6. Sống thật với chính mình – Những trái tim đồng dạng

Những trái tim đồng dạng (P2)

Sống thật với chính mình là sống như thế nào? Có phải cố gắng hưởng thụ thật nhiều rồi sau đó dù có nhắm mắt xuôi tay cũng không ân hận hay không? Sự sống là một quá trình đầu tư, nhận diện và chuyển hoá. Đầu tư là cho nhiều hơn nhận, nhưng những cái đang cho đó chính là những cái đang nhận. Nhận diện là chánh niệm, biết những gì đang diễn ra bên trong và bên ngoài mình. Chuyển hóa là thay đổi những ý niệm hay quan điểm về hạnh phúc hay khổ đau để biết hạnh phúc đích thực và khổ đau đích thực. Hãy sống thật đẹp ngày hôm nay chính là sống thật. Nói vậy để thấy nhiều người sống giả vờ, sống như đang chết. Đã sống thì phải sống thật sự, có mặt 100% cho sự sống. Sống thật không phải là một sự trình diễn, như phải ăn mặc thật đẹp, kiếm thật nhiều tiền, ở nhà thật sang hay chạy xe đắt tiền mà sống thật là sống một đời giản dị, không nhất thiết quá cầu toàn nhưng hài lòng với những gì mình hiện có. Ngoài kia trời mưa hay nắng, mình vẫn vui, vui vì trời nắng làm ấm áp những mùa đông lạnh giá, vui vì trời mưa cho cây cối mọc lên, lấy nước mình uống, lấy ruộng mình cày. Cuộc sống phải gắn liền với chân, thiện, mỹ tức là khi đang còn sống thì hãy sống cho thật đẹp để sau này tuổi già có đến, mình không giật mình sao thời gian trôi quá nhanh. Chân là chân chính, là dễ thương, là đàng hoàng, là đích thực. Thiện là tươi tốt, là bình yên, là nụ cười trao nhau buổi sáng, là đôi bàn tay nắm lấy buổi chiều, là giúp đỡ chia sẻ lẫn nhau. Mỹ là hoàn thiện, đẹp về tâm hồn, thái độ mang hạnh phúc cho người, là tâm hỷ, vui với cái vui của chúng sinh. Sống thật lòng là biết bảo vệ mình. Đứa con có hiếu là đối xử tốt với bản thân đứa con. Nếu không biết bảo vệ, mình bắt người khác phải khổ sở lo lắng cho mình, mình không là đứa con có hiếu. Sống thật là không có nguỵ trang hay núp bóng, không che chắn bằng những lớp vỏ của chiếc áo thời trang, lời nói hoa mỹ, hay hành động đóng kịch. Đơn giản vì những thứ này sẽ mau úa tàn đi theo thời gian và mình còn lại gì, một tấm thân héo úa hay một tình yêu tựa lá bay. Tình yêu không bao giờ mãi mãi nhưng luôn có giây phút mãi mãi của tình yêu và chỉ có sống thật mới thấy được giây phút đó và vì biết cách, giây phút mãi mãi được bền lâu. Sự sống đang diễn ra thật sự, không cần tô điểm gì thêm nữa cả, hư danh rồi cũng sẽ ra đi, tài hoa cách mấy cũng sẽ ra đi, chỉ có lẽ phải, điều thực sự sẽ ở lại. Nhìn lên bầu trời xanh thấy không gian bao la, nhìn xuống mặt đất thấy đường đi thênh thanh, nhìn vào sự sống thấy cuộc đời thật nhiệm mầu. Vậy hãy sống thật để thấy đời đáng sống và bất giác mỉm cười, sự sống quí giá làm sao.

Sống thật không có nghĩa là bốc đồng mà biết kiềm chế những bốc đồng. Bốc đồng dễ dẫn đến hành vi sai và bị sai sử bởi tà dục. Thái độ hung hăng là biểu hiện của bốc đồng, như muốn ăn tươi nuốt sống, bất cần tình cảm của người khác. Rối loạn cảm xúc hay không thể kiểm soát cảm xúc cũng khiến bốc đồng ra oai và những sự cẩn thận trước đây trở thành mây khói. Giống như cơn giận có thể làm tan tành cả rừng công đức, một ngọn lửa nhỏ thiêu rụi cả khu rừng, một con rắn nhỏ cắn chết người và một lời nói làm đất nước rơi vào chiến tranh. Người bốc đồng trong việc quyết định đi chơi thâu đêm, quan hệ bạn bè không chánh niệm hay tìm đến cái chết chưa bao giờ minh chứng cho sống thật mà là cách trốn chạy, trốn chạy thực tại khổ đau của chính họ. Cái gì trốn chạy thì chẳng thể là sống thật.

Sống thật đôi khi đòi hỏi hành động cứng rắn hay hành động dễ chịu. Lối sống khuôn phép nhưng vẫn đảm bảo tính thoải mái. Người trẻ thường nói, tôi muốn làm gì thì làm, đó là quyền của tôi và không có ai có quyền thay đổi được điều tôi muốn. Đối với những lời gọi mời của tà dục, người cần cứng rắn hơn và biết nói không. Cần đủ tỉnh táo để từ chối và quán chiếu sự tác hại của nó. Nuông chiều bản thân trong tà dục sẽ làm người hư hỏng đi và cuộc sống sẽ có nhiều khổ đau. Hành động dễ chịu đối với những lời mời xây đắp hạnh phúc như làm việc thiện, tham gia pháp đàm hay được mời nghe pháp thoại. Nói lời chấp nhận với những lời mời này, cho phép người có cơ hội tiếp xúc với các hạt giống lành, làm bạn với thiện tri thức và xa lánh tà dục. Kinh Tiếp Nhận Soi Sáng hay Kinh Soi Gương có nói, Xin các tôn giả hãy nói chuyện với tôi, hãy dạy dỗ tôi, hãy khiển trách tôi, xin đừng để tôi lâm vào tình traạg khó khăn. Tại sao có tình trạng ấy? Tại vì, thưa các hiền giả, nếu có một người quen lối nói ngang bướng, hành xử ngang bướng, suy nghĩ ngang bướng và bị kéo đi bởi lối nói, hành xử, suy nghĩ ngang bướng ấy thì các bạn đồng tu phạm hạnh sẽ không còn nói chuyện với vị ấy, sẽ không dạy dỗ vị ấy, sẽ không khiển trách vị ấy và vì thế vị ấy lâm vào tình trạng khó khăn bởi lối nói, hành xử hay suy nghĩ ngang bướng ấy. Nhiều khi hành động dễ chịu chính là sự cứng rắn, như sự im lặng khiến người ta sợ hơn là ăn nói mạnh mẽ muốn ra oai. Cứng rắn với bản thân để biết con đường nào phải chọn, cương quyết từ chối con đường có thể gây hại. Dễ chịu để chấp nhận con đường tuy khó khăn nhưng có thể mang lại hạnh phúc trong hiện tại.

Sống thật là một nghệ thuật hay là một kỹ năng sống. Mình là một sự thật, nên mình có ra sao cũng nên chấp nhận điều đó nhằm tránh sự đua đòi của tâm. Sống thật là đơn đặt hàng của đời sống, được chấp nhận và giao hàng. Qui trình này chỉ có mình thực hiện từ A đến Z, do bản thân đầu tư và thực hiện. Ngày nay với tốc độ công nghệ hoá, sống thật được đề cao nhưng lại mang màu sắc của công nghệ, của thị trường hay nhanh như tia chớp. Đây chắc chắn không phải sống thật với chính mình rồi. Đức Phật dạy mọi thứ đều vô thường, vô ngã và Niết Bàn. Sống thật là quay về với tự tánh vô thường, chẳng có gì là thường còn, mọi thứ đề biến chuyển không ngừng, nên dính vào cái gì cho là bất biến thì là xa rời sự sống. Sống thật là quay về với tự tánh vô ngã, tức là không có cái ta, không có gì là của ta, mà do vạn vật nương nhau mà sống, nếu cho là ta thì sẽ xa rời sự sống. Sống thật là quay về với tự tánh Niết Bàn, tức là sự tĩnh lặng, không còn phiền não, không còn tham đắm hay dính mắc.  Tình thương mà dính mắc dễ dẫn đến chiếm hữu, mù quáng, ghen tuông và chết chóc. Đó là cái chết chứ không phải cái thương. Sống thật là biết mình đang sống, đang thở, đang nghe, đang nói, đang nhìn, đang yêu thương… Biết được thực tại hiện tiền thì sự sống có mặt, bằng không thì người đang chết, rất oan uổng. Sống thật nên không áp đặt mà cứ tự nhiên mà sống, bình thản mà đi hay tự nhiên mà ngồi. Bất cứ sự gò bó nào đều là những yếu tố làm sự sống bị gò bó. Giống như có người cho rằng người yêu của tôi phải thế này thế kia, người đang áp đặt lên người yêu của mình và bỏ tù chính mình trong mấy cái thế này thế kia đó.

Sống không chỉ cho mình, mà còn cho gia đình, bạn bè, cộng đồng và xã hội. Một tu sĩ đâu chỉ tu riêng cho vị tu sĩ đó, người còn tu cho cha mẹ, cho ông bà, cho tăng thân, cho Phật. Người mang các yếu tố của cha mẹ và hằng hà sa số tổ tiên nên quyết định tự sát là giết chết biết bao nhiêu cha mẹ và tổ tiên trong người. Khi quá đau khổ, người tìm đến cái chết vì cứ tưởng rằng chết là hết nên cố tình chối bỏ sự sống. Dù mang giới tính nào, người cũng nên sống vì khổ đau là thử thách giúp người vươn lên. Khi tôi ngồi thiền, tôi mời cha mẹ ngồi thiền với tôi. Tôi là sự tiếp nối của họ, nên khi tôi có an lạc thì cha mẹ trong tôi cũng có an lạc. Nếu người sống an vui và hạnh phúc, cha mẹ và tổ tiên trong người cũng sẽ được an vui và hạnh phúc. Không đáng để tự dẫm đạp mình vì sống tức là biết và biết thì gìn giữ.  Thân người này có được khó lắm, mà có rồi thì phải biết tu, phải biết hạnh phúc. Giảm thiểu những đòi hỏi người khác phải ban phát hạnh phúc cho mình và gia tăng những đòi hỏi làm thế nào để mình ban phát hạnh phúc cho người khác, mình sẽ bận rộn trong các dự án đầu tư vào hạnh phúc. Hạnh phúc của người là hạnh phúc của mình thì sẽ không bị khủng hoảng. Một nữ đồng tính nói các mối quan hệ đồng tính rất phức tạp và đa dạng nên không biết đâu là thực đâu là hư. Đó là do ý niệm, hay thái độ làm cho tình hình thêm phức tạp. Tập nhìn vấn đề ở khía cạnh đơn giản và nếu vấn đề lớn thì chia nhỏ nó ra. Mình chính là vấn đề chứ không ai khác. Có khi mình phải giải quyết mình thì chẳng làm gì cả, vấn đề cũng được giải quyết rồi. Một số người lập ra danh sách Dos và danh sách Don’ts. Danh sách Dos là những việc cần làm và danh sách Don’ts là những việc cần tránh. Cách làm này cũng hay nhưng cần có sự đánh giá, bổ sung, thay đổi và linh hoạt. Nếu không cuộc sống sẽ bị rập khuôn, gò bó và bị cầm tù. Thoát ra những danh sách này nhiều khi lại khoẻ re, có nhiều tự do hơn. Một người đồng tính nam chia sẻ, tôi muốn người bạn của tôi phải như thế này thế kia, tức là lập danh sách những cái muốn. Người đang giăng những khung sắt bỏ tù bạn của người mà người không biết. Đến lúc chịu không nổi, bạn người bỏ đi rồi người ngồi trách sao bạn ấy không chung thủy.

Sống thật là sống trong tự do. Cái tự do mà người đồng tính đòi hỏi như sống thật với chính giới tính của mình chưa phải là tự do, chưa phải là sống thật. Đó chỉ là bề ngoài thôi. Tự do theo quan điểm của Phật giáo là không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì, không cho rằng có nhà cửa thì mới có hạnh phúc, có sự nghiệp vẻ vang thì mới có hạnh phúc, có vợ đẹp con ngoan thì mới có hạnh phúc hay được sống thật với giới tính thì mới có hạnh phúc. Đó là hạnh phúc hàm chứa sự đòi hỏi hay dính mắc, tự do không còn nữa. Người bị phụ thuộc bởi những đam mê và dính mắc nên tình trạng độc lập hay tự do của thân tâm tan rã. Phải có một người bạn đẹp, thông minh thì mới vui, người đang xa dần tự do rồi. Buông bỏ thì tự do sung mãn và người sẽ sống thật hơn. Một bạn tâm sự, cứ nghĩ rằng có người yêu thì sẽ có hạnh phúc, nhưng có cái gì thì phải lo cho cái đó. Người như bị cuốn theo mối quan hệ như điên dại đến khi bạn ra đi thì thấy chẳng còn lại gì ngoài trống vắng không tên. Thời gian sau, người thấy khoẻ vì chẳng còn gì ràng buộc cả. Đành rằng biết lo lắng cho nhau là biểu hiện của yêu thương nhưng lo lắng như thế nào để không đày đoạ bản thân, hạnh phúc đâu không thấy chỉ thấy toàn trách móc và khổ đau.

Sống thật với chính mình không có nghĩa là đề cao cái tôi. Nếu không, người sẽ tách biệt mình ra khỏi thế giới này và lạc lõng trong rừng bản ngã. Xem cái tôi quá lớn sẽ dẫn đến kiêu ngạo và trầm cảm. Kiêu ngạo vì cho rằng chỉ có tôi mới như thế và chẳng ai bằng tôi. Trầm cảm vì khi bị xa lánh thì thu vào lớp vỏ của riêng mình vì không còn gì để chứng minh nữa. Chẳng có chi là cái tôi cả nên đừng mất thì giờ ngồi suy nghĩ làm thế nào để biểu thị cái tôi. Người đồng tính nói tôi là đồng tính hay người không đồng tính nói tôi không đồng tính cũng là muốn chứng minh cái tôi giới tính mà thôi. Giống như trong bàn nhậu, người A nói anh mà không uống hết chai rượu này thì anh không phải là đàn ông. Bản lĩnh đàn ông được cho là uống nhiều rượu bia đến lúc bệnh gan, bệnh thận kêu la rên xiết thì bản lĩnh chỗ nào. Người thường đặt ra những tiêu chuẩn rồi cho đó là cái tôi hay bản lĩnh, làm mất đi tính chan hoà và đồng dạng của sự sống. Mọi sự tìm kiếm đều là muốn chứng minh cái tôi. Người nói tôi đang tìm bạn hợp với mình, đó là do người khó tính, đòi hỏi cao hay muốn chứng minh cái tôi của mình, hay muốn tìm kiếm sự tự hào của riêng mình. Đam mê thương hiệu hay muốn được khen ngợi khiến người muốn xây dựng cái gọi là “tình yêu thương hiệu”, tức là trong tình yêu, người đặt ra những qui trình. Người đang dính vào “cái tôi tình yêu” rồi. Cái tôi là sự khép kín, giết chết tình yêu rất mau vì sự bảo thủ và ích kỷ. Bất cứ người nào nói đó là cái tôi của tôi thì ngạc nhiên thật, người đó đang rất cô đơn vì người đang cần tình thương như thế nào. Tình yêu mà ích kỷ thì mệt lắm. Nhiều người nguỵ biện cho sự ích kỷ của mình bằng ghen tuông vô cớ, áp đặt thời gian biểu cho người yêu hay kiểm soát các buổi gặp mặt. Làm vậy có ích gì. Tình yêu là biết hy sinh cái tôi, không phải là hy sinh mù quáng. Nhưng thật ra có gì gọi là cái tôi đâu nên chẳng có gì phải hy sinh cả. Nhìn người kia và mình là một thì tình yêu sẽ lên ngôi. Đây gọi là nghệ thuật sống thật. (9)

Sống thật với chính mình

Dù người là đồng tính

Kiềm chế những bốc đồng

Đời phải biết hy sinh.

Biết sống trong tự do

Giấc ngủ thôi co ro

Tuyên bố ngày độc lập

Tâm không còn âu lo.

Buông bỏ những cái tôi

Nụ cười nở trên môi

Chọn con đường chân thật

Người bớt khổ đi rồi.

7. Người đồng tính trong gia đình – Những trái tim đồng dạng

Những trái tim đồng dạng (P2)

Đứa con sinh ra mang trong mình yếu tố của cả cha lẫn mẹ, không những thế yếu tố ông bà, tổ tiên cũng góp mặt. Nói rằng con cháu ở đâu, cha mẹ, ông bà, tổ tiên ở đó. Đứa con đồng tính, cha mẹ có phần trách nhiệm, đơn giản vì đứa con là kết tinh tình yêu của cha mẹ. Các yêu tố về tâm lý, sinh lý hay suy nghĩ đều có ảnh hưởng đến đứa con. Hoàn cảnh mà cha mẹ đặt đứa con vào cũng không đứng ngoài vì không thể dứt cha mẹ ra khỏi đứa con và cũng không thể dứt đứa con ra khỏi cha mẹ. Đứa con là sự tiếp nối của cha mẹ, nên khi đứa con đồng tính, cha mẹ không thể chối bỏ trách nhiệm. Cha mẹ chắc hẳn sẽ đau lòng khi biết một đứa con đồng tính vì sinh con ra, chỉ mong con mình đi theo xu hướng tự nhiên, con gái lớn lên lấy chồng và con trai lớn lên thì cưới vợ. Con người yêu thương nhau là chuyện bình thường và cha mẹ sẽ vui biết con cái có hạnh phúc, nhưng áp đặt đứa con đi theo hạnh phúc của riêng mình, e rằng hạnh phúc đó chưa trọn vẹn. Trước khi oán trách đứa con, hãy nhìn lại các yếu tố hình thành một đứa con đồng tính. Bản thân cha mẹ có yếu tố đồng tính hay không, việc giáo dục con cái đã thích hợp chưa hay có tạo ra những xung đột tâm lý ảnh hưởng đến khuynh hướng tình dục của con cái? Tình yêu thì không có giới hạn và điều này người Tây phương thoáng hơn người Đông phương nhưng điều lưu ý là người đồng tính vẫn tiếp tục tranh đấu cho quyền yêu thương của họ đến từ gia đình nhiều hơn là từ xã hội. Một số người đã nói với gia đình về giới tính của mình nhưng vì cha mẹ thương con, không muốn đánh mất đứa con, họ đành chấp nhận giới tính của đứa con nhưng để chấp nhận thật, không chấp nhận bề ngoài, cha mẹ nên dành thời gian trò chuyện và lắng nghe con mình.

Đứa con đồng tính chưa hẳn là đứa con bất hiếu. Quan niệm lập gia đình, sinh con đẻ cái để báo hiếu mẹ cha không còn phù hợp với thời đại ngày nay. Vấn đề không phải là có hiếu hay bất hiếu, có lỗi hay không có lỗi, có ai có quyền chọn giới tính cho mình đâu, ngay cả cha mẹ. Cha mẹ không thể xui khiến bào thai bắt nó phải mang giới tính này hay giới tính kia. Sự đòi hỏi của cha mẹ với đứa con cũng khiến đứa con đau khổ, như đòi hỏi về học hành, về việc làm, về địa vị trong xã hội và bây giờ là đòi hỏi về giới tính. Đứa con như quay cuồng trong các điều kiện đó. Bên ngoài không chấp nhận, đau khổ đã đành, gia đình không thông cảm, người đau khổ nhiều hơn. Có khi người bên ngoài làm mình đau không bằng người trong nhà hay người thương làm mình đau. Đứa con không nhận được sự chia sẻ từ gia đình dĩ nhiên sẽ tìm kiếm sự chia sẻ ở bên ngoài, đến khi ngăn cách giữa gia đình và đứa con lớn quá, cha mẹ mất đi đứa con, như vậy thật không hay. Tình yêu là điều cần thiết và nếu có tình yêu thực sự giữa những người đồng tính thì đừng có phá vỡ nó. Đức Phật dạy hãy tập nói lời ái ngữ mà ái ngữ xuất phát từ ái tâm, một tâm hoà giải hàn gắn sẽ nói ra những lời hoà giải hàn gắn, nếu không nói được hay chưa biết cách nói thì xin hãy im lặng để có đủ thì giờ quán chiếu và nhìn sâu. Quán chiếu để thấy con người đến với nhau vì họ cần tình thương và nhìn sâu để thấy nếu điều gì chia rẽ đều gây ra đau khổ.

Khi đứa con tìm đến cha mẹ để chia sẻ, hãy lựa chọn một thời gian thích hợp, mời cha mẹ ngồi xuống và nói bằng những lời nói chân thành, cám ơn cha mẹ đã dày công sinh thành và nuôi dưỡng, sau đó nói rõ cho cha mẹ biết giới tính của mình. Đây không phải là sự thú nhận mà là sự chia sẻ, để có cơ hội sống thật với bản thân hơn, để cha mẹ biết rằng gia đình là nơi nương tựa vững chắc. Đối với cha mẹ, hãy lắng nghe từ tình thương của đấng sinh thành và hướng về đứa con mình. Sinh ra một đứa con, bao nhiêu cực khổ không thể kể xiết, chỉ mong con mình khoẻ mạnh, thành danh và có cuộc sống hạnh phúc. Nếu con mình không vướng vào con đường của xì ke ma tuý, con đường băng đảng hay con đường mại dâm thì cũng là hay lắm rồi. Đằng này đứa con không như thế, nó chỉ thương người cùng giới với nó mà thôi, mà thương thì có sao đâu, nó vẫn làm việc, vẫn chăm sóc cha mẹ và dĩ nhiên không có gì gọi là phạm pháp cả. Không nên nói những lời gây tổn thương đến đứa con, bởi vì nó sẽ khóc, dù là con trai hay con gái, rồi đau khổ, rồi không thấy bình yên nữa. Nếu như có đứa dại dột không biết suy nghĩ, lại tìm đến cái chết thì nguy, hoặc nhẹ hơn nữa, đứa con lại buông thả mình, trôi lăn theo tiếng gọi của tà dục, đi vào con đường của tệ nạn xã hội, cái khổ vì vậy sẽ chồng chất thêm. Người đồng tính đã có nhiều cố gắng để sống hoà nhập với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và xã hội nhưng họ bị gượng ép rất nhiều, phải đóng vai hai mặt, lúc thì như thế này, lúc thì như thế kia. Tuy nhiên, dù cố gắng cách mấy, người vẫn khó lòng đạt được hạnh phúc thực sự. (10)

Lời tâm sự của đứa con đồng tính là những lời nói dũng cảm vì ít ai dám công nhận bản thân đồng tính và khi công nhận rồi thì không dám nói ra với ai, huống chi đó là cha mẹ mình. Cha mẹ hãy đón nhận sự thật trong bình tĩnh, có thể đặt câu hỏi tìm hiểu tâm lý đứa con nhưng tránh đặt những câu hỏi mang tính chất vấn, lên án và chỉ trích. Cha mẹ cũng không nên đặt quá nhiều tiêu chuẩn cho đứa con, vạch ra con đường đi mà không có sự tham khảo. Tiêu chuẩn nào cũng gây sự bò bó, ép buộc và không mang đến hạnh phúc nếu không đạt được. Tiêu chuẩn của một đứa con trai là lớn lên phải cưới vợ và tiêu chuẩn của một đứa con gái là lớn lên phải lấy chồng. Nếu không lấy chồng lấy vợ được thì vượt ra ngoài tiêu chuẩn đó. Người đồng tính cũng phải hiểu cha mẹ mình, cha mẹ nào mà chẳng thương con, nghe con nói thật về giới tính thì ai chẳng sốc, ai chẳng sợ hãi, ai chẳng đau đớn. Khoan vội đòi hỏi cha mẹ phải chấp nhận ngay mà cần thời gian, cơn giận của cha mẹ sẽ nguôi ngoai và bằng lối sống chân thật và lành mạnh của mình, đến lúc nào đó cha mẹ cũng sẽ chấp nhận thôi. Nhiều đấng sinh thành từng suy nghĩ không biết ăn nói làm sao với tổ tiên, với bạn bè, với dòng họ khi mà đứa con đi theo một giới tính không như mong đợi. Nếu như cha mẹ gặp gỡ người bạn của người thì cũng không biết sẽ ứng xử và ăn nói làm sao nữa. Cha mẹ cần đứa con và đứa con cũng cần cha mẹ là vì thế. Khi hai bên cần nhau thì mới có một gia đình và nếu xuất hiện thêm người khác dù là cùng giới với con mình, xin hãy thật sự đối xử tế nhị và lắng nghe nhau. Đôi khi cha mẹ sống sĩ diện nhiều quá, như làm thế nào ăn nói với bạn bè và người thân, người đồng tính cũng vậy, đôi khi cũng đòi hỏi người khác chiều giới tính của mình quá, như đòi người này người kia chấp nhận mình. Thời gian cần đủ lâu để mọi người có thể chấp nhận nhau và tình thương giúp con người chấp nhận mau chóng hơn.

Các bậc cha mẹ cũng hiểu số lượng người đồng tính trên toàn thế giới không nhiều và cũng không nên cho rằng có đứa con đồng tính là kém may mắn. Dù con mình là ai, đó vẫn là con của mình, cha mẹ nào cũng thương con và vì thương con nên chấp nhận con. Cha mẹ đã mang nhiều hạnh phúc cho đứa con , vậy thì thêm một lần này nữa, hãy chấp nhận giới tính của nó. Hãy khuyên dạy và chia sẻ với đứa con các phương pháp phòng tránh bệnh qua con đường tình dục, đồng thời nói chuyện với các chuyên viên tư vấn tâm lý để hiểu rõ đứa con và làm thế nào để giữ hạnh phúc trong gia đình, nhất là giữ được con mình. Người mà đứa con xem như bạn đời thì cũng lựa lời mà nói chuyện, xem như bạn thân của con hay bản thân cha mẹ có thêm một đứa con vậy. Theo tinh thần Phật giáo, hoà khí gia đình là nền tảng của đạo đức toàn cầu, cha mẹ và con cái hoà thuận thì thế giới mới an lạc thái bình. Có một đứa con là một điều diễm phúc, có đứa con lành lặn sáu căn đầy đủ là hạnh phúc lớn, có đứa con ngoan ngoãn biết phụng dưỡng cha mẹ thì còn gì bằng. Nhiều cha mẹ già phải khóc măng non khi đứa con qua đời quá sớm và bây giờ con mình còn sống đây, hãy cho con thêm một cơ hội nữa để sống. Gia đình là chiếc nôi của hạnh phúc, cho dù đứa con đi khắp bốn phương trời, cũng phải quay trở về với gia đình. Đứa con tâm sự với cha mẹ về giới tính cũng là điều hạnh phúc lắm rồi vì người vẫn còn nghỉ đến cha đến mẹ mình. Cho nên giới tính đứa con ra sao, nhìn thấy con, cha mẹ đã vui biết dường nào.

Một lời chia sẻ khác cần được nhắc đến là bạn trai của một cô gái hay người chồng của một phụ nữ là người đồng tính và ngược lại. Chuyện này chắc chắc đã từng xảy ra. Theo lời kể của một đồng tính nam, anh thừa nhận bản thân là người đồng tính nhưng vẫn có bạn gái, thậm chí chuẩn bị lập gia đình với cô gái đó. Nếu lập gia đình, chắc chắn anh sẽ không có hạnh phúc và dễ dàng phạm giới dẫn đến trường hợp ngoại tình, làm khổ bản thân anh và làm khổ người mà anh sẽ lấy làm vợ. Cho nên đối với người đồng tính, chuyện lập gia đình đối với họ hết sức nguy hiểm, nếu có sự ràng buộc thì chỉ là trách nhiệm mà thôi, còn tình yêu thì khiến người trong cuộc lâm vào cảnh tình yêu ngang trái. Điều duy nhất cần làm là chấp nhận sự thật. Tuy nhiên lời khuyên của tôi là người đồng tính không nên che dấu mình bằng những hôn nhân dị tính vì một khi bị phát hiện ra, người sẽ làm không biết bao nhiêu người khổ đau. Thà rằng người đau khổ một mình, đau khổ với giới tính của người, còn hơn là người đem đau khổ đó và bắt nhiều người gánh chịu. Bản thân người phải giữ giới thì người cũng nên giúp đỡ người khác giữ giới nữa. Một người đồng tính đã có gia đình luôn tìm kiếm ngoài luồng những người bạn tình khác là hành vi phạm giới, tức là ngoại tình cho dù người mà anh này dan díu thuộc giới tính nào. Thật hết sức khó tưởng tượng khi một cô gái lại ghen với bạn của bạn trai mình và người bạn đó lại là con trai. Vì vậy, khi đã là người đồng tính, trong tình yêu, người cần suy xét kỹ trong việc quen người khác giới để che lấp giới tính hay lập gia đình để hoàn thành cái gọi là nghĩa vụ gia đình.

Nói gì thì nói, chỉ có gia đình mới thực sự yêu thương vì gia đình lúc nào cũng ở trong mình. Khi nào đau đớn quá không chịu nổi, bạn hãy quay về nhà, gặp cha gặp mẹ, cho dù cha mẹ có khó tính nhưng họ lúc nào cũng thương người và vì người mà sẵn sàng chấp nhận tất cả. Tình nghĩa gia đình quý giá biết dường nào và người là một yếu tố góp phần xây dựng điều quý giá đó. Gia đình là chốn bình yên mà bất cứ ai cũng phải tìm về. Nếu muốn chia sẻ, hãy chia sẻ với gia đình và gia đình ơi, hãy giang đôi tay mà đón những đứa con lạc loài.

Dù người có đi khắp bốn phương trời

Dù lòng người có khi đầy khi vơi

Gia đình là nơi ấp ủ gọi mời

Chia sẻ tình thương chẳng hề buông lơi.

Cha mẹ chấp nhận đứa con lạc loài

Người trầm mình trong hạnh phúc mệt nhoài

Lắng nghe nhau cho đời thêm bớt khổ

Nắm chặt bàn tay đời vẫn tươi đẹp hoài.

8. Người đồng tính trong xã hội – Những trái tim đồng dạng

Những trái tim đồng dạng (P2)

Người đồng tính trong xã hội

Mỗi ngày hãy trồng những nụ cười (11)

Thái độ của xã hội về đồng tính khác nhau tùy theo nền văn hóa, quan niệm về tự do, lối sống cũng như mối quan hệ hay giá trị gia đình. Người Tây phương có quan niệm về đồng tính thoáng hơn so với người Đông phương, tuy nhiên không phải vì thế mà không có sự kỳ thị. Do sự chênh lệch về trình độ, giai cấp, mức sống và kể cả môi trường hay hoàn cảnh, thái độ xã hội cũng biến chuyển. Ngày xưa, đồng tính ít được chấp nhận nên người trong giới thường không dám công khai mối quan hệ, nhưng ngày nay thì lại khác, với sự phát triển của công nghệ thông tin, người có thể chia sẻ và đón nhận nhiều sự chấp nhận hơn, mặc dù sự rụt rè vẫn còn ít nhiều. Quan hệ đồng giới về mặt tình cảm dễ chấp nhận hơn về mặt tình dục. Theo thuyết âm dương, con người quân bình do có sự tương tác lẫn nhau giữa âm và dương. Nếu âm quá sẽ sinh bệnh và nếu dương quá cũng dễ sinh bệnh. Hai người đồng giới thương nhau đơn giản chỉ vì sự chênh lệch về âm dương hay có sự gia tăng hay giảm thiểu không bình thường của hóc môn nam giới và nữ giới. Một số tôn giáo hoàn toàn nghiêm cấm quan hệ đồng giới vì cho rằng đó là hành vi không thuận theo tự nhiên, đồng thời đó là minh chứng cho sự suy đồi trong lối sống con người. Cấm thì vẫn cấm, nhưng càng cấm thì con người sẽ lén lút không chịu cởi mở trong chia sẻ. Tôn giáo lo ngại rằng, việc đồng thuận với quan hệ đồng giới sẽ dẫn đến những hành vi không lành mạnh khác, làm cho xã hội bị kéo xuống hơn nữa. (12)

Xã hội và cộng đồng ngày nay quan tâm nhiều hơn đến người và công nhận là cần phải có trách nhiệm đối với  người. Các cơ sở hay dịch vụ tư vấn sức khoẻ và phân tích tâm lý người đồng tính đã ra đời nhằm giúp đỡ về việc phòng chống lây nhiễm bệnh tình dục hay khủng hoảng về mặt tâm lý. Việc có thành kiến với người là thái độ đề cao bản ngã không đồng tính. Thông thường, người dị tính nam có thành kiến với người đồng tính nam hơn người đồng tính nữ và người dị tính nữ có thành kiến với người đồng tính nữ hơn người đồng tính nam. Bây giờ, người ta sử dụng chữ dị tính để phân biệt với đồng tính. Cách đây chỉ khoảng 50 năm, ắt hẳn hai danh từ ít khi hoặc không được nghe thấy. Vô hình chung, người không đồng tính có thêm danh xưng là dị tính. Người thường được liên tưởng đến vấn đề thay đổi giới tính, mặc dù về thể trạng không có sự thay đổi. Một số người chuyển giới với mong muốn sống đúng với giới tính của mình. Cái này do ảnh hưởng của tâm lý nhiều hơn, mà theo Phật giáo, người chịu sự tác động của sáu căn, tức là các giác quan, do đam mê và dính mắc vào sáu trần, tức là sáu đối tượng của sáu căn. Ngược lại với những xã hội chấp nhận là các xã hội kỳ thị, lên án, thậm chí là bạo hành. Nhưng dù gì đi nữa, người cần tiếp tục sống và khi đã đi vào con đường nào, con đường đó không lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu người tôn xưng giới tính như một chức sắc quan trọng, người sẽ bị kẹt vào giới tính và kẹt vào cái gì thì phải lo cho cái đó, nếu lo không nổi thì sẽ căng thẳng, mệt mỏi và đau khổ.

Cộng đồng cần giúp người đồng tính sống hoà nhập với xã hội và sống thật với chính mình. Điều đầu tiên là công nhận sự có mặt của người, thừa nhận là hiện nay đang tồn tại thế giới thứ ba và người thực sự cần sự giúp đỡ, chia sẻ và cảm thông. Bất cứ ai cũng có mưu cầu về hạnh phúc và dĩ nhiên mỗi người đều có tần suất hạnh phúc khác nhau nhưng cần suy xét kỹ, dù sắc thái của hạnh phúc thế nào, khi cho đi hạnh phúc thế nào, người sẽ có nhiều hạnh phúc như vậy, vì hạnh phúc là thứ cho đi. Sự gia tăng của người trong xã hội có phải là điều đáng lo ngại hay không tuỳ thuộc vào quan điểm và thái độ mỗi người. Chứng ghê sợ gia đình hay hội chứng trách nhiệm gia đình cũng khiến người đi vào con đường đồng tính. Thử suy nghĩ nếu tất cả loài người đều đồng tính thì dân số thế giới sẽ nhanh chóng triệt tiêu trong vòng 100 năm và các biện pháp sinh sản vô tính chắc chắn được áp dụng để duy trì loài người. Chuyện này khó có thể xảy ra vì còn lâu xã hội mới hoàn toàn đưa hôn nhân đồng tính vào luật pháp. Vấn đề là các tệ nạn xã hội như mại dâm đồng tính hay cướp bóc thực sự có mặt và xã hội không thể đứng ngoài cuộc. Xã hội hợp tác với gia đình trong việc giáo dục giới tính, định hướng tâm sinh lý ở trẻ em và trẻ vị thành niên, đồng thời giảm những suy nghĩ cực đoan về giới tính, nhất là ảnh hưởng của hạnh phúc gia đình. Người chịu sự tác động các yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên ngoài. Bên trong là do đã có thiên hướng đồng tính và bên ngoài là hoàn cảnh hay trào lưu xã hội. Tuy nhiên nếu người vững vàng thì dù bên trong hay bên ngoài tác động mạnh mẽ, người vẫn giữ được thái độ trung tính và nếu như có thể thay đổi được mình thì nhất thiết không cần đi theo con đường này. Cộng đồng cần được cung cấp đủ thông tin và khi giáo dục về giới tính, ngoài giáo dục dị tính còn giáo dục đồng tính để có thể nhìn nhận đúng đắn về các mối quan hệ về mặc tình cảm lẫn tình dục. Đồng tính không phải là xấu nhưng người lợi dụng đồng tính để buông thả bản thân, trôi lăn trong những nhập nhụa của tình dục thì thật đáng tiếc. Cho nên, dù người theo giới tính nào, sống đẹp và chân thành luôn được đề cao. Như một bông hoa nở, nếu biết cách chiêm ngưỡng, bông hoa sẽ trở nên có giá trị. Xã hội đón nhận người như một cơ hội cho phép người xây dựng một lối sống lành mạnh và bình yên, chứ không đồng nghĩa với lối sống tha hoá của một bộ phận nào đó. Người có quyền thoát ra khỏi những thành kiến ngục tù như kỳ thị của xã hội hay có quyền không chọn việc xây dựng những song sắt của ngục tù như chọn hôn nhân dị tính để khoả lấp khát khao đồng tính. Dư luận xã hội dù gì vẫn là ở bên ngoài, điều quan trọng là bên trong người, người có đủ can đảm để có thể sống một đời không hôn nhân hay sống chung với người bạn của mình. Sự can đảm này giúp người đủ sáng suốt vượt qua những rào cản nhưng khoan vội yêu cầu xã hội chấp nhận, trước hết bản thân phải tự chấp nhận đã. Xã hội hành xử văn minh sẽ không dùng những suy nghĩ bạo động, hành vi bạo động và lời nói bạo động để phê bình, lên án, chỉ trích mà ngược lại suy nghĩ bất bạo động, hành vi bất bạo động và lời nói bất bạo động để lắng nghe, chia sẻ, đối thoại, đồng cảm, ái ngữ và bao dung. Bài kệ Hành Xử Văn Minh trong sách Thiền Môn Nhật Tụng, tôi có đề nghị thực tập hành vi bất bạo động, cho dù người như thế nào, giới tính ra sao, thiên hướng tình dục là gì, vấn đề là mình chấp nhận, không phản kháng, không lên án.

Liệu đồng tính có phải là dấu hiệu của xã hội hiện đại hay không xin nhường cho xã hội hay bản thân người trong cuộc trả lời. Một người đồng tính nam chia sẻ, sở dĩ anh muốn quen người đồng tính vì đòi hỏi quá đáng của nữ giới ngày nay trong vấn đề về nam tính, tiền bạc, trách nhiệm cũng như áp lực gia đình. Ngày xưa đã có những minh chứng cho việc quan hệ đồng tính và ngày nay cũng vậy, nên nói đồng tính là dấu hiệu của xã hội hiện đại là không đúng, mà nói là dấu hiệu áp lực của xã hội hiện đại thì đúng hơn. Đồng tính không phải là thế giới ảo cũng không phải thời trang mà là sự thật, cho dù sự thật phũ phàng hay sự thật ngọt ngào thì người cần tính dũng cảm để đối diện, một là chấp nhận, hai là vượt qua, ba là sống chung với nó. Nếu dị tính là một thứ chủ nghĩa thì đồng tính cũng là một thứ chủ nghĩa: chủ nghĩa đồng tính. Nhiều người không đồng tính nhưng muốn quan hệ đồng tính và muốn có những người bạn đồng tính. Chứng minh cho điều này, một người dị tính chia sẻ, họ cảm thấy an tâm hơn khi trò chuyện với một người đồng tính thực sự và nhiều khi họ có thể thảo luận những vấn đề mà họ cảm thấy ái ngại khi trò chuyện với người dị tính hay người thân trong gia đình. Một số không đồng tính nhưng vẫn kết bạn đồng tính và ủng hộ đồng tính, và thế là một thứ chủ nghĩa đồng tính xuất hiện, trở thành trào lưu, xem như là mốt hay lối sống sành điệu. Về lâu dài, ảnh hưởng về tâm lý không phải ít. Nếu trước đây người ta cho khó có tình bạn giữa hai người khác giới thì bây giờ chắc hẳn phải nói thêm là khó có tình bạn đích thực giữa hai người đồng giới. Chắc hẳn quí vị còn nhớ tình bạn giữa Bá Nha và Tử Kỳ. Bá Nha là một trong những bậc kỳ tài về đàn, còn Tử Kỳ là một người tiều phu nghèo. Nhiều lần hai người đàm đạo nói chuyện tâm đắc đến khuya trong khi hai người ở hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Người thì chức cao vọng trọng, người thì thân mệnh thấp hèn, ấy vậy tiếng đàn Bá Nha ngân đến đâu, Tử Kỳ giải bày nỗi lòng của Bá Nha đến đó. Thế mà họ lại hiểu nhau, thân nhau, yêu thương nhau và cùng nâng chén rượu kết tình huynh đệ. Thời gian qua, Bá Nha về kinh đô nhưng vẫn không quên được Tử Kỳ. Một lần tìm về thăm Tử Kỳ, Bá Nha mới biết Tử Kỳ đã lâm trọng bệnh qua đời vì lao lực quá độ để lo thang thuốc cho cha. Trong đau xót tột cùng, Bá Nha cho người mang cây đàn quý giá nhất ngồi bên mộ của Tử Kỳ. Dưới ánh trăng khuya vằng vặc, Bá Nha lặng lẽ nâng lên phím đàn ngày xưa. Mới được nửa bài, đàn đã đứt dây. Bá Nha cất tiếng than: “Trên đời này chỉ có Tử Kỳ mới hiểu được Bá Nha, nay Tử Kỳ đi rồi ta còn giữ cây đàn này làm chi nữa.” Nói xong, ông đập cây đàn vỡ tan tành. Đó là tình bạn ngày xưa, còn ngày nay, liệu tình bạn trong trắng như tình huynh đệ thắm thiết có còn nữa hay không?

Người đồng tính hay không đồng tính đều có những khổ đau nhưng cho dù đau khổ cách mấy, hãy mỉm cười với khổ đau. Có những khổ đau to lớn và những khổ đau nhỏ bé nhưng dù thế nào, người cũng nên mỉm cười vì nụ cười có thể xóa tan niềm đau, chưa làm gì hết, nụ cười đã giúp người nhẹ đi phần nào. Nhìn lại con đường đã qua, ngắm nghía sự sống trong hiện tại và chờ đợi tương lại đến, có thể hạnh phúc đó, có thể khổ đau đó, có thể có những ngây thơ, ngu ngơ, khờ dại, nhưng mà người ơi, đừng bao giờ tiết kiệm nụ cười. Nụ cười của đức Phật nhẹ như một hạt sương mai buổi sáng, đó là nụ cười của giác ngộ và giải thoát. Ngài cười vì thấy mọi thứ đều vô thường, vô ngã và Niết Bàn. Bao nhiêu kiếp sống trôi qua, Ngài tận hưởng hạnh phúc lẫn khổ đau. Thấm thía được cái đau của hạnh phúc và cái vui của khổ đau, Ngài mỉm cười, nụ cười của an lạc và thảnh thơi, không còn dính mắc vào hạnh phúc lẫn khổ đau.

Khi cười, người hãy cười thật tươi, cười thật như đang hiến tặng cho mình và người sự sống. Đừng để những bon chen của cuộc sống, những kỳ thị về giới tính hay những đau đớn của cảm xúc nhấn chìm người, làm mất đi thời gian quý báu của nụ cười. Nói cười thật tức là không cười theo kiểu của bộ ngoại giao hay xã giao thông thường, không cười cho có hay cười một cách máy móc. Cười nhẹ thôi nhưng hàm chứa trong đó là tình thương, trân quý sự có mặt của người thương và tô điểm cho sự sống tuy vẫn còn nhiều chông gai. Tiếng khóc không chỉ là một sự vỡ oà, mà tiếng cười cũng là một sự vỡ oà. Tiếng cười bật lên xoá tan không gian yên ắng, đánh thức trái tim cằn cỗi và nuôi dưỡng niềm tin vào sự sống. Cười để tha thứ chính người, bấy lâu nay người có nhiều vụng dại, có nhiều giận hờn, có nhiều bực tức trong lòng. Gặp một người bạn lâu ngày không liên lạc, chưa nói gì hết, nở một nụ cười mừng vui, bao nhiêu đó cũng đủ làm ấm lòng người bạn, những kỷ niệm đẹp thời ấu thơ quay trở về. Cười khi người đứng lên đường hoàng giữa thế giới Ta Bà và cười khi chợt vấp ngã rồi biết rằng vẫn còn kịp để đứng lên mà đi tiếp. Bồ Tát Di Lạc được xem là ông Bụt cười vì lúc nào ông cũng cười, vui vẻ, thoải mái. Mấy đứa con nít thích ông vì ông là hiện thân của niềm vui, hỷ lạc, sung sướng, hạnh phúc. Ông không có lo về giới tính của mình, không có lo là xã hội hay gia đình có chấp nhận không. Ông chỉ lo cười thôi. Nụ cười của ông làm lợi lạc biết bao nhiêu chúng sinh. Nụ cười toe toét vậy mà mầu nhiệm vô cùng, mang hạnh phúc lấp đầy khổ đau. Mấy hôm nay tôi dạy về quản trị rủi ro nhưng vấn đề là quản trị rủi ro hay quản trị không rủi ro. Cũng vậy, thực tập nụ cười hay thực tập tiếng khóc, có những tiếng khóc hạnh phúc và có những nụ cười chua chát. Và trên thế gian này có kẻ khóc và người cười. Cuộc sống bắt người phải chọn lựa giữa nụ cười và tiếng khóc nhưng người làm chủ cuộc sống của chính người nên khi khóc hay cười hãy thực tập để chúng đều là những dấu hiệu của hạnh phúc. Ngày nay đã có nhiều dịch vụ xã hội cho người đồng tính, xã hội cởi mở hơn nên đừng có than nữa, đừng mở công ty than nữa, mà hãy sống thật hạnh phúc và đường hoàng. Người có biết nụ cười của người mang đến hạnh phúc cho nhiều người hay không, trong đó có người, có gia đình, có xã hội. Gương mặt có trên 300 cơ bắp, khi cười, người massage cho trên 300 cơ bắp đó. Người mang theo yếu tố của cha mẹ, ông bà, tổ tiên nên khi cười, cha mẹ, ông bà, tổ tiên đều cười với người. Thật là hay.

Mỗi ngày tôi trồng những nụ cười
Khi cười tôi sẽ cười thật tươi
Bao nhiêu phiền lụy tiêu tan hết
Hạnh phúc ngay đây thật rạng ngời.

9. Chuyển hóa năng lượng tình dục – Thân thể là đền thờ tâm linh – Những trái tim đồng dạng

Những trái tim đồng dạng (P2)

 Thân và tâm không thể tách biệt. Thân khoẻ thì tâm khoẻ và tâm khoẻ thì thân khoẻ. Một thân thể yếu đuối dễ dẫn đến một tâm chán chường, tán loạn và đầy dục vọng. Một tâm yếu đuối dẫn đến một thân thể bệnh tật, buông thả và đầy những bất an. Nếu thân không nhiễm ô thì tâm cũng sẽ không nhiễm ô và ngược lại. Vì thế sự phát triển của tâm có mối liên hệ đến sự phát triển của thân nên tâm tàn hoại thì thân cũng tàn hoại theo. Nuôi dưỡng cho tâm thì cũng nuôi dưỡng cho thân. Tâm có các yếu tố giúp con người đi theo nẻo thiện và cũng có các yếu tố khiến con người chạy theo nẻo bất thiện. Thân thể cũng vậy, nếu được sử dụng để hành thiền và làm điều thiện thì thân được lợi lạc rất nhiều, giúp ích cho tâm thiện phát triển. Cơ thể của người có những vùng thiêng liêng mà không ai có quyền được chạm tới. Nói về chính trị, người ra sức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì người cũng phải ra sức bảo vệ toàn vẹn thân thể. Hành động tà dâm là phạm vào hai giới: giới trộm cắp và giới tà dâm. Thân thể do cha mẹ sinh ra nên cha mẹ có quyền quyết định về việc lập gia đình của con cái và việc người nam cùng người nữ tự tiện ăn nằm với nhau là tước đoạt quyền làm cha mẹ của cha mẹ. Đây gọi là hành vi trộm cắp. Tiếp theo, việc ăn nằm chưa thông qua hôn nhân, chưa có sự cho phép của cha mẹ tức là quan hệ với người không phải là chồng hay vợ của mình, người phạm giới tà dâm. Thân nằm trong tâm và tâm nằm trong thân, nên không kính trọng thân thể thì không kính trọng tâm hồn của người. Lối sống buông thả thân thể là đem tâm hồn bán đi rồi. Lợi dụng thân để tu học là cách hay nhất vì làm người khó đặng. Khi đã mang thân người thì phải biết lo tu tập.

Thân thể chính là đền thờ tâm linh như người đệ tử Phật đến đền thờ hay chùa chiền để học các pháp môn tu tập, người sử dụng thân thể để hành trì giáo pháp. Thân là thuyền vượt biển vì nhờ vào thân này mà tu tập giải thoát. Sự an ninh và vẹn toàn của thân là sự an ninh và vẹn toàn của tâm nên bảo vệ thân tức là bảo vệ tâm. Tình yêu đích thực chỉ có được khi biết lắng nghe, tôn trọng và gìn giữ cho người mình thương. Hành vi quan hệ tình dục cẩu thả mà nói minh chứng cho tình yêu là nguỵ biện. Tâm hồn linh thiêng thì thân thể cũng linh thiêng. Biết ơn cái thân để có điều kiện tu tập cái tâm. Có bài kệ tắm như sau: Hãy nhìn vào thân thể – Cha mẹ đã cho ta – Giữ gìn thân ngọc ngà – Tiếng thơm sẽ bay xa. Thật vậy, thân này phải giữ như ngọc như ngà, thì tâm mới trắng mới trong. Thân thể này do cha mẹ trao truyền, người phải có trách nhiệm gìn giữ nó như gìn giữ cha mẹ. Đứa con có hiếu biết gìn giữ thân tâm đẹp như những vì tinh tú. Làm ô nhiễm thân tâm có khác nào giết cha giết mẹ, giết những hạt giống lành mà cha mẹ trao truyền. Ngày nay, các điều kiện phát khởi năng lượng tình dục quá nhiều nên vấn đề là làm thế nào chuyển hoá những năng lượng tình dục đó theo hướng của từ, bi, hỷ và xả để có thể độ mình, độ người. (13)

Vậy làm thế nào để quản trị và chuyển hóa năng lượng tình dục? Người xuất gia không quan hệ tình dục nhưng năng lượng tình dục vẫn còn. Trước hết phải nói đến ăn uống có chánh niệm. Theo thuyết âm dương, thức ăn đều có thể mang tính dương hay tính âm và ăn uống điều tiết âm dương thì cơ thể sẽ quân bình, khoẻ mạnh, không có bệnh tật. Ăn chay là phương thức hữu hiệu để tiết chế dục tình và không uống rượu bia giúp năng lượng tình dục được nhẹ nhàng hơn. Ăn uống chừng mực và điều độ để quán xuyến được những điều tiết của cơ thể, không để năng lượng tình dục sai sử. Ăn có chánh niệm là xin nguyện chỉ ăn những thức ăn lành mạnh, có tác dụng nuôi dưỡng và bảo vệ sự an lạc của thân tâm. Uống có chánh niệm là xin nguyện chỉ uống những thức uống lành mạnh, có tác dụng nuôi dưỡng và bảo vệ sự vẹn toàn của thân tâm. Ăn uống như thế nào mà năng lượng tình dục không quá mạnh, bằng không sức khoẻ sẽ sa sút và làm mồi cho tâm tham dục mà thôi. Ăn chay còn giúp bảo vệ sinh mạng của các loài sinh vật, chăm sóc môi trường và tiết kiệm được chi phí. Trong thức ăn chay, các loại rau củ đã có đầy đủ các chất dinh dưỡng mà thức ăn mặn có. Đời sống sẽ trở nên thánh thiện và an toàn khi người biết gìn giữ cho nhau. Đạo Phật có những phương pháp thực tập cụ thể, dễ dàng áp dụng vào đời sống hàng ngày. Đối với cư sĩ, người cần giữ giới tà dâm, tức là không dâm dục với người không phải là chồng hay vợ của mình. Đối với tu sĩ, người cần giữ giới bất dâm, tức là không quan hệ tình dục với bất cứ ai, người nam cũng như người nữ. Trong tỳ kheo giới, trước đây, người không được phạm giới dâm với người nữ thì bây giờ còn thêm người nam nữa, do sự xuất hiện mạnh mẽ của giới tính thứ ba. Vì vậy, việc bất dâm cũng phải áp dụng với cả người cùng giới. Năng lượng tình dục có thể tạo tâm bất an, cho nên không phải đợi khi nó khởi lên thì mới chăm sóc cho nó, mà cần chăm sóc khi năng lượng chưa khởi lên và thực tập để năng lượng đó là một thứ năng lượng bình an.

Đúng như thế, thực tập để chuyển hóa năng lượng tình dục thành năng lượng bình an. Thay vì sử dụng nó để làm tổn thất tinh khí, người nên thường xuyên tập thể dục, tham gia các hoạt động xã hội, tiếp xúc với các phương tiện lành mạnh, chơi với bạn bè lành và nhất là thiền tập. Người không đối trị một cách quá đáng với năng lượng tình dục mà chuyển hóa nó thành an lạc và thảnh thơi. Thở vào, con biết năng lượng tình dục đang phát khởi. Thở ra, con mỉm cười với năng lượng này. Thở vào, năng lượng này trở nên lắng dịu. Thở ra, con thấy an lạc trong giây phút này. Hãy quán chiếu đến hậu quả của việc dâm dục gây ra, như sức khoẻ hao tổn, gây khổ đau đến thân và tâm và đánh mất năng lượng tu học. Mục đích của người tu là tu và độ đời, hành động dâm dục sẽ làm đánh mất con đường tu học, nói chi đến độ cho kẻ khác. Tình dục không phải là một đề tài cấm kỵ, mà cần có cái nhìn thoáng hơn về nó, bởi vì nói ra thì sẽ hiểu và biết cách để tránh và chuyển hoá hơn. Đã là chúng sanh thì tình dục là bản năng, bất kể ai cũng có, kể cả tu sĩ hay người đắc quả vị A La Hán. Người nữ do có kinh nguyệt nên nhờ thế năng lượng tình dục giảm đi. Người nam thì khác, họ dễ bị ức chế trong trường hợp năng lượng lên cao. Tuy nhiên, năng lượng ấy sẽ giảm thông qua giấc mơ ướt, tiếng Anh gọi là wet dream. Đức Phật cấm tu sĩ hành dâm, kể cả việc thủ dâm, cho nên người tu để tự nhiên và chuyện giấc mơ ướt là điều bình thường. Bất cứ hành động cố tình xuất tinh là phạm giới.

Đừng để bị sai sử bởi tình dục bởi vì trong tất cả các dục lạc thì dâm dục là nguy hiểm nhất, nó giết chết người tu và đoạ lạc vào cảnh bất thiện. Là một sinh vật, người mang trong cơ thể các yếu tố làm cha làm mẹ và đây là điều hết sức tự nhiên. Khi ăn uống, người chế tác nhiều năng lượng trong cơ thể thì hãy sử dụng năng lượng đó đi về nẻo thiện, như đi thiền hành, ngồi thiền, chấp tác, tham gia pháp đàm, học giáo lý hay làm từ thiện. Năng lượng của cơ thể không nên sử dụng để đi vào con đường tiêu thụ, như chiêm ngưỡng sắc dục, cố ý làm xuất tinh hay buông thả thân tâm trong những cuộc tình vụng dại. Các phương tiện đầy dẫy các âm thanh và hình ảnh của sắc dục. Một vị cư sĩ bắt gặp một tu sĩ lạc vào thế giới ảo của dâm dục, vị ấy ngay lập tức chỉ muốn cầm cái búa đập tan nát cái máy vi tính hay cái máy truyền hình đó đi. Vị cư sĩ trở nên thất vọng, đánh mất niềm tin vào giáo pháp và tội của người tu sĩ kia lớn biết dường nào. Trong giới luật, việc sử dụng các phương tiện vào mục đích không lành mạnh đều phải bị cấm. Truyền hình chỉ được sử dụng để xem pháp thoại, máy cassette chỉ được sử dụng để nghe pháp thoại, hệ thống Internet chỉ được sử dụng để hoằng pháp và xem các bài pháp thoại. Sử dụng các phương tiện sai trái là bất hiếu với người sáng tạo ra nó, với đồng tiền người kiếm được và tưới tẩm các hạt giống không lành mạnh vào trong thân tâm. Một con bò bị thương và những sinh vật nhỏ bé gần đó bay tới đậu vào vết thương và ra sức hút lấy máu cũng như những chất bổ béo trong cơ thể bò mà ăn. Con người cũng vậy, những hình ảnh âm thanh bạo động, thèm khát, hận thù sẽ xâm nhập vào cơ thể yếu đuối, tinh thần bệnh hoạn để làm xói mòn thân tâm của người, làm người biến chất, rồi trở nên ốm o gầy mòn như con bò bị thương kia. Năng lượng của cơ thể nếu đi về nẻo thiện thì cơ thể sẽ thăng bằng hơn về mặt tâm lý và sinh lý, ngược lại nó sẽ đi về con đường của tà dục, của sự bức xúc và dễ gây đổ vỡ.

Năng lượng tình dục nếu không kiểm soát sẽ gây ra năng lượng tiêu cực nên người cần thực tập để chuyển hoá tận gốc năng lượng tiêu cực đó. Đưa vào cơ thể năng lượng vừa đủ như ăn vừa đủ, uống vừa đủ để có thể làm việc, tu tập và không để dư ra. Bên trường phái Nam Tông, họ chỉ ăn một bữa mỗi ngày, còn bên Bắc Tông thì ăn hai hay ba bữa nhưng là ăn chay. Ăn như thế nào mà đủ để tu và không chừa năng lượng cho những hành vi tiêu cực khác. Việc ăn uống thừa thãi sẽ sinh nhiều bệnh tật và nhất là sinh ra nhu cầu tình dục. Người không nên ở một mình và nói chuyện với người khác phái một mình, vì những nghĩ suy về tình dục nhanh chóng phát khởi và đi đến hành vi thủ dâm hay phạm giới bất dâm. Việc giữ giới ở thân và ở tâm rất quan trọng vì giới là điều kiện ban đầu để hành trì niệm và hành trì định. Tam học người cần học và gìn là Giới, Định và Tuệ. Giữ giới sẽ tạo thuận duyên cho việc thực tập định và khi đó tuệ mới phát khởi được. Bốn loại thức ăn cần phải sử dụng có chánh niệm. Thứ nhất là đoàn thực, liên quan đến thức ăn. Người ăn như thế nào để bảo vệ thân và tâm khoẻ mạnh và an lạc, không bệnh tật và không tàn hại. Thứ hai là xúc thực, liên quan đến âm thanh, hương vị, xúc chạm. Khi nghe, chỉ nên nghe những âm thanh của hoà giải, từ bi, hạnh phúc hơn là những âm thanh kích dục, bạo động, sợ hãi. Thế giới tự cho là hiện đại nhưng lại đầy dẫy những âm thanh nguy hiểm, tạo ra chiến tranh cho thân và tâm của người trẻ. Thực phẩm thứ ba là tư niệm thực, là ước muốn sâu xa của người. Có người muốn tu tập giải thoát trong kiếp hiện tại, nhưng lại có người muốn thoả mãn về danh, lợi hay sắc dục. Nếu lý tưởng của người là phát bồ đề tâm, cứu mình cứu người, đó là lý tưởng tuyệt hảo. Nếu lý tưởng của người là dạnh vọng thì người gặp phải những khổ đau. Thực phẩm thứ tư là thức thực. Người có xu hướng đi tìm kiếm các đối tượng bên ngoài nhằm thoả mãn  dục vọng của bản thân. Vấn đề là có chánh niệm hay thất niệm. Sống trong môi trường tu tập, người có xu hướng tu tập nhiều hơn và có chiều hướng đi lên. Sống trong môi trường tiêu thụ, người có xu hướng chạy theo sự tiêu thụ và mệt mỏi trong sự tiêu thụ đó.

Người là cái người ăn và người là cái người nghĩ. Ăn như thế nào để giữ được lòng từ bi và bảo vệ sự sống muôn loài, bảo vệ môi trường. Ăn để tu, không phải để thoả mãn sắc dục. Ý ảnh hưởng đến hành động và lời nói nên những gì người nói và làm biểu hiện ý người và phản chiếu qua chính người. Vì thế, ăn phải có chánh niệm. Ăn chánh niệm là chỉ ăn những thức ăn lành mạnh, nuôi dưỡng cơ thể, bảo vệ các hạt giống lành và đủ sức khoẻ để tu tập. Suy nghĩ có chánh niệm là biết đối tượng của suy nghĩ là gì để biết dừng lại không cho rong ruổi lang thang nữa. Về mặt khoa học, vấn đề thủ dâm có thể cân bằng tâm sinh lý nhưng về quan điểm của Phật giáo, thủ dâm là điều cấm trong giới luật dành cho tỳ kheo. Việc ăn uống, quan hệ bạn bè và lối sinh hoạt có thể giúp người tránh việc thủ dâm hay tự hành lạc. Bên cạnh đó, thiền tập có thể giúp chuyển hoá năng lượng tình dục thành ra năng lượng bình an và nhẹ nhàng. Những suy nghĩ về thủ dâm sẽ tan biến và trở nên yêu đời, lạc quan hơn.

Người được sống hay chết
Là do cách tiêu thụ
Đừng chạy theo mê mệt
Những phương tiện buồn tênh.

Hãy là người anh hùng
Chiến thắng được bản thân
Vượt qua mọi cám dỗ
Bến đỗ là bình yên.

Tập lối sống trong sạch
An lạc hãy tập tành
Theo dõi từng hơi thở
Tự tại sớm viên thành.

10. Hạnh Của Hoa – Thực Tập Hành Vi Yêu Thương Hết Muôn Loài – Những Trái Tim Đồng Dạng

Những trái tim đồng dạng (P2)

Hoa chính là vị Bồ tát làm đẹp đời, mang hương sắc đến cho sự sống. Là chúng sinh, người hãy học hạnh của hoa. Hoa có thể sớm nở tối tàn nhưng trong suốt cuộc đời ngắn ngủi làm kiếp hoa, hoa cống hiến hoàn toàn cái đẹp, cho đến khi thân tàn hoại, hoa vẫn nương theo đất nuôi dưỡng những hương vị ngọt lành. Trong những dịp lễ hay ngày quan trọng, người thường tặng hoa cho nhau. Ngắm nhìn nụ cười nở trên môi của người nhận hoa, lòng người ấm áp lạ thường. Nụ cười đó là đóa hoa vô tận, mang mùa xuân ấm áp theo những hạt nắng nhảy múa. Hoa là bài pháp thoại về không sinh không diệt. Từ đất, cây mọc lên, đơm nụ rồi ra hoa. Hoa tàn, rụng xuống, trở về với đất, rồi lại đi vào thân cây. Như hạt mưa, rớt xuống, rồi bốc hơi lên thành mây, gặp lạnh tạo cơn mưa. Nên hạt mưa không chỉ rơi xuống mà hạt mưa còn bay lên. Đời người ngắn lắm, ngắn chỉ trong một hơi thở, nhưng trong hơi thở ngắn ngủi sát sao ấy, hãy như một bông hoa tươi đẹp, rạng rỡ như ánh bình minh. Thử nhìn một khu vườn mà không có cái hoa nào, khu vườn thật cô đơn. Trong gia đình hay cộng đồng, mỗi con người là một bông hoa, gia đình và cộng đồng hạnh phúc làm sao. Phía trước ban công nhà tôi có những chậu hoa nhỏ, mỗi lần chúng ra bông, tôi và mẹ đều trầm trồ khen ngợi. Nhìn hoa mà nhìn mình, tâm mình là cả một khu vườn cần gieo hạt từ bi, đến lúc nào đó sẽ có nụ yêu thương và nở những bông hoa giải thoát. Hãy ươm mầm ngay bây giờ cho khu vườn tâm và đến khi tâm trưởng thành, chín muồi, những đóa hoa sẽ thi nhau khoe sắc nơi tự tâm của mình.

Sen là một loại hoa nhưng lại rất đặc biệt. Từ nơi bùn nhơ, sen vượt lên và toả ra những cánh sen sắc thắm. Vì vậy mà sen phải biết ơn bùn vì nhờ bùn thì mới có sen. Có câu, Khi mê bùn chỉ là bùn – Khi ngộ mới biết trong bùn có sen. Mê là trạng thái không tỉnh thức hay thất niệm của chúng sinh, vẫn còn bị trói buộc trong những thứ tiện nghi của vô minh, nói cách khác mê là vô minh. Bùn còn là hiện thân đau khổ hay vùng đau khổ. Người trong đau khổ nhưng không biết là đang đau khổ hay không biết làm thế nào vượt thoát khỏi đau khổ, ấy chính là mê vậy. Ngộ là trạng thái tỉnh thức hay chánh niệm của người tu, không còn bị trói buộc trong những thứ tiện nghi của vô minh. Sen là hiện thân của trí tuệ, thoát ra khỏi khổ đau và vùng khổ đau. Thân sen vẫn còn sống trong bùn, hay nương vào bùn mà sống, tuy nhiên sen không chết trong bùn ấy mà vươn lên vững chãi trong không gian. Người thoát khỏi đau khổ, tuy vẫn còn nằm trong vùng đau khổ nhưng không bị đau khổ dìm chết và vẫn an nhiên tự tại trong vùng đau khổ đó. Trong bùn có sen là cách nói ví von của người thực tập thiền quán để chỉ ra rằng trong khổ đau mới biết trân quý hạnh phúc và cũng từ trong khổ đau, người mới tu tập giải thoát. Nếu nói người chưa một lần khổ đau hay bị bùn vây hãm, người đang vọng ngữ đấy. Muốn giải thoát, hãy từ thế gian mà tu. Bùn chỉ là bùn, là nhận diện đơn thuần không can thiệp, nhiệm vụ của chánh niệm. Trong bùn có sen, cũng là nhận diện đơn thuần, vì sen mọc từ bùn, những cái nhìn này chứa đựng trái tim của sự hiểu biết, hiểu biết về tính chân thật của bùn hay bản chất đích thực của khổ đau.

Hoa làm nhiệm vụ yêu thương hết muôn loài vì hoa là do đất trời ban tặng cho chúng sinh mà chúng sinh là ai, là muôn loài. Hoa không đi về hướng của tiêu thụ mà đi về hướng của phụng sự. Tiếng gà gáy sáng, thực dậy miệng mỉm cười, mở khung cửa thơ mộng, ngắm nhìn hoa nở đầu năm, khoảnh khắc bình an trào dâng, người hãy cất bước chân kỳ diệu, từng bước thật nhẹ nhàng. Bình an là đây, yêu thương là đây. Nguyễn Du vẽ lên một nàng Kiều đa tình mà như vậy thì sẽ đa mộng và kết quả là đa sầu. Người ôm nhiều tiện nghi vào mình, người càng có nhiều ảo tưởng về nó và những phiền lụy vì thế mà gia tăng theo cấp số nhân. Hoa cũng ôm nhưng những tiện nghi của hoa là gì, là màu xanh mênh mang của cỏ cây, là không gian thênh thang của núi rừng, là làn gió vi vu buổi ban mai, là ánh nắng ngập tràn của mặt trời ấm áp. Tiện nghi thiên nhiên có đầy và hoa bầu bạn với những tiện nghi có sẵn ấy. Hoa không sầu muộn, không lên tiếng chê bai, không lo lắng về chuyện ghét chuyện thương. Hoa yêu thương hết tất cả thì có ai lựa chọn để mà ghét mà thương. Thời giờ là để yêu thương, thực tập các giáo pháp yêu thương của đạo Phật, đây là thứ yêu thương mang tính giải phóng, không phải yêu thương để kéo vào sự hệ lụy, tức là không còn thấy ranh giới giữa người thương và người được thương nữa. Hoa mang yếu tố của nắng, gió, đất, nước… nên khi hoa dễ thương thì nắng, gió, đất, nước cũng dễ thương. Trong người có những yếu tố dễ thương và những yếu tố không dễ thương. Tình thương đích thực thương được cả những yếu tố không dễ thương kia. Nhìn thấy hoa, người cất lời ngợi khen, ôi bông hoa đẹp quá. Nhìn thấy người, người hãy cất lời ngợi khen, người đâu mà dễ thương quá. Trái tim của người rất to lớn, nên người ôm lấy muôn loài, ôm lấy hạnh phúc lẫn khổ đau. Tình thương đừng nhỏ bé như một bát nước, mà hãy rộng lớn như dòng sông, như ruộng đồng, như biển cả mênh mông.

Hãy là người ôm lấy muôn loài, bao dung được muôn loài. Một nắm muối bỏ vào bát nước, bát nước sẽ mặn, nhưng quăng vào dòng sông, dòng sông kia không thể tạo nên cái mặn của biển xanh. Không ngẫu nhiên mà muối gặp sông, không ngẫu nhiên mà máu chảy về tim, không ngẫu nhiên mà hoa khoe sắc và không ngẫu nhiên người gặp đạo, gặp Thế Tôn. Người đã từng gặp gỡ nhau, từng là dòng sông con suối, từng là máu là tim, từng là hoa, từng gặp Thế Tôn. Người từng là muôn hình vạn trạng của chúng sinh, vậy có gì gọi là ngẫu nhiên đâu. Đã là chúng sinh thì thương lấy muốn loài, ôm lấy muôn loài, không có chừa cái gì ra hết. Khi yêu thương, người không giả vờ, giả vờ là mình thương và được thương. Khi thương phải thương thiệt. Khi được thương phải được thương thiệt. Đừng để cho những tệ hại của hoàn cảnh làm chủ người hay sai khiến người, bắt người trở thành tên nô lệ của hoàn cảnh. Ngắm nhìn một em bé, bé là một bông hoa, đôi mắt đẹp như bông hoa, đôi bàn tay đẹp như bông hoa, giọng nói như bông hoa, nụ cười như bông hoa, cả tiếng khóc trẻ thơ cũng như bông hoa. Người chính là hoa đấy thôi. Đơn giản vì người có tính của hoa, đẹp và sáng trong như ngọc lưu ly. Nếu mỗi người là một bông hoa, nhân loại này sẽ là một vườn hoa, đẹp đẽ và quý giá biết dường nào. Muốn phát triển và duy trì tính hoa, người phải thực tập hạnh của hoa, mà hạnh của hoa là gì, là đẹp, là thánh thiện, là dễ chịu, là bình an, nói cách khác là thực tập tâm hoa. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ viết đôi lời về hoa trong một bài hát như sau, Hoa vẫn nở trên đường quê hương – Ôi quê hương ta đó – Dù bé thơ xanh xao gầy còm – Dù tiếng ru ban trưa mỏi mòn – Từng cánh hoa, từng cánh hoa – Hoa vẫn nở trong tôi tình thương – Hoa vẫn nở trên đường quê hương. Hoa đẹp nên quê hương đẹp. Những đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặc, gầy còm, ốm o. Tiếng ru dường như mỏi mệt chờ đợi điều kỳ diệu. Đất nước nhiều năm chiến tranh và tài sản của nó là trẻ em không nơi nương tựa, tiếng ru lạc lõng giữa trưa hè. Nhưng thế nào đi nữa, tình thương vẫn còn, hoa vẫn nở giữa những ác liệt và bon chen của sự sống, cho nên nói hoa là vị Bồ tát.

Tam Bảo là ba bông hoa, ba viên ngọc quý của chúng sinh. Tam Bảo không là đối tượng của một khóa học dùng để chiêu sinh, tuyển dụng, thi cử và đỗ đạt, mà Tam Bảo là năng lượng của người, con đường lý tưởng cứu lấy người. Con về nương tựa Phật, nương tựa vào con đường tỉnh thức, vào người đưa đường chỉ lối cho con vượt thắng những sợ hãi, những nghi kỵ, những giận hờn vu vơ. Phật ở trong con vì chúng sinh nào cũng có Phật tính, chúng sinh nào cũng có khả năng tỉnh thức. Phật là hoa, nguyện làm đẹp cho sự sống, nguyện cứu độ chúng sinh. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương không biên giới và hiểu biết về trái tim. Thầy Nhất Hạnh có sách Trái Tim Của Sự Hiểu Biết, còn Thầy Minh Niệm có sách Hiểu Biết Về Trái Tim, đơn giản vì trái tim là hoa của hiểu biết. Hình tướng của đức Phật Thích Ca có thể tàn hoại nhưng chánh pháp luôn trường tồn, không bao giờ tàn hoại vì chánh pháp là hoa bất biến, hoa bất tử. Đức Thế Tôn qua đời nhưng chánh pháp vẫn còn đó, người hãy là hoa chánh pháp, thực tập không ngừng nghỉ các hạnh Bồ tát. Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức, đoàn thể của những bông hoa, cam kết xây dựng nhiều khu vườn nở ra những đóa hoa vô ưu, đóa hoa tự tại. Tăng là sự tiếp nối của Thế Tôn, thay mặt Thế Tôn đem hương thơm của hoa chánh pháp tỏa đi khắp mười phương. Con về nương tựa chính con, nhận diện con, buông thư con và từ đó tỉnh thức con. Hãy mỉm cười đi, con đã là hoa tự bao giờ.

Lắng nghe bình yên để bình yên lên tiếng. Lắng nghe hoa, hoa đang thuyết pháp đấy thôi. Kệ Sống Sâu Sắc Trong Hiện Tại có đoạn, Tiếng cười dường như con đã – Giòn giã hiện tại nhiệm mầu – Quay về lời ca thiên thâu – Sâu sắc phút giây hiện tại. Muốn lắng nghe được bình yên, người hãy buông bỏ những thứ không phải là hoa, đó là rác. Thả rác còn gọi là thả bò. Một bác nông dân chạy hớt hải, vừa chạy vừa khóc, Trời ơi mấy con bò của tôi đi đâu mất hết rồi, các bác có thấy bò của tôi không. Được hỏi như vậy, đức Thế Tôn nói, bò nào. Bác nông dân nói, tôi chỉ có mấy con bò thôi, có vài sào mè thôi nhưng sâu ăn sạch sành sanh, chắc tôi chết quá. Đức Thế Tôn nói, xin lỗi bác là chúng tôi không thấy con bò nào cả. Lúc này đức Thế Tôn quay sang đại chúng mà tiếp, các thầy có thấy không, các thầy là các bậc đại hạnh phúc vì các thầy chẳng có con bò nào mà để sợ mất cả, cho nên hạnh phúc lớn nhất là hạnh phúc khi được thả bò. Thả hay buông bỏ những rác rến trong tâm thì tâm sẽ bình yên. Khi tâm bình yên, bình yên mới được lắng nghe. Người thực sự bình yên, người nghe được hiện tại giòn giã và tươi đẹp. Hiện tại chính là lời ca thiên thâu, là nụ hoa đang nở và sự sống đang có mặt. Nhiều người hiểu nhầm sống trong hiện tại là ra sức hưởng thụ, thu gom về phía mình càng nhiều càng tốt, sống vội, sống cuồng, sống cho thật nhanh. Không phải vậy đâu người ơi. Sống sâu sắc trong hiện tại là không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, chỉ phút giây hiện tại là giây phút thực sự đang sống, sống trong hiện tại nhưng không bị những tà dục của hiện tại lôi kéo.

Người tu tập quyết tâm trồng mười bông hoa là mười điều nguyện trước Phật đài. Nguyện thứ nhất là nguyện suốt đời theo Tam Bảo. Tam Bảo là ba viên ngọc quý soi sáng chúng sinh đang đau khổ như người sắp chết chìm bỗng nhiên vớ được một bè lau. Nguyện thứ hai là nguyện thoát khỏi những hiểm nguy tai ương. Phá bỏ ngã chấp và tham ái thì những nguy hiểm không thể làm hại người. Người có thể ra vào sinh tử một cách dễ dàng, tự tại với hạnh phúc lẫn khổ đau, trên môi luôn nở nụ cười đàm tiếu. Nguyện thứ ba là nguyện cứu độ chúng sinh. Đây là lời nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, cầu mong tất cả chư Phật ở lại đời mãi mãi để cứu độ chúng sinh. Nguyện thứ tư là nguyện học và hành trì tất cả các pháp môn. Có khoảng trên 84,000 pháp môn, người thuận duyên pháp môn nào sẽ thực hành pháp môn đó và có bao nhiêu pháp môn cũng học hỏi, thực tập. Nguyện thứ năm là nguyện gìn Tam Học, bao gồm Giới, Định và Tuệ. Đối với cư sĩ có năm giới, Sa Di có mười giới và Tỳ Kheo có 307 giới. Giữ giới sẽ giúp nhiều thuận duyên hành thiền, mà trái tim của thiền tập là chánh niệm. Thực tập chánh niệm miên mật sẽ đi vào định dễ dàng. Khi định miên mật, trí tuệ sẽ phát khởi, không có gì mà người không biết, không có gì mà người không nghe, và không có gì mà người không thấy. Nguyện thứ sáu là nguyện từ bỏ phiền não. Phiền não cũng như cơn gió thoảng qua, nếu gió nhẹ thì mát mẻ, nếu gió mạnh thì đó là trận cuồng phong. Thực tập im lặng sấm sét, không phản ứng, không hận thù thì có gì gọi là mát mẻ, có gì gọi là cuồng phong. Nguyện thứ bảy là nguyện giải cho được luân hồi. Chỉ cần quay đầu là bờ. Bấy lâu người ngồi trong ngôi nhà cháy, đi như chạy, hớt ha hớt hải, chỉ dừng lại rồi tấp vào bờ, vậy thôi. Nguyện thứ tám là nguyện không chọn con đường lợi danh. Nấc thang danh vọng hay đại lộ danh vọng xin nhường cho người nếu người muốn vướng lấy. Còn mình, mình chỉ muốn chọn con đường của an lạc và thảnh thơi nên người muốn thắng, mình xin nhường cho người thắng. Nguyện thứ chín là nguyện tinh tấn, tức là không dễ duôi, không lười biếng. Không ai có thành tựu mà không siêng năng và nếu có thì hãy siêng năng đúng chỗ, thực tập diệt khổ không mệt mỏi. Nguyện thứ mười nhưng không phải là cuối cùng, nguyện sớm đạt quả vị Phật ngay trong kiếp hiện tại này, không chờ đợi kiếp nào xa xôi. Ban đầu hãy phát nguyện đạt quả vị A La Hán, rồi đến quả vị Bích Chi Phật, và quả vị Tam Thế Phật hay Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phát nguyện mạnh thì thành tựu sẽ mau và dĩ nhiên đừng bao giờ quên việc hành trì bởi vì có học thì phải có hành, học mà không hành chỉ là con mọt sách.

Xin rải tâm từ đến người

Nguyện cho người có nhiều yêu thương.

Xin rải tâm bi đến người

Nguyện cho người tiêu tan đau khổ.

Xin rải tâm hỷ đến người

Nguyện cho người hạnh phúc mãi mãi.

Xin rải tâm xả đến người

Nguyện cho người luôn tĩnh lặng bình an.

Không lúc nào vui như lúc này

Thực tại hiện tiền ở quanh đây

Tương lai mờ mịt không cần nữa

Hạnh phúc từng bữa thật no đầy.

Trích sách Những trái tim đồng dạng – TG Minh Thạnh.

(www.sachminhthanh.wordpress.com)

Phật Pháp Ứng Dụng