Đức Phật đã trao tặng cho Phật tử chúng ta vũ khí Bi Trí Dũng để đối trị Tham Sân Si, để xây dựng nếp sống an vui, giải thoát cho mình, cho người và cho muôn loài.
Đạo Phật đối với vấn đề phát triển và bảo vệ môi trường lâu bền
Bài viết sau đây của Tiến sĩ Lê Văn Tâm, đại học Gottingen (CHLB Đức), là một trong 12 bài trình bày tại buổi Hội thảo “Phật Giáo và Thời Đại”, được tổ chức tại Trúc Lâm Thiền Viện (Pháp) vào tháng 9 năm 1995. Là một chuyên viên về Bảo vệ Môi Trường, lại là Phật tử, ông đã vận dụng một phần của lời Phật dạy (Kinh Từ Bi) để mô tả và dự báo về những tác hại mà con người, trong quy trình phát triển xã hội, đã tàn phá thiên nhiên và các động vật hữu hình khác không những một cách vô minh mà còn phi kinh tế nữa.
Quy chiếu về Việt Nam, và cũng từ những cơ sở của Kinh Từ Bi, ông đã đề nghị một định hướng bốn điểm làm nền móng cho một phương án “Phát triển lâu bền” trên hai lãnh vực Kinh tế và Xã hội, mà vẫn bảo tồn được sức sống và sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Đây là những gợi ý tâm huyết và có chất lượng cao mà Tuyển Tập Giao Điểm xin giới thiệu với bạn đọc bằng tất cả lòng trân trọng. (Hai mươi lăm cước chú về các nguồn trích dẫn dữ kiện đã không được in kèm theo bài viết này vì khuôn khổ giới hạn của tuyển tập. Giao Điểm thành thật xin lỗi bạn đọc và tác giả).
Hiện nay thế giới đang đứng trước nhiều sự việc và hiện tượng có tác động toàn cầu. Chúng cũng là những thách thức lớn đối với Đạo Phật và Phật tử chúng ta.
Về mặt tiêu cực, nạn nhân mãn và suy dinh dưỡng tại nhiều nơi trên thế giới, bạo lực tàn phá mạnh mẽ các tài nguyên thiên nhiên – có khi đến độ không thể phục hồi, cường độ bão lụt gia tăng và quả đất bị hâm nóng dần là một vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, hiện tượng suy tôn vật chất và các tiện nghi máy móc đang lan tràn. Sự xói mòn lòng tin đối với những giá trị truyền thống ngày càng mạnh mẽ. Đất nước Việt Nam cũng đang trực diện với những vấn đề tương tự. Phật tử chúng ta không thể không phân vân tự hỏi: “Mình đã đóng góp đủ bổn phận vì thế hệ mai sau chưa?”. “Mình đã áp dụng đúng lời Phật dạy trong sự xây dựng một nếp sống quân bình giữa vật chất và tinh thần trong hoàn cảnh mà mình đang có mặt?”
Ngược lại, thế giới cũng đang đứng trước nhiều thuận lợi mới. Sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nỗ lực hợp tác giữa những nước đã từng thù nghịch với nhau, sự lớn mạnh của phong trào giải phóng phụ nữ; sự bành trướng bảo vệ môi trường và sự truy tầm một nội dung mới cho vấn đề “phát triển lâu bền”, đang làm tiền đề cho những thao thức và cố gắng mới trong sự xây dựng “một thế giới chung” tốt đẹp hơn. Người Phật tử có thể đóng góp được gì nhằm hỗ trợ và triển khai những việc tích cực ấy?
Các câu hỏi vừa đặt ra cho người Phật tử có lẽ không thừa. Bởi vì Phật tử nào cũng biết câu: “Phật pháp không lìa thế gian pháp” và ý thức rằng giáo lý của Đức Phật không là những gì trừu tượng đứng ra ngoài cuộc đời. Do đó, sự tìm hiểu hoàn cảnh và những sự việc hiện thực, cũng như xu thế phát triển của chúng, với chủ đích làm sống động mối tương quan giữa Đạo Phật và đời sống thực tại, là một điều tất yếu. Qua đó, người Phật tử vừa thực hiện được một trong bốn lời nguyện lớn: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, vừa nhận thức rõ hơn, thế nào là những hành động hợp với “khế lý” và “khế cơ” trong sự xây dựng một nếp sống vì sự giải thoát của mình và vì sự an lành của chúng sinh.
Sau đây xin gợi ý về “Đạo Phật đối với vấn đề phát triển lâu bền và bảo vệ môi trường”, nhằm góp phần vào cuộc thảo luận chung quanh chủ đề “Đạo Phật và Thời Đại”.
“Phát triển” là vấn đề trung tâm của mỗi quốc gia. Xưa nay chưa có một nội dung thống nhất về “phát triển”. Bởi vì quốc gia nào cũng có suy nghĩ và ưu tiên riêng. Hơn nữa, khi hoàn cảnh chuyển biến thì quan niệm về “phát triển” cũng phải thay đổi để hợp với những yêu cầu mới. “Phát triển” thường được hiểu qua nghĩa hẹp là “phát triển kinh tế”, là “xây dựng và phát huy mọi tiềm năng sản xuất toàn quốc, nhằm phục vụ dân chúng với hàng hóa và dịch vụ”.
Vào những thập niên 50, 60 phát triển được quan niệm là “sự tăng trưởng hàng năm về thu nhập quốc dân”. Sau đó, nội dung “giảm nghèo, giảm chênh lệch và giảm nạn thất nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế” đã được đề cao. Phát triển cũng được hiểu như “sự thay đổi toàn bộ hệ thống xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của khối lớn quần chúng đang cảm thấy thiếu thốn về vật chất và tinh thần”. Nói chung, dầu với nội dung nào đi nữa, vai trò sản xuất hàng hóa, phân phối và tiêu thụ hàng hóa, vẫn luôn luôn giữ vị trí ưu tiên hàng đầu trong sự phát triển. Biểu tượng của sự phát triển từ trước đến nay là số lượng ngày càng tăng của sắt thép được chế tạo, của sự sản xuất cùng tiêu thụ năng lượng và hàng hóa, là tốc độ bành trướng đô thị, là tốc độ di chuyển và thông tin.
Con người đã không ngừng thi đua nhau trong việc sản xuất. Chỉ tiêu “ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã được thần thánh hóa. Nhu cầu về nguyên liệu và chất đốt tăng vòn vọt. Thiên nhiên đã trở thành nguồn vật liệu không ngừng bị khai thác và khống chế. Thiên nhiên cũng là nơi tiếp nhận miễn phí mọi loại rác dơ bẩn và chất thải độc hại.
Để đạt chỉ tiêu phát triển, bao nhiêu người đã không quan tâm đến hệ quả của sự khai thác quá độ và sự tiêu diệt các sinh vật “không ích lợi”. Đối với họ, sự ô nhiễm và hủy hoại môi trường chỉ là những sự kiện nhỏ, không phải là đề tài thảo luận. Điều này đã phản ánh qua những cố gắng liên tục suốt hai thế kỷ qua, nhằm phát triển ngày càng tinh vi những phương pháp và công cụ kỹ thuật phục vụ cho sản xuất. Ngược lại, những gì cần thiết và hữu hiệu cho việc ngăn chặn sự phá hoại môi trường và sự giảm thiểu phế liệu, rác và chất độc… chỉ mới được quan tâm từ hai thập niên sau này. Chúng là những thứ gây thêm phí tổn sản xuất, nên bị loại ra ngoài trong bài tính: làm sao đạt được lợi nhuận tối đa, làm sao mau được giàu có!
Họ không những không chú ý đến sự ô nhiễm môi trường và sự sát hại sinh thể khác mà còn quên cả bản thân. Họ không còn ý thức rằng mình đang sống hối hả và căng thẳng, đang bị cuốn hút vào guồng máy cạnh tranh “thúc cùi chỏ” vì lợi nhuận. Họ không còn hay biết rằng những giá trị tâm linh đang bị xói mòn, đang bị hào quang của phát triển và tiện nghi vật chất che lấp. Hiện tượng lẫn lộn giữa hạnh phúc với sự đua đòi nâng cao mức tiêu thụ, giữa ý nghĩa cuộc sống với của cải ngày càng chồng chất, đã trở nên phổ biến.
Đối với Đạo Phật, sự phát triển như vậy là sự phát triển bị “tham, sân, si” chi phối. Phật tử không thể thản nhiên chấp nhận nó. Huy chương nào cũng có hai mặt: mặt phải và mặt trái. Sự phát triển cũng vậy. Chúng ta không thể không quan tâm theo dõi, phát hiện và mổ xẻ mặt trái, mặt tiêu cực của nó, để nhận thức tường tận hơn, đâu là ranh giới mà con người phải dừng lại và chuyển hướng, nếu không, tất phải rước đại họa. Hơn nữa, qua đó chúng ta có thể duyệt lại tinh thần và nguyên tắc hành động nào mà Đức Phật dạy có thể đóng góp tốt cho sự xóa bỏ tiêu cực và giảm thiểu tham sân si.
Đứng giữa lòng thủ đô phồn vinh của một nước phát triển, con người khó mà không tin cậy con đường phát triển từ 200 năm qua. Những thành tựu của nó thật huy hoàng. Để minh họa điều ấy, xin nêu ra đây một số thành tựu của ba lãnh vực điển hình: nông nghiệp, y học và công nghiệp.
Thứ nhất, trên lãnh vực nông nghiệp, mặc dù đó đây vẫn còn nạn đói và suy dinh dưỡng, nông nghiệp, nói chung, đã nuôi nổi số nhân khẩu tăng lên gấp năm lần trong vòng hai thế kỷ qua. Từ năm 1850 đến nay, dân số thế giới, chủ yếu tại những nước đang phát triển, từ 1,15 tỷ tăng lên 5,7 tỷ. Tại Đức, năm 1950, mỗi nông dân có thể nuôi được 8 người và năm 1989 có thể nuôi đến 58 người. Nhóm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế CGIAR (Consultative Group on International Agricultural Research) vừa lai tạo được giống lúa hiện tại, mở ra một viễn tưởng lạc quan trong việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm trên thế giới.
Thứ hai, trên lãnh vực y học, nhờ nhiều cải thiện tốt về phương pháp trị liệu và vệ sinh, nên các bệnh tật khủng khiếp, giết người hàng loạt, như dịch tả, dịch hạch, đậu mùa, ho lao v. v…. đã bị đẩy lùi. Tỷ lệ tử vong của trẻ con sơ sinh đã giảm từ 30% vào năm 1870, xuống còn 6% vào năm1960 và hiện nay, tại nhiều nơi còn thấp hơn 4%. Thọ mạng con người được kéo dài hơn 11% trong vòng thời gian ấy. Tại Âu Châu, tuổi thọ trung bình năm 1870 là 38, đã tăng lên 70 vào năm 1965 và hiện nay đã vượt cao hơn.
Thứ ba, sự công nghiệp hóa đã trở thành đầu tàu của phát triển mà quốc gia nào cũng muốn đạt đến. Công nghiệp vừa tạo ra công ăn việc làm và những khả năng kiếm nhiều tiền; vừa cung cấp vô số mặt hàng và tiện nghi vật chất. Ti vi, tủ lạnh, xe hơi, máy điều hòa nhiệt độ, máy nói, đó là vài ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, mạng lưới đường sá giao thông hiện đại với tốc độ cao, cũng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giúp con người đến tận mọi địa điểm trên quả đất.
Công nghiệp và các hệ thống giao thông đã làm bàn đạp cho sự đô thị hóa. Năm 1800 thế giới chỉ có 21 thành phố lớn và không thành phố nào có được 1 triệu dân. Một trăm năm sau, con số này đã nhân lên gấp 15 lần. Lúc ấy đã có 22 thành phố tập trung hàng triệu người. Năm 1950 thế giới đã có 964 chùm đô thị với hơn 422 triệu người ở; năm 1980 tăng lên 1. 866 với hơn 1,1 tỷ dân cư. Thật là kỳ diệu, với một mặt bằng hạn hẹp, đô thị luôn luôn dung nạp được số dân cư khổng lồ ngày càng tăng lên. Những cao ốc của chúng ngày càng trở nên đồ sộ, ngất ngưỡng chọc trời. Công nghiệp và đô thị không ngừng phát triển, không ngừng chuyển đổi bộ mặt của quả đất và để lại dấu ấn sâu sắc của nó trên cảnh quan, trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của một nước.
Ba ví dụ nêu trên đã tô son đánh bóng cho sự phát triển vừa qua; đã gieo vào lòng bao nhiêu người niềm tin sâu sắc về sức mạnh vạn năng của sự phát triển. Nhưng đó chỉ là mặt tích cực. Nếu nghiêm túc quan sát kỹ, chúng ta phát hiện ngay mặt trái với nhiều tì vết giữa lớp son bóng lộn của nó. Những tì vết này chính là những hiểm họa không lường được.
Nông nghiệp và y dược, tuy đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự nuôi sống và bảo dưỡng sức khoẻ con người, song chúng ta cũng hỗ trợ cho sự gia tăng dân số. Chính đà gia tăng dân số một cách nhảy vọt không ngừng, đã mang đến cho nhân loại những khó khăn lớn lao.
Chúng ta thử theo dõi vấn đề này. Dân số thế giới mặc dầu đang đi vào chiều hướng ổn định, song sự tăng nhảy vọt từ hai thế kỷ qua, đã tạo ra những vấn đề khó giải quyết. Theo dương lịch, dân số thế giới năm thứ nhất lên đến 250 triệu người; năm 1650, 550 triệu; năm 1850, 1,15 tỷ; năm 1940, 2,25 tỷ và năm 1980 4,34 tỷ người: Theo đó, lần nhân đôi dân số thế giới thứ nhất kéo dài 1. 650 năm; lần nhân đôi thứ hai hạ xuống còn 200 năm; lần thứ ba, 90 năm và lần thứ tư chỉ còn 40 năm.
Tại Việt Nam, nhịp độ nhân đôi dân số còn ngặt hơn. Theo thống kê từ đầu thế kỷ thứ 19, kể từ năm 1802, lần nhân đôi thứ nhất kéo dài hơn 80 năm, lần thứ hai còn 40 năm, lần thứ ba, 34 năm và lần thứ tư chỉ còn 24 năm. Eigen, nhà hóa học vật lý được giải Nobel, đã gọi nhịp độ nhân đôi dân số trong vòng tuổi thọ một đời người là nhịp độ “phù thủy một nhân một” trong định luật phát triển, tiềm tàng bao hiểm họa khó lường.
Thực vậy, nếu chúng ta áp dụng “Lý duyên sinh” của Phật Giáo vào sự suy nghĩ (Khi cái này có thì cái kia có; Khi cái này hiện, cái kia hiện. Khi cái này không, cái kia không; Khi cái này mất, cái kia mất. Mn,III,63), chúng ta thấy được dễ dàng một chuỗi hệ quả và những nguy hiểm do sự gia tăng dân số nhảy vọt sinh ra. Ai cũng biết, khi dân số tăng lên thì những nhu cầu về lượng thực, nơi trú ngụ, trường học, bệnh xá v. v…. tương ứng tăng lên. Những đòi hỏi về diện tích sản xuất lương thực, về mặt bằng xây dựng và chế biến, về giao thông và tiếp liệu v. v…. cũng phải tăng theo. Để thỏa mãn những nhu cầu và đòi hỏi này, con người đã tăng cường sự tiến công vào môi trường và thiên nhiên một cách dữ dội và sâu rộng. Nhưng, quả đất chúng ta chịu giới hạn về diện tích và sức tải. Nó không thể đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi và sự bành trướng vô tận của con người. Con người càng tăng sức ép vào quả đất thì càng tạo ra nhiều mâu thuẫn và hậu quả tiêu cực mà chính con người phải gánh chịu. Sau đây là vài ví dụ:
1. Về mặt nông nghiệp, một khi dân số tăng thì diện tích sản xuất lương thực cũng phải được mở rộng. Từ 1980 đến 1995, tổng diện tích canh tác thế giới đã tăng 6,3% từ 1,26 lên 1,34 ha. Song trên thực tế, diện tích canh tác cho mỗi đầu người, trong vòng thời gian ấy đã hẹp lại 24,1% từ 0,29 ha giảm xuống còn 0,22 ha. Hoàn cảnh của Việt Nam cũng tương tự. Diện tích cung cấp lương thực cho mỗi đầu người ngày càng thu hẹp lại theo đà dân số tăng, từ 0,2 ha năm1940, đã giảm xuống 0,15 ha năm 1970 và chỉ còn 0,12 ha năm 1988.
2. Thông thường, khi cần mở rộng diện tích canh tác, con người đã đốn rừng. Tại Việt Nam, hàng năm rừng bị mất khoảng 200. 000 ha, trong đó khoảng 50. 000 ha là do khai hoang để trồng trọt. Rừng càng thu hẹp chừng nào thì diện tích còn lại càng bị đốn nhanh chừng nấy, để kịp tiếp tế củi, gỗ và nguyên liệu sản xuất giấy và văn hóa phẩm cho nhu cầu tăng lên theo sự phát triển dân số. Và hậu quả gì phải xảy ra khi rừng bị hủy diệt?
3. Rừng mất, sinh nạn lụt lớn và đất không được che chở nữa. Mưa gió tấn công trực tiếp vào mặt đất, rửa trôi, xói mòn lớp phân màu mỡ, khiến cho đất ngày càng thoái hóa và cuối cùng biến thành sa mạc. Hàng năm, các nước đang phát triển bị mất đi 6 triệu ha đất nông nghiệp do sa mạc hóa. Theo ước tính của Ngân Hàng Thế Giới, 2/5 diện tích canh tác tại Phi Châu, 1/3 tại Á Châu và 1/5 tại Châu Mỹ La Tinh bị đe dọa trở thành sa mạc do hậu quả đốn rừng, hoặc do chăn nuôi, do dẫn thủy sai lầm và khí hậu thay đổi. Tại Việt Nam, hơn ¼ – (tính theo một tài liệu khác: 1/3 ) – diện tích đất đai toàn quốc đã bị thoái hóa, mất hết sức sản xuất. Đồi trọc, bãi hoang đang tiếp tục mở rộng, xóa bỏ địa bàn sinh sống ngày càng cần thiết cho dân số ngày càng đông đảo!
4. Khi rừng mất, lớp thảm mục điều hòa dòng chảy cũng bị tiêu diệt theo. Lũ lụt và cường độ phá hoạt hoại của nó cũng tăng lên. Qua kết quả nghiên cứu tại Ấn Độ, sự phá rừng đã khiến cho diện tích bị ngập lụt mở rộng thêm 40 triệu ha trong vòng 25 năm (1960-1984). Mùa màng và đời sống của hàng triệu người bị đe dọa trầm trọng hơn.
5. Sự hủy diệt rừng cũng kéo theo sự hủy diệt trú quán của động và thực vật hoang dã. 0-90% các loài này đang tập trung tại rừng mưa nhiệt đới và bán nhiệt đới. Hàng ngàn loài trong số 1,4 triệu đã được kiểm tra, là dược liệu quí hiếm hoặc là nguồn “gen” cần thiết cho sự sống con người. Theo tốc độ phá rừng hiện nay, với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất đi từ 17% đến 35% loài trong số 10 triệu. Vào năm 2040, hàng ngày sẽ có từ 20-70 loài bị tuyệt chủng.
6. Cây xanh, qua hiện tượng quang hợp, hấp thụ hàng ngày khí cacbonic CO2. Khí CO2 là một trong những loại khí gây ra hiệu ứng nhà kính, hâm qua đất nóng dần, làm tan các khối băng tại Bắc cực, khiến mực nước biển dâng cao và tràn ngập, phá hủy đồng bằng thấp ven biển. Sự phá rừng đã làm mất đi một nhân tố rất quan trọng có khả năng hấp thụ và tích lũy lâu dài một số lượng khổng lồ khí cacbonic CO2, và gián tiếp làm giảm bớt mực nước biển dâng lên.
Các nhà nông nghiệp hiện đại không cần phá rừng nữa. Để giải quyết nhu cầu lương thực, họ đã áp dụng các biện pháp thâm canh, như trồng cây thuần loại, cơ giới hóa, phun tưới, dẫn nước, bón phân, dùng thuốc diệt sâu rầy và diệt cỏ dại, lai tạo giống mới v. v…. Nhưng, những gì xảy ra cho môi trường và con người với những phương pháp canh tác hiện đại ấy? Nó có đưa lại một chuỗi hệ quả tiêu cực có hai cho con người không? Đôi ví dụ sau đây trả lời cho câu hỏi ấy.
1. Sự trồng cây thuần loại, một mặt đã đẩy lùi hoặc tiêu diệt những loài “không hữu ích”. Mặt khác, nó đòi hỏi phải sử dụng thuốc diệt họa chống sâu rầy và nấm bệnh. Những thuốc này sát hại luôn những loài côn trùng và chim chóc hữu ích khác. Các cặn thuốc có chứa những chất độc như thủy ngân và arsenic, theo mưa thâm nhập và đầu độc ao hồ, suối sông và thủy sinh vật. Với diện tích rộng lớn của mình nông nghiệp là nguyên nhân quan trọng làm nghèo sự đa dạng sinh học, đem lại sự mất cân bằng cho nhiều thế hệ sinh thái, và qua chuỗi thức ăn, làm hại cả sức khoẻ con người. Hiện tượng bị dị ứng và ngộ độc do thức ăn còn chứa thuốc diệt sâu rầy, đã xảy ra tại nhiều nơi và tại Việt Nam.
2. Sự cơ giới hóa, đặc biệt trên lãnh vực thủy lợi với các máy công cụ năng dùng để đào xới, đã phá hủy trú quán và tiêu diệt các loài động và thực vật hoang dã. Hơn nữa, nó tạo hiện tượng xì phèn, hóa sình và hóa mặn, giết hại cỏ cây. Riêng năm 1986, sự hóa mặn đã làm tổn hại khắp thế giới khoảng 60 triệu ha đất nông nghiệp. Nước ngọt luôn luôn chứa một lượng muối nhỏ. Nồng độ muối này tăng dần sau mỗi lần tưới và một ngày nào đó hóa mặn đất đai. Sự hoang mạc hóa, sự hóa mặn, hóa sình cũng là những nguyên nhân quan trọng gây ra nạn đói và suy dinh dưỡng cho 800 triệu người trên qua đất hiện nay. Ngoài ra, sự dẫn nước vào ruộng, cũng làm bành trướng các khuẩn gây bệnh đường ruột và sốt rét rừng.
3. Chất phosphate và nitrat của phân bón làm tăng độ phú dưỡng của thủy vực, kích thích sự phát triển nhanh của rong rêu. Rong rêu cướp mất dưỡng khí và giết hại tôm cá và thủy sinh vật khác tại ao hồ. Qua đó, khả năng làm sạch nước tự nhiên và sự sống của ao hồ cũng bị diệt theo.
Nói tóm lại, việc thâm canh để tăng sản lượng lương thực và sự đốn rừng nhằm thỏa mãn nhu cầu nhảy vọt về củi, gỗ, về diện tích trồng trọt và định cư, đều là những hoạt động chính đáng nhằm phục vụ cho cuộc mưu sinh. Trong rất nhiều trường hợp, hệ quả dị thời của những hoạt động chính đáng này từ 10 hoặc 20 năm trước, lại trở thành sự tàn phá những điều kiện mưu sinh!
Trước những bằng chứng nêu trên, người Phật tử không thể không suy nghĩ, thế nào là “chánh nghiệp”?, thế nào là nông nghiệp trong sáng theo quan niệm “ngũ minh”? Phật tử phải hành động và kinh doanh ra sao để thiên nhiên không bị mang hại tương tự như “ong hút phấn hoa mà không làm hại hoa”, như Đức Phật đã nhắn nhủ (Pháp Cú, kệ 49)?
Trong lãnh vực công nghiệp hóa thì thế nào? Với những thành tựu huy hoàng của nó, nó có đạt được tiêu chuẩn “minh” theo quan niệm “công xảo minh” chăng? Có lẽ là không! Nền công nghiệp từ hai thế kỷ qua cũng gây ra hàng ngàn hiện tượng tiêu cực cho môi trường và con người. Sự ô nhiễm không khí và nước, rác rến, dơ bẩn, tiếng ồn ào nhức óc v. v…. là những mối nguy hại thường trực và phổ biến. Đất nước chúng ta đang đi trên đà công nghiệp hóa, không thể không đối diện với những tiêu cực có tính phổ quát này. Sau đây xin nêu vài ví dụ cụ thể:
1. Công nghiệp – và sự đô thị hóa – đã trực tiếp phá hủy thiên nhiên để lấy mặt bằng xây dựng và phát triển. Công nghiệp đã biến đổi cảnh quan và các hệ sinh thái một cách sâu rộng, đã làm đảo lộn những chu trình vật chất và dòng năng lượng trong sinh quyển, gây khó khăn cho quá trình phục hồi và thanh lọc tự nhiên. Về mặt khí hậu, trong vòng 40 năm qua, từ 1949-1989, mặt nước biển vùng nhiệt đới đã nóng hơn 0,5 độ C và ẩm hơn 16%. Mưa lục địa tăng 5% (Riêng khu vực Sahel tại Phi Châu thì ngược lại. Nơi đây, mưa giảm xuống và hạn hán tăng lên). So với 20 năm trước, tốc độ gió toàn cầu hiện nay thổi nhanh hơn 5-10% tại nhiều nơi thuộc khu vực nhiệt đới, thậm chí đến 20%. Điều này cắt nghĩ vì sao cường độ tàn phá của bão tố đã trở nên dữ dội khác thường.
2. Các nhà máy, trong quá trình sản xuất, đã không ngừng thải những chất ô nhiễm và độc hại vào không khí, vào đất và nước. Những khu công nghiệp lớn, ví dụ nhưng vùng Ruhr nước Đức, đã thải ra hơn 300 chất. Trong số đó, nhiều chất gay nên bệnh tật và ung thư. SO2 và NO2 chẳng hạn, chúng là nguyên nhân gây ra sương mù nguy hiểm (London-smog), từng làm thiệt mạng hàng ngàn người trong quá khứ (hơn 4. 000 người chết tại Luân Đôn năm 1952). Với nồng độ cao, SO2 và NO2 phá hủy chất diệp lục và ngăn chận sự quang hợp, cũng như sự hấp thụ khí CO2. Dưới dạng mưa acit, chúng làm chua đất và thủy vực, giết hại tôm cá và những sinh thể khác. Chúng ăn mòn các công trình kiến trúc và xây dựng, gây ra những thiệt hại phi thường. Tại Đức, sự thiệt hại này được ước tính từ 2 đến 3. 5 tỷ Đức Mã mỗi năm. Khí CO2 làm giảm năng suất lao động và gây chứng nhức đầu, chóng mặt. Các kim loại cũng nguy hiểm không kém. Chì làm yếu bắp cơ, có thể đưa đến liệt bại và biến đổi chức năng của gan, thận và não. Cadmium gây bệnh Itai-Itai làm méo mó thể dạng của xương v. v….. Để lọc sạch những chất độc trong nước, Tây Đức phải bỏ ra 780 triệu Đức mã hàng năm. Để giải độc cho đất, cần phải có một kinh phí khổng lồ khoảng 60 tỷ Đức mã. Tại thành phố Hồ Chí Minh nước và không khí cũng chứa nhiều chất độc và hàm lượng đã vượt lên tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Hàm lượng bụi và chì đã vượt quá từ 3 đến 11 lần.
3. Công nghiệp đông lạnh, điện tử và cả những bình xịt thuốc cho tóc, đã sử dụng rộng rãi khí CFCI. Khí này làm mỏng tầng khí Ozon và đục thủng nhiều nơi. Tầng Ozon được xem như là cái màn lọc tia cực tím có hại cho sức khỏe và mùa màng. Tầng Ozon bị mỏng hoặc bị đục thủng đã để lọt nhiều tia cực tím tấn công vào con người và sinh vật, làm tăng bệnh ung thư da.
4. Trong vòng 200 năm nay, than, dầu được sử dụng thật rộng rãi. Qua quá trình đốt cháy, chúng ta thải môt lượng khí cacbonic CO2 làm tăng vọt hàm lượng CO2 trong khí quyển, tạo ra hiệu ứng nhà kính, hâm nóng quả đất. Các khu công nghiệp thế giới thải hàng năm 24 tỷ tấn CO2 – 80% xuất phát từ những nước công nghiệp. Trong tương lai, số lượng này còn cao hơn nữa. Theo ước tính của các nhà khoa học, trong vòng 50 năm tới, nhiệt độ trung bình thế giới sẽ tăng thêm 1,5 độ C. Trong khi tại Úc Châu và Tây Phi Châu giảm bớt 1 độ C, tại Việt Nam, Ấn Độ và Âu Châu tăng thêm 3 độ C và Bắc cực tăng thêm 5-7 độ C.
Sự tăng thêm nhiệt độ này trước hết đã mang đến sự biến đổi thời tiết, quan trọng hơn nữa là làm băng tan và khiến mực nước biển dâng cao. Từ năm 1973 đến nay, lớp băng tại Bắc cực mất đi 8% và trên núi Alpe chỉ còn ½. Đến năm 2050, mực nước biển có thể năng lên từ 0,2-0,4m. Điều ấy có nghĩa là nước mặn sẽ phủ ngập các vùng duyên hải thấp và sẽ phá hủy đồng bằng phì nhiêu và sự sống tại đó. Nó sẽ đưa đến một cuộc di dân ồ ạt lên những vùng cao, nơi mà diện tích khả canh bị thu lại vì xói mòn và hoang mạc hóa. Nếu con người không sớm tìm biện pháp đối phó, có lẽ khó tránh khỏi một cuộc cạnh tranh sinh tồn gay gắt giữa người và người và một cuộc phá hủy tàn bạo vốn tài nguyên thiên nhiên còn sót lại!
Những ví dụ tiêu cực nêu trên, đã phơi bày nhược điểm và hiểm họa của sự phát triển vừa qua. Tính tham dục “ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã cổ võ và thúc đẩy sự phát triển lòng tham ái, khiến con người xa rời nếp sống tỉnh thức, xa rời và đối nghịch với thiên nhiên, đã xô con người vào sự phá hoại những nhân tố mà mình dựa vào để sinh tồn và phát triển. Sự say mê quyền lợi vật chất đã khiến cho nhiều người quên đi những lợi ích lâu dài của nhân loại. Những kẻ tiếp tục bảo vệ cho sự phát triển này sẽ nhún vai lãnh đạm trước những tiêu cực và hiểm họa. Song một ngày nào đó, biết đâu chính họ và con cháu của họ sẽ trở thành nạn nhân của nghiệp báo đau thương. Chúng ta có cảm tưởng rằng họ đi giữa cuộc đời với thái độ khá phổ biến của kẻ lái xe trên đường. Kẻ lái xe thường không nghĩ rằng mình là người có thể gây ra tai nạn hoặc chịu tai nạn. Trong tiềm thức họ, vấn đề tai nạn là vấn đề của người khác. Chỉ có người khác mới gây ra tai nạn hoặc thọ nạn. Đến khi lâm cảnh tai bay họa gởi thì đã muộn rồi. Lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú thấm thía làm sao!: “Kẻ ngu vì tham giàu, hại mình và hại người” (kệ 355) và ’’Ác nghiệp chưa chín muồi, người ngu nghĩ là ngọt. Khi ác nghiệp chín muồi, người ngu chịu khổ đau” (kệ 69).
Sớm thức tỉnh về “ác nghiệp” của sự phát triển đã qua, Schumacher, nhà kinh tế học Anh, giữa thập niên 1970, đã đề nghị một mô hình “Kinh Tế Phật Giáo”, một mô hình kinh tế phi bạo lực, không bóc lột, song hợp tác với thiên nhiên, dựa trên những nguyên tắc sinh thái lành mạnh và trên một nền công nghiệp có khuôn mặt con người. Mô hình kinh tế này cổ võ con người nên sống theo “chánh nghiệp”. Rất tiếc, đến nay chưa có Phật tử nào triển khai áp dụng hoặc lấy đó làm bàn đạp suy nghĩ tiếp về một đường hướng phát triển vừa hợp với những phạm trù và xu thế của thời đại, vừa hợp với hoàn cảnh của đất nước và vừa hợp với tinh thần Đạo Phật. Schumacher là một bậc trí tuệ lớn, một nhà tiên tri của phong trào sinh thái từ hai thập niên qua.
Trong cùng trăn trở và nỗ lực truy tầm một nội dung phát triển mới, không ngầm chứa đại họa cho nhân loại, Meadows đã công bố năm 1972 “Phúc trình thứ nhất” cho “Câu lạc bộ Rome” về “Những giới hạn của phát triển”. Phúc trình này đã được dịch ra 29 thứ tiếng, là tiếng chuông đầu tiên vang dội khắp toàn cầu, đánh thức con người phải suy nghĩ lại và đặt lại vấn đề phát triển. Tiếp theo đó “Global 2000” – “Phúc trình lên tổng thống Mỹ” 1980, Mô hình Thế giới Brundtland 1987, v. v… đã đề nghị những nội dung phát triển bền vững, không phá hoại những cơ hội phát triển của thế hệ mai sau. Hội nghị Thượng đỉnh về quả đất 1992 của 178 nước trên thế giới tại Rio de Janeiro, có thể xem như là một cuộc tổng kết chung, với khẳng định rằng, để “phát triển lâu bền”, phải “bảo vệ môi trường”.
Hội nghị thượng đỉnh Rio 1992, tuy gặp phải nhiều ngờ vực và chỉ trích, song đó là một cố gắng lớn, nhằm tạo khúc quanh mới cho sự phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường. Nó đã trở thành biểu tượng của một ý thức mới sự hợp quần chung lãnh trách nhiệm xây dựng cho “một thế giới” (xóa bỏ sự phân chia “thế giới thứ nhất”, “thế giới thứ hai” và “thế giới thứ ba”).
Sự “phát triển lâu bền” được quan niệm như là một sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần và văn hóa cho cả thế hệ hiện tại lẫn thế hệ tương lai. Một mặt, nó đòi hỏi phải cải thiện những điều kiện sống trên lãnh vực kinh tế và xã hội sao cho phù hợp với sự bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, nó đòi hỏi một sự quan tâm và chịu trách nhiệm chung về những vấn đề môi sinh, kinh tế, văn hóa và xã hội, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. “Sự phát triển lâu bền” được nhất thể hóa với “sự bảo vệ môi trường”. Trong sự nhất thể hóa này, nội dung của “sự phát triển lâu bền” bao gồm 4 điểm cơ bản:
1. Đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của người dân,
2. San bằng hố sâu cách biệt giữa giàu nghèo và hoàn cảnh xã hội,
3. Bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và gìn giữ sự trong sạch của môi trường,
4. Tạo những điều kiện tốt giúp con người nhận thức được giá trị làm người, hiểu rõ được những vấn đề chung của nhân loại và biết rõ những gì ưu tiên cần phải thực hiện trước, cũng như giúp con người đạt được quyền tự quyết trong cộng đồng.
Về mặt “bảo vệ mội trường”, chúng ta không thể hiểu một cách hạn hẹp rằng đó chỉ là chống ô nhiễm không khí, đất đai, sông suối hoặc bảo vệ những loài hoang dại trước sự diệt chủng. Nội dung của thuật ngữ môi trường, trên mặt xã hội, được hiểu là hoàn cảnh của con người, của gia đình và của tập thể. Về mặt không gian, môi trường là địa bàn, là khu vực sinh sống của con người dù cho rộng hẹp như thế nào chăng nữa. Đó là những công trình xây dựng. Đó là làng xã, huyện tỉnh, quốc gia và sinh quyển. Về mặt sinh vật và sinh thái học, môi trường bao gồm giới vô sinh (đất, nước, không khí) và hữu sinh (con người, giới động và thực vật). Bởi vậy “bảo vệ môi trường”, trên khía cạnh sinh thái, không chỉ giới hạn trong mục tiêu bảo vệ thiên nhiên và quy hoạch cảnh quan. Nó còn bao gồm mục tiêu làm thanh lịch quê hương, đất nước, các nơi giải trí, du lịch và mạng lưới cây xanh trong thành phố. Về mặt vệ sinh và công nghiệp, mục đích của “bảo vệ môi trường” bao gồm sự giữ sạch môi trường không khí, nước và đất đai, cũng như xử lý rác và những chất độc hóa học, làm giảm sự gay gắt của thời tiết và ngăn ngừa các tia độc hại.
Để thực hiện “sự phát triển lâu bền” gắn liền với “sự bảo vệ môi trường”, cần phải thi hành triệt để hàng loạt biện pháp, chủ yếu là ổn định dân số, tăng hiệu năng của sự sử dụng năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời và sức gió, sử dụng tiết kiệm các nguồn nguyên liệu, ổn định hệ sinh thái nông lâm nghiệp, phân phối kỹ nghệ, giảm thiểu và xử lý ô nhiễm. Về mặt tinh thần, con người phải thay đổi quan niệm đánh giá thiên nhiên một cách hời hợt, nhất là phải thay đổi thói quen tiêu dùng.
Nội dung của quan niệm “phát triển lâu bền” trong nhất thể với “bảo vệ môi trường” trên đây, gặp gỡ rất nhiều điểm trong nội dung con đường sống Bi Trí Dũng mà Đức Phật chỉ dạy cho những “ai khôn ngoan muốn tìm hạnh phúc và ước mong sống với an lành”. Nội dung này, một phần đã được mô tả qua Kinh Từ Bi. Thiết nghĩ cũng nên ôn lại vài điều:
Thứ nhất, mục đích tối thượng của con đường Bi Trí Dũng là “Đem an vui đến cho muôn loài”. “An vui” là ý nghĩa chân thật của cuộc sống. Ý nghĩa này không nằm trong giàu sang, địa vị, quyền bính hoặc danh vọng. An vui chỉ đạt được, khi ba điều kiện tối thiểu sau đây được thỏa mãn: đó là nhu cầu vật chất tối thiểu được đáp ứng, đó là ô nhiễm, đe dọa và hiểm họa của môi trường được tiêu trừ và tâm hồn được sung mãn với những giá trị Chân Thiện Mỹ. Nhưng an vui không chỉ dành riêng cho con người mà phải lan rộng đến “muôn loài”, đến chúng sinh, đến tất cả mọi tình thế.
Để phục vụ “muôn loài” trước tiên phải đạt đến một trình độ nhận thức rất cao. Đó là sự thấy rõ tính bình đẳng của sự sống và giá trị bình đẳng của sự sống trong mọi sinh thể. Nền tảng của nhận thức này là sự hiểu biết rõ ràng về đời sống và điều kiện sống của các sinh thể, về tác động qua lại của chúng, về nguyên nhân và hệ quả thiện ác, đồng thời hoặc dị thời của mạng lưới duyên sinh trong dòng sinh thành di diệt vô tận. Kế tiếp là phải mở rộng con tim, một con tim biết thương yêu và quí trọng sự sống tràn đầy khắp nơi nơi, bất luận trên địa bàn nào, tại sinh cảnh và trú quán nào, dù “ở gần ta hoặc ở xa ta “ (Kinh Từ Bi), trên không, tại mặt đất, dưới đất, trong nước v. v…. (“Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa”, Kinh Từ Bi, Thích Thiện Châu dịch Việt).
Thứ hai, sự đem an vui đến cho muôn loài đòi hỏi một ý thức về giá trị bình đẳng của sự sống xuyên thấu thời gian, từ thế hệ này đến thế hệ khác (“Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra”, Kinh Từ Bi). Cuộc sống và sự phát triển của chúng ta hôm nay, không thể cướp mất những điều kiện sống và cơ hội phát triển của con cháu ngày mai, không thể để lại ô nhiễm và hiểm họa cho hậu duệ và phó mặc chúng giải quyết như thế nào cũng được. Đạo Phật đã không ngừng khuyên nhủ Phật tử phải thực hiện hạnh tinh tấn: “Cố gắng tiêu trừ những điều ác đã sinh. Cố gắng đè nén những điều ác có thể phát sinh. Cố gắng làm cho những điều thiện phát sinh. Cố gắng phát huy điều thiện đã sinh”. Tinh thần là sức mạnh chuyển đổi bền bỉ, có khả năng tiêu trừ tiêu cực và mang chất lượng của Chân Thiện Mỹ đến cho đời.
Thứ ba, sự đem an vui đến cho muôn loài, đòi hỏi một quyết tâm nhận lấy trách nhiệm vì muôn loài. Trách nhiệm này cần được thể hiện một cách rốt ráo, với tất cả con tim và dũng lực của một bà mẹ thương đứa con duy nhất, “dám hy sinh bảo vệ cho con” (Kinh Từ Bi).
Ba điều vừa nêu trên trong con đường Bi Trí Dũng có thể giúp Phật tử chúng ta khỏi chạy quanh tìm kiếm những nội dung và nguyên tắc hành động khác, hầu đóng góp tốt hơn cho đường hướng phát triển lâu bền gắn liền với sự bảo vệ môi trường hiện nay. Vấn đề còn lại là Phật tử có thể làm gì một cách cụ thể? Dĩ nhiên mỗi người có thể tự tìm câu trả lời riêng và hành động thích ứng với khả năng và hoàn cảnh của mình; song, Phật tử cũng có thể chung nhau tìm những việc cụ thể vừa hợp với khế lý và khế cơ, vừa có khả năng cổ động sự trợ lực của nhiều người. Sau đây xin nêu vài gợi ý:
1. Trước hết, mỗi người phải tự bắt đầu từ bản thân trong cuộc sống hàng ngày. Đức Phật đã đề nghị trong Kinh Từ Bi rằng Phật tử nên “sống giản dị”, “vui với đời giản dị”. Cuộc sống giản dị giúp chúng ta giới hạn nhu cầu của mình trong chừng mực cần thiết. Thói quen tiêu dùng và lòng ham thích xa hoa là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp khiến cho các nguồn tài nguyên bị khai thác và lạm dụng dữ dội, khiến cho nhiều nhân tố phục vụ sự phát triển ngày mai bị mất đi. Sống thiểu dục và biết đủ, theo lời Phật dạy, là đóng góp tích cực cho sự ổn định dân số, tiết kiệm nguyên liệu và năng lượng và làm giảm sức ép vào môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên.
Sống giản dị không có nghĩa là sống không có chất lượng. Chất lượng của Đạo Phật là “an vui”, thay vì tham lam “bận rộn”; là cố gắng bảo vệ muôn loài, thay vì thờ ơ giết hại, sinh mạng và hủy diệt điều kiện sinh tồn của chúng sinh; là hợp tác vì lợi ích chung (“đồng sự và lợi hành”) thay vì cạnh tranh giành giựt cho quyền lợi riêng; là siêu vượt mình để thể nhập cuộc sống toàn diện, thay vì tách rời và đối nghịch lại thiên nhiên.
2. Quý vị tăng ni và cư sĩ quan tâm đến sự bảo vệ môi trường, có thể tiếp tay trong các công tác giáo dục và gây ý thức bảo vệ môi trường, hạn chế sinh đẻ, nâng cao vai trò phụ nữ để thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi thuận lợi cho hoàn cảnh chung v. v…. đặc biệt là giúp Phật tử mở rộng kiến thức, phân biệt rõ đâu là lý luận do tham sân si chi phối, đâu là hành động hợp với tinh thần Bi Trí Dũng trong nghiệp vụ và sinh hoạt hàng ngày.
3. Để đóng góp cụ thể cho sự bảo vệ môi trường, đặc biệt trên khía cạnh bảo vệ cảnh quan và sinh cảnh (biotope), có thể kiến tạo những cảnh chùa, tại nơi có mặt bằng thuận lợi, thành những điểm cảnh quan thanh lịch. Ngoài cây cảnh, cây ăn quả, cần trồng thêm một số cây rừng bản địa. Lý tưởng nhất là xây dựng nhiều tu viện cạnh rừng (“Chùa Đại Tòng Lâm”, “Chùa Lâm Viên”). Tại đây, nhà chùa lãnh trách nhiệm bảo vệ rừng và biến cải rừng thành khu bảo tồn thực và động vật hoang dã. Tại những vườn rau thuộc khuôn viên chùa, nên thử nghiệm phương pháp trồng tỉa sinh học. Từ đó rút kinh nghiệm đóng góp cho cơ hội chuyển đổi phương pháp canh tác dùng quá nhiều phân hóa học và thuốc diệt sâu bọ. Ngày xưa, Đức Phật đã động lòng thương xót những côn trùng quằn quại sau lưỡi cầy, thì ngày nay, số người áp dụng phương pháp canh tác không đào cuốc, tránh giết hại sinh vật trong đất và tránh phá hủy trú quán của chúng ngày càng đông đảo.
4. Quí vị tăng ni nên nên vận động Phật tử “trồng cây phước đức”, “trồng cây trí đức” thay cho tục lệ “hái lộc”, “bẻ lộc” hoặc cổ võ Phật tử đóng góp tiền cho việc xây dựng “chùa lâm viên”, vượt thêm một bước xa hơn sự bố thí tiền gạo hoặc phóng sinh chim cá. Cũng có thể khuyến khích Phật tử xây dựng một môi trường sống thanh lịch bằng cách làm “sạch và đẹp từ bàn thờ, trong nhà, ra ngoài sân, đến đường đi và cùng khắp đất nước”. Lòng tôn kính Đức Phật, tình yêu quê hương nhờ đó phát triển mạnh mẽ hơn.
Cuộc phát triển vừa qua không phải chỉ đem lại cho con người và quả đất toàn những thuận lợi. Nó cũng gây ô nhiễm, làm hủy hoại thiên nhiên và để lại mầm mống hiểm họa cho ngày mai. Nhiều học giả đã gọi đó là cuộc khủng hoảng sinh thái. Nhưng, xưa nay thiên nhiên và môi trường vẫn im lặng, không hề la hét phản đối bất cứ một sự gây ô nhiễm và đầu độc nào, không hề đi biểu tình đòi quyền sinh tồn. Những tiếng kêu cấp bách “phải đặt lại vấn đề phát triển”, “phải bảo vệ thiên nhiên và môi trường”, “đại họa” có thể xảy ra, “phải thay đổi thói quen tiêu dùng”, “phải chuyển đổi tư duy”… tất cả đều phát xuất từ con người, từ mối âu lo cho sự tồn vong của con người. Ô nhiễm và hiểm họa đều là hậu quả của tư duy và hoạt động của con người. Cuộc khủng hoảng được gọi là “khủng hoảng sinh thái”, thực chất là cuộc khủng hoảng văn hóa và tâm linh, phát sinh từ Tham Sân Si của con người. Đức Phật đã trao tặng cho Phật tử chúng ta vũ khí Bi Trí Dũng để đối trị Tham Sân Si, để xây dựng nếp sống an vui, giải thoát cho mình, cho người và cho muôn loài. Đạo Phật không ngừng gieo hạt giống lành trong con tim và khối óc của Phật tử, không ngừng nhắc nhở Phật tử phải Tinh Tấn. Nếu chúng ta tinh tấn vun rồng cây thiện, chắc chắn chúng ta, nếu không hôm nay thì ngày mai, sẽ gặt hái cho mình, cho con cháu mình và cho đời những quả thiện.