Ở tiểu bang California của Hoa kỳ có một thanh niên đẹp trai, học giỏi, tốt nghiệp tại một trường đại học nổi tiếng và nhà cũng giàu có lắm. Anh ta có nhiều bạn gái, nhiều cô rất là xinh. Anh sống với mẹ và bà mẹ nhận ra rằng, anh ta chú ý đặc biệt tới một cô mà cô này không phải là người xinh nhất trong số các bạn gái của anh. Cô ta vừa không được trắng trẻo như những cô gái khác lại hơi thấp. Bà không biết tại sao con trai của bà lại đặc biệc chú ý tới cô ta?
Một hôm vui miệng bà ta hỏi con trai: Này con, mẹ thấy con có nhiều bạn gái rất xinh đẹp, dễ thương mà tại sao con lại đặc biệt chú ý tới cô gái đó. Nó đâu phải là đứa đẹp nhất, xinh nhất, nó hơi thấp và không được trắng lắm? Chàng trai này không có biết trả lời mẹ như thế nào vì anh chưa bao giờ tự đặt câu hỏi. Thương ai tự nhiên mình thương chứ đâu có tính toán vì sao mình thương đâu. Suy nghĩ một chút, anh ta tìm ra được câu trả lời: thưa mẹ tại vì cô này hiểu con.
Anh chàng là nhà khoa học nhưng anh lại thích làm thơ. Anh có làm được bốn năm chục bài thơ và tất nhiên rất thích các bài thơ ấy. Mỗi khi anh đem thơ ra để nói chuyện với các bạn, cô đó chính là người lắng nghe nhiều nhất và trong khi phát biểu cô ta chứng tỏ là người hiểu thơ của anh chàng rất nhiều, những người bạn khác nghe thơ của anh họ dửng dưng không chú ý gì lắm. Vì vậy nên anh ta đã để ý đặc biệt tới cô đó, dầu cô ta không phải là người xinh nhất.
Hiểu biết là nền tảng của thương yêu
Trong đạo Phật chúng ta được học rằng thương yêu được làm bằng hiểu biết. Khi không hiểu được một người thì mình không có thể nào thương người đó, yêu người đó sâu sắc được.
Danh từ chuyên môn của đạo Phật là từ bi và trí tuệ. Từ bi tức là thương và trí tuệ là hiểu biết. Giáo lý của đức Thế tôn rất đúng vì nếu không hiểu được người đó thì làm sao thương người đó đích thực được. Người đó dáng bề ngoài dễ thương nhưng trong lòng có thể có những điều không dễ thương, có những khó khăn, khổ đau, những bức xúc mà nếu không hiểu thì không thể nào thương được và mình sẽ sinh ra giận hờn trách móc, buộc tội lên án. Vì vậy cho nên hình dáng bên ngoài không phải là tất cả, mình cần phải hiểu thêm tâm hồn bên trong. Đức Thế tôn dạy rằng, không hiểu thì không thể nào thương được, hiểu là nền tảng của thương.
Chúng ta người nào cũng có nhu yếu được hiểu và được thương, nhiều người có cảm tưởng rằng trong đời chưa có ai hiểu mình được hết mà không hiểu mình thì làm sao thương được mình, cho nên chúng ta đói cái thương nhưng mà chúng ta cũng đói cái hiểu lắm. Có những chàng thanh niên, những cô thiếu nữ lang thang trong cuộc đời, đi tìm một người hiểu được mình và từ đó có thể thương được mình nhưng chưa bao giờ có cơ hội tìm ra được một người như thế, vì vậy khi gặp được một người có khả năng hiểu được mình thì rất may mắn. Khi mình nghĩ đến tình yêu, đến hôn nhân, mình phải đặc biệt chú ý đến điểm này của giáo lý của đạo Phật.
Nếu người không hiểu mình thì sẽ không thương mình được và sẽ làm mình đau khổ suốt đời. Chồng mà không hiểu được vợ thì chỉ làm khổ vợ thôi, làm sao mà làm cho vợ có hạnh phúc được? Nếu vợ không hiểu được chồng, không hiểu được những ước mơ, những khó khăn, những bức xúc, những nỗi khổ niềm đau của chồng thì người vợ đó làm sao chấp nhận và thương chồng được, vì vậy nên chúng ta phải nhớ một điều, thương được làm bằng cái hiểu. Nếu người cha không hiểu được người con thì càng thương chừng nào đứa con nó càng khổ chừng đó, cha nào mà không muốn thương con nhưng vì không hiểu được những khó khăn, bức xúc của con, cho nên càng thương lại càng làm cho con khổ.
Nhân danh tình thương mà người ta làm khổ nhau, đó là chuyện xảy ra trong đời sống hàng ngày. Tôi là một người vốn không ưa mùi sầu riêng. Một bữa nọ trên bàn Phật có một trái sầu riêng của ai dâng cúng. Tôi đang tụng kinh Pháp Hoa mà không chú tâm, không tập trung được vì mùi sầu riêng đó (hồi đó còn trẻ, mới hơn hai mươi tuổi thôi, tôi tụng kinh Pháp Hoa một mình) nên tôi lấy cái chuông úp trái sầu riêng lại và tụng cho xong phẩm kinh. Tụng xong tôi lạy ba lạy và giải phóng trái sầu riêng ra khỏi cái chuông. Quý vị vì thương tôi tụng kinh mệt mà mời tôi ăn vài múi sầu riêng thì chắc là tôi …chết, đó là thương nhưng mà không hiểu.
Vì vậy, không hiểu con thì không thể thương con được. Người cha phải tìm hiểu con mình: con ơi, con có nghĩ rằng bố hiểu được con không? Mình phải hỏi câu đó. Mình là mẹ cũng thế, mình phải có thì giờ để hỏi: Con ơi con có nghĩ rằng mẹ hiểu được con hay không. Nếu con thấy mẹ chưa hiểu được con thì xin con nói cho mẹ biết những nỗi khổ niềm đau, những khó khăn của con để mẹ có thể hiểu và mẹ sẽ không làm khổ con như trong quá khứ? Đó là ngôn ngữ của tình thương. Nếu mình làm bố thì mình cũng phải thực tập như thế này: Con trai của bố ơi, này con gái của bố ơi, con trai của bố có nghĩ là bố hiểu được con hay không? Tình thương của bố có làm cho con ngột ngạt, khổ đau hay không? Nếu con nghĩ rằng bố chưa hiểu con thì con phải giúp bố, con nói cho bố nghe những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của con để bố hiểu và bố sẽ không có áp đặt lên con những ý kiến của bố. Ngôn ngữ đó đích thực là ngôn ngữ của tình thương.
Mình cũng vậy, có khi mình giận hờn bố, mình trách móc bố, mình không nói ra nhưng mà mình có giận bố, giận mẹ. Cái đó cũng do mình không hiểu rõ bố và hiểu rõ mẹ. Mình phải giúp bố, giúp mẹ: Bố ơi, bố có nghĩ là con hiểu được bố hay không? Mẹ ơi, mẹ có nghĩ rằng con hiểu được mẹ hay không? Tại vì mẹ có những nỗi khổ niềm đau, những khó khăn mà chưa bao giờ con được nghe. Nếu mà mẹ nói cho con nghe những nỗi khổ niềm đau, khó khăn của mẹ thì có thể con không còn hành xử như trong quá khứ. Con đã lì lợm, phản ứng, tẩy chay, con đã lạnh lùng. Những cái đó xảy ra là vì con không hiểu được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của mẹ. Mẹ nói cho con nghe đi để từ nay về sau nhờ hiểu được mẹ mà con sẽ không hành xử như thế.
Đó là một người con có hiếu, đó là ngôn ngữ của tình thương. Bố ơi, bố có nghĩ là con hiểu được bố hay không, có thể là con chưa hiểu được bố, bố có những ước vọng, những bức xúc, những khó khăn, khổ đau, lo buồn mà con chưa biết được, vì vậy cho nên con đã hành xử không khôn ngoan. Con đã lì lợm, bất chấp, con đã thách đố bố một cách im lặng và cái không dễ thương đó là do con không hiểu được bố. Vậy xin bố nói cho con nghe những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của bố để con hiểu, từ nay về sau con sẽ không hành xử, sẽ không phản ứng như thế nữa.
Đó là lời nói của một người biết yêu thương. Mà cả hai bên đều phải cố gắng. Phía cha mẹ phải thế mà phía các con cũng thế, đối với bạn bè của mình, mình cũng hành xử như thế.
Gặp một người mà khi mình nói, người đó không có khả năng lắng nghe, người đó cướp lời mình hay áp đặt lên mình ý kiến riêng của người đó thì mình biết rằng nếu mình kết hôn với người ấy, mình sẽ khổ suốt đời. Tại vì cô ấy hay anh ấy không có khả năng lắng nghe, không có khả năng hiểu được mình.
Đây là điều thầy muốn trao truyền cho các con. Đây là một phương châm trong liên hệ hàng ngày. Muốn tìm một người bạn hôn phối để sống lâu dài với nhau thì mình phải theo nguyên tắc có hiểu mới có thương. Nếu người kia không có khả năng hiểu được mình thì mình biết rằng dù người đó có bằng cấp cao, có gia tài kếch sù, người đó có sắc đẹp thì người đó cũng sẽ làm khổ mình suốt đời, phải nhớ điều đó. Vì khi mình lấy một người mà người đó lại làm khổ mình suốt đời tức là mình đi vào một cái ngục tù gọi là tù chung thân. Hôn nhân có thể là mở cửa thiên đường nhưng mà cũng có thể là mở cửa tù ngục. Hôn nhân là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm rất là lớn, vì vậy các bạn phải cẩn thận lắm mới được.
Nghe một tiếng chuông để mình suy gẫm về chuyện đó và ghi nhớ rằng không hiểu thì không thể nào thương.
Hạnh phúc và khổ đau không phải chỉ là vấn đề của cá nhân
Văn hóa Tây phương khác với văn hóa Á châu. Tôi đã từng hướng dẫn rất nhiều thanh niên, thiếu nữ Tây phương và tôi hiểu được tâm trạng của họ. Người Tây phương trong thế kỷ thứ hai mươi đã tôn sùng chủ nghĩa cá nhân. Khi họ nói tới tình yêu, vấn đề hôn nhân, mình yêu ai mình lấy ai đó là vấn đề của riêng mình. Gia đình không có dính líu vào, không cần hỏi ý kiến bố mẹ, không cần hỏi ý kiến những người khác, hễ mình yêu ai là mình có toàn quyền tự do định đoạt. Nhưng đối với văn hóa Á châu, hôn nhân của một đứa con trong gia đình là vấn đề của đại gia đình và đại gia đình đều có quyền góp ý.
Ở tiểu bang Texas có một cô gái Việt nói tiếng Mỹ rất giỏi. Cô tốt nghiệp đại học rồi và đang yêu một người con trai ở thành phố Houston Texas. Cô có ý muốn lập gia đình với người đó, trong khi bố của cô lại để ý cho cô một người khác, đây là một gia đình Việt Nam chứ không phải là một gia đình Mỹ. Nếu là một gia đình Mỹ thì cô nàng toàn quyền nhưng mà đây là một gia đình Việt Nam thành ra phải hành xử cách khác. Bố chấm người này mà mình lại chấm một người khác nên giữa hai bố con có sự căng thẳng, bố làm áp lực để con gái bỏ anh chàng của mình để chấp nhận anh chàng của bố. Nếu là người Tây phương họ sẽ nói rằng: con lấy chồng cho con chứ đâu phải là con lấy chồng cho bố, đó là việc của riêng con hay là con lấy vợ cho con chứ đâu có phải con lấy vợ cho bố. Việc đó thuộc quyền của con. Đó là ngôn ngữ của người Tây Phương. Nhưng là người Á châu, người Việt Nam, mình không được nói như thế vì hôn nhân của một đứa con là vấn đề hạnh phúc của cả gia đình. Nếu đứa con khổ đau thì cả gia đình cũng không hạnh phúc gì, cho nên cả gia đình phải có ý kiến. Mình chấp nhận ý kiến của tất cả mọi người trong gia đình, kể cả những đứa em của mình, những đứa em còn bé tí nhưng có thể chúng nó cũng có nhận xét hay.
Năm đó tôi về tiểu bang Texas để mở khóa tu cho đồng bào và tôi biết được câu chuyện căng thẳng giữa hai cha con nhà nọ. Tôi mới đưa ra một giải pháp là: bố mẹ cho phép mời anh chàng mà con gái đã chọn tới và ở chơi vào dịp cuối tuần. Đến chơi như một người khách, ở lại luôn đêm, cùng ăn cơm, uống trà, nghe nhạc, cùng đi dạo chung và để cho mọi người trong gia đình có cơ hội nhận xét. Từ những người lớn cho đến các em bé đều có quyền chơi chung với người con trai đó và có quyền nhận xét. Sống với nhau bốn mươi tám giờ đồng hồ, người con trai đó sẽ không dấu được tung tích của mình đâu, người con trai đó khi nói, cười, ăn, mặc, khi chơi đùa sẽ lộ bản chất, tung tích của mình. Bốn mươi tám giờ chơi với nhau, tìm hiểu được nhau rất là nhiều. Đến tuần sau thì gia đình nên mời người con trai mà bố chọn và cô gái phải cho người con trai đó một cơ hội.
Vì khi mình chọn một người rồi thường thường mình cứ cho người đó là nhất number one và mình loại trừ tất cả những người khác, có thể là mình chủ quan. Cho nên người mà bố chấm, tuy là mình chưa yêu, mình chưa thích nhưng mình cũng phải cho người đó một cơ hội và mình cũng chấp nhận mời người đó tới cuối tuần, cũng ăn cơm, cũng đi dạo nghe nhạc, cũng sinh hoạt với tất cả gia đình trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Trong thời gian bốn mươi tám tiếng đồng hồ đó, tất cả mọi người đều có cơ hội để quán sát biết rõ bản chất của từng người, xem thử người đó có khả năng hiểu, có khả năng thương, có khả năng mang lại hạnh phúc cho con, cho chị mình hay không?
Gia đình đó là một gia đình Phật tử cho nên đã nghe lời thầy và đã thực tập như thế. Vậy nếu các bạn đang lâm vào tình trạng đó, nghĩa là mình đã chọn một người rồi nhưng mà bố mẹ chọn một người khác thì xin bố mẹ theo giải pháp này để mình có cơ hội tìm hiểu cả hai người, đôi khi mình đổi ý, biết đâu! Tại vì chúng ta ai cũng có khuynh hướng chủ quan, tưởng rằng tri giác của mình là đúng nhưng mà tri giác của con người thường thường là sai lầm. Tri giác sai tức là nhận thức sai, nó sẽ làm cho mình khổ suốt đời. Tri giác sai lầm ở trong đạo Phật gọi là vọng tưởng. Tưởng là tri giác, vọng là sai lầm. Vọng tưởng điên đảo tức là ngược lại với sự thật, điên đảo là chổng đầu xuống, lộn ngược. Vì chúng ta là con người, chúng ta còn có những tri giác sai lầm, cho nên chúng ta đừng tin chắc lắm về tri giác của chúng ta, nhất là khi chúng ta có một ít đam mê.
Trong tình yêu có chất đam mê và khi đam mê thì mình không sáng suốt lắm. Các anh các chị phải nhớ điều đó, trong tình yêu nó có chất đam mê. Hễ mà đam mê thì thế nào cũng mất bớt sự sáng suốt, cho nên phải nhờ tới sự sáng suốt của những người khác, trong đó có bố, có mẹ, có thầy mình, có bạn mình, phải để thời gian ra nhiều mà quán sát, nhận xét. Đức Phật đã dạy về tình yêu rất sâu sắc. Thầy có viết một cuốn sách nói về tình yêu bằng tiếng Anh và đã được dịch ra ba bốn chục thứ tiếng trong đó có tiếng Việt. Đó là cuốn Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy. Nếu muốn đọc thì các bạn nên thỉnh cuốn đó.
Trong tình thương mà Bụt nói tới, có bốn yếu tố gọi là từ, bi, hỷ, xả. Mình thường hay nói về từ bi hỷ xả nhưng ít người trong chúng ta hiểu được bốn chữ đó.
Từ có nghĩa là hiến tặng hạnh phúc, làm cho người kia có hạnh phúc. Nếu tình thương không hiến tặng được hạnh phúc cho người kia, thì đó không phải là tình thương đích thực. Yêu người ta, thương người ta mà cứ làm cho người ta khổ thì đó không phải là tình yêu, không phải là tình thương. Trong liên hệ giữa mình với người kia nếu mình ngày nào cũng khổ hết thì mình biết rằng tuy có đam mê, tuy có tình yêu nhưng đó là tình yêu hệ lụy, nó sẽ đem tới khổ đau, cho nên mình phải sáng suốt. Nếu trong liên hệ yêu thương đó mà mình có hạnh phúc thật sự, mình không khổ, mình không khóc thì lúc đó mới có chất liệu từ vì từ có nghĩa là khả năng hiến tặng hạnh phúc. Nếu người kia không có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho mình mà cứ làm cho mình khổ hoài thì đó không phải là tình yêu đích thực.
Bi tiếng phạn là karuna. Bi là khả năng lấy cái khổ ra khỏi người khác. Mình có những niềm đau nỗi khổ. Người kia hiểu được và có khả năng giúp mình hết khổ, đó gọi là bi. Người con trai đó, người con gái đó có khả năng lấy cái khổ của mình ra khỏi được hay không hay là mình đã khổ, người đó còn trút thêm cái khổ vào cho mình nữa thì tình yêu đó chưa phải là tình yêu đích thực. Tình yêu đích thực là phải có từ, tức là khả năng đem hạnh phúc cho mình, phải có bi là khả năng làm cho mình bớt khổ. Mình cũng vậy, khi thương ai thì phải làm sao cho người kia có hạnh phúc và người kia bớt khổ. Nếu không, thì mình không thật sự thương, mình chỉ mê thôi chứ không phải là thương, mình chỉ say đắm, đam mê mà chưa phải là thương. Muốn có từ, có bi, phải học mới được, phải có thì giờ để nhìn người kia, để thấy người kia có những nỗi khổ niềm đau nào và quán sát tìm hiểu xem những nỗi khổ niềm đau đó có gốc rễ từ đâu, khi biết được gốc rễ của những nỗi khổ, niềm đau đó mình mới có thể giúp người kia tháo gỡ ra được. Cái đó phải tu tập, phải quán chiếu, phải có thì giờ, tại vì yêu thương không phải chỉ là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là vấn đề hiến tặng, mình có gì để hiến tặng không, mình có từ để hiến tặng không, mình có bi để hiến tặng không? Nếu không, mình còn gì để cho nhau, nếu mình chỉ có khổ đau và tuyệt vọng thì mình có gì để hiến tặng cho người yêu của mình đâu? Nếu người yêu của mình không có từ, không có bi, không có sự tươi mát, không có hạnh phúc, không có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho mình, không có khả năng làm cho mình bớt khổ thì người đó tuy gọi là người yêu nhưng kỳ thực không phải làngười yêu đích thực.
Thương yêu ở trong đạo Phật là một sự thực tập chứ không phải là sự hưởng thụ mà thôi. Tu tập như vậy thì càng ngày mình càng hạnh phúc và người yêu của mình càng ngày càng hạnh phúc. Giữa mình và người mình yêu có thể cái hiểu còn ít, mình cũng có thể thực tập được: Này anh ơi, anh có nghĩ rằng là em đã hiểu được anh chưa, tình yêu của em có làm anh bị ngột ngạt không? Nếu em chưa hiểu anh thì xin anh nói cho em nghe những khổ đau, những bức xúc, những khó khăn của anh để em từ rày về sau có thể chấp nhận và thương yêu anh được. Đó là sự thực tập.
Nếu mình là người con trai thì mình cũng nói như thế: Này em, em có nghĩ rằng anh hiểu được em không? Anh có khả năng làm cho em bớt khổ, anh có khả năng hiến tặng niềm vui cho em hay không, em nói đi? Anh có những khuyết điểm nào, em có những nỗi khổ niềm đau nào mà anh chưa biết thì xin em nói để cho anh có thể hiểu được và sau khi hiểu rồi anh sẽ không còn tiếp tục làm khổ em. Tất cả những cái đó thuộc về giáo lý của Đức Thế tôn đã dạy và mình có thể đem ra để thực tập được. Nếu mình thực tập trong vòng ba tuần bốn tuần lễ thì mối liên hệ giữa mình với người kia sẽ thay đổi một cách rất là mầu nhiệm.
Từ là khả năng hiến tặng hạnh phúc chứ không phải là ước muốn, mình muốn người kia hạnh phúc nhưng mình không có khả năng thì mình càng thương, người kia càng khổ. Thương mà không hiểu được người mình thương thì mình làm cho người thương bị thương tích. Vì vậy hiểu là gốc của thương mà muốn hiểu thì phải có thì giờ để quán chiếu để hỏi han và tìm ra gốc rễ của những khổ đau, khó khăn của người kia, mình mới có thể tháo gỡ cho người đó.
Chúng tôi là những người xuất gia, chúng tôi cũng thực tập thương yêu. Nhờ thực tập mỗi ngày cho nên chúng tôi giúp tháo gỡ được cho rất nhiều người, những người cha, những người mẹ, những người con tới với những nỗi khổ niềm đau, giúp tháo gỡ cho họ rất nhiều, đã giúp cho vô số các cặp vợ chồng cha con, mẹ con hòa giải được với nhau và đó là nhờ tu. Tuy mình không phải là người xuất gia, mình là người tại gia nhưng vì là đệ tử của Đức Thế Tôn, mình là con của Bụt, vì vậy mình cần phải đi chùa, cần phải học hỏi và thực tập thương yêu, mình phải biết tháo gỡ những nỗi khổ niềm đau của mình. Nếu mình làm được cho mình rồi thì mình có thể tháo gỡ được những nỗi khổ niềm đau cho người kia, người mình yêu thương, nếu không thì sự tác hợp giữa hai người chỉ đem lại khổ đau suốt đời cho mình.
Có những bà mẹ khổ đau suốt đời và dặn con: Con ơi con đừng đi lấy chồng như mẹ nữa, khổ lắm con ơi. Nói như vậy tức là thú nhận một sự thất bại của đời mình. Có những ông chồng nói rằng nếu trước đây mà tôi không lấy bà thì tôi đâu có đến nỗi như bây giờ. Các bà thì nói rằng nếu ngày trước ông mà không cưới tui thì bây giờ tôi đâu phải khổ đau như thế này, thân thể tôi nó ra như thế này. Đó là tại vì không cẩn thận lúc ban đầu và không biết tu tập theo những phương pháp của Bụt dạy.
Chúng ta đã nói tới Từ, nói tới Bi, khả năng hiến tặng hạnh phúc, khả năng làm cho người kia bớt khổ. Nếu khả năng đó trong ta còn yếu kém thì chúng ta phải tu tập, nếu không chúng ta càng thương người kia thì càng làm cho người kia khổ. Tất cả đều phải bắt đầu từ mình, đừng có đòi hỏi người kia, bắt đầu từ mình trước. Nếu mình có khả năng hiến tặng niềm vui mỗi ngày, hạnh phúc mỗi ngày, nếu mỗi ngày mình có thể giúp người kia bớt khổ được một chút thì tình yêu của mình đúng là theo đường hướng của Đức Thế tôn dạy.
Yếu tố thứ ba là Hỷ, tiếng Phạn là modita, có nghĩa là niềm vui. Tình yêu chân thật là phải làm cho cả hai bên đều vui hết, yêu mà mỗi ngày hai người đều khóc hết, đó chưa phải là tình yêu, vì vậy dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui, càng yêu thì càng có niềm vui. Niềm vui đó lớn, mình có thể đem ra chia sẻ cho mọi người, tất cả gia đình đều hạnh phúc vì hai đứa có hạnh phúc, có niềm vui với nhau. Đó là một cuộc nhân duyên thành công.
Yếu tố thứ tư của tình yêu, theo Bụt dạy, là Xả. Xả nghĩa là không phân biệt kỳ thị. Khi mình yêu ai rồi thì mình với người đó là một. Hạnh phúc của người đó là hạnh phúc của mình, khó khăn người đó là khó khăn của mình, khổ đau của người đó là khổ đau của mình. Mình phải làm cái gì để giúp cho người đó bảo tồn được hạnh phúc đó, làm lớn cái hạnh phúc đó hoặc là chuyển hóa nỗi buồn, cơn giận đó. Không có thể nói rằng đó là vấn đề của em, em ráng chịu hay là đó là vấn đề của anh, anh ráng chịu. Không, khi mình yêu nhau thì mình không còn là hai thực thể riêng biệt nữa mà mình là một. Hạnh phúc không còn là vấn đề cá nhân nữa, khổ đau không còn là vấn đề cá nhân nữa, nếu người kia khổ thì làm sao mình hạnh phúc được, nếu mình khổ thì người kia làm sao hạnh phúc được.
Cũng như khi bố khổ thì mẹ làm sao hạnh phúc, nếu cha khổ làm sao con có hạnh phúc, cho nên trong đạo Phật, quý vị phải ghi nhớ vấn đề này: Hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân, khổ đau cũng không phải là vấn đề cá nhân. Trong tình yêu, dầu là tình yêu giữa bố con, mẹ con hay vợ chồng thì cũng như thế. Khi mình thấy được mình với người kia chung một số phận, người kia khó khăn thì mình phải tìm cách giúp người kia, người kia có hạnh phúc thì mình được thừa hưởng. Còn mỗi người đi tìm cái hạnh phúc riêng của mình, ông ăn chả bà ăn nem thì đó không phải là tình yêu theo đường hướng của Bụt dạy. Hạnh phúc không phải là vấn đề riêng tư cá nhân, khổ đau cũng không phải là vấn đề riêng tư cá nhân.
Tương kính như tân
Trong tình yêu nam nữ, vấn đề thân và tâm rất quan trọng. Mình phải giữ cho tâm mình trong sáng và thân mình trong sáng.Trong đạo Phật tâm với thân là nhất như nghĩa là một. Trong liên hệ yêu thương mình phải tôn trọng người kia và mình phải tôn trọng mình, người nào mà không biết kính trọng mình thì người đó không phải là người yêu đích thực của mình đâu. Một người mà coi thường mình, khinh khi mình thì không thể mang lại hạnh phúc cho mình, khi thương một ai thì mình phải kính trọng người đó, mình không coi thường người đó, mình phải quý trọng người đó, mình phải nói rằng em là một thực tại mầu nhiệm trong đời của anh, anh rất kính trọng em, cho nên anh không bao giờ dám phủ phàng, nặng tay, dám nói những lời làm cho em đau khổ. Tình yêu, nhất là trong truyền thống của Đông Phương là phải có sự kính trọng.
Ở trong văn hóa Việt Nam có cụm từ tương kính như tân là kính nhau như những người khách. Vợ chồng phải kính trọng nhau, khi thay áo không thay trước mặt người kia, phải thay ở một chỗ kín, không có những hành động thô lỗ trước mặt người kia, cái đó là kính Kính nhau như là người khách quý. Vợ chồng kính nhau như là những người khách, đó là truyền thống của ông bà mình, người kia phải kính trọng mình và kính trọng luôn thân thể của mình vì thân thể cũng là một phần của mình. Người Tây Phương không hiểu được điều đó.
Thân thể là đền thờ của tâm linh
Có nhiều người Tây phương không hiểu được văn hóa Á Đông, vì vậy nhiều khi họ bày tỏ tình thương bằng cách sờ lên đầu mình nhưng cái đầu của mình rất là linh thiêng, sờ như vậy là bất lịch sự. Quý vị có nhớ hồi mình còn ba tuổi, thường thường bố mẹ hay kêu ra để trình diện với khách, tại bố mẹ rất hãnh diện về đứa con của mình. Con lạy bác ạ, con chắp tay lại đi, cúi đầu xuống lạy bác ạ. Tất cả chúng ta đều đã phải trình diện như thế hồi chúng ta còn nhỏ. Có người hỏi con có thương bố mẹ không, mình trả lời rằng dạ con có thương bố mẹ ạ, con có yêu bố mẹ.-Thương yêu con để ở đâu ?-Thương yêu con để ở trên đầu. Đó là những câu nói mình học, mình trả lời cho khách mỗi khi bố mẹ có khách. Như vậy trong văn hóa Á Đông, cái đầu là chỗ mình thờ cha, thờ mẹ thờ ông bà, thờ Phật, nếu người khác không phải là bậc ông bà, cha mẹ thì không có quyền sờ trên đầu mình.
Mỗi khi các thầy, các sư cô cầm một cuốn kinh, cần chào ai hoặc là phải làm cái gì đó chưa có chỗ để cuốn kinh thì các thầy, các sư cô hay đặt cuốn kinh trên đầu, để hai tay có thể làm được chuyện khác. Cái đầu của mình nó tôn quý như thế, trong thân thể của mình cũng có những vùng linh thiêng khác mà không phải bất cứ ai cũng chạm tới được, cũng sờ mó được.
Trong tâm mình cũng vậy, trong trái tim của mình có những vùng rất sâu kín. Có những nỗi khổ niềm đau, có những thao thức mà mình giữ kín, mình không muốn nói cho người ta nghe, chỉ khi nào mình gặp một người bạn hiểu mình, mình mới bộc lộ sâu kín nhất ở trong lòng của mình, đó là vùng sâu kín nhất, linh thiêng nhất trong lòng mình, đó là nói về tâm. Thân cũng vậy, thân có những vùng rất thiêng liêng, rất sâu kín mà không phải bất cứ một người con trai nào hay một người con gái nào có thể đụng chạm tới được, chỉ người mà mình nguyện sống suốt đời mới có thể có cơ hội đó thôi, có quyền đó thôi.
Điều đó cũng tương tự như ở kinh đô có Tử cấm thành tức là chỗ gia đình vua ở, không ai được bén mảng tới chỗ đó, những người nào không có phép mà đi vào vùng đó có thể bị chém đầu. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có những vùng trong cơ thể như vùng cấm địa, cấm thành, người nào sổ sàng mà chạm vào thì những người đó đáng bị chém đầu. Người con gái, người con trai cũng phải giữ gìn giống hệt như vậy, không để cho họ đụng chạm đến thân thể của mình vì thân thể cũng là đền thờ của tâm linh.
Tây Phương trong thế kỷ thứ hai mươi, giới trẻ đã đi qua một thời đại khủng hoảng là vì họ không thấy được nguyên tắc đó, họ không biết tôn trọng thân của họ và lớn lên họ có những cuộc phối hợp giữa hai thân thể mà không cần tình yêu. Mười lăm, mười sáu tuổi đã bắt đầu có những liên hệ tình dục với nhau mà không hề có tình yêu. Không hiểu, không thương mà vẫn có quan hệ sinh lý như thường, thật tội nghiệp cho những người đó, vì sau này họ không biết thế nào gọi là tình yêu. Tình yêu là một cái gì rất thiêng liêng, rất quý báu, nếu không có tình yêu mà cho hai thân thể giao hợp lại với nhau thì cái đó Tây Phương gọi là empty sex, empty nghĩa là trống rỗng, sex tức là tình dục, tình dục trống rỗng không có tình yêu ở trong đó. Những người đó, những người trai trẻ đó, những cô thiếu nữ đó lớn lên sẽ không có hạnh phúc tội nghiệp lắm vì không biết tình yêu là gì, chỉ biết nhục dục mà thôi, vì vậy các cháu đừng sa vào vết chân đó, đừng bao giờ có những liên hệ thân xác mà không có tình yêu. Rất nguy hiểm, tội nghiệp, rất uổng cho một đời người, mình chỉ hiến tặng thân mình cho người mà mình yêu thật sự mình thương thật sự, mình đem hết cả cuộc đời mình, gắn bó mình vào nơi người đó mà thôi, mình phải theo đường hướng văn hóa và tâm linh của đất nước mình.
Chúng ta đã biết truyện Kiều, biết cái ngày gia đình Thúy Kiều đi dự sinh nhật ở bên ngoại, Thúy Kiều lấy cớ nhức đầu ở nhà một mình để có dịp sang thăm người yêu. Kiều đã vượt hàng rào sang thăm Kim Trọng. Hai người ở bên nhau từ sáng tới chiều. Họ làm thơ, uống rượu, đánh đàn và họ thề bồi, cắt tóc chia đôi. Gần cuối, Kim Trọng nói lâu nay anh nghe nói em là một nghệ sĩ rất tài ba, đàn hay, sáng tác nhạc hay, ước muốn của anh đêm nay là em đàn cho anh nghe. Thúy Kiều đã chiều Kim Trọng, lấy cây đàn nguyệt xuống. Thúy Kiều đã sáng tác một bản nhạc rất hay nhưng cũng rất đứt ruột, nghe rất là buồn. Thúy Kiều đàn lên, Kim Trọng thấy nó hay quá mà cũng đau buồn rất là nhiều. Dưới ánh đèn Kim Trọng thấy Thúy Kiều đẹp quá và anh chàng không còn giữ được lễ nghi, bắt đầu có tính cách lơi lả, chàng bắt đầu hơi phóng túng. Thúy Kiều đưa tay ngăn lại, nói rằng em phải ngăn anh tại vì hạnh phúc của hai đứa mình nó tùy thuộc vào sự hành xử này. Ngày xưa Tạ Côn là một sinh viên yêu một cô nàng thợ dệt cũng đã có một cử chỉ thiếu tôn trọng, cô nàng đã dùng cái thoi đó để liệng vào Tạ Côn. Sau đó anh chàng thành đạt, có danh có tiếng, có nhiều cô tới nhưng anh chàng đã nhớ người ngày xưa cô thợ dệt và chính cô thợ dệt đó là người anh chọn làm người bạn trăm năm của mình. Ngày hôm nay em cũng phải hành xử như cô thợ dệt, em không cho phép anh như vậy.
Như tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người đó ai cầu làm chi.
Thúy Kiều cũng kể chuyện Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh ngày xưa ở chùa Đông Cửu. Quân Thụy là người con trai rất tài ba, đẹp trai và Thôi Oanh Oanh là một cô gái sắc nước hương trời. Họ yêu nhau nhưng họ đã không tự kềm chế được sự ham muốn của thể xác. Về sau Trương Quân Thụy không lấy Thôi Oanh Oanh mà đi cưới một người khác. Khi mình trao thân một cách dễ dàng cho người con trai như vậy thì người con trai bắt đầu coi thường mình, cho là mình quá dễ, vì vậy người con gái phải có bổn phận tự bảo hộ mình, đừng để cho người con trai khinh thường mình, phải làm như Thúy Kiều mới được.
Nghe Thúy Kiều nói như thế thì Kim Trọng rất kính nể và sau đó trong suốt mười lăm năm, Kim Trọng luôn luôn nhớ tới Thúy Kiều.
Trong liên hệ nam nữ, trong tình yêu chân thật, mình phải giữ thân mình cho đàng hoàng vì tương lai của mình liên hệ tới chuyện đó và đó là đạo đức Đông phương mà chúng tôi đã trao truyền cho nhiều thanh niên thiếu nữ Tây phương trong thời gian hành đạo bên ấy. Đã có nhiều thiếu nữ Tây phương hành xử theo phương pháp này và đã đạt được hạnh phúc. Trước đó thì không cẩn thận, không tôn trọng bản thân mình và sau đó thì học được phương pháp này, giữ mình, kính trọng mình thì người con trai cũng kính trọng mình, dù mình là con trai hay con gái, mình cũng phải làm như vậy. Hạnh phúc lứa đôi đó là nền tảng, các con của mình sau này nó có hạnh phúc hay không là do mình có hạnh phúc với nhau hay không. Món quà quý nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con là hạnh phúc của cha mẹ, nếu mà cha mẹ khổ đau thì cha mẹ đâu có gì trao truyền lại cho con đâu, cho nên mình phải có hạnh phúc với nhau. Do đó trong liên hệ lứa đôi mình phải giữ gìn cho cẩn thận, mình phải học theo cái phương pháp của Đức Thế Tôn dạy.
Thầy xin nhắc để cho các anh các chị nhớ mấy điều đó.
Trước hết là có hiểu thì mới có thương. Nếu người kia không hiểu mình được thì sẽ không thương mình được, nếu mình không hiểu người kia thì mình cũng không thương người kia được và mình sẽ làm khổ người kia.
Thứ hai là trong tình yêu, hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân mà khổ đau cũng không phải là vấn đề cá nhân. Khi mình đã yêu rồi thì hạnh phúc của người kia là hạnh phúc của mình và khổ đau của người kia cũng là khổ đau của mình.
Thứ ba là thân tâm nhất như, khi mình yêu thương thì mình phải có cái sự kính trọng người kia, nếu không có sự kính trọng đó thì mình làm hư cuộc hôn nhân và tác hợp của mình.
Tôi nghĩ rằng bài giảng hôm nay cần được các thầy, các sư cô lặp lại cho thanh niên thiếu nữ ở Việt Nam biết. Ở Tây Phương chúng tôi đã từng giảng dạy như thế nhiều lần và nếu quý vị muốn thật sự thành công trong tình yêu của mình phải thực tập theo những lời căn dặn đó. Những yếu tố từ, bi, hỷ, và xả đó, nếu mình sống và yêu cho đàng hoàng thì nó sẽ mỗi ngày mỗi lớn, khi tới mức rất lớn rồi thì gọi là đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Đến mức đó, mình rất gần với Phật và chữ Hán gọi là tứ vô lượng tâm.
Tứ vô lượng tâm là bốn yếu tố của tình thương mà không gì có thể đo được, không có biên giới. Vô lượng tức là không cân đo được, không có biên giới. Bốn yếu tố của tình thương không có biên giới, vì vậy tình thương trong đạo Phật gọi là tình thương không biên giới. Khi mình yêu một ai mà mình làm hạnh phúc được cho người đó thì mình có cơ hội mở rộng tình thương để sau này mình có thể yêu được nhiều người, tất cả mọi người mọi loài. Đó là tình yêu trong đạo Phật.
Tôi xin giới thiệu cho các bạn trẻ cũng như các cô chú, các cụ cuốn sách của tôi viết về tình yêu: Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy.
Nhân đây tôi có một bản thư pháp kính tặng thượng tọa trụ trì của tổ đình Trung Hậu. Xin kính mời thượng tọa trụ trì ra để tiếp nhận thư pháp của chúng tôi tự viết để làm kỷ niệm chuyến viếng thăm và sinh hoạt chung với các vị tôn đức, các thầy, các sư cô và các Phật tử của tổ đình đạo tràng Trung Hậu.
______________________
Ngày 06.05.2007
tại chùa Trung Hậu, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc
Đặc biệt dành riêng cho các bạn trẻ.1