Chương 5: Để trọn niềm vui

TIẾP BIẾN VĂN HÓA

Niềm vui của con người thường là niềm vui không trọn vẹn. Bản chất của niềm vui không trọn vẹn đa phần gắn liền với những nỗi buồn lo và khổ đau. Do đó để sống hạnh phúc thì niềm vui phải trọn phần.

Phần lớn các quốc gia châu Á đã bắt đầu mở cánh cửa tiếp biến văn hóa, hội nhập với niềm vui của nền văn hóa phương Tây, lấy ngày tết dương lịch làm ngày tưng bừng đầu năm. Sự nhộn nhịp của ngày tết Tây được nhiều khích lệ vì nó gắn liền với ngày nghỉ Noel. Trên cơ sở giới thiệu các sản phẩm kinh tế ở quốc gia này đến quốc gia khác, châu lục này sang châu lục khác, phong trào toàn cầu hóa như là con đường tiếp biến của hai nền văn hóa Đông Tây. Toàn cầu hóa trên con đường kinh tế mang theo chủ nghĩa tiêu thụ với rất nhiều loại hình khuyến mãi khác nhau. Phần lớn các dân tộc châu Á, mặc dù không thực sự chung vui với mùa tết phương Tây, nhưng vì tính chất thị trường và toàn cầu hóa mà người châu Á đã tiếp biến nó dưới hình thức kinh tế. Bất cứ nơi nào như chợ búa, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí đều có hình ảnh ông già Noel, và nhiều hình thức trò chơi hấp dẫn khác để thu hút các thành phần trong xã hội.

Con đường an vui (chương 5)

Bất luận màu da sắc thái, tôn giáo, dân tộc, ngày tết dương lịch được hưởng ứng nhất trên thế giới, vì nó có những sự kiện liên hệ đến giải trí và đặt trên nền tảng của tiếp biến văn hóa khác nhau. Nhiều nơi đã biến ngày tết này như một lễ hội. Thân bằng quyến thuộc, gia đình hội tụ để hỏi han sức khỏe và chăm sóc lẫn nhau vào thời điểm hiếm có của suốt một năm bận rộn. Các quốc gia lấy ngày giao thừa của tết Tây làm ngày ăn mừng. Người ta đốt rất nhiều pháo hoa, và dĩ nhiên tốn rất nhiều tiền cho sự ăn mừng hoành tráng sôi nổi trên nền tảng của chủ nghĩa tiêu thụ này. Singapore đốt pháo hoa trong tám phút được xem là khoảng thời gian dài nhất thế giới. Các quốc gia phần lớn đã chi tiêu số lượng tiền khổng lồ để ăn mừng. Nếu chỉ cắt 30% số tiền đốt pháo hoa trên toàn cầu cho công tác từ thiện thì số tiền đó có thể giúp được hàng trăm quốc gia nghèo khó ổn định xã hội trong mấy tháng. Người ta sẵn sàng bỏ ra những khoản chi tiêu lớn phục vụ niềm vui giác quan hơn là mang lại những giá trị lợi ích nhân sinh trên tinh thần đạo lý từ bi của nhà Phật.

Trong các nước Phật giáo, có thể nói Nhật Bản là nước tiên phong mạnh dạn tiếp biến văn hóa vào ngày lễ giao thừa và mùng một tết dương lịch. Rất nhiều ngôi chùa tại xứ hoa anh đào này đã gióng đại hồng chung tụng những thời kinh đầu năm mới để nguyện cầu cho thế giới hòa bình, thiên tai giảm và mọi khổ đau ở thế gian được tan biến càng sớm càng tốt. Tiếp biến văn hóa theo cách đó có thể tạo ra rất nhiều sự tham khảo đối với những người có cái nhìn dung thông, mạnh dạn, nhưng nó có thể trở thành tâm điểm của sự chỉ trích rằng Phật tử của Phật giáo đang chạy theo nền văn hóa vật dục của phương Tây. Nhận định đánh giá một cách vội vã như vậy là sai lầm.

Đạo Phật dạy học thuyết phương tiện, có nghĩa là phát huy các nền văn hóa dân tộc và văn hóa ở những quốc gia khác trong bối cảnh giao lưu đa văn hóa thời hiện đại để qua đó giới thiệu thông điệp của đức Phật cho nhân loại. Trong việc tiếp biến văn hóa, các ngôi chùa Nhật Bản đã làm gì? Họ gióng đại hồng chung tượng trưng cho tiếng chuông tỉnh thức có tác dụng trị liệu tâm lý, nhận thức và hành động của con người trong bối cảnh mà nạn khủng bố, chết chóc và nghi kỵ lẫn nhau đã lên đến đến cực điểm ở các mối xung đột về kinh tế chính trị. Khóa kinh sau đó là khóa kinh cầu an, rải thông điệp của đạo Phật đến với mọi người. Các dịp lễ như thế tạo sự chú ý rất lớn.

Chúng tôi cũng mong Việt Nam và các cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại nên mạnh dạn tiếp biến nền văn hóa phương Tây. Nhưng nếu không tiếp biến có phương pháp thì người Phật tử có khuynh hướng ăn theo. Đến ngày Noel, quan sát quang cảnh chùa Việt Nam Quốc Tự, quận 10 sẽ thấy hàng hàng lớp lớp người thắp nhang lễ Phật trước khi đi chơi. Điều đó chứng tỏ số lượng đi ra đường phố hòa theo dòng người tấp nập nô đùa phấn khởi không hoàn toàn là những người theo Thiên Chúa giáo mà có cả những người Phật tử. Họ hòa vào niềm vui vì suốt một năm làm việc vất vả không có cơ hội và thời gian thích hợp để phóng thích những lo toan vất vả. Do đó, nếu Phật giáo không chủ động tiếp biến văn hóa với nội dung theo cách thức mà Phật giáo Nhật Bản đã làm, thì người Phật tử có thể ăn theo. Lúc đó có thể họ sẽ rước ông già Noel về nhà, trang trí cây thông theo nền văn hóa phương Tây trong gia đình thì sự tiếp biến đó mất đi gốc rễ văn hóa. Hình ảnh cây thông trong nền văn hóa Việt Nam không có chỗ đứng, vì khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới. Vì vậy chúng ta có thể tìm kiếm hình ảnh có giá trị tương đương hoặc hơn. Trong lễ hội Noel hoặc tết Tây, chúng ta hãy tạo ra không gian có giá trị xã hội, đạo đức và nhân văn. Ông già Noel là nhân vật huyền thoại không có thật. Thông qua việc tặng hay chia sẻ sở hữu của mình đến với những người đang nghèo khó, dựng lên hình ảnh ông già Noel để người ta mở tấm lòng nhân ái và tình thương giữa con người với con người mà gốc rễ đầu tiên của nó là đến với trẻ em.

Vượt trên hình ảnh Noel và ông già Noel thì đạo Phật có hình ảnh của chư vị bồ tát với lòng từ bi lớn. Các ngài không phải là nhân vật huyền thoại mà là những nhân vật có thật trong lịch sử ở hành tinh này và các hành tinh khác. Do đó nhân mùa Noel, Phật tử chúng ta có thể làm từ thiện, mang thông điệp lòng từ bi của Phật, Bồ tát đến với mọi người thì ý nghĩa xã hội và đạo đức rất cao. Nhờ vậy mà những ngày này không phải là phương tiện để chúng ta đắm chìm trong chủ nghĩa hưởng thụ của nền văn hóa vật dục phương Tây.

Trong tiếp biến văn hóa, những người theo Phật giáo cần phát huy hai góc độ chính: Tiết kiệm và giới thiệu văn hóa Phật giáo.

TIẾT KIỆM ĐỂ SỐNG HẠNH PHÚC

Thay vì chi tiêu vào những khoản không cần thiết, chúng ta dành 25% tài chính từ đồng lương chánh nghiệp của mình để làm công việc từ thiện và giúp ích xã hội thì ý nghĩa đời sống đạo đức trong những ngày đầu năm là an vui mà chúng ta hưởng lâu dài, hay nói cách khác nó tạo tiền đề tốt cho cả năm.

Nếu nhận định đánh giá những mơ ước đầu năm là cái gì đó mê tín thì đánh giá đó phiến diện, không hiểu được sự tương tác hai chiều giữa tâm lý và hành động. Ở đây trục xoay của niềm mơ ước có năng lực thôi thúc, đẩy con người tiến phía trước để biến ước mơ trở thành hiện thực. Do đó ước mơ là chất xúc tác để hành động được thực thi. Dĩ nhiên có những ước mơ đặt trên nền tảng của cái tôi và những sở hữu của cái tôi dẫn đến khuynh hướng hưởng thụ tạo ra hình ảnh một con người vị kỷ. Thay thế những ước mơ đó bằng sự phát nguyện theo tinh thần Phật dạy thì lòng người mới mở rộng đón nhận, chia sẻ, gần gũi với cuộc đời.

Người Phật tử không nên sợ hãi trước ảnh hưởng của sự lây lan nhanh chóng từ nền văn hóa phương Tây vào bản năng Châu Á và vào đất nước Việt Nam. Cản phá sự tiếp bước của nền văn hóa sẽ làm cho nền văn hóa bản địa có sức sống mãnh lực hơn. Mời gọi nền văn hóa khác vào là cách thức cắt đứt gốc rễ văn hóa của mình. Do đó trong công cuộc tiếp biến văn hóa, cần phải lược lọc và phát huy những gì vốn có như một gia tài tâm linh, gia tài đạo đức mà cha ông để lại trên tinh thần ứng dụng lời Phật dạy. Tiếp biến văn hóa của lễ hội tết Tây, thay vì chúng ta đốt pháo và chi tiêu vào những mục tiêu vô bổ, chúng ta nên hạn chế một cách tối đa. Trong mấy năm trở lại đây, thông qua quy định cấm đốt pháo, chính phủ Việt Nam đã làm rất tốt công việc này. Người cực đoan cho rằng quy định này vi phạm nhân quyền, thiếu tự do, nhưng không thấy được nội dung sâu thẳm của nó gắn liền với đời sống đạo đức và ý nghĩa xã hội. Bởi vì đốt pháo quá nhiều, ô nhiễm môi trường làm cho sức khỏe người lớn tuổi và người bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.

Trong tình huống này, chúng ta có thể lấy câu Phật ngôn làm phương châm để tâm niệm “Ham vui khổ vô cùng”. Có nhiều sự ham vui không mang lại giá trị gì cho bản thân và tha nhân. Hãy thay thế việc đốt pháo bằng tình thương của đức Phật thì cùng số tiền chi ra như vậy, nhưng phước báu và ý nghĩa lại khác nhau. Chỉ cần thay đổi cách nhìn và hành động là chúng ta thay đổi một phần của sự sống, góp phần trực tiếp thay đổi cuộc đời.

HÒA NHẬP VĂN HÓA

Thay vì cấm con em không được tiếp biến nền văn hóa phương Tây, không ăn chơi, thưởng thức thì hãy khuyến khích và dẫn dắt con em mình đến các trung tâm văn hóa Phật giáo hay văn hóa văn học để chúng ta ôn lại những giá trị tinh thần và tâm linh như là gốc rễ an vui hạnh phúc của mình.

Có thể khi khó khăn kinh tế, người ta không bận tâm đến nền văn hóa, cho nó là thứ yếu, hoặc là sản phẩm cao cấp của người khá giả. Nhận xét như vậy hoàn toàn sai. Gốc rễ văn hóa của con người nếu bị cắt đứt thì nền tảng hạnh phúc có thể bị giảm. Do đó khi định cư ở các quốc gia phát triển khác, nhiều người đã rất vất vả trong sự mâu thuẫn khi phải chọn lựa và loại trừ văn hóa ngoại lai. Có mặt trong thực tại và sống trong nền văn hóa phương Tây, người cực đoan với văn hóa bản địa đã không tiếp biến nó nên mãi mãi xa lạ với nền văn hóa mà con em của họ được sinh ra và lớn lên cần phải hội nhập. Mâu thuẫn giữa hai thế hệ thuộc hai nền văn hóa đã từng diễn ra trong các gia đình châu Á ở thế giới phương Tây.

Cho nên tiếp biến văn hóa để mở ra cái nhìn tích cực và lạc quan. Những gì hay, chúng ta có thể hưởng ứng, và thông qua sự hưởng ứng, chúng ta giới thiệu nền văn hóa gốc của mình. Ai tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau thì đời sống của người đó có giá trị bằng nhiều người khác nhau. Vì vậy không có lỗi lầm gì trong việc tiếp biến văn hóa một cách có phương pháp và nghệ thuật. Về phương thức tiếp biến văn hóa, có bốn nội dung đặc biệt được nhấn mạnh: khép lại buồn lo, chuyển hoá nỗi đau, chấm dứt khủng bố và hận thù và vì một thế giới không còn đau thương.

KHÉP LẠI BUỒN LO

Lấy từ truyền thống giao thừa ảnh hưởng Phật học tại Nhật Bản, vào ngày giao thừa, một lễ hội rất hoành tráng tên là “quên năm cũ” được diễn ra ở cấp quốc gia và mọi nơi mọi chốn. Người Nhật nhân sự kiện giao thừa vẫy tay chào vĩnh viễn với những năm cũ mà theo họ năm cũ tượng trưng cho sự buồn lo. Quên đi năm cũ là quên đi buồn lo, ứng với thông điệp rất hay của Phật giáo rằng buồn và lo là kẻ thù của hạnh phúc.

Buồn là kết quả của các vấn nạn thời đại, của những bế tắc cá nhân, những nghịch cảnh, những bất hạnh do thiên tai và do chính con người tạo ra. Trong khi đó nỗi lo là hoạt dụng tâm lý của phần lớn con người sống đặt nặng về cảm xúc hơn là thấy rõ bản chất vận hành nhân quả của mọi sự vật trong đó có chính bản thân mình. Cho nên đừng tạo nguồn năng lượng dư thừa đẩy dòng cảm xúc hạnh phúc ra khỏi bản thân. Nỗi buồn thường gắn liền với môi trường, điều kiện, hoàn cảnh, giao tế,… những gì không như ý sẽ gây buồn, trong khi nỗi lo phần lớn không dính líu đến sự không như ý mà đó là năng lực dư thừa hay thói quen. Người có chứng bệnh lo, đi đâu cũng rầu rĩ. Thay vì chỉ mất một giờ để thực hiện công việc nào đó, thì người có chứng bệnh lo phải đầu tư cả ngày. Sự dư thừa trong đầu tư này sẽ trở thành sợi dây trói buộc.

Chúng ta có thể đong đo mức độ lo của mình bằng cách mỗi ngày đối diện trước gương soi, ngắm nhìn gương mặt mình có thật sự giải phóng được nỗi lo hay không. Nỗi lo xuất hiện trên gương mặt con người qua bốn động tác khác nhau. Người lo nhiều, mắt sụp xuống. Miệng không có nụ cười. Nét mặt không hân hoan, không có sắc màu thư thái. Trạng thái nặng trĩu bởi nỗi lo, không còn năng động.

Sự rầu rĩ lo lắng quá nhiều trở thành sức công phá làm cho tính năng động của con người mất đi. Thụ động, thờ ơ, yếm thế là kết quả của nỗi lo. Còn nỗi buồn là kết quả sau khi các hạt giống và điều kiện tất yếu của nó đã được gieo trồng, người ta buồn về những chuyện không thành công, buồn về nhân tình thế thái, về sự thất bại; buồn với những nỗi đau, bệnh tật, chết chóc, tình cảm, kinh tế,… Tất cả các hoạt dụng của môi trường, điều kiện, hoàn cảnh như vừa nêu tác động trực tiếp tạo ra cơn buồn cho con người. Tuy nhiên có thể giải phóng cơn buồn bằng cách hiểu sâu nhân quả. Trước khi làm gì, chúng ta phân tích lợi ích và tác hại của nó. Nếu nỗ lực một cách có tâm huyết, có phương pháp nhưng kết quả đạt được chẳng là bao, mà phần lớn diễn ra một cách nghịch lý; thì thay vì buồn, người Phật tử phải tỏ ra thản nhiên. Phải biết rằng nhân như vậy, duyên như vậy thì kết quả như vậy. Có buồn rầu, bất mãn cũng không thể nào thay đổi được tình thế. Thay vì để tâm hồn chìm sâu vào nỗi buồn, chúng ta phân tích nguyên nhân của sự thất bại, rút kinh nghiệm lần sau.

Đối với người cầu toàn và mong mỏi quá mức theo chủ nghĩa tuyệt đối, nỗi buồn sẽ bám víu và khống chế dòng cảm xúc của họ ở mức độ lâu hơn những người có cái nhìn về nhân quả và thản nhiên trước những kết quả được mất, thành bại, tốt xấu. Bởi vì, kết quả không lệ thuộc vào ước muốn của con người mà nó là cán cân của nhân cộng với duyên. Cứ nỗ lực làm hết mình, kết quả bao nhiêu, đạt được như thế nào thì hãy chấp nhận thế đó.

Chấp nhận ở đây không phải là sự thụ động cầu an. Kết quả đã có mặt, chúng ta không thể thay đổi được mà chỉ nỗ lực để làm cho nó tốt hơn. Khép lại buồn lo là thái độ tâm lý rất sáng suốt. Bình thường hoá và không quan trọng hóa tất cả những thành quả, tất cả những vấn nạn, những gì diễn ra trong cuộc đời mình, như vậy, chúng ta mới vươn tới phía trước được. Bỏ đi nỗi buồn, nỗi lo thì niềm ai vui, hạnh phúc mới có mặt.

Hoạt dụng tâm lý của buồn lo và hạnh phúc luôn đối lập nhau. Do đó, ta chỉ cần chuyển hoá dòng cảm xúc của buồn và lo thì con người được niềm thư thái, vốn là đầu mối của hạnh phúc. Theo đạo Phật, bản chất của hạnh phúc không phụ thuộc về vật lý mà thuộc về dòng cảm xúc đã được huấn luyện trên nền tảng, phương tiện hỗ trợ hạnh phúc hơn là đầu mối sai sử của con người theo khuynh hướng riêng.

CHUYỂN HÓA NỖI ĐAU

Buồn và lo thường kéo theo nỗi đau như những mắc xích, cái này có thì cái kia có. Ai đắm chìm nhiều thì khổ đau sẽ dằn vặt. Mức độ nhiều hay ít của nỗi đau tỷ lệ thuận với dòng cảm xúc buồn lo. Theo Phật dạy, người huấn luyện dòng cảm xúc một cách có nghệ thuật, vẫn trải qua kinh nghiệm của buồn lo, nhưng nỗi đau có thể lắng dịu rất nhanh vì họ nhận dạng được rằng: Tất cả mọi thứ diễn ra như một quy luật tất yếu của nhân và quả.

Chúng ta nên tiếp biến lễ hội tết của phương Tây qua góc độ chuyển hoá nỗi đau. Người Columbia có thói quen đốt “ông năm cũ” vào đêm giao thừa. Hình ảnh năm cũ được dựng lên bằng một người nam, ăn mặc rách rưới, nghèo khổ, bệnh tật. Bên cạnh đó, người ta nhân cách hóa hình ảnh này với những sự kiện buồn, những điều không như ý trong năm chất chồng lên hình nộm ông năm cũ, rồi bật lửa đốt cháy.

Hình ảnh đốt lửa đó, mặc dù có vẻ bạo động và gắn liền với lòng sân, nhưng người dân ở đây cho rằng làm như vậy thì năm mới sẽ đạt nhiều thành công hơn. Thực ra, khi chuyển hóa nỗi lo, nếu dùng cưỡng lực của lòng sân để khống chế thì nỗi khổ đau sẽ dằn xé nhiều hơn vì trong nó có sự uất hận.

Văn hóa phương Tây thường ảnh hưởng bởi tâm lý học phương Tây. Các nhà tâm lý học phương Tây thường khuyến khích con người mỗi khi bị ai đó gây buồn giận thì hãy tạo hình nộm của kẻ thù. Thay vì đánh đập, chửi bới, ứng xử giang hồ với người thật để rồi gặp rắc rối về phương diện luật pháp và tình thân, thì hãy trút nỗi đau và những ách tắc cảm xúc vào hình nộm đó.

Như vậy, về phương diện vật lý và tâm lý tác động, cách thức này có chiều hướng tạo cảm giác trấn an ban đầu. Trên thực tế, theo tâm lý học Phật giáo, khi chúng ta liên tưởng và sử dụng hình nộm như một đối vật thay thế theo phương thức “giận cá chém thớt”, thì nỗi đau cảm xúc, nỗi hận về nhận thức và hoạt dụng của sân hận được trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nó khống chế và chi phối đời sống con người rất nhiều. Do đó, nó không phải là giải pháp.

Chúng ta có thể tiếp biến nền văn hóa phương Tây ở điểm: Thay vì tạo hình nộm để đốt, dù hình nộm đó tượng trưng cho những điều không như ý, đốt nó và mong rằng nó sẽ không tái xuất hiện trong sinh hoạt của con người ở năm mới, thì chúng ta hãy giữ lại trong tâm nguyện vọng chính đáng là mong sao trong năm mới, nỗi đau không xuất hiện với mình.

Còn cách thức thể hiện, đốt cháy nỗi đau là phản ứng cưỡng lực của lòng sân. Dùng lòng sân để khống trị lòng sân, dùng cơn bất mãn để giải tỏa sự bất mãn sẽ làm cho lòng sân và sự bất mãn đó gia tăng. Cứ mỗi lần vận dụng phương pháp đó thì cường độ, mức ảnh hưởng tâm lý lây lan cảm xúc và các tác dụng tiêu cực đối với con người của chúng ta sẽ lớn hơn gấp nhiều lần.

Tất cả những chuyện buồn đều có nguyên nhân xa và gần, trực tiếp hay gián tiếp, mình và người hoặc bao gồm tất cả những yếu tố này cộng lại. Nhận định, phân tích, đánh giá mọi sự vật vấn đề trên nền tảng của nhân quả sẽ thấy được sai lầm của mình trong những tình huống khổ đau.

Một trong những nghệ thuật chuyển hoá nỗi đau theo tinh thần Phật dạy là khóa cửa nhốt nỗi đau đó ở nơi mà nó xuất hiện; đừng khóa nó với tác nhân đã tạo ra nó. Nếu khóa nỗi đau với người tạo ra nỗi đau nghĩa là chúng ta quán chiếu, ứng xử theo xu hướng chấp nhận có một cái tôi. Cái tôi đó đang trải qua một kinh nghiệm bất hạnh và kinh nghiệm bất hạnh này là hệ quả của một tác nhân, kẻ thù của mình. Như vậy là trong quan niệm ứng xử đó, chúng ta chấp nhất một cái tôi trong mối tương tác với những cái không tôi của người khác. Khi nhìn thấy tính tác giả của nỗi đau xuất hiện với mình một cách cố ý và dụng tâm thì nỗi đau đó lớn mạnh vô cùng.

Khóa nỗi đau ở nơi nó xuất hiện để nó không có cơ hội lây lan. Nghệ thuật khoanh vùng là một trong những giải pháp hữu hiệu khi nỗi đau đó chưa đủ sức được chuyển hoá một cách trọn vẹn trong thời khắc nhất định. Nhận thức rằng nỗi đau đang khống chế và chinh phục dòng cảm xúc hạnh phúc của chúng ta, khoanh vùng nó để nó không mở rộng phạm vi thì nó có ảnh hưởng nhưng chỉ ở một mức độ nhất định.

Vẫy tay chào với những nỗi đau quá khứ là chúng ta vô hiệu hoá nó ở hiện tại. Ai có thói quen liên tưởng trên nền tảng của ký ức, sống với chủ nghĩa kinh nghiệm thì nỗi khổ, niềm đau đã từng diễn ra sẽ được hâm nóng với cường độ ngày càng tăng.

Dĩ nhiên những người yêu nước không thể cắt đứt quá khứ đấu tranh giành độc lập chủ quyền cho dân tộc, cởi ách đô hộ và thống trị của giặc ngoại xâm, mang bình đẳng, hạnh phúc, tự do cho nhiều người, giảm nghiệp sát và nghiệp gây đau khổ của kẻ xâm lăng… Cho nên, hướng về quá khứ, ôn lại quá khứ, ca ngợi quá khứ vàng son để tạo cơ hội cho hiện tại ngày càng tốt đẹp.

Những người Phật tử, nếu không là những người dấn thân trực tiếp vào các lĩnh vực vừa nêu, thì dù cho nỗi khổ niềm đau có lớn với tổ tiên, ông bà, cha mẹ và người thân hoặc nó từng diễn ra với mình thì cũng phải vẫy tay chào từ biệt nó. Nuôi giữ hận thù là nuôi ong tay áo. Con ong đó chính là dòng cảm xúc của bất hạnh, của sân hận, thù hằn, oán kết. Do đó phải đốt nó đi. Dĩ nhiên, đốt bằng chuyển hóa, chứ không phải bằng lòng sân hận.

Dù người Phật tử, với tư cách người chiến sĩ, đã từng trực tiếp làm công việc bảo vệ biên cương, bờ cõi, chúng ta cũng cần phải khép lại nỗi đau. Nghĩa là bảo hộ an ninh một quốc gia không dựa trên nền tảng của lòng sân và thù hận. Chúng ta cần thay thế nó bằng con đường của lòng từ bi và tinh thần yêu nước. Nhờ đó, nghiệp sát sẽ giảm đi một cách khá đáng kể. Khi ấy, mọi ân oán giang hồ sẽ được tháo gỡ một cách dễ dàng. Trong nhiệm vụ yêu nước, lòng từ bi sẽ làm cho con người có tình thương, thấy rất rõ rằng nỗi đau đã từng diễn ra với hai dân tộc là cộng nghiệp của một giai đoạn lịch sử và bây giờ nó không còn nữa. Nhiệm vụ của những người đang sống hiện tại là nối kết tình thân để giá trị lợi lạc trong mối quan hệ giữa các quốc gia về phương diện kinh tế, văn hóa, học thuật, giáo dục làm lợi lạc cho hiện tại và tương lai.

Tinh thần của nhà Phật là tinh thần phản chiếu, khác hoàn toàn với tinh thần của các chủ nghĩa và ý thức hệ chính trị. Ai muốn hạnh phúc thì phải khép lại nỗi đau, chuyển hoá và quên nó. Còn cứ giữ nó dưới hình thức này hay hình thức khác thì nỗi đau sẽ khống chế và chính mình trở thành nạn nhân.

Chúng ta có thể chuyển hóa bằng cách thay và thế; hoặc thay và đổi. Thay vật này bằng vật khác thì vật khác có thể khá hơn vật cũ. Nhưng nếu thế bằng cảm xúc nhận thức tích cực hơn thì những điều không như ý và nghịch cảnh không thể khống chế hạnh phúc của chúng ta. Cho nên, trong chuyển hoá nếu chỉ có thay mà không có thế thì chưa thể thành công.

Để cai nghiện ma túy, người ta phải uống những viên thuốc có hương vị tương đương nhưng lại không có tác dụng hoá học. Khi cơn vật vã, rũ rượi xuất hiện, nó được trút đổ vào viên thuốc và sự ngậm viên thuốc này, người nghiện nương vào đó mà vượt qua. Đó là thay. Tuy nhiên “thế” mới quan trọng, vì nó liên hệ đến thái độ. Thay một sự kiện tiêu cực bằng một sự kiện tích cực hơn mà không thế bằng một dòng cảm xúc và nhận thức đúng đắn thì giá trị trị liệu của việc thay chỉ đạt tối đa 40%. Những cơn nghiện vẫn tiếp tục diễn ra.

Có những trường hợp cai nghiện được một năm, hai năm, tưởng chừng các hạt giống của cơn nghiện đó đã hết, nhưng khi trở về tái hợp với gia đình, tình cờ chỉ cần nghe mùi hay được nhắc đến thì cơn thèm lại tái xuất hiện và khống chế người đó mãnh liệt hơn. Đó là vì trong quá trình cai nghiện, người ta đã không có sự thế về phương diện nhận thức từ tiêu cực trở thành tích cực như là một giải pháp.

Do vậy chuyển hóa nỗi đau cũng phải diễn ra theo hai bước. Bước 1, thay đổi nỗi đau bằng những cái không thuộc về nỗi đau. Bước 2, thay thế ý niệm chịu đựng nỗi đau đó bằng thái độ bình thường hóa và vô hiệu hóa nỗi đau vốn có.

Trong đó bước thứ hai cần đặc biệt lưu tâm, bởi những điều không như ý diễn ra hằng ngày, hằng giờ, mọi nơi, mọi chốn. Sự thay thế khó có thể đạt được vì nó có thể rơi vào tình trạng “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, tức là nỗi đau A biến dạng thành nỗi đau B, tránh người A thì lại gặp người B. Trong cuộc sống, đôi khi tránh tiếp xúc những điều bất hạnh, không như ý thì người ta từ bỏ xí nghiệp này để chuyển qua cơ quan khác, từ bỏ địa điểm này để đến một địa điểm khác. Tất cả chỉ là giải pháp nhất thời. Khi sự tái lặp tình trạng này lần thứ hai, thứ ba, thứ tư sẽ làm cho mức chịu đựng của con người bị phá vỡ và họ trở thành đám lục bình trôi, phó mặc đời mình. Cho nên, đào tẩu là một bế tắc. Phải thay đổi bằng thái độ nhận thức, đối tượng của sự thay đổi cần phải được đặt lên bàn cân.

Nếu tích cực sống chung với nỗi đau, với thái độ không sáng suốt thì nỗi đau đó chính là kẻ thù của hạnh phúc và bản thân. Vì vậy phải chuyển hóa. Nỗi đau có rồi sẽ dần dần giảm đi, chúng ta sẽ thấy nó quá bình thường, không cường điệu nó.

Để làm được, chúng ta chỉ cần liên tưởng đến hình ảnh hòn đảo sừng sững giữa biển khơi. Phong ba bão táp của cuộc đời với những điều không như ý không làm cho nó sụp ngã và tan nát. Hình dung hóa rằng chúng ta là tảng đá giữa cuộc đời biển lớn với sóng gió ba đào để tình trạng bão táp có mặt chỉ là sự kiện rất bình thường. Hòn đảo nào giữa biển khơi cũng phải trải qua sóng gió. Cứ tiếp tục sống vững chãi. Sau cơn mưa trời lại sáng. Hướng về vầng thái dương, chúng ta sẽ vẫy tay chào với bóng đêm mờ mịt. Tiến tới phía trước để bỏ lại sau lưng những nỗi tang thương.

Mỗi lần đau mỗi lần kinh nghiệm. Bài học mới làm lớn mạnh sức chịu đựng, sự khôn ngoan, và bản chất hạnh phúc của bản thân theo đó cũng được huấn luyện, tức là làm thế nào để tận dụng những tình huống không như ý trở thành cái gì đó hỗ trợ cho chúng ta trên con đường tìm kiếm an vui. Tất cả các phương pháp tu tập trong nhà Phật đều đặt trên nền tảng của sự chuyển hoá như vậy.

Bước vào căn nhà với sự trang trí, bố cục màu sắc gây phản cảm. Không thích, nhưng chúng ta cũng không thể đập đổ, phá vỡ tất cả vật liệu được trang trí trong đó mà thay đổi bố cục, đặt lại vị trí, chuyển sắc màu cho phù hợp. Cũng vậy, chuyển hoá là sự thay đổi. Và phải biết hài lòng với những gì chúng ta đã nỗ lực nhưng kết quả chỉ đạt ở mức độ tương đối. Hài lòng đó thuật ngữ tâm lý học Phật giáo gọi là “Ít muốn và biết đủ”.

Ít muốn” có nghĩa không cao vọng, không mơ tưởng đặt trên nền tảng thiếu hiện thực. Vì sự mơ tưởng và cao vọng sẽ chẳng đưa ta đến đâu. Ngược lại, nhà Phật dạy, thay vì mơ tưởng quá nhiều, thì hãy hành động nhiều. Hình ảnh đức Thiên Thủ Thiên Nhãn biểu trưng cho chủ nghĩa hành động. Thay vì mơ, thì hãy làm. Mơ một làm mười. Chính sách một phải thực thi mười, một trăm. Con người chỉ có hai bàn tay nhưng chư Phật và hình ảnh đức Thiên Thủ Thiên Nhãn có đến ngàn tay, có nghĩa là các ngài làm rất nhiều.

Khi đầu tư cho công việc nào đó thì cần phải triển khai kế hoạch, từng bước thực thi cẩn thận và tỉ mỉ. Nhà Phật dạy, thay vì cứ mơ tưởng một đàn gà, thì hãy làm thế nào để có nhiều quả trứng. Sau đó nhờ tiến trình ấp đúng phương pháp các quả trứng sẽ tạo ra đàn gà con. Mơ tưởng mà không có giá trị hiện thực và giá trị hành động sẽ chỉ đem đến nỗi thất vọng nhiều hơn.

Tóm lại, chuyển hoá là thay đổi cái nhìn, kéo theo chủ nghĩa hành động. Khi hai vấn đề này song hành và tiếp nối nhau thì sự chuyển hoá mới có kết quả. Nỗi đau có mặt ở đâu, chúng ta phải thay thế nó bằng hạnh phúc ở đó. Nếu không có tuệ giác, tất cả mọi nỗ lực chuyển hoá và thay thế sẽ không có tác dụng.

CHẤM DỨT KHỦNG BỐ VÀ HẬN THÙ

Vài giờ trước ngày Tết dương lịch 2007, tại thủ đô Bang- kok, nhiều nơi bom đã nổ, máu rơi, mạng sống con người nằm xuống do nạn khủng bố diễn ra. Giới nghiêm và tất cả những lời khuyến tấn của chính phủ Bangkok buộc người dân tại thành phố này không nên có mặt và tụ họp ở những nơi đông đúc.

Chiến tranh giữa các ý thức hệ, chiến tranh về quyền lực kinh tế, hoặc chiến tranh tôn giáo đã làm cho các dân tộc trở nên xa lạ, thậm chí những người trong cùng một dân tộc, một quốc gia có thể trở thành kẻ thù của nhau. Thái Lan là quốc gia Phật giáo nổi tiếng với vị vua cai trị bằng đạo đức của một chuyển luân thánh vương. Người dân tôn kính vị vua này như vị Phật hoặc Bồ Tát. Khi gặp nhà vua, các Phật tử thuần thành tại đây đều chắp tay đảnh lễ.

Mấy năm gần đây, tại miền Nam Thái Lan, nạn khủng bố phát xuất từ những người Hồi giáo cực đoan đã làm cho một phần đất của miền Nam không còn yên tĩnh. Các nhà sư Phật giáo trở thành một trong những đối tượng và trọng tâm tấn công. Theo lời Phật dạy, sau mỗi bữa sáng các nhà sư phải đi vào làng, xã, hang cùng ngõ hẻm để tạo sự tương tác giữa người xuất gia và tại gia, qua đó giúp họ có thêm niềm vui và tạo phương tiện cho họ gieo trồng phước báu. Luật hành khất buộc những vị khất sĩ không được từ chối bất kỳ những gì người ta hiến tặng trong cái bát. Những người Hồi giáo cực đoan tấn công các nhà sư bằng cách đặt bom vào trong bát và cái chết đã diễn ra.

Trong tình huống khủng bố diễn ra một cách nghiêm trọng như vậy, Giáo Hội Phật giáo Thái Lan và chính phủ hoàng gia của Thái một mặt vẫn yêu cầu các nhà sư không nên bỏ truyền thống khất thực hằng ngày, mặt khác nhà nước tăng cường phương tiện bảo hộ an ninh để sinh hoạt của người dân bình thường trở lại.

Các nhà sư vô úy không sợ chết, vì hiểu rằng bản chất của đời sống không phải là thọ hay yểu, mà là cách thức chúng ta sống như thế nào. Các nhà sư vẫn thong dong tự tại cất bước trên những nẻo đường của miền Nam Thái Lan. Sau vụ đảo chính, số lượng du khách sụt giảm đáng kể, nhưng hoạt động của nhà sư Thái vẫn diễn ra một cách bình thường. Điều đó chứng tỏ, tinh thần không sợ hãi của những người tu Phật là chất liệu làm cho họ được an vui hạnh phúc trước tình huống buồn lo. Nơi đâu có sợ hãi, nơi đó có bất hạnh. Các nhà sư đã nêu cao tấm gương bất chấp chiến tranh loạn lạc, vẫn thong dong từng bước thảnh thơi trên mọi nẻo đường đời.

Ngày 30 tháng 12 năm 2006, lễ treo cổ Saddam Hussein diễn ra. Chúng tôi dùng từ “lễ” không phải vô tình vì người ta đã phát sóng trực tiếp trên một số đài lớn như để cảnh tỉnh những bạo chúa dùng quyền lực của mình ức hiếp người khác và tạo cái chết tập thể cho rất nhiều người vô tội.

Thế giới Hồi giáo đã phản đối vì thời điểm này họ đang chuẩn bị bước vào mùa lễ rất quan trọng. Người Hồi giáo tức giận cho rằng nền văn hoá của họ đã bị thách đố. Hồi giáo quan niệm, trước ngày lễ hội văn hóa, các tín đồ cần làm lành, từ thiện, dấn thân. Ấy thế mà cái chết của Saddam Hus- sein đã diễn ra. Sự mâu thuẫn hai nền văn hóa tôn giáo Hồi và Thiên Chúa liên minh với Tin Lành sẽ trở nên căng thẳng hơn. Đó là dự đoán của rất nhiều nhà nghiên cứu chính trị ở vùng trung tâm.

Khủng bố là một trong các hình thái chiến tranh thời hiện đại. Con người tình nguyện trở thành quả mìn có mặt nơi đông người, mang đến nỗi sợ hãi chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Thông thường, khi người bị bệnh và chết, đa số đoán biết được giờ khắc mình sẽ chết vào thời điểm nào. Nhưng trong cái chết của nạn khủng bố, người ta chưa có thái độ chuẩn bị, không biết khi nào đến lượt mình, không biết lúc nào mình sẽ phải qua đời. Sống trong trạng thái thấp thỏm, lo âu như vậy thì cái chết diễn ra một cách kinh hoàng hơn nhiều lần. Và như thế, trong tiến trình tái sinh, những người chết do khủng bố gây ra sẽ không có tương lai.

Do đó khủng bố là tội ác chống lại nhân loại. Tội ác đó mang nghiệp sát lớn gấp trăm lần so với nghiệp sát bình thường. Những kẻ tình nguyện trở thành bom khủng bố, do vì mê tín, nghĩ rằng giết người khác đạo sẽ có thêm tấm hộ chiếu để vào nước Chúa, nhưng không biết rằng việc gieo rắc tội lỗi đó được chồng chất tỷ lệ thuận với niềm tin mê tín và sai lạc.

Trước thềm năm mới là dịp họ hàng, người thân ngồi lại với nhau trong bữa tiệc gia đình ấm cúng. Các quốc gia, công sở và nhiều nơi trên thế giới nghỉ làm để chúc tụng lẫn nhau những điều tốt đẹp nhất. Nạn khủng bố diễn ra đã làm cho niềm hạnh phúc ở nơi đó mất đi trọn vẹn.

Hậu quả của việc gây khủng bố vô cùng nghiêm trọng. Sự tái sinh của những con người mê tín và sai lầm đó có thể dẫn đến tình trạng bị tâm thần, bị điên. Nghĩa là có kiến thức, có đời sống, phương tiện sinh hoạt đầy đủ nhưng lại không có cái phước để hưởng tất cả những gì mình có. Với người điên mọi thứ đều trở nên vô nghĩa.

Đó là chưa kể đến những hậu quả của nghiệp khác. Vì nghiệp điên chỉ là một phần rất xấu trổ ra từ những hạt giống gây nỗi sợ hãi và kinh hoàng ở người khác. Mức độ tàn phá và gieo rắc kinh hoàng lớn bao nhiêu thì cường độ của nỗi điên đối với người lãnh quả tỷ lệ thuận bấy nhiêu. Sự sát hại còn liên hệ đến bệnh tật, chết yểu và những tai nạn mà người đó sẽ phải gánh chịu ở nhiều đời kiếp về sau.

Tôn giáo trong nhiều thế kỷ qua đã trở thành manh mối tranh chấp và hận thù của các dân tộc. Trong khi đó, nhà Phật không khuyến khích một hình thái tôn giáo nào, mà dạy rằng đó là một con đường chuyển hoá tâm linh; nghĩa là phi tôn giáo. Rất tiếc, nhiều người đệ tử Phật, do ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa của những quốc gia, nơi đạo Phật có mặt như một thực phẩm tâm linh, đã phương tiện hóa đến độ bản chất gốc của Phật giáo không còn nữa, và hình thái tôn giáo đã được thay thế vào. Cái hay cũng có, cái dở cũng nhiều, cái thành công cũng đáng kể và cái mất đi bản chất ban đầu của đạo Phật cũng không phải là điều chúng ta có thể quên được. Do đó, cần tiếp biến theo cái thế để những mâu thuẫn, khủng bố của con người ngày càng giảm thiểu, niềm an vui càng tăng ở mọi nơi mọi chốn.

Khi khủng bố không còn có mặt trên cuộc đời này, thì bấy giờ, các hình thái cực đoan của chiến tranh sẽ vắng lặng. Những lãnh tụ các phe phái chính trị cần nên ý thức rõ, bản chất hạnh phúc của con người cần phải được tôn trọng tuyệt đối, vì đó là quyền tự do cao nhất. Phá vỡ sự tương nhượng này sẽ làm cho cuộc đời trở thành địa ngục.

Ngoài nạn khủng bố trên nền tảng của chiến tranh, thì khủng bố về phương diện cảm xúc cũng cần được đẩy lùi. Nạn bạo hành gia đình, đì đọt cảm xúc giữa những người thân với nhau, bạo hành thân thể, bạo hành các mối quan hệ hay những loại khủng bố liên hệ đến chương trình phần mềm cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng đang ngày một tăng.

Vào ngày 28 tháng 12 năm 2006, một loại virus mới có tên Happy New Year đã được gởi đến hàng triệu triệu địa chỉ email trên khắp thế giới. Có nơi sự lan truyền mạnh đến độ cứ mỗi giây, loại virus đó được gởi đến hộp thư ba lần. Tưởng rằng nhận được thông điệp chúc mừng cho năm mới, người ta mở email đó ra. Cuối cùng cả hệ thống vi tính không còn tác dụng. Máy bị hỏng, các dữ liệu bị xoá. Nỗi khổ niềm đau, tiếc nuối những gì bị mất trong vi tính cũng không thua kém bất kỳ sự mất mát nào về phương diện vật lý. Bao nhiêu dữ liệu, kiến thức, chất xám được đầu tư, chứa đựng trong máy không còn gì, đặc biệt các dữ liệu ngân hàng hay những thông tin quan trọng khác.

Kẻ khủng bố về tri thức, thông qua việc cài đặt các lệnh điều khiển virus vào trong hệ thống internet, chỉ thỏa mãn tri thức và sự phát kiến của mình nhưng lại không hiểu rằng đã tạo nghiệp phá hoại rất nghiêm trọng.

Một số tờ báo Việt Nam từng đăng bài viết tranh luận sôi nổi về tình trạng một cậu học sinh nhỏ tuổi tạo ra loại virus mở được mật khẩu trong trang web của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cậu ta đã thay đổi hình của bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân bằng một hình mới. Sau đó, người ta kết tội và phạt tù cậu bé này. Nhiều tờ báo lên tiếng bênh vực và nghĩ rằng đây là một thần đồng tin học. Họ cho rằng đó là lời cảnh báo rằng hệ thống mạng và an toàn mạng của website chính phủ cũng như nhiều website khác đang bị đe dọa, vì một em bé nhỏ còn có thể làm được, huống hồ những hacker có thể tạo ra sự đổ nát nghiêm trọng hơn. Mục đích của những tác giả, các nhà báo là bênh vực cho cậu bé. Thế nhưng, họ không biết rằng chính cái nhìn tích cực đó khích lệ các hoạt động phá hoại tương tự trong tương lai. Luật pháp phải nghiêm minh trừng trị để những hạt giống đó không lan truyền, khủng bố đó không được có mặt. Còn sự cảnh báo lại có một ý nghĩa khác.

Do đó, các hình thái khủng bố đã làm cho sự thiết lập, phát triển về mọi phương diện của xã hội bị đẩy lùi, phải mất thời gian khá dài mới có thể khôi phục lại những gì đã bị phá hoại.

Trong năm mới, chúng ta mong sao cho các hoạt động khủng bố, các nhận thức khủng bố, các con người khủng bố hiểu và nhận thấy sự sai lầm của mình để không bao giờ sai lầm nữa.

Chúng tôi rất tâm đắc hai hình ảnh trong các câu chuyện Phật giáo Bắc Tông, ông Thiện và ông Ác; Hộ Pháp và ông Tiêu Diện chuyên trừng trị những kẻ xấu và bảo hộ hạnh phúc cho những người liêm chính. Ông Thiện tượng trưng cho giáo dục đạo đức. Ông Ác tượng trưng cho các phương thức trừng phạt để chuyển hoá.

Có những con người thích hợp với giáo dục và khuyến tấn điều thiện, nhưng cũng có những người chai lì, không còn tỉnh thức trước những lời khuyến tấn tốt. Lúc đó, sự trừng phạt chính là giải pháp tốt nhất để họ được chuyển hóa. Nếu ông Hộ Pháp trong các ngôi chùa tượng trưng cho sự bảo hộ về mọi phương diện an ninh, chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục và các phương diện tích cực của xã hội thì ông Tiêu Diện Đại Sĩ là người hi sinh để đối đầu, sống chung, chuyển hóa những con người tạo ra bất hạnh cho người khác. Toàn bộ luật pháp của xã hội đóng vai trò của ông Tiêu Diện.

Phật giáo và các luật pháp xã hội khác nhau ở chỗ, bên cạnh sự trừng phạt của luật pháp qua hình ảnh của ông Tiêu Diện, ông Ác, thì nhà Phật còn đưa ra hình ảnh ông Thiện tượng trưng cho giáo dục. Khi giam nhốt, trừng phạt tù nhân, chúng ta phải giáo dục để họ thay đổi thì những hành động bất thiện của họ sẽ được chấm dứt. Bằng không, chỗ nào có trừng phạt chỗ đó có sợ hãi, chỗ nào không trừng phạt thì tội ác vẫn tiếp tục diễn ra. Do đó, giáo dục mới là sự chuyển hoá rốt ráo nhất. Trong giáo dục, chúng ta phải nhìn thấy mức độ hồi đầu và cơ hội cũng như tiềm năng làm mới của những người chưa từng sống với niềm hạnh phúc do tạo quá nhiều nỗi đau cho người khác. Thấy như vậy thì chúng ta mới mở lòng sẵn sàng tha thứ và đón nhận.

VÌ MỘT THẾ GIỚI KHÔNG CÒN ĐAU THƯƠNG

Thiên tai có mặt khắp nơi. Cái chết tập thể thường diễn ra hết nơi này đến nơi khác. Sự tổn thất về hoa màu, sự hủy hoại các công trình xây dựng và cơ sở vật chất ở nhiều quốc gia đã lên đến mức báo động. Trong những tình huống như vậy, kinh Dược Sư, đức Phật đã dạy những vị cầm cân nảy mực của quốc gia cần phải làm lành và tu tập hơn bao giờ hết, hơn bất cứ ai. Bởi vì hạt nhân hành động của những người cầm cân nảy mực sẽ có thể tạo ra một cộng nghiệp. Nếu hành động của người đứng đầu một quốc gia là tốt, có khuynh hướng thiện thì cộng nghiệp này sẽ ảnh hưởng đến quốc gia đó. Nhờ vậy nghiệp xấu của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử có thể được chuyển hoá.

Khi các tai ương tật ách xuất hiện, đức Phật thường dạy nhà vua trong thời cổ đại phải làm lành, ăn chay, niệm Phật, bố thí, cúng dường, ân xá tội nhân, hỗ trợ vốn cho người nghèo, thiết lập an ninh và giúp cho những nạn nhân sớm tái lập lại đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nếu ngân sách quốc gia cho các hoạt động từ thiện không đủ thì phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp để các quốc gia khác cùng nỗ lực giúp đỡ.

Cơn bão diễn ra tại Louisiana, Hoa Kỳ đã làm cho Mỹ phải tuyên bố với thế giới tình trạng khẩn cấp, cần đến sự viện trợ của nhiều quốc gia, mặc dù Mỹ là quốc gia duy nhất trên thế giới viện trợ cho rất nhiều quốc gia khác chịu ảnh hưởng trực tiếp theo nền chính trị của nước này. Vậy mà khi gặp nguy cấp, họ vẫn tuyên bố mong mỏi chờ sự viện trợ. Trong khi đó cơn sóng thần diễn ra ở vùng Nam Á và Đông Nam Á, Ấn Độ là quốc gia nghèo nhất, nhì trên thế giới, vậy mà thông qua hoạt động ngoại giao lại không nhận bất kỳ viện trợ nào của các quốc gia khác. Cuối cùng, cái chết, khổ đau thuộc về người dân và những kẻ bất hạnh chứ không thuộc về những người cầm cân nảy mực. Do đó, người lãnh đạo quốc gia cần phải thấy rõ, nếu mình không đủ sức, ngân sách không thể giải quyết việc thiết lập đời sống sinh hoạt của người dân thì cần phải vận động viện trợ trên khắp thế giới. Tự ái và mặc cảm là biệt nghiệp rất nguy hiểm ảnh hưởng đến cộng nghiệp của một quốc gia.

Người Phật tử sống trên cuộc đời cũng cần phải chia sẻ những gì mình có cho những hoàn cảnh bất hạnh. Hãy tiết kiệm, cắt xén những phần chi tiêu không đáng và không cần thiết để làm việc từ thiện vì nỗi đau, nỗi khổ của những người bất hạnh còn rất nhiều trên thế giới.

Ngày giao thừa trước năm mới, chúng ta nên dành mười phút cầu nguyện, thiền quán, niệm Phật, trì chú để hồi hướng công đức cho tất cả pháp giới. Mặc dù không được ảnh hưởng trực tiếp nhưng nó vẫn tạo ra từ trường cộng nghiệp tốt cho cuộc đời. Nếu tất cả những người Phật tử trong tiếp biến văn hoá dành ra khoảng thời gian cầu nguyện chung, chúng tôi tin rằng ảnh hưởng của cộng nghiệp này sẽ làm giảm ách tắc khổ đau, bất hạnh của thế giới và nhân loại nói chung.

(Còn tiếp)

Theo Phật Pháp Ứng Dụng