốc mang lại si mê, trói buộc và khổ đau.
Ngày nay Phật giáo được truyền bá sang thế giới Tây phương một cách nhanh chóng, và một số người Tây phương chịu ảnh hưởng từ truyền thống và giáo dục của họ, lại thường hay thắc mắc và muốn tìm hiểu quan điểm của Phật giáo về vấn đề nêu trên. Tuy nhiên cho đến nay trong số sách báo vô cùng phong phú của Tây phương về Phật giáo chỉ có một quyển sách duy nhất đề cập trực tiếp đến vấn đề này và do một học giả người Pháp viết. Tiếc thay quyển sách này mang những hậu ý thiếu thiện cảm bằng cách dựa vào một số chi tiết bới móc trong kinh sách và một vài thói tục thuộc các giáo phái Phật giáo địa phương ở Nhật bản.
Gần đây hơn ký giả Simon Alev của tờ báo « Giác ngộ là gì » (What is Enlightenment) của Hoa Kỳ có phỏng vấn một nhà sư Tích Lan là ngài Bhante Gunaratana về chủ đề Phật giáo và tình dục. Bài phỏng vấn được chuyển ngữ sang tiếng Việt trong phần dưới đây, và sau đó người dịch cũng xin được kèm thêm vài lời gọi là góp ý. Dù sao thì trước hết cũng nên giới thiệu vài hàng về nhà sư Bhante Gunaratana. Ngài sinh năm 1927 tại Tích Lan (Sri Lanka), thụ phong sa-di lúc vừa được 12 tuổi. Năm 1947, ngài được Hội Maha Bhodi gởi sang Ấn độ chăm lo cho những người thuộc tầng lớp tiện dân sống trong các vùng đô thị lớn như New Dehli và Bombay. Năm năm sau thì ngài lại được gởi sang Mã Lai để giảng dạy Phật Pháp và đã lưu lại quốc gia này trong suốt mười năm.
Đến năm 1968 ngài lại được cử sang Mỹ giữ chức vụ Tổng thư ký của Hội Buddhist Vihara tại Washington DC và giảng dạy Phật Pháp cho các đại học Mỹ, nhưng về sau thì có một số các đại học khác ở Gia nã đại, Úc châu và Âu châu biết đến và cũng đã mời ngài thuyết giảng.
Hiện nay ngài giữ chức vụ chủ tịch Hội Bhavana, đồng thời cũng là Viện trưởng trụ trì tu viện Shenandoah Valley. Ngài phụ trách giảng dạy về thiền và hướng dẫn các khóa ẩn cư cho tu viện, học viên đến từ khắp nơi trên thế giới.
Ngài viết nhiều sách rất nổi tiếng, một trong những quyển được biết nhiều nhất là quyển « Hành thiền hằng ngày », đây là một trong những quyển sách tốt nhất hướng dẩn về thiền Vipassana. (Hình trên: Nhà sư Bhante Gunaratana)
I – Bài phỏng vấn nhà sư Banthe Gunaratana
Simon Alev : Những người am tường Phật giáo đều hiểu rằng Đức Phật chủ trương một lối sống xa rời thế tục ; và hôm nay đây ngài là một trong số những người đã hy sinh rất nhiều thì giờ và sinh lực để quảng bá truyền thống tu tập ấy vào thế giới Tây phương. Vì lý do nào Đức Phật đã đặt nặng vấn đề trinh bạch của người tu hành ? Tại sao Đức Phật lại xem điều đó quan trọng đến thế ?
Bhante Gunaratana : Bởi vì bất cứ ai muốn giải thoát khỏi dukkha, tức là khỏi khổ đau, thì phải tuân thủ một số nguyên tắc đạo đức nào đó. Thật ra thì bất cứ ai muốn chọn cuộc sống của người tu hành đều phải giữ sự trinh bạch. Nếu như còn tiếp tục lăn lộn trong mọi thứ sinh hoạt tình dục thì họ có khác gì đâu với những người thế tục, họ sẽ luôn luôn bị vướng mắc vào vô số những rối rắm liên quan đến tình dục. Bất cứ ai khao khát cuộc sống của người tu hành đều phải chọn cho mình một lối sống đơn sơ – và cũng chính vì lý do đó mà các truyền thống tu tập đã được hình thành – vì khi suy xét thật cẩn thận chúng ta sẽ nhận thấy chỉ khi nào loại bỏ được mọi ham muốn vô độ, dục vọng và thèm khát thì khi đó mới có thể tự giải thoát cho mình khỏi khổ đau. Nếu đã quyết tâm muốn vượt lên trên mọi khổ đau thì phải loại bỏ nguyên nhân của chúng, và sự ham muốn tình dục là một trong những nguyên nhân nhất thiết sẽ mang lại khổ đau. Nếu muốn chọn một cuộc sống nơi tu viện thì phải chế ngự được sự ham muốn tình dục vì tu viện không phải là nơi nuôi dưỡng những gì có thể làm phát sinh ra sự thèm khát tình dục.
Simon Alev : Như thế thì trường hợp một người không xuất gia, tức một người thế tục sẽ khó tuân thủ sự trinh bạch, có thể nói là không thể nào thực hiện được ?
Bhante Gunaratana : Kể cả những người thế tục cũng cần phải có một cuộc sống kỷ cương ; họ phải biết tự kìm hãm trong một khuôn phép nào đó. Chính vì thế đã có những giới luật dành riêng cho họ. Tuy nhiên không bắt buộc những người bình thường cũng phải tôn trọng sự trinh bạch. Dù sao thì người thế tục cũng chỉ có thể đạt được giác ngộ trong một cấp bậc nào đó mà thôi – đây là trường hợp mà chúng tôi gọi chung là những người đã « bước vào dòng luân chuyển » nhưng sau đó « lại quay trở về chốn cũ » – chẳng qua vì họ không đủ sức nhận thấy những liên lụy phát sinh từ tình dục. Tuy thế cũng có những người thế tục đã đạt được cấp bậc thánh thiện thứ ba, tức là « thể dạng không còn quay trở lại ». Một thời gian ngắn sau khi đã bước vào con đường đó thì người thế tục sẽ nhận thấy qua kinh nghiệm và nhận xét của chính mình là những liên lụy với tình dục nhất định sẽ tạo ra cho họ thật nhiều khó khăn trên đường tu tập, và khi đã ý thức được điều đó thì họ sẽ tự động xa lánh những hành vi dục tính. Sự giữ gìn trinh bạch là một thứ gì mà người ta không thể nào áp đặt bằng sức mạnh được.
Simon Alev : Nếu có thể thì xin ngài hãy trình bày cặn kẽ hơn một chút về các chi tiết cho thấy tại sao phải vượt lên trên tình dục mới có thể thăng tiến trên đường tu tập tâm linh.
Bhante Gunaratana : Bởi vì khi nào còn vướng mắc trong đó, tâm thức ta sẽ luôn luôn bị quấy nhiễu, sẽ rơi vào u tối và hoang mang. Ta sẽ ngụp lặn trong ghen tuông, lo sợ, hận thù, căng thẳng, và những thứ đó sẽ tiếp tục lôi kéo những thứ khác nữa – tóm lại là tất cả những khó khăn phát sinh từ sự ham muốn tình dục. Vậy nếu muốn tự giải thoát khỏi những thứ ấy, trước hết phải loại bỏ những thèm khát tình dục. Dù sao cũng có một số người không thích các chữ như « loại bỏ » mà chỉ thích dùng những chữ như « vượt lên trên » hay « biến cải ». Nói như thế cũng đúng, vì ta có thể biến cải sự thèm khát tình dục thành không-còn-thèm-khát tình dục !
Simon Alev : Tuy nhiên căn cứ theo những gì ngài vừa trình bày thì phải nói là sự loại bỏ mọi ham muốn tình dục thì mới đúng, có phải như thế hay chăng ?
Bhante Gunaratana : Đúng như vậy. Tuy nhiên khi nói là « loại bỏ » thì quá mạnh, quá tiêu cực và người ta thường tự hỏi « làm sao tôi có đủ sức để loại bỏ một thứ gì đó ? ». Trong khi ấy, nếu ta nói « hãy biến cải nó thành một thứ gì khác », thì họ sẽ chấp nhận một cách dễ dàng hơn.
Simon Alev : Theo ý nghĩa những lời giảng của Đức Phật về vấn đề tình dục thì có phải đó là một thứ gì mang tính cách tiêu cực một cách nội tại ?
Bhante Guanaratana : Đức Phật giảng rằng khi nào còn tự trói mình trong những hành động tình dục thì khi đó người ta vẫn chưa có thể nào chú tâm vào việc tu tập tâm linh một cách hiệu quả ; nói một cách đơn giản hơn là tình dục và tu tập không thể nào đi đôi với nhau.
Tuy nhiên khi Đức Phật thuyết giảng về con đường thăng tiến tuần tự đưa đến Giác ngộ thì đồng thời Ngài cũng giảng rằng những giác cảm liên quan đến tình dục và sự thèm muốn cũng hàm chứa sự thích thú trong đó. Ngài không phủ nhận sự thích thú. Tuy nhiên bạn có đủ sức hiểu được là chính cái thích thú ấy về sau sẽ biến thành khổ đau hay không ? Khi cơn sốt của thèm muốn tình dục lúc ban đầu dần dần hạ xuống thì cãi vã sẽ phát sinh. Bởi vì thèm khát tình dục sẽ làm phát sinh sự ham muốn quá độ, lo sợ, ghen tuông, hận thù, hoang mang và những cảnh ẩu đả lẫn nhau ; tất cả những thứ tiêu cực ấy đều phát sinh từ sự thèm khát tình dục. Nếu thật sự muốn nhận thấy được sự thật ấy thì cũng chẳng cần phải nhìn đâu cho xa, cứ nhìn thẳng vào xã hội mà chúng ta đang sống. Chỉ cần mở mắt thật to để nhìn chung quanh. Đã có không biết bao nhiêu triệu người từng đấm đá nhau chỉ vì nguyên nhân thèm muốn tình dục – nào chồng, nào vợ, nào bạn trai, bạn gái, bạn gái rồi lại bạn trai ?! Dù cho bạn thuộc vào loại người mang tính dục khác giới, hoặc đồng tính luyến ai, hay lưỡng tính thì cũng chẳng quan hệ gì nhiều, vì tất cả rồi cũng sẽ hỗn chiến với nhau. Khi nào bạn vẫn còn vướng mắc trong những thèm khát ấy thì không thể nào tránh khỏi – cãi vã, thất vọng, giận dữ, hận thù, sát nhân – tất cả sẽ lôi kéo nhau mà sinh ra. Vì thế khi Đức Phật nhìn thấy những khó khăn đi kèm với tình dục thì Ngài dạy chúng ta tốt hơn hết nên kiểm soát và khắc phục các giác quan để tìm lấy một cuộc sống thanh thản và an bình.
Tuy nhiên cần phải thực hiện từ từ, thật chậm, việc đó phải đi đôi với sự suy xét, nhất là không được đột ngột. Chuyện đó không thể gò ép được. Cần phải thực hiện với sự hiểu biết chín chắn. Nếu không hiểu được điều này mà cứ muốn ngưng ngay một cách đột ngột thì sẽ càng cảm thấy thiếu thốn và lo sợ nhiều hơn và từ đó sẽ phát sinh thêm những khó khăn khác nữa. Vì thế trong những lời giáo huấn liên quan đến cách tu tập tuần tự, Đức Phật giảng rằng lúc ban đầu tuy rằng có sự thích thú trong các sinh hoạt tình dục, nhưng sau đó sẽ sinh ra những điều bất ổn, và tiếp theo là mọi thứ khó khăn. Chỉ khi nào nhận ra được sự thật đó thì lúc ấy ta mới ý thức được những khó khăn và những gì tiêu cực đi đôi với tình dục – chúng là một thể dạng nội tại của dục tính. Các rối loạn và khó khăn ấy đều mang tính cách tự tại trong sự thèm khát tình dục.
Simon Alev : Nhất là trong thời đại chúng ta, điều ấy quả thật là hết sức căn bản.
Bhante Gunaratana : Quả đúng như thế. Tuy nhiên chỉ khi nào người ta tránh xa được những thứ ấy, xa lánh được những bài học ấy và đã đi xa hàng triệu cây số, vượt qua thời gian và không gian thì khi đó họ mới thật sự ý thức được điều ấy là căn bản – khi mà họ quay nhìn lại phía sau để nhìn thấy căn nguyên của khổ đau. Khi họ đã quay lưng ra đi từ lâu, xa lánh qua không gian và thời gian và bất chợt khi quay nhìn lại phía sau họ mới có thể thốt lên : « Hú vía ! giờ đây làm thế nào mình còn dám quay đầu lại với những thứ ấy nữa ? Mình đã đi quá xa rồi, đã dấn thân quá sâu rồi ». Khi đó thì chuyện ấy mới trở thành một vấn đề căn bản đối với họ. Nhất định đấy là một vấn đề căn bản !
Simon Alev : Trong khi ngài đang nói thì tôi lại bất chợt nghĩ đến sự kiện ngài đề cập quá ít về những thích thú tình dục, và ngược lại thì ngài lại trình bày quá nhiều về những khía cạnh bất lợi, nhiều người…
Bhante Gunaratana : Vâng. Chỉ vì một chút thích thú, nhưng đã mang lại quá nhiều khổ đau, có đúng thế hay chăng ?
Simon Alev : Quả là như thế.
Bhante Gunaratana: Bạn có lý. Người ta không chịu suy nghĩ. Họ chỉ muốn nghe những lời hợp ý với mình. Ngược lại thì chúng ta lại không muốn nói lên những lời mà họ thích nghe ! Dù cho người nghe có thích hay không thích, thì chúng ta vẫn cứ nói lên sự thật. Chúng ta không nên sợ hãi khi nói thật. Dù cho thiên hạ có chấp nhận hay không… Thôi vậy, dù sao thì đấy cũng là một vấn đề khác rồi. Chúng ta không thể làm gì khác hơn được.
Simon Alev : Khi chúng tôi tra cứu để cố trích dẫn một vài lời giáo huấn liên quan đến cảm nghĩ của Đức Phật về vấn đề tình dục, thì bất ngờ chúng tôi lại tìm thấy một đoạn văn như sau :
« Này, đừng có dại dột, (những ai đã từ bỏ gia đình), thà rằng đưa dương vật vào miệng một con rắn độc hay một con rắn hổ mang kinh tởm có lẽ còn tốt hơn là đưa nó vào một người đàn bà.
Tốt hơn là đưa dương vật vào một lò nung đầy than hồng nóng bỏng, còn hơn là đưa nó vào một người đàn bà.
Tại sao lại như thế ?
Trong cả hai trường hợp, có thể ta sẽ chết vì nọc độc hoặc vì đớn đau của lửa bỏng, nhưng sau khi chết và thân xác đã tan rã thì ta sẽ không còn quay lại với cái thế giới khốn khổ để mang thêm một số kiếp bất hạnh trong cảnh sa đọa và địa ngục này ».
(Trích dịch từ một tấm bưu thiếp của Thái Lan vào đầu thế kỷ thứ XX với tựa đề là : Địa ngục của những người có hành vi tình dục không lành mạnh).
Tôi nghĩ rằng đoạn văn trên đây phản ảnh khá minh bạch về những cảm nghĩ của Đức Phật liên quan đến tình dục. Tuy nhiên như ngài đã biết, ngày nay trong thế giới phương Tây có rất nhiều xu hướng khác nhau liên quan đến phần giáo lý cũng như các phương pháp tu tập Phật giáo, và hình như một số người Tây phương tu tập Phật giáo cũng bất đồng chính kiến giữa họ với nhau về quan điểm do Đức Phật chủ trương liên quan đến vấn đề ham muốn tình dục – và theo như ngài đã trình bày trên đây thì sự ham muốn ấy là sự biểu lộ của tham lam vô độ – cần phải vượt lên trên mới có thể đạt được Giác ngộ. Ngược lại, trong bối cảnh tự do của các xã hội Tây phương ngày nay, nhiều người có khuynh hướng nghĩ rằng tình dục là một cách biểu lộ lành mạnh và tự nhiên của con người – không những chỉ trong lãnh vực con người mà thôi mà có thể cả trong lãnh vực tâm linh nữa. Vậy ngài nghĩ như thế nào về những lời của Đức Phật về việc này ?
Bhante Gunaratana : Trước khi chuyển sang đề tài khác, tôi muốn lưu ý vài lời về đoạn văn vừa trích dẫn trên đây. Bạn cũng hiểu là Đức Phật có nói đến vấn đề tình dục, tuy nhiên Ngài không phải chỉ đề cập đến sự trinh bạch của người đàn ông, mà cả của người phụ nữ nữa. Vậy trong trường hợp khi Ngài nói rằng thà nuốt một viên sắt nung đỏ còn hơn là dính líu vào những hành vi tình dục, thì phải hiểu rằng câu nói đó muốn nhắc nhở cả người phụ nữ nữa. Chúng ta cần phải xác định thật minh bạch về điểm này, nếu không sẽ làm cho người phụ nữ phật lòng nhiều lắm đấy. Họ sẽ nghĩ lầm là Đức Phật thù ghét người phụ nữ và muốn cho người đàn ông phải giữ gìn trinh bạch bằng cách lánh xa họ. Một người phụ nữ muốn giữ sự trinh bạch cũng phải lánh xa người đàn ông. Đấy là điểm mà tôi muốn làm sáng tỏ trước nhất.
Điểm thứ hai liên quan đến việc thành lập gia đình, có vợ, có con, vân vân và vân vân thì Đức Phật không hề cấm đoán ; đời sống tình dục mang lại hạnh phúc trong gia đình của những người thế tục là một điều chính đáng, dù rằng điều đó, như tôi đã nói, không thể nào đưa đến Giác ngộ toàn vẹn được.
Để trả lời cho câu hỏi của bạn, không phải chỉ riêng trong các xã hội ngày nay mà cả trong thời đại Đức Phật còn tại thế, nhiều người đã từng tin rằng tình dục là một thứ gì rất thánh thiện, cao cả, thiêng liêng và mầu nhiệm. Vì thế sự kiện vừa được nêu lên trên đây không phải là một hiện tượng cá biệt của những xã hội tân tiến trong thế kỷ hai mươi. Tâm tính con người không thay đổi từ muôn thuở cho đến ngày nay, và trong tương lai cũng vẫn sẽ là như thế. Luôn luôn vẫn có người nghĩ rằng họ sẽ có thể tự giải thoát bằng tình dục, và đấy là những gì mà tôi gọi là một sự nhận thức méo mó, những ý nghĩ méo mó.
Simon Alev : Theo sự trình bày của ngài thì sự « nhận thức méo mó » đó có vẻ như đặc biệt phổ biến ngày nay, cũng như đã từng phổ biến từ ngàn xưa. Tôi chỉ muốn nêu lên khái niệm ngày càng trở nên phổ biến cho rằng nếu đưa tình dục đến điểm tột cùng thì cũng có thể xem đó như là một hình thức biểu lộ của Giác ngộ – nói theo chiều hướng đó thì tình dục cũng có thể được xem như là con đường dẫn đến giải thoát… Nếu ngài cố tình tránh né nó với bất cứ giá nào thì ngài sẽ không có một chút hy vọng nào để đạt được mục đích cuối cùng mà ngài mong muốn. Nếu có thể xin ngài chỉ dẫn thật minh bạch Đức Phật đã phát biểu ra sao về quan điểm ấy.
Bhante Ganaratana : Tôi khá thuộc lòng về điều này. Đức Phật nói rằng – đây là tôi dịch thẳng từ tiếng Pali – « Bất kể là ta có thể làm được gì hay thực hiện được gì – dù cho ta sống trong hang động hay một nơi vắng vẻ, thuộc làu tất cả kinh điển ; hoặc dù cho ta là một nhà hùng biện thật thông thái, sống bằng đạo đức, hay tất cả những thứ đó kết hợp lại, vân vân và vân vân… – kể cả trường hợp ta làm được bất kể thứ gì khác cũng thế ; nhưng cho đến khi nào ta chưa loại bỏ được thèm khát tình dục, hận thù và vô minh thì khi đó ta vẫn chưa có thể đạt được Giác ngộ ». Đấy là những lời giáo huấn của Đức Phật.
Do đó nếu ta càng liên lụy đến các thứ sinh hoạt tình dục, thì ta lại càng bị trói buộc nhiều hơn trong sự thèm khát, càng rơi sâu hơn vào cảnh bất an và càng trở nên ghen tuông khốc liệt hơn. Bất kể đấy là trường hợp của một người đàn ông hay một người đàn bà, khi đã đắm mình trong những sinh hoạt tình dục với thật nhiều người thì người ấy cũng sẽ nhận lấy thật nhiều khổ đau, tương xứng với số người mà mình đã liên lụy và những hậu quả do chính mình tạo ra : khổ đau sẽ phát sinh từ ghen tuông, sợ hãi, căng thẳng, lo âu… Một cuộc sống như thế sẽ hết sức nguy hại. Nếu một cá nhân nào đó liên lụy tình dục với thật nhiều mẫu người khác nhau, bằng mọi kiểu cách khác nhau, liên miên và bất tận, thì nhất định người ấy sẽ chết sớm vì những hành vi thiếu lành mạnh của mình. Đến đây, có lẽ bạn cũng đã hiểu rõ là sự sinh hoạt tình dục trong chừng mực và thận trọng không phải là một điều cấm đoán. Tuy nhiên nếu bảo đấy là cách « đạt được Giác ngộ bằng phương tiện tình dục » thì thật sự câu ấy chỉ có nghĩa là : đắm mình trong những sinh hoạt tình dục cho đến khi chết thế thôi ! Và nhất định theo cách đó thì ta sẽ chết trước khi đạt được Giác ngộ !
Simon Alev : Qua các công cuộc thăm dò của chúng tôi thì chúng tôi nhận thấy khái niệm cho rằng tình dục mang tính cách thiêng liêng không những khá phổ biến ngày nay mà nhiều người thấm nhuần nền văn hóa Tây phương còn nhìn sự trinh bạch với con mắt sợ hãi và đầy ngờ vực. Theo ngài thì sự kiện ấy do đâu mà ra ?
Bhante Gunaratana : Nếu như sự trinh bạch được giữ gìn một cách nghiêm túc thì người được thừa hưởng chính là người đã thực hiện được việc ấy. Bạn không thể đứng ra thành lập một học viện nghiên cứu và giảng dạy về sự trinh bạch. Sự trinh bạch không phải là một thứ gì có thể biến thành một thể chế được quy định bởi những quy tắc có tính cách tập thể. Nó không phải là một thứ gì lệ thuộc vào một tổ chức có tính cách quy mô. Không thể nào có một xã hội trinh bạch. Sự trinh bạch có tính cách hoàn toàn cá nhân và tự nguyện. Vậy, nếu có những người bài bác sự trinh bạch thì có thể chính những người ấy cũng sẽ đứng ra chống lại một tập thể chủ trương sự trinh bạch.
Simon Alev : Tuy nhiên, hình như bất cứ một ngôi chùa nào hay một học phái nào cũng thế, tất cả đều phải tuân thủ một số quy tắc nào đó. Thành thực phải nói là chúng tôi vừa thán phục lại vừa bối rối khi đọc qua những quy tắc tập luyện về Patimokkha [dịch âm là Ba-la-đề mộc-xoa, dịch nghĩa là Cấm giới, gồm một số các quy luật mà những nhà sư Phật giáo phải tuân thủ] và khám phá ra rằng Đức Phật hình như đã thiết đặt một hệ thống quy luật cấm đoán người tu hành liên hệ đến những giao du tình dục – chỉ xin nêu lên một vài thí dụ mà tôi chắc chắn là ngài đã biết – chẳng hạn những thứ như sọ người, thây ma, thú vật… Căn cứ theo riêng sự hiểu biết của chúng tôi thì thái độ đó không còn thích nghi với thời đại ngày nay nữa – chưa kể là không nhất thiết còn đúng như thế – do đó chúng tôi tự hỏi : Đức Phật thiết lập các quy tắc như thế có đủ sức ngăn chận những gì mà người ta vẫn thường làm hay không ? Trong số đó kể cả trường hợp của các người tu hành và các đệ tử của Đức Phật ?
Bhante Gunaratana : Vâng. Khi Đức Phật đưa ra một quy tắc nào đó, thì các người tu hành kể cả trong thời buổi bấy giờ liền tìm ngay cách tránh né để tiếp tục thực thi như trước. Họ vẫn tiếp tục tìm cách sinh hoạt tình dục bằng cách này hay cách khác. Vì thế, khi Đức Phật đưa ra một quy tắc, họ không phá bỏ quy tắc ấy, nhưng lại tìm cách khác để tiếp tục vi phạm vào hành vi tình dục. Đức Phật lại phải đưa ra một quy tắc mới để ngăn chận. Giống hệt với trường hợp cảnh sát và những kẻ tội phạm ngày nay – khi có một đạo luật được đưa ra, thì bọn tội phạm sẽ tìm ngay cách tránh né để tiếp tục phạm pháp, và người ta lại phải đưa thêm một đạo luật mới. Những chuyện như thế cũng đã từng xảy ra trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế. Khi số người gia nhập Tăng đoàn càng nhiều thì họ cũng bắt đầu gây ra đủ mọi thứ rắc rối, và chính vì những rắc rối ấy nên cần phải thiết lập các quy tắc. Vì thế mà các quy tắc còn lưu lại cho đến ngày nay. Không phải vì lý do muốn phòng ngừa trước mà Đức Phật đã đặt ra những quy tắc như thế.
Simon Alev : Vậy thì chúng ta đang ở trong cái thời buổi tương lai như vừa nói, và ngài đã hướng sự tu tập của ngài vào việc truyền bá lối sống xuất gia do Đức Phật chủ trương vào thế giới phương Tây, vì thế tôi cũng rất tò mò muốn biết ngài đã gặt hái được những kinh nghiệm nào trong số những người Tây phương đã tìm đến ngài để học hỏi. Những người Tây phương tân tiến ngày nay có sẵn sàng và quyết tâm xuất gia hay không ?
Bhante Gunaratana : Bạn có hiểu là bạn vừa nêu lên một câu hỏi thật là chí lý hay chăng ? Chúng tôi gạn lọc thật cẩn thận trước khi cho họ gia nhập vào đời sống tu viện. Chúng tôi bắt họ phải vượt qua một thời gian thử thách hai năm để xem quyết tâm của họ có chín chắn hay chưa. Bởi vì đôi khi cũng có một số người chỉ muốn đến đây để tìm sự vui thích, hoặc để tìm sự thanh tịnh và an bình trong cảnh giới tu hành của chúng tôi, vân vân và vân vân, họ nghĩ rằng họ có thể lưu lại lâu dài để trở thành những nhà tu hành thật sự. Nhưng thật ra sau đó thì họ đổi ý. Chúng tôi không muốn đùa bỡn với cái trò ấy mà chỉ muốn duyệt xét xem họ có thành tâm hay không. Nếu như họ thành tâm thì chúng tôi chấp nhận. Tuy nhiên số người đó không đông đảo gì. Có nhiều người đến tận đây, và cũng có nhiều người viết thư – và gần đây hơn thì họ dùng điện thư (e-mail) ! – khẩn thiết xin chúng tôi được gia nhập vào đời sống tu viện trong mục đích tu tập để trở thành những nhà sư như chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi không chấp thuận đồng loạt cho tất cả, vì chúng tôi hiểu rằng sau đó phần lớn sẽ lơi là và không còn giữ được sự nhiệt thành như lúc ban đầu.
Tuy nhiên vẫn có một số người rất thực tâm muốn trở thành các nhà sư hay ni cô. Đấy cũng chẳng phải là một điều gì mới lạ. Từ những thời xa xưa cũng thế mà thôi, trong số hàng triệu người thì chỉ có một số nhỏ xuất gia để vào chùa tu hành. Trong các nước Phật giáo ngày nay cũng vậy, đâu phải tất cả mọi người đều xuất gia để vào chùa. Một vài quốc gia như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, và vân vân…, dân chúng có truyền thống xuất gia và vào chùa trong một thời gian ngắn. Đối với những người vào chùa ngắn hạn trên đây thì hầu hết đều cởi áo sau đó và trở về cuộc sống thế tục. Chỉ còn lại một nhóm rất ít mà thôi.
Các nước Tây phương không có truyền thống giống như thế, vì vậy mà số người xin vào chùa lại còn ít hơn nữa. Và trong số này, những người lưu lại lâu dài để tiếp tục tu hành lại còn hiếm hoi hơn gấp bội. Quả là như thế, sự kiện ấy khá giống nhau trên toàn thế giới, và từ xưa đến nay cũng vẫn thế mà thôi. Trong thế giới Tây phương con người ngày càng trở nên mệt mỏi dưới các áp lực của xã hội – quả thật những áp lực ấy hết sức nặng nề – và vì thế mà họ muốn xa lánh xã hội. Chúng tôi thành lập Trung tâm tu tập này cũng vì sự kiện đó, và thật ra từ xưa đến nay ở đâu cũng thế.
Simon Alev : Tôi muốn được biết thêm đôi chút về ngài, nhất là cuộc sống của một nhà sư như ngài. Chẳng hạn như việc giữ gìn sự trinh bạch đã ảnh hưởng như thế nào đến sự thăng tiến tinh thần trong việc tu tập của chính ngài ?
Bhante Gunaratana : Này anh bạn của tôi ơi, chuyện đó đã mang lại cho tôi một sự an bình kỳ diệu. Tôi nói với tất cả sự thành thực đấy nhé. Bởi vì tôi có thể sống chung với tất cả chúng sinh mà chẳng có vấn đề gì cả. Không riêng gì đối với một người đàn bà nào, không riêng gì đối với một phụ nữ nào, không riêng gì đối với một cậu trai nào, hay một người đàn ông nào cả, bởi vì sự trinh bạch của tôi đã giúp cho tôi đối xử giống như nhau đối với tất cả chúng sinh. Và điều đó đã giúp tôi tìm thấy một tâm thức an bình. Và tôi cũng tự nghĩ rằng có lẽ Đức Phật cũng mong muốn cho mỗi người trong chúng ta thực hiện được điều ấy – tức là một mối giây thân thiện, an bình với tất cả chúng sinh. Chính vì thế mà việc ấy đã ảnh hưởng một cách tích cực vào cuộc sống của chính tôi.
Simon Alev : Tôi hiểu rằng ngài chọn cuộc sống của một người tu hành từ khi ngài được…
Bhante Gunaratana : Mười hai tuổi. Và hôm nay tôi đã bảy mươi bảy tuổi. Tôi đã khoác lên người chiếc áo cà-sa này trong suốt sáu mươi lăm năm !
Simon Alev : Nếu có một người nào đó muốn giữ gìn sự trinh bạch trên đường tu tập thì ngài sẽ khuyên họ như thế nào ?
Bhante Guanaratana : Tôi sẽ khuyên người ấy rằng : « Nếu bạn ước muốn một cách lương thiện và thành thật được sống một cuộc sống an bình, có ý thức và trách nhiệm, một cuộc sống không bị rối rắm, một cuộc sống hy sinh cho tất cả mọi người không phân biệt bất cứ ai, thì cuộc sống trinh bạch sẽ là một cuộc sống tốt nhất, bởi vì khi giữ được sự trinh bạch thì ta mới có thể phát lộ được sự trìu mến và yêu thương đích thực, lòng từ bi đích thực. Lúc đó ta mới có đủ khả năng yêu mến bất cứ thứ gì hiển hiện ra trước mắt ta. Và ta mới có thể tạo được một tâm thức bình thản và không lệch lạc. Nếu ta còn bị vướng mắc vào người này hay người khác thì ta sẽ không thể nào thực hiện được những gì như vừa được nêu lên. Vì thế, nếu như bạn là một người ước mong thành thực và lương thiện muốn thực hiện cho được những điều vừa kể trên đây thì tốt nhất nên nghĩ ngay đến việc giữ gìn trinh bạch ». Tuy nhiên không bao giờ nên giữ gìn sự trinh bạch như là một thứ đức tin, hoặc là một thứ gì do người khác bắt buộc và áp đặt cho mình. Cần phải ý thức một cách nghiêm túc, và nhất là phải nghĩ đến vấn đề trinh bạch thật cẩn thận trước khi chấp nhận nó.
Simon Alev : Có nghĩa là chấp nhận điều đó với hai mắt mở to.
Bhante Gunaratana : Đúng như thế.
Simon Alev : Và người đó sẽ phải đương đầu với thật nhiều thử thách ?
Bhante Gunaratana : Nhất định là như thế. Khi muốn giữ gìn sự trinh bạch thì luôn luôn phải đối đầu với mọi thử thách. Tất nhiên sẽ có nhiều người muốn giây giướng với ta, họ muốn gần ta và làm cho ta khó giữ được những lời nguyện. Chẳng qua vì họ hiểu rằng ta không phải là thứ người hư đốn, không phải là hạng người bởn cợt, vì ta không gian díu với những gì xấu xa và không vướng vào mọi thứ bịnh tật và các thứ khác nữa. Mọi người đều hiểu ta là hạng người đoan trang và minh bạch. Thường thì vẫn có nhiều người thích gần gũi với những ai minh bạch, và chính đó là một thử thách. Phải đương đầu là như thế đó.
Simon Alev : Ngài nói rằng ngài đã tuân thủ quy tắc trinh bạch đã sáu mươi lăm năm. Vậy những kinh nghiệm của ngài về việc giữ giới ấy đã biến đổi như thế nào, chúng có trở nên sâu sắc hơn qua thời gian hay không ?
Bhante Gunaratana : Bạn có biết không, giai đoạn đầu hết sức khó khăn. Nhất là vào thời kỳ tôi còn trẻ, từ thời niên thiếu cho đến khi tôi hai mươi tuổi. Thật là một sự thử thách lớn lao. Tuy nhiên nhờ vào tu tập tôi đã phát huy được tinh thần trách nhiệm trước bổn phận của tôi, sứ mạng của tôi, và lời nguyện ước của tôi trước Phật Pháp, và nhất là còn một lý do khác quan trọng hơn thế nữa, ấy là sự kính trọng đối với các vị thầy và cha mẹ tôi. Tôi rất thương các bậc giáo huấn và cha mẹ tôi, vì thế mà tôi không muốn phản bội và đánh mất sự kính trọng của tôi đối với họ. Tình trạng đó kéo dài trong nhiều năm trước khi tôi hoàn toàn trở thành chín chắn. Chính là như thế đó, tôi đã tự khám phá ra cho tôi cái ý nghĩa sâu xa của sự trinh bạch.
II – Vài lời góp ý
Bài phỏng vấn ngài Bhante Gunaratana trên đây phản ảnh quan điểm rất trung thực đối với giáo lý nhà Phật. Những kinh nghiệm của ngài về sự giữ gìn trinh bạch cũng đáng cho chúng ta kính phục và ngưỡng mộ. Tuy nhiên một tầm nhìn khác dưới một góc cạnh khác biết đâu cũng có thể giúp chúng ta tìm hiểu thêm về quan điểm của giáo lý nhà Phật đối với vấn đề tình dục.
Đức Phật giảng về Lý duyên khởi như sau : « cái này có, cái kia sinh ra ». Sở dĩ tình dục và vô số những biểu hiện của nó phát sinh và lôi kéo nhau là vì bên trong mỗi chúng sinh đều có sẵn cái bản năng truyền giống. Bất cứ một sinh linh có giác cảm nào, dù là côn trùng, thú dữ hay con người thì khi sinh ra trong thế gian này đều mang sẵn cái bản năng ấy. Có lẽ cũng cần nhắc lại là kinh sách tiếng Việt gọi chung các sinh linh có giác cảm là chúng sinh hữu tình. Chữ hữu tình dùng không được sát nghĩa lắm, vì các sinh vật đơn bào, các loài côn trùng kém tiến hoá nhất dù không « hữu tình » nhưng vẫn mang sẵn cái bản năng truyền giống.
Đã có không biết bao nhiêu loài sinh vật từng bị diệt chủng trong lịch sử địa cầu, tuy nhiên ngày nay trên hành tinh này sự sống vẫn tiếp tục gia tăng với sáu tỉ người sống chen chúc với vô số vi trùng và các loài sinh vật khác. Bản năng truyền giống là một động cơ rất mạnh góp phần thúc đẩy sự biến động trong thế giới luân hồi. Chúng ta thử tìm hiểu xem động cơ ấy đã tác động ra sao đối với từng cá nhân và cả tập thể con người, và Đạo Pháp đã đưa ra những phương cách nào để giúp chúng ta khắc phục những tác hại của nó.
Bản năng truyền giống
Động cơ truyền giống làm phát sinh sự ham muốn tình dục như là một nhu cầu trong quá trình phát triển sinh lý của một cá thể, và nhu cầu đó được khoa học định nghĩa là một thứ bản năng. Trên phương diện y khoa và tâm lý học thì « nhiên liệu » làm xoay chuyển động cơ tình dục gồm có các kích thích tố (hormones) trong cơ thể và những xung động trong tâm thức. Các yếu tố ấy tùy theo nghiệp của mỗi cá thể sẽ hàm chứa những xu hướng và tiềm năng khác nhau, và chúng sẽ mang lại những tác động khác nhau khi phối hợp với bối cảnh và các biến cố chung quanh, tức là cơ duyên. Vì thế cường độ và xu hướng tác động của bản năng tình dục cũng sẽ mang lại những tác động khác nhau tùy theo mỗi cá thể, có nghĩa là đưa đến sung sướng, hạnh phúc, thoả mãn, hay là thất tình, ủ dột, đau khổ, tự tử, sát nhân…
Những đòi hỏi hay xung động tình dục phát hiện ra bên ngoài dưới muôn ngàn biểu hiện như trang sức, phấn son, nước hoa, thể dục, y trang, giải phầu thẩm mỹ, cách cố gắng tập từng cử chỉ và cách ăn nói sao cho thật quyến rũ… trong mục đích lôi cuốn những cá thể khác phái, hoặc hiển hiện dưới những thể dạng mang đặc tính « nghệ thuật » như thí phú, văn chương, tiểu thuyết, phim ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc…mang tính cách « trữ tình ». Các sinh hoạt xã hội cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi những xung động tình dục chẳng hạn như các sinh hoạt văn hóa, các thói tục dân gian… Kinh tế cũng lệ thuộc ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp vào bản năng truyền giống, chẳng hạn như sự giàu sang là một phương tiện thu hút người khác phái, hình ảnh khêu gợi được ghép vào các sản phẩm kỷ nghệ trong mục đích quảng cáo, các tổ chức thương mại lợi dung nhu cầu ham muốn tình dục để trục lợi… Sự phức tạp cứ như thế mà nhân lên cho đến cùng cực và đó cũng là một trong những khía cạnh đặc thù của thế giới ta bà.
Bản năng truyền giống mang tính cách bẩm sinh và hiện hữu nơi tất cả mọi chúng sinh, vì thế cũng có thể xem đó là một thứ cộng nghiệp mang lại khổ đau cho thế gian này. Các khoa học gia cho biết 99 % tài nguyên của nhân loại là do địa cầu cung ứng và nguồn cung ứng đó đang cạn dần. Một phần ba nhân loại sống dưới mức tối thiểu và cơ quan FAO của Liên Hiệp Quốc cho biết là trong năm 2009 có hơn một tỉ người thiếu ăn, và cứ mỗi giây lại có một đứa bé chết vì đói, trong khi đó bản năng truyền giống không cho thấy một dấu hiệu nào suy giảm mà còn có vẻ gia tăng thêm để đày đọa con người nhiều hơn nữa.
Xung động tình dục và Thập nhị nhân duyên
Như đã nhắc đến trên đây về Lý duyên khởi : « cái này có, cái kia sinh ra », câu ấy cũng có nghĩa là không có một vật gì hay một biến cố nào sinh ra mà lại không có một nguyên nhân. Vậy nguyên nhân của bản năng truyền giống là gì ? Thập nhị nhân duyên mà kinh sách Tây phương dịch là Mười hai mối giây tương liên hay trói buộc, là một quá trình diễn tiến của một số hiện tượng níu kéo nhau tùy theo duyên và nghiệp để trói buộc chúng sinh trong cõi luân hồi. Trong số mười hai mối giây của Thập nhị nhân duyên thì mối giây đầu tiên hay nguyên nhân thứ nhất chính là vô minh. Vô minh sinh ra tác ý (cetana), tác ý sinh ra hành động hay nghiệp, nghiệp đưa đến tái sinh. Nếu một cá thể tái sinh làm người thì sẽ mang bản năng của con người, nếu tái sanh làm một con thú thì sẽ mang bản năng của một con thú. Có nhiều thứ bản năng, chẳng hạn như bản năng sinh tồn thúc đẩy chúng sinh tìm kiếm hay tranh dành miếng ăn để sống còn, bản năng truyền giống để bảo toàn chủng loại, bản năng sợ chết để tiếp tục bám víu…
Trong chu kỳ hiện hữu hiện tại mỗi cá thể tiếp tục hành động trong vô minh để tạo nghiệp và đó là cách tự trói mình vào chu kỳ hiện hữu tiếp theo. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giải thích rất rõ trong một số sách của ngài về mối giây thứ nhất của Thập nhị nhân duyên và gọi đó là vô minh nguyên thủy, tức là nguyên nhân đầu tiên thúc đẩy sự tái sinh của một cá thể. Xung động tình dục là một trong những thành phần quan trọng thuộc vào nguyên nhân đầu tiên ấy.
Có thể loại trừ được bản năng tình dục hay không ?
Để so sánh với bản năng tình dục chúng ta thử chọn một bản năng khác, chẳng hạn như bản năng bú vú mẹ của một hài nhi hay của bất cứ một sinh vật sơ sinh nào thuộc vào loài có vú. Khi mới lọt lòng mẹ thì hài nhi hay sinh vật sơ sinh đều mang bản năng tìm vú mẹ để bú, bản năng đó giúp cho chúng sinh tồn. Khi tuổi sơ sinh chấm dứt thì bản năng đó cũng yếu dần và biến mất. Bản năng truyền giống cũng tương tợ như thế, nó bắt đầu phát sinh vào tuổi thiếu thời, trở nên rất mạnh khi trưởng thành, sau đó sẽ giảm xuống và mất hẵn lúc bước vào tuổi già nua. Bản năng đó lệ thuộc vào sự phát triển sinh lý và sự bài tiết các kích thích tố trong cơ thể, phối hợp với xúc cảm và những xung động thèm muốn trong tâm thức. Tóm lại bản năng truyền giống không có tính cách độc lập và trường tồn mà chỉ là một hiện tượng giai đoạn và tạm thời, được tạo tác bởi sự phối hợp của nhiều điều kiện. Vì thế nên hiện tượng đó nhất định mang bản chất vô thường và có thể biến cải được bằng những điều kiện khác hơn là những điều kiện đã tạo tác ra nó.
Cách nay khá lâu, trong một buổi thuyết giảng Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lấy ngón tay chỉ vào đùi mình và bảo rằng không có vấn đề gì cả và ngài bật cười thật to, thật hồn nhiên và vui vẻ. Ngài Banthe Gunaratana thì đặt trách nhiệm và bổn phận của mình cũng như những lời nguyện trước Phật Pháp và lòng kính trọng đối với các vị thầy và cha mẹ mình lên trên sự đòi hỏi của bản năng truyền giống. Chúng ta là những người thế tục, dù không xuất gia nhưng nếu đã ý thức được bản chất vướng mắc và khổ đau của bản năng tình dục thì cũng nên tìm kiếm cho mình những phương pháp để chủ động bản năng ấy, không nên để cho nó thao túng, chi phối và điều khiển ta một cách quá dáng.
Có nhiều phương cách giúp chủ động được những đòi hỏi tình dục. Ngài Banthe Gunaratana thì dùng cách loại bỏ hay biến cải. Loại bỏ hay biến cải một cái nghiệp hay một bản năng là một việc rất khó vì phải đương đầu trực tiếp với các tác động của chúng. Hóa giải có lẽ là phương pháp tốt hơn và dễ thực hiện hơn, ít nhất là cho những người thế tục. Giáo lý nhà Phật thường hay nhắc đến các liều thuốc hoá giải, chẳng hạn như liều thuốc hóa giải hận thù là yêu thương, liều thuốc hóa giải sân hận là tha thứ và sau hết là liều thuốc cực mạnh có thể hóa giải tất cả mọi thứ và trị được bá bịnh, ấy là lòng từ bi vô biên… Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem đối với những thúc đẩy của bản năng tình dục thì có những liều thuốc nào khả dĩ có thể hóa giải được những biểu hiện bấn loạn hay thái quá của nó hay không ?
Các liều thuốc hóa giải
Thông thường người ta chỉ biết vá víu và ngăn chận hậu quả, nhưng không hề nghĩ đến căn nguyên. Khi gặp phải khó khăn trước những biểu hiện phát sinh từ xung động tình dục thì người ta có chiều hướng tìm cách giải quyết bằng cách này hay cách khác, nếu giải quyết không được thì đành bó tay và gánh chịu những tác động của chúng như hận thù, bám víu, ghen tuông, thất tình, buồn khổ, ẩu đả, sát sinh, tự tử… Trong trường hợp ngược lại, khi các đòi hỏi tình dục được thỏa mãn một cách suông sẻ thì người ta lại cho đấy là « hạnh phúc » và nghĩ rằng dục tính có thể là một con đường đưa đến Giải thoát tâm linh. Ngài Bhante Gunaratana bác bỏ một cách khẳng định con đường « giải thoát » dại dột và thiển cận ấy mà nhiều người Tây phương tôn thờ. Trên phương diện xã hội, để ngăn chận những tác động bấn loạn và nguy hại do tình dục gây ra thì người ta thường dùng những phương pháp phân tâm học hay thuốc men để chữa trị, đối với các trường hợp nghiêm trọng hơn như hãm hiếp, thích liên hệ tình dục với trẻ con… thì phải cần đến những biện pháp mạnh hơn, chẳng hạn như giam cầm, tù tội, xử tử…
Trong khi đó giáo lý nhà Phật chủ trương một phương pháp rốt ráo hơn nhiều, giúp chúng ta nhìn thẳng vào nguyên nhân và nguồn gốc của mọi bấn loạn để ý thức được những hậu quả tai hại của chúng để mà tìm cách hóa giải chúng. Trong trường hợp cần phải hóa giải bản năng truyền giống thì chúng ta có thể rút tỉa được những lời dạy bảo nào trong Đạo Pháp ? Sự ham muốn tình dục cần có một đối tượng để thèm khát, có nghĩa là một cái ngã chủ thể nhìn vào hay bám víu vào một cái ngã khác làm đối tượng. Vậy phương pháp thứ nhất là hóa giải cái ngã của đối tượng và sau đó là hoá giải cái ngã của chủ thể. Phương pháp thứ ba không cần hóa giải gì cả, chỉ cần vượt lên trên mọi bấn loạn với tấm lòng từ bi.
– Phương pháp phóng nhìn ra bên ngoài tức nhìn vào đối tượng của sự ham muốn :
Sự ham muốn tình dục đòi hỏi phải có một đối tượng để ham muốn, đối tượng ấy thông thường là thân xác của một người khác phái, hoặc đồng phái trong trường hợp đồng tính luyến ái, và cũng có thể là thân xác của một đứa bé trong trường hợp thích quan hệ tình dục với trẻ con… Kinh sách mô tả thân xác của một cá thể như thế nào ? Đó là một thể dạng cấu hợp gồm có : lông, tóc, da, chất nhờn, mùi hôi, máu, mủ, xương, thịt, mỡ, ruột, gan, phổi, gân, giây chằng, nước tiểu, phân… Khi ta nhìn vào một thân xác và quán nhận được bản chất cấu hợp của nó thì đấy là liều thuốc có thể hóa giải những thèm khát tình dục. Thể dạng cấu hợp ấy luôn luôn biến động, vô thường, chất chứa mầm móng của đủ thứ bịnh tật, vi trùng và nó đang chuyển dần đến trạng thái già nua và tan rã.
Nếu nhìn sâu hơn nữa thì ta sẽ thấy bên trong cái thân xác cấu hợp ấy che dấu một tâm thức có thể đang bị chi phối bởi lo âu, sợ sệt, ham muốn, hận thù, tính toán, mưu mô, hám lợi, si mê… Những xúc cảm bấn loạn đó, nếu không được loại trừ bằng tu tập mà tạm thời chỉ bị đè nén bởi những thèm khát tình dục, che lấp bởi những đam mê tình ái, thì sau này sớm hay muộn chúng cũng sẽ phát lộ thành ngôn từ và hành động.
Nếu ta phóng nhìn vào một thân xác gồm lông, tóc, mùi hôi, máu, mủ, ruột, gan, nước tiểu, phân…, và dựa vào những thành phần cấu hợp đó để diễn đạt thành những thể dạng xúc cảm trong tâm thức như gương mặt dịu dàng, mái tóc óng ả, ngực to, mộng rộng, dáng người thướt tha, giọng nói dễ thương, miệng cười có duyên, đôi mắt mơ màng…, hoặc thân người khoẻ mạnh, ăn nói chửng chạc, gương mặt cương quyết, cử chỉ hào phóng, dáng đi uy nghi, đôi mắt đam mê…, thì sớm hay muộn nhất định vô số những khó khăn sẽ theo đó mà phát sinh. Tóm lại sự kiện quán nhận được bản chất đích thực của đối tượng thèm khát, không bị bóp méo và biến dạng bởi những diễn đạt của tâm thức sẽ là một liều thuốc hóa giải hiệu nghiệm.
– Phương pháp nhìn vào bên trong, tức nhìn vào chủ thể của sự ham muốn :
Khi nhìn ngược vào bên trong của chính mình và hiểu rằng những thèm khát tình dục sở dĩ phát sinh là do sự bài tiết của các kích thích tố trong cơ thể, thì khi đó có thể ta sẽ tự nhủ có nên nô lệ cho sự bài tiết ấy hay không ? Tiếp theo ta cũng có thể tự hỏi những thúc đẩy của bản năng truyền giống để bảo tồn chủng loại có thật sự cần thiết cho riêng bản thân mình hay chăng ? Tham dự vào những thúc đẩy của bản năng truyền giống chỉ là một cách tham gia tập thể để trực tiếp mang lại khổ đau cho mình và những người khác và gián tiếp mở rộng thêm cái thế giới luân hồi mà thôi.
Nếu nhìn sâu hơn vào tâm thức của chính mình thì ta sẽ nhận ra những xúc cảm mà ta cho là « hạnh phúc » thật ra chỉ là những giây phút thoả mãn tạm thời của sự thèm khát tình dục. Tâm thức ta bị che lấp bởi những diễn đạt đủ loại, đại khái như tình yêu thoả mãn, vợ đẹp, con khôn, chồng giỏi, trung thành…, và không hề nghĩ rằng tất cả những thứ diễn đạt ấy chỉ là những biểu hiện ngấm ngầm của bản năng truyền giống khuyến khích ta tham dự tích cực hơn vào việc bảo tồn chủng loại. Đấy là những vướng mắc bên trong của ta, và nếu ta còn đem cái vướng mắc của một cá thể bên ngoài để ghép thêm vào đó thì sự vướng mắc chung sẽ nhân lên gấp đôi. Biết nhìn vào bản chất đích thực của chủ thể thèm khát và đối tượng thèm khát nhất định là một liều thuốc hóa giải.
– Phương cách đi thẳng vào con đường Đạo Pháp :
Căn bản của giáo lý nhà Phật là con đường đưa đến sự đơn giản : đơn giản trong lối sống, trong ngôn từ và hành động, đơn giản trong sự suy nghĩ và diễn đạt. Đạt được thể dạng đơn giản tuyệt đối và tối thượng có nghĩa là đạt được sự giải thoát. Ngài Bhante Gunaratana hoàn toàn có lý khi bảo rằng nếu còn vướng mắc trong ham muốn tình dục thì không thể nào đạt được Giác ngộ.
Tất cả chúng ta đều chung bước trên một con đường duy nhất, ấy là thế giới ta bà. Trên con đường đó những người tu tập ý thức được nguyên nhân và nguồn gốc của những vướng mắc tình dục nên họ quyết tâm bước theo hướng sẽ mang lại sự giải thoát cho họ. Trong khi đó, phần đông chúng ta đều bị nô lệ bởi bản năng truyền giống và bị thu hút bởi những biểu hiện muôn màu của nó, vì thế mặc dù cùng bước đi với những người tu tập trên một con đường, nhưng chúng ta lại bước theo chiều ngược lại để tự rước lấy muôn nghìn rối rắm và khổ đau. Kinh sợ con đường tạo nghiệp mang lại khổ đau là một liều thuốc hóa giải những xung động của bản năng truyền giống.
Dù là một người xuất gia hay một kẻ thế tục, khi họ đã bước vào con đường Đạo Pháp và ý thức được trách nhiệm đối với chính mình và những người chung quanh, thì khi đó sẽ không còn có gì để loại bỏ, biến cải hay hóa giải nữa, vì con đường đó thênh thang và quang đãng, không có gì để vướng mắc vào đôi chân của họ. Họ sẽ không còn nhìn thấy đối tượng của sự thèm khát, cũng không nhìn thấy chủ thể của sự thèm khát, tất cả chỉ là chúng sinh như nhau, và trên căn bản thì tất cả chúng sinh đều giống như nhau, đều bị trói buộc và nô lệ bởi những thúc đẩy bản năng, đang ngụp lặn trong những biểu hiện muôn vẻ và muôn màu của thèm khát tình dục.
Động lực nào giúp ta không thèm khát một thân xác gồm có lông, da, xương, thịt, ruột, gan, máu, mủ…, không còn bám víu vào những nhu cầu thúc bách trong thân xác và những xúc cảm u mê trong tâm thức mình ? Đó là viên thuốc nhiệm mầu của lòng từ bi vô biên.
Bures-Sur-Yvette, 24.10.09
Hoang Phong
(*): Trích trong sách Trí tuệ trong Phật giáo, Hoang Phong (2010), NXB Phương Đông, HCM.
Website Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ tác giả / dịch giả Hoang Phong và Cô Phú Ngọc đã gửi tặng ấn bản tiếng Việt. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.