Chúng ta hãy nên học theo hạnh của đất. Dù người ta đổ và rải lên những thứ tinh sạch và đẹp đẽ như hoa, nước thơm, sữa thơm; hoặc người ta đổ lên đất những thứ dơ dáy, hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ; hoặc người ta khạc nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp nhận tất cả một cách thản nhiên, không vui vẻ, mừng rỡ mà cũng không chán ghét, tủi nhục. Cũng như thế, khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh chúng ta đừng để chúng làm nhiễu loạn thân tâm mình.
Hạnh kham nhẫn để đời thêm xinh đẹp
Phật pháp cũng giống như cái cây có ba phần: Gốc cây, thân cây và phần ngọn gồm nhiều cành lá, hoa trái. Phần gốc là phần cốt tuỷ của Phật pháp, phần thân cây lá là phương tiện độ sinh hay còn gọi là tuỳ bệnh cho thuốc. Cái cây muốn sống và tồn tại thì phải có gốc, nhưng nếu chỉ có gốc mà không có thân, cành lá thì cây ấy coi như hết sức sống. Thân và cành lá sum suê, tươi tốt sẽ giúp con người nghỉ ngơi thoải mái giữa buổi trưa hè nóng bức.
Chúng ta tu theo đạo Phật là để thành Phật mà cứu độ chúng sinh, nhưng muốn thành Phật thì phải đi con đường Bồ tát đạo dấn thân vào đời tuỳ duyên giáo hoá. Ta muốn thành Phật thì phải phước huệ song tu, có lòng tin sâu sắc với Tam bảo, tin sâu nhân quả và tin chính mình là Phật nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, giữ gìn giới pháp trọn vẹn, tham thiền nhập định, mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn và tu hạnh kham nhẫn.
Muốn chuyển hóa sân giận và đạt được kết quả như ý thì trước tiên chúng ta phải quán sát rõ ràng, phải thấy tất cả người nam là cha ta và tất cả người nữ là mẹ ta. Ta sống được là nhờ cha mẹ mỗi đời đã sinh ra ta và không quản ngại công lao nuôi dưỡng. Công ơn mang nặng đẻ đau, công lao làm lụng nhọc nhằn, vất vả nuôi ta khôn lớn không ngôn từ nào kể xiết.
Nếu ta thường xuyên quán chiếu như vậy thì sẽ thấy rõ chúng sinh trong sáu đường luân hồi đều là cha mẹ của ta. Khi thấu hiểu công ơn cha mẹ ta sẽ bớt si mê, nóng giận rất nhiều. Nhờ vậy, ta và người luôn sống với nhau bằng trái tim yêu thương, biết kính trên nhường dưới, sống vui vẻ, thuận thảo với mọi người.
Chúng sinh luân hồi trong ba cõi, sáu đường do nghiệp duyên chi phối nên đã từng làm cha mẹ, anh em, người thân với nhau. Chính vì thế ta phải biết sống yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bởi tất cả đều là những người có ân nghĩa với mình. Nhờ quán sát tất cả chúng sinh là cha mẹ nhiều đời nên ta dễ dàng thông cảm mà từng bước tìm cách chuyển hóa tâm sân giận, oán ghét, thù hằn thành vô lượng tình yêu thương chân thật.
Đức Phật đã từng nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh như nhau, nếu ai làm đúng theo lời Ngài thì sẽ thành Phật trong tương lai. Nhận thức rõ điều này nên chúng ta thường xuyên quán sát chúng sinh là chư Phật vị lai, ta thấy ai cũng là Phật thì làm gì còn sinh tâm nóng giận mà thù hằn, ghét bỏ.
Một vị Bồ tát tên là Thường Bất Khinh đã tu hạnh khai mở Phật tính sáng suốt cho mọi người nên lúc nào cũng kính trên nhường dưới, Ngài một bề sống khiêm hạ thấp mình, không bao giờ nóng giận hay phiền muộn một ai. Khi làm việc lợi ích cho chúng sinh dù bị mắng chửi, đánh đập Ngài vẫn vui cười, không bao giờ buồn khổ hay oán hờn, trách móc mà còn trải lòng từ bi thương xót hết tất cả mọi người.
Suốt cuộc đời hoằng hóa độ sinh Bồ tát chỉ hành trì một câu nhưng vô lượng chúng sinh được lợi lạc không thể nghĩ bàn: “Tôi không dám khinh các Ngài vì các Ngài sẽ thành Phật”. Còn chúng ta thì sao? Từ sáng sớm cho đến chiều tối, hễ gặp nghịch duyên là ta nổi nóng, thậm chí giận cá chém thớt, chuyện không đâu lại trút đổ lên người. Đây là thói quen thâm căn cố đế của nhiều người vì không biết tu tập từ-bi-hỷ-xả để biết kính trên nhường dưới mà yêu thương, nâng đỡ cho nhau.
Còn một pháp quán nữa ta có thể hành trì là quán tình thương, nhìn thấy ai ta cũng nghĩ là người thương của mình nên đã thương thì không giận, mà đã giận thì không thương. Tình thương này không phải tình thương vị kỷ mà là tình thương không phân biệt màu da, dòng máu, chủng tộc. Nếu ai đã từng có con chung và con riêng với nhau thì sẽ biết rõ tình thương yêu đó có ích kỷ hay không? Vì lúc nào ta cũng thấy con mình hơn nên đôi khi phân biệt đối xử mà làm mích lòng nhau. Pháp quán tình thương sẽ giúp ta mở rộng tấm lòng từ bi thương xót bình đẳng mà biết cảm thông và yêu thương nhau bằng tình người trong cuộc sống.
Cách thức chuyển hóa cơn giận mỗi khi có điều gì đó làm ta bực tức thì mình chỉ cần nói thầm trong miệng giận là ngu, không giận là khôn, cứ như thế ta lặp đi lặp lại nhiều lần. Đây cũng là một phương pháp các Thiền sinh thường dùng để chế ngự cơn giận khi mới vào chùa mỗi khi gặp chuyện bất bình. Cách này tuy đơn giản nhưng lại rất hiệu quả, nhất là đối với người có bản tính nóng nảy, hay để cơn giận lấn át lấy mình. Khi đối diện với lỗi lầm hoặc sai sót của người khác ta có khuynh hướng hay chỉ trích, giận dữ rồi làm lớn chuyện ra; khi bình tĩnh lại mới thấy ăn năn, hối tiếc nhưng đã quá muộn màng.
Do đó, muốn chuyển hóa cơn nóng giận chúng tôi khuyên các bạn hãy thực hành phương pháp dùng trí tuệ soi sáng bằng cách nói giận là ngu, không giận là khôn để kiềm chế lại phản ứng của mình trong các tình huống xấu. Chúng ta có thể kết hợp với phương pháp quán tình thương để tâm từ phát khởi, nhờ vậy dễ dàng làm lắng dịu cơn giận.
Mỗi khi cảm thấy cơn giận có nguy cơ bùng nổ các bạn hãy hít một hơi thật sâu và đồng thời nói thầm trong miệng “ai cũng có tính biết thanh tịnh sáng suốt”. Các bạn nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thế rồi thở ra từ từ để cơ thể hoàn toàn thư giãn. Đây chính là một hình thức Thiền đơn giản giúp đầu óc thoải mái và ngăn chặn bớt những cơn kích động mạnh dễ làm ta nóng giận.
Hít thở sâu chính là bí quyết giúp ta bình tĩnh, sáng suốt để thấy biết rõ trạng thái, cảm xúc bên trong. Việc kiểm soát cơ thể sẽ giúp đẩy lùi những cơn giận không như ý. Trên thực tế, các Thiền sinh khi thực hành những bài tập này phổi sẽ tiếp nhận một khối lượng lớn dưỡng khí rồi nhanh chóng lan tỏa khắp cơ thể. Thời gian tĩnh lặng giữa lúc bạn đang tức giận cho đến lúc bạn hoàn thành bài tập sẽ giúp bạn lấy lại bình tĩnh, nhờ vậy tâm tư lắng dịu nên biết cách chuyển hóa và dừng hẳn cơn giận.
Mỗi khi thấy mình căng thẳng và sắp nổi nóng bạn hãy thử thực hành bài tập này xem. Với chúng tôi đây là bài tập có thể thực hành hằng ngày vì nó đem lại cảm giác an bình, thư thái, đồng thời giúp tôi lấy lại trạng thái cân bằng để có cái nhìn toàn diện mà đưa ra những quyết định sáng suốt hơn trong cuộc sống.
Nóng giận là một tập khí thâm căn cố đế thuộc căn bản phiền não lâu đời, có gốc rễ sâu xa trải qua từ vô lượng kiếp. Chúng ta có mặt trên cuộc đời và trôi lăn trong sinh tử cũng bởi ba thứ tham-sân-si là nguyên nhân khiến mình lẩn quẩn trong ba cõi sáu đường. Tập khí nóng giận hầu như ai cũng có, kể cả các bậc hiền Thánh. Vì thế, khi gặp những điều không được hài lòng, như ý ta thường nổi nóng, giận dữ như ngọn lửa cháy phừng bốc lên cao ngọn. Dù ta cố gắng điều phục cơn giận bằng nhiều hình thức nhưng cũng không thể dừng hẳn trong một chốc, một hồi.
Muốn chuyển hóa ngọn lửa sân hận kinh Phật có nêu ra nhiều phương pháp. Tùy theo trình độ nhận thức của mỗi người mà ta áp dụng phương cách trị liệu khác nhau, nhưng mọi phương pháp Phật đều chỉ dạy phải dùng trí huệ quán chiếu sâu vào nội tâm. Ta tuyệt đối không nên ức chế, đè nén vì đè nén chỉ làm cơn giận càng thêm sâu nặng. Đạo Phật rất tối kỵ và không chấp nhận việc đè nén, dằn ép.
Đó không phải là phương cách hữu hiệu tuyệt hảo làm cho ta hết đau khổ bởi cơn giận. Càng ức chế, đè nén chừng nào thì lòng sân hận càng tăng trưởng và lớn mạnh chừng nấy. Một lúc nào đó khi sự ức chế, đè nén đến tột cùng nó sẽ nổ tung và tàn phá rất mãnh liệt. Ðây là một kết cục bi thảm, tai hại mà không ai có thể lường được hậu quả ra sao. Bằng chứng là những thảm cảnh khủng bố với sự tàn sát, giết hại dã man biết bao con người gây nên cảnh tan nhà nát cửa.
Đạo Phật dạy ta cần phải nhận diện và chuyển hóa cơn sân giận. Khi ta giận ai mình có thể nói cho đối phương biết ta đang bực tức, không hài lòng về họ. Ta có nỗi khổ, niềm đau riêng của mình nên cần phải trình bày một cách chân tình và thật thà cùng người đang giận. Ta giận họ vì họ không làm cho mình vừa ý, hài lòng một vấn đề nào đó nên cần nói rõ lý do để họ hiểu và cảm thông với mình nhiều hơn.
Hoặc ta giận họ có thể vì sự chấp trước của mình về những sai lầm trong quá khứ. Cho nên, ta cần phải thiết lập truyền thông, tìm hiểu cặn kẽ, kỹ càng để hai bên cùng nhau cảm thông và tha thứ. Ta không nên nuôi dưỡng, chất chứa thù hận trong lòng mà sanh tâm oán ghét dài lâu. Đó không phải là thái độ khôn ngoan trong cách hành xử của người Phật tử chân chính.
Ta hãy biết rằng, khi người nào có thái độ và hành động làm mình đau khổ bằng sự giận dữ thì người đó đã tự chuốc lấy đau khổ trước rồi. Do đó, ta cần phải nên cảm thông, thương xót họ nhiều hơn. Vì họ đang bị vô minh chi phối nên họ mới hành động nông nỗi như vậy. Có thể họ có quá nhiều nỗi khổ, niềm đau bởi sự đè nén chất chứa lâu ngày nên lời lẽ không được văn hoá cho lắm.
Hạt giống giận hờn của họ luôn ẩn tàng sâu kín tận tâm thức nên ta phải thương yêu họ nhiều hơn là ghét bỏ. Muốn nhận diện được bản chất của sân hận thật không phải dễ dàng. Nó vốn dĩ không hình không tướng, không có chỗ nơi, chỉ đối duyên xúc cảnh mới phát sinh. Muốn vô hiệu hóa cơn giận trước khi nó bộc phát Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
Ta phải ý thức được lời nặng nề, cay cú, ác độc chỉ làm cho ta và người khổ đau. Ta phải sáng suốt trước khi nói và làm bất cứ điều gì để tránh gây thiệt hại cho người khác. Chỉ cần mình khéo nhận diện mặt mũi trước khi cơn giận nổi lên thì khả năng nóng nảy sẽ không còn cơ hội để bộc phát.
Ta hãy thường xuyên quán chiếu sâu nơi tâm của mình và mọi người thật kỹ, ta cần lấy gương soi lại mặt mình khi sự bực tức, nóng giận nổi lên. Nếu ta nhìn thấy một gương mặt hình thù quỷ quái, hung dữ thì ta biết nhân hiện tại thế nào sẽ cho ra quả đời sau thế ấy. Chắc chắn ta sẽ trở nên xấu xí bởi những lần sân hận như thế và trên mặt ta thêm nhiều vết hằn. Nhận thức rõ điều này một phần cũng giúp ta bớt đi phần nào sân hận, bởi đâu có ai muốn mình thành một kẻ xấu xí như quỷ La Sát.
Tóm lại, muốn chuyển hóa cơn giận hiệu quả ta có thể ứng dụng thực tập các nguyên tắc căn bản sau đây:
_ Ta phải thường xuyên giữ chánh niệm tỉnh giác bằng cách theo dõi hơi thở, thở vào mình biết thở vào, thở ra mình biết thở ra. Trước khi nói hay hành động gì ta phải xem xét kỹ càng liệu điều đó có tính chất nóng giận để làm khổ cho người khác hay không.
_ Ta hãy thường xuyên quán niệm, thực hành trải rộng lòng từ thương yêu đến tất cả mọi người, mọi vật. Hãy mở rộng trái tim để yêu thương, hiểu biết và đối xử với nhau bằng sự cảm thông và tha thứ.
_ Ta hãy quán chiếu thật sâu vào tâm thức nhằm thấy rõ hạt giống sân hận nếu để nẩy mầm sẽ chỉ làm cho mình và người đau khổ. Chính vì vậy, mình cần phải nên chuyển hóa ngay từ khi còn trong trứng nước.
Tôn giả Phú Lâu Na là người thuyết pháp đệ nhất trong mười vị đệ tử xuất cách của Phật, nhưng một khía cạnh khác rất tuyệt vời mà chúng ta ít lưu tâm tới là tinh thần “cầu thầy học đạo”, một đức tính cần thiết và quan trọng nhất trong đời sống tu hành của chúng ta. Tôn giả sinh ra trong một gia đình Bà La Môn giàu có gần kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài có gương mặt đẹp, đôi mắt từ ái cùng hình dáng trang nghiêm. Dù được cha mẹ thương yêu, chiều chuộng hết lòng nhưng Tôn giả vẫn không sinh tâm ỷ lại mà một lòng quy hướng Tam bảo, suốt đời đem ngọn đèn Chánh pháp soi sáng khắp nơi, phá tan bóng tối vô minh khắp các vùng xa xôi hẻo lánh cùng các miền sông núi bao la.
Với lòng tin sâu Tam bảo cùng biện tài vô ngại, sau khi chứng quả giác ngộ, giải thoát Ngài bắt đầu lên đường thuyết pháp độ sinh và được mọi người tôn xưng, tán thán với danh hiệu “đệ nhất thuyết pháp”. Với ba y, một bát Ngài dân du khắp nơi để thuyết pháp độ sinh giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc. Sau những giờ thuyết pháp hay đi qua những chặng đường dài gian khổ, Ngài chỉ cần ngồi lại dưới gốc cây nhập định là đủ sức để tiếp tục lên đường.
Trên bước đường tha phương cầu thực và hoằng hóa độ sinh, Ngài như một cơn gió thoảng, một áng mây bay không trụ lại bất cứ nơi nào. Nơi nào cần có Tịnh xá để tiện việc tu tập thì Ngài xây dựng, xây xong Ngài xin đức Phật cử một vị khác đến hướng dẫn Pháp rồi lại ra đi. Ngài đã thành lập rất nhiều Tịnh xá, hướng dẫn cho rất nhiều người phát tâm thành kính và quy y Tam bảo. Thời gian cứ thế trôi qua, sự nghiệp giáo hoá của Tôn giả Phú Lâu Na ngày càng lan rộng khắp các vùng xa xôi hẻo lánh.
Vào một ngày nọ sau mùa an cư kiết hạ, chư Tăng lại tiếp tục lên đường du hoá. Tôn giả Phú Lâu Na xin đức Phật cho Ngài đến hướng dẫn ở xứ Du Na, một nơi miền rừng núi hiểm trở, sự đi lại khó khăn, người dân đa số sống bằng nghề săn bắn, nhận thức còn chậm lụt và tính tình thô ác bởi nghiệp sát sinh hại vật.
Đức Phật bảo với Ngài rằng: “Ta biết người xứ Du Na rất hung dữ và độc ác. Nếu họ không muốn nghe lời ông nói mà còn nặng lời mắng chửi, xua đuổi thì ông sẽ xử lý ra sao?” “Kính bạch Thế Tôn! Con sẽ chấp nhận chịu đựng vì họ chỉ nói lời nặng nề mắng chửi, xua đuổi chứ họ chưa dùng cây gậy để đánh đập thương tổn đến con.” “Nếu họ đánh đập ông thì sao?” “Kính bạch Thế Tôn! Con vẫn chấp nhận chịu đựng được vì họ chưa giết hại con.” “Nhưng nếu họ giết ông thì sao?” “Kính bạch Thế Tôn! Con không có gì để oán than hay trách móc họ vì con biết xác thân tứ đại này là vô thường, huyễn hóa. Con phải cám ơn họ nhiều hơn vì đã giúp con xả bỏ xác thân ô uế này.”
Đức Phật khi nghe Tôn giả nói vậy liền mỉm cười, vui vẻ nói: “Lành thay, Phú Lâu Na! Ông hãy mau lên đường vì Ta tin chắc ông đủ sức giáo hóa người dân nơi xứ ấy.” Khi đến nơi, Ngài Phú Lâu Na không vội vàng thuyết pháp mà chỉ lân la tìm hiểu phong tục, tập quán và sở thích của người dân. Thấy họ thường hay bệnh hoạn, đau yếu nên mỗi ngày Tôn giả vào tận rừng sâu hái thuốc và làm thầy chữa bệnh. Thấy trẻ con dốt nát, thất học Tôn giả nhiệt tình tận tâm chỉ dạy. Thấy dân thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc Tôn giả động viên, khích lệ họ gieo mạ cấy lúa, làm nương làm rẫy. Cứ như thế từ ngày này qua tháng nọ, Ngài đã được mọi người tôn trọng và quý kính.
Trước kia, vì thiếu hiểu biết nên người dân xứ Du Na cực kỳ hung ác và làm nghề sát sinh hại vật. Sau thời gian gặp được Tôn giả, họ đã lần hồi thay đổi tâm tư và hiểu biết mà bắt chước làm theo lời Ngài chỉ dạy. Ngày trở về, Tôn giả cùng dẫn theo 500 người xứ Du Na đến xin đức Phật xuất gia. Ngài đã để lại hình ảnh tốt đẹp đối với toàn thể người dân xứ này vào phút chia tay rất thấm đậm nghĩa tình. Tôn giả đã trao cho họ một món quà vô giá về đạo lý làm người, sự yêu thương và hiểu biết. Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình dấn thân vào vùng sâu, vùng xa để thuyết pháp độ sinh. Sách sử không ghi rõ Ngài nhập diệt nơi đâu vì với Ngài bất cứ nơi đâu cũng chính là quê hương thân yêu của mình.
Một vầng trăng tỏa sáng khắp thế gian
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, chứng được Tam minh và vượt thoát mọi sự ràng buộc của thế gian, Đức phật đi giáo hoá và danh tiếng ngày càng vang xa, khắp mọi nơi ai cũng nhắc đến Sa môn Cồ Đàm. Vua Tần Bà Sa La và dòng tộc đồng quy y Tam Bảo và dâng cúng Tịnh xá Trúc Lâm. Ba anh em Ca Diếp cùng 1000 đệ tử cũng đều quy y Phật. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cùng 200 đệ tử cũng đều phát nguyện làm đệ tử Phật. Các giáo chủ ngoại đạo hết sức bất bình vì đệ tử của mình đi theo Sa môn Cồ Đàm, vua Tần Bà Sa La cũng giảm bớt niềm tin với các nhà thông thái Bà La Môn.
Từ đó, tiếng lành đồn xa, các ngoại đạo bị giảm uy tín nên họ bắt đầu nói xấu Phật và giáo đoàn của Phật. Họ đi rêu rao và tuyên truyền khắp nơi Sa môn Cồ Đàm đã làm mê hoặc lòng người khiến nhiều gia đình ly tán, cha mẹ mất con, vợ mất chồng, người già phải sống trong cảnh cô đơn không người nuôi dưỡng. Các thầy tỳ kheo thuộc giáo đoàn của Phật đi khất thực đến làng nào cũng bị nghe nói xấu nên lòng hoang mang, lo lắng.
Tuy vậy, Đức Phật vẫn bình thản, an nhiên mà dạy các thầy tỳ kheo: “Này các thầy, chớ có sinh tâm buồn rầu, lo lắng, hãy tỉnh giác trong từng phút giây. Dư luận khen chê đúng sai, phê phán hay chỉ trích cũng chỉ là dư luận mà thôi. Quý thầy chỉ nên thực tập im lặng như Chánh pháp.” Người tu theo đạo Phật phải có sức chịu đựng trong mọi hoàn cảnh từ lời nói cho đến những điều trái ý, nghịch lòng. Đức Phật bị dư luận của ngoại đạo chống đối, bêu xấu giáo đoàn và những lời dạy chân chính nhưng Ngài chỉ khuyên đệ tử nên quán tình thương mà có sự cảm thông, bao dung và độ lượng.
Trước đây, vua Tần Bà Sa La và dân chúng chỉ biết tôn sùng ngoại đạo và cấp dưỡng cho họ đầy đủ về mọi phương diện. Sau khi Phật ra đời, Ngài đem giáo pháp nhân quả và giác ngộ, giải thoát hướng dẫn cho nhiều người biết mà tu hành chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Ngoại đạo cảm thấy bị mất quyền lợi, mất sự tín nhiệm của người dân nên sinh tâm thù hằn, ghét bỏ mà tìm cách phá hoại Phật và giáo đoàn. Nếu đức Phật xúi giục đệ tử tuyên truyền chống đối trở lại thì chắc bây giờ chúng ta chẳng ai tu theo Phật. Chúng ta cung kính và tôn trọng Phật vì lòng từ bi vô hạn, không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.
Con người chúng ta luôn nói xấu, chỉ trích, phỉ báng, dèm pha nhau tạo ra sự mâu thuẫn đối kháng để tôn vinh bản ngã của mình. Người không đủ niềm tin về chính mình hay bị kẹt trong dư luận về những lời đàm tếu của thiên hạ. Cho nên, việc áp dụng lời nói từ ái, chân thật để tạo nhịp cầu nối kết yêu thương trở nên rất khó khăn trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay.
Con người từ khi được sinh ra trước tiên phải học cách ăn, cách uống và cách nói năng. Khi còn nhỏ việc ăn uống do người mẹ chăm sóc, nhưng khi lớn lên chúng ta phải tự ý thức ăn như thế nào để tiêu hoá được tốt. Một gia đình cha mẹ không tin sâu nhân quả sẽ dạy con ăn nhiều các loài động vật để nuôi sống bản thân, ăn như vậy sẽ làm tổn hại rất nhiều và giết chết lòng từ bi của mình. Học nói là học chia sẻ, học yêu thương, học bao dung, học tha thứ và học cách lắng nghe.
Trong cuộc sống ngày hôm nay, sự kết nối yêu thương giữa cha mẹ và con cái, bạn bè và đồng nghiệp, sếp và nhân viên không có sự cảm thông với nhau do thiếu khả năng lắng nghe nên không biết chia sẻ mỗi khi có những điều phiền toái xảy ra. Người nào cũng chấp vào sự thấy biết của mình, luôn cho suy nghĩ của mình là đúng nên bị tri giác sai lầm đánh lừa. Thế gian thường dạy nhau phải cạnh tranh để vươn lên đỉnh cao của cuộc sống, tranh nhau hùng biện và hơn thua nhau trong lời ăn tiếng nói.
Một người đang chửi mắng mình vì kẻ đó đang khổ đau tột cùng nên mới phát ra những lời lẽ khó chịu như thế, họ đang tự tàn phá thân tâm và làm tổn thương chất liệu của từ bi. Nhiều người cảm thấy ăn năn, hối hận sau khi đã lỡ lời chửi mắng vì không làm chủ được bản thân và không biết cách chuyển hóa cơn giận. Chúng ta đôi khi cũng muốn giận lắm chứ, muốn chứi mắng cho hả cơn giận nhưng nhớ ra mình là người tu rồi nên làm vậy không đúng mới ý thức quay về thực tại của chính mình.
Muốn chuyển hóa căn bệnh sân hận ta phải thực tập hạnh kham nhẫn, nghĩa là nhịn chịu những điều không được vừa ý, nghịch lòng; dù bị nói nặng, bị nói xấu, bị bêu rếu, bị mắng chửi, bị thách thức, bị nhục mạ nhưng mình vẫn bình tĩnh, thản nhiên xem những lời ấy như chất liệu của yêu thương, hiểu biết mà sẵn sàng đón nhận với lòng an ổn, nhẹ nhàng. Kham nhẫn còn là sức chịu đựng trong mọi hoàn cảnh như khi nóng lạnh, đói khát, tham muốn quá đáng hay bị mất mát, đau thương…
Một hôm, đức Phật đến giáo hóa tại một làng người Bà La Môn. Một gia đình nọ có bà vợ giỏi xem tướng số cùng cô con gái xinh đẹp. Họ muốn tìm người có đủ 32 tướng tốt về làm rể nên khi người cha vô tình gặp Phật thì mừng quýnh chạy về báo với vợ rồi cùng bà đến xem cho chính xác. Khi thấy Phật thì quả đúng như người bà bỏ công tìm kiếm bấy lâu nay nên rất ưng ý và muốn gã con gái ngay cho Phật không cần bất cứ điều kiện gì.
Tuy nhiên, đức Phật từ chối: “Ta xưa kia có đầy đủ tất cả từ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ nhưng đã bỏ lại sau lưng để sống đời đơn giản, đạm bạc, rày đây mai đó mà hướng dẫn đạo lý giác ngộ giải thoát cho mọi người. Bà vui lòng tìm người khác đi vì Ta đã từ bỏ ngũ dục thế gian để sống đời an nhiên tự tại.”
Bà buồn quá trở về kể lại cho con gái nghe làm cô tự ái vì sắc đẹp kiều diễm nghiêng nước nghiêng thành mà có người dám buông lời từ chối. Kể từ đó, cô ôm lòng oán thù và chờ ngày rửa hận. Vì có nhan sắc mặn mà nên về sau cô được làm hoàng hậu, mẫu nghi một nước. Khi đức Phật đến giáo hóa tại vương quốc đó, hoàng hậu biết được nên mướn bọn côn đồ, du đãng chặn đường Phật mà chửi mắng thậm tệ.
Trên con đường hoằng hóa độ sinh đức Phật đã gặp nhiều gian nan, thử thách. Nếu ta không kham nhẫn hoặc kham nhẫn sai phương pháp thì tất cả công đức lành sẽ bị thiêu đốt hết. Nếu chúng ta không có bồ đề tâm kiên cố, tức thành tâm hướng về sự giải thoát giác ngộ, thiếu lòng từ bi khi làm việc thiện giúp ích cho đời bằng tình thương bình đẳng không phân biệt đối xử, không vụ lợi cá nhân thì sự dấn thân ấy dù làm Phật sự đôi lúc cũng có thể trở thành ma sự.
Cả bọn côn đồ, du đãng do hoàng hậu mướn cứ vây quanh chửi mắng, khủng bố thậm tệ nên ngài A Nan mất hết bình bĩnh mà thưa với Phật rằng: “Kính bạch Thế Tôn, dân ở đây họ không có tâm cung kính, lại thiếu sáng suốt nên ta hãy đến nước khác giáo hóa. Con bây giờ chịu hết nổi những lời mắng chửi, sĩ nhục kia rồi.” Phật hỏi: “Vậy thì chúng ta đi đâu?” “Thưa Thế Tôn, ta đi nước nào không có ai vây hãm, chửi bới là được.” Phật nói: “Giả sử chúng ta đi tới chỗ khác và cũng bị mọi người mắng chửi nữa thì sao?” “Nếu vậy chúng ta trở về thành Xá Vệ, Ma Kiệt Đà, nơi Thế Tôn đã có nhiều đệ tử thuần thành.” Phật hỏi: “Nếu ông là thầy thuốc giỏi thì có nên đề bảng ở đây tôi chỉ trị bịnh nhẹ, còn bệnh nặng vui lòng đi nơi khác?” A Nan thưa: “Dạ đâu được thưa Thế Tôn, thầy thuốc giỏi thì phải trị những bệnh nan y mới cứu được nhiều người ạ.” Phật nói: “Cũng vậy! Dân ở đây vì chưa biết đạo lý làm người nên nhiều người bệnh quá nặng mới có những lời lẽ thiếu văn hóa như vậy. Thôi, ta hãy thong thả, từ từ để tìm cách chuyển hóa họ.”
Bọn du đãng vẫn tiếp tục chửi hoài, ngài A Nan nói: “Họ chửi hoài làm sao Thế Tôn giáo hóa họ được?” Phật bảo: “Khi nào họ không chịu nghe lời nói của ta nữa thì ta đi nơi khác cũng không muộn màng gì.” Tên cầm đầu nghe Phật nói với ngài A Nan như thế thì bỗng nhiên chuyển tâm hồi ý mà quỳ xuống cung kính thưa rằng: “Dạ thưa sa môn Cù Đàm, chúng con từ sáng tới giờ vì ngu si, mê muội nên mới có mắt như mù trước bậc siêu phàm vượt Thánh như Ngài. Xin Ngài mở rộng lòng từ mà thương xót chỉ dạy cho chúng con biết được điều hay lẽ phải để tu hành.” Kể từ đó, Phật đã ở lại xứ này giáo hóa giúp cho nhiều người tin sâu nhân quả và biết tránh ác làm lành.
Nếu chúng ta muốn gieo tạo công đức trọn vẹn và hạnh phúc, an vui lâu dài thì phải kham nhẫn, kiên chí, bền lòng. Bản thân đức Phật cũng từng gặp rất nhiều trở ngại suốt cuộc đời hoằng hóa độ sinh. Người có đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, dung mạo hoàn hảo khiến nhiều người quy kính nhưng cũng kéo theo những rắc rối khi nhiều cô gái đem lòng thương yêu nhưng không được đáp trả mà sinh lòng thù hận, tìm cách hãm hại Ngài.
Với tất cả lòng hoan hỷ, từ bi và trí tuệ, sự kiên nhẫn nơi đức Phật đã làm bao trái tim con người được chuyển hóa. Do đó, ta có thể khẳng định đức kiên nhẫn là chất liệu nuôi lớn lòng từ bi, là điều kiện làm cho tâm ta trở nên diệu mát như nước cam lồ của Bồ tát Quán Thế Âm. Sự kiên nhẫn được định nghĩa như một hạt giống tốt để con đường dấn thân thêm tinh tấn, là thành trì để tất cả phiền não, nghiệp chướng trong đời lần hồi rơi rụng. Tuy nhiên, mỗi hành giả cần phải kiên nhẫn với thái độ bình tĩnh, sáng suốt bằng từ bi và trí tuệ.
Lòng kham nhẫn trong các Phật sự hay trong sự dấn thân phải bắt nguồn từ nhận thức sáng suốt. Tất cả những điều chướng tai gai mắt diễn ra xung quanh đều có những nguyên nhân sâu xa của nó, không lẽ nào là vô cớ, ngẫu nhiên. Nếu không đủ bình tĩnh, sáng suốt và kham nhẫn chịu đựng thì con đường hoằng hóa sau lời ngài A Nan góp ý đã đứt đoạn giữa đường. Biết rõ nguyên nhân nên Phật sáng suốt nhận ra đây là cơ hội để chuyển hóa hoàng hậu và cuối cùng bà cũng quy y Phật trong nỗi niềm ăn năn, hối hận. Đức kham nhẫn là sự chịu đựng, chấp nhận, nhẫn chịu trước những điều không hài lòng vừa ý.
Như chúng ta đã biết, đức Phật ngày xưa còn bị nhiều người vì thương yêu không được nên đem lòng thù hận. Vì lòng tham lam, ganh ghét, tật đố mà bọn ngoại đạo đã âm mưu chống phá Phật đủ điều. Chúng vu khống, hủy nhục, dựng chuyện cô gái có bầu để bêu rếu Phật ngay trước mặt quần chúng. Độc ác hơn nữa, chúng giết chết cô gái rồi chôn trong Tịnh xá và mời vua quan xác minh, làm chứng để hãm hại Phật. Chuyện như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, sáng suốt và an nhiên, tự tại.
Như vậy, sự kiên trì, nhẫn chịu để làm lợi ích cho người là cơ hội mang lại niềm an vui, hạnh phúc. Vì nội tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng nên bợn nhơ không thể nào vẩn đục. Như nước trong ly đã gạn lọc hết chất cáu bẩn, dù có cố tình quậy đục nhưng nước vẫn cứ trong. Phật cũng lại như thế! Chính nhờ vậy mà hơn 2600 năm qua, Chánh pháp Phật đà đã trường tồn trên thế gian này giúp cho con người thấu triệt chân lý, biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha.
Khi ai lớn tiếng chửi mình thì ta đau đầu, nhức óc lắm chứ. Vậy thì ta đừng bao giờ nói nặng hay chửi mắng ai. Ta chửi là quá đáng rồi vì nói lớn tiếng, nói thô tục sẽ làm cho người bực tức, khó chịu. Ta đang đọc sách về hạnh kham nhẫn, ngoài kia xe cộ chạy rầm rầm, tiếng còi xe bấm kèn inh ỏi. Nếu không chịu nổi chắc mình gấp sách rồi đi bộ một vòng cho khuây khoả, hoặc ngồi chịu trận mà trong lòng không vui nên không tiếp thu được gì.
Những âm thanh ồn ào, náo nhiệt đó lại là âm thanh của sự sống. Tiếng chim hót rất dễ thương nên mình thích nghe, một bản nhạc hay cũng làm mình thích, một lời nói từ ái mình cũng thấy ấm lòng. Nhưng không có những tiếng chói tai của còi xe ầm ĩ thì làm sao ta cảm nhận được tiếng chim hót thật dễ thương. Sự ồn náo của muôn loài vật là góp phần tô điểm cho cuộc sống vì ai cũng có tính nghe thường hằng. Tuy nhiên, ai cũng thích lời nói dịu dàng, dễ chịu và bực bội với tiếng thô bạo, chát chúa của sự chửi mắng. Vì có khổ đau do lời qua tiếng lại làm mình dính mắc, chấp trước nên ta biết trân quý hạnh phúc nhờ sự trải nghiệm trong khổ đau. Cho nên, trong tình yêu muốn có được hạnh phúc thì chúng ta cũng phải chấp nhận khổ đau.
Người thực tập kham nhẫn cần được rèn luyện khi mới bước vào đường tu. Một là có lòng thương yêu tất cả chúng sinh như thương yêu chính bản thân mình, chính vì vậy họ cảm thông được nỗi khổ niềm đau vì đã thực hành hạnh kham nhẫn. Hai là lìa tham dục, là bớt tham đắm-dính mắc vào tiền tài, danh vọng, sắc dục, ăn sung mặc sướng và các lối sống hưởng thụ khác; là nhịn chịu sự đòi hỏi quá đáng ở ngay nơi thân tâm mình; đó chính là lìa tham dục. Nếu chúng ta thỏa mãn hết những thứ tham đó thì con người nên hay hư? Chắc chắn là hư! Thế cho nên chúng ta phải nhịn bớt. Như vậy, đối với ngũ dục trong thế gian này chúng ta luôn luôn phải có sức kham nhẫn để hạn chế lòng tham trong sự nhịn chịu.
Người ta không những chẳng nói lời ái ngữ mà còn hay nạt nộ, chửi mắng mình thì mình cũng không phản ứng lại; đó là hạnh kham nhẫn. Người ta hành động không dễ thương với mình thì mình cũng vậy, không hề phản kháng; đó là hạnh kham nhẫn. Người ta hay dèm pha, chỉ trích mình thì mình cũng nhịn, vẫn im lặng, không cần đính chính; đó là hạnh kham nhẫn. Người ta lúc nào cũng muốn tranh luận hơn thua với mình, mình biết im lặng nhường phần thắng cho người; đó là hạnh kham nhẫn. Người ta hay kiếm chuyện làm cho mình giận, mình biết vậy nên luôn tỉnh giác quán chiếu sự tác hại của cơn giận; đó là hạnh kham nhẫn.
Người ta hay hưởng thụ các thú vui thế gian không được lành mạnh và lãng phí thời gian, ta biết vậy nên tìm cách chuyển hoá sự ham muốn, thèm khát; đó là hạnh kham nhẫn. Người ta thích lời khen tặng và hay chán ghét lời chê bai, cả lời khen tiếng chê đều làm ta dễ đánh mất chính mình, biết vậy mình quay trở về hiện tại bằng cách giữ tâm ý trong sạch; đó là hạnh kham nhẫn. Người ta chịu luân hồi sinh tử khổ đau vô số kiếp vì tạo nghiệp xấu ác, biết vậy mình thực tập giữ Giới để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thực tập từ bi và trí tuệ để biết buông xả; đó là hạnh kham nhẫn.
Có một điều ta cần phải quán chiếu thường xuyên là tất cả các Thánh nhân đều xuất phát từ gốc phàm phu, nhờ tu hạnh kham nhẫn mà thành tựu đạo pháp. Người xuất gia tu hạnh giác ngộ-giải thoát trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh là đi ngược lại dòng đời, tức là không lập gia đình mà vẫn dấn thân đóng góp phục vụ lợi ích tha nhân. Chúng ta kham nhẫn không chỉ với cơn giận mà còn kham nhẫn với những tham muốn bên trong, tức là ta biết cách chuyễn hoá những tham muốn đó.
Khi dấn thân đóng góp chúng ta không thể tránh khỏi sự va chạm của lời qua tiếng lại, sự khen chê đúng sai. Chúng ta đi vào cuộc đời như làm dâu trăm họ, làm sao có thể làm vừa ý tất cả mọi người. Nếu ai đó hay nói trong cơn giận dữ rằng “mình hãy nên quán chiếu lại, mình đã làm gì để họ phải đau khổ như vậy, chắc chắn mình đã có lỗi với họ nên khiến họ buồn phiền như thế.” Lắng nghe và chia sẻ là phương cách giải tỏa nỗi khổ niềm đau. Lắng nghe là biết cảm thông, chia sẻ; là biết chuyển hóa niềm đau, bằng sự tha thứ và bao dung; là làm cho nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Chúng ta đi làm và bị nhiều người ganh tỵ nên nói xấu mình sau lưng, mình biết rõ nhưng vẫn bình tĩnh lắng nghe, không nói lời nào. Họ nói đúng thì mình tìm cách sửa sai và nên cám ơn họ vì đã cho mình sự yêu thương trong cuộc sống. Lời nào không đúng thì do họ hiểu lầm, lúc nào thuận lợi mình chia sẻ để họ dễ dàng thông cảm bằng tình người trong cuộc sống.
Chúng ta kham nhẫn với sự sân hận của người khác là việc làm khó nhất, nếu người ta nổi sân với mình mà mình nộ khí xung thiên lại thì vô tình cả hai đều đánh mất chính mình. Mình tu lâu mà không nhẫn được với cái sân là do còn quá nhiều cố chấp. Ngọn lửa sân có thể thiêu rụi cả rừng công đức mà chúng ta đã gây dựng bấy lâu nay. Người ta hành động không dễ thương vì họ đang đau khổ lắm, họ không có cách giải tỏa nên mới hành động trong si mê. Một người đem quà tới cho mình mà mình không nhận thì họ lại đem về. Không ai nổi sân cả trăm năm nên mình chờ cơ hội khi họ nguôi giận sẽ cùng chia sẻ mà cảm thông cho nhau.
Trong cơn giận nào mình cũng có phần lỗi dù không nhiều cũng ít. Cho nên, lắng nghe và chia sẻ để chúng ta có dịp nhìn lại chính mình. Nếu người không chịu lắng nghe, không chịu chia sẻ thì ta phải thương họ nhiều hơn. Vì trong họ còn quá nhiều nỗi khổ, niềm đau nên họ mới xử sự như thế, mà hễ giận thì ai cũng xấu xí, khó coi. Chúng ta thử nhìn vào gương xem lúc đang giận mặt mình trông như thế nào, chắc chắn trông rất hung dữ và cực kỳ xấu xí. Do đó, chúng ta phải tìm cách chuyển hoá cơn giận để nó không xảy ra. Mình nổi giận vì tham mà không được. Mình chấp ngã, sĩ diện nên mới nổi cơn “tam bành lục tặc”. Chúng ta làm chủ được cơn giận, biết mình đang giận ta quán chiếu, soi sáng lại nên thấy được những hậu quả do cơn giận gây ra nên ta làm chủ được bản thân.
Sự nóng giận khiến cho cơ thể tiết ra những chất độc, những chất độc này sẽ đi vào các bộ phận và gây bệnh. Có người vì giận mà bị nhồi máu cơ tim rồi chết bất đắc kỳ tử. Kiểm soát cơn giận bằng cách quán tình thương nên ta bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Chúng ta hãy nên nhớ, mọi cơn giận xảy ra đều do sự chấp ngã của “cái tôi” mà thiếu sự cảm thông, lắng nghe và chia sẻ nên không làm chủ được bản thân.
Muốn làm chủ bản thân trong mọi lúc mọi nơi thì trước hết ta phải biết mình đang giận và cũng biết mình có năng lực để chuyển hóa cơn giận. Chúng ta lúc nào cũng nghĩ người làm mình giận cách mấy vẫn là người thương, người thân của mình. Chúng sinh lặp ngụp trong luân hồi sinh tử vô số kiếp nên ta và người chắc chắn đã từng là cha mẹ, ông bà, anh em, họ hàng, bạn bè, làng xóm nên đã là người thân, người thương thì không nên giận nhau. Ta hãy sử dụng tình thương để chuyển hoá cơn giận mỗi khi chúng phát khởi.
Kế đến ta hãy kham nhẫn, nhịn chịu với sự nóng tính của mình. Nóng tính có hai dạng là hay lăng xăng và dễ nổi nóng. Người lăng xăng là sự trạo cử biểu hiện rất mạnh, họ không thể ngồi yên, không thể an trú trong hiện tại. Tâm ý họ thường hay bám víu vào sự thương và ghét. Đang làm việc trong nhà thì họ nghĩ đến chuyện ngoài đường, tâm ít khi ở với thân nên dễ bị căng thẳng, sự căng thẳng này là do tâm quen chạy nhảy như vượn chuyền cành. Ta phải tập kham nhẫn với sự lăng xăng, bay nhảy thì tâm mình sẽ bớt dao động và bình yên.
Một bông hoa đẹp mà còn tỏa hương thơm ngát đem lại sự tươi mát cho cuộc đời thì ai cũng thích ngắm nhìn. Mình tập buông bỏ những giận hờn, tập im lặng để bớt tính nóng nảy, thường gần gũi với những người có chất liệu từ bi để có được cảm giác dễ chịu. Dù có ai nói bóng nói gió mình vẫn bình thường là ta biết mình có tu; ngược lại, ta cảm thấy khó chịu và bực mình là phải biết mình còn yếu lắm.
Có người lại hay tự hào về sự nóng tính của mình và còn nói họ nổi tiếng về sự nóng giận. Chúng ta hãy nên xây dựng và nuôi dưỡng sự tươi mát trong tâm, đừng làm cho tâm cằn cỗi, héo úa như sa mạc. Những người nóng tính rất tội nghiệp, bơ vơ. Họ thật tội nghiệp vì mệt mỏi trong trận đồ sa mạc nóng bức. Họ bơ vơ vì ai cũng muốn chạy ra khỏi sa mạc để tránh cái nóng gay gắt. Người không làm chủ được cơn giận là người cuồng dại như người bệnh tâm thần, họ không kiểm soát được chính mình từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động.
Kế đến là sự kham nhẫn với mong muốn tranh đua, giành giựt và dính mắc vào ý niệm hơn thua, được mất. Sự tranh đua, giành giựt là một cơn lốc xoáy của cuộc đời, nó đưa chúng ta vào mê hồn trận và khó tránh khỏi những đau thương, mất mát. Ta làm việc trong công ty cũng vậy, mình không muốn cạnh tranh nhưng cấp trên cứ thúc đẩy, đồng nghiệp cứ nhắc nhở và bản thân mình phải cạnh tranh và đặt ra mục tiêu để phấn đấu. Tận cùng của sự cạnh tranh là sự thất vọng và tuyệt vọng vì luôn có kẻ thắng người thua. Thắng thì vênh váo tự đắc. Thua thì buồn rầu khổ sở, ăn ngủ không yên. Chúng ta hãy nên nói không với sự tranh đua, giành giựt vì nó là nhân dẫn đến oán thù.
Ta hãy nên tập kham nhẫn, nhịn chịu trong sự im lặng, tức là không nói một lời nào. Ta thường hay thích tranh cãi giành phần hơn thua nên rất khó để im lặng. Đôi khi mình lại sợ sự im lặng vì đã quen với sự ồn ào. Đó là lý do ta thường kiếm chỗ đông người để tán gẫu đủ thứ chuyện trên đời. Do đó, im lặng có giá trị riêng của nó, ta hãy tập im lặng để cảm nhận được một chút bình yên trong lòng.
Khi tâm quá mệt mỏi chúng ta thường đi vào chùa vì muốn tìm chút thanh thản của im lặng. Nhưng sự im lặng này vẫn mang tính chất trốn chạy cuộc đời nên chỉ thanh thản được nhất thời mà thôi. Dù bên ngoài người đang ồn ào, căng thẳng; đang tranh đua, giành giựt quyết liệt thì mình cũng đừng nói gì cả. Ta nên im lặng để cuộc đời có được một chút bình yên trong hiện tại.
Bên cạnh đó, chúng ta phải biết kham nhẫn trong sự vui chơi giải trí, nhất là những thứ giải trí không lành mạnh. Công việc bộn bề cùng những áp lực trong cuộc sống khiến ta mệt mỏi và rất cần giải trí. Mục đích của giải trí là giảm bớt căng thẳng của công việc hay tạm thời quên đi những lo toan hằng ngày. Tuy vậy, nhiều người khi giải trí xong lại càng mệt mỏi, nỗi khổ niềm đau lại càng có cơ hội phát sinh.
Trong nhà Phật có Giới thứ năm rất hay. Ta nguyện thực tập bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm bằng cách không sử dụng rượu bia, các chất gây say gây nghiện và những sản phẩm có hại làm tổn thương đến thân tâm. Ta biết thực tập Giới này sẽ giúp gia đình được yên vui, thân thể khoẻ mạnh, trí tuệ phát triển và xã hội vui vẻ, không loạn lạc vì không có tệ nạn bất chính. Đây là Giới dạy về cách giải trí lành mạnh.
Thiền trong đời sống hằng ngày, trong gia đình và xã hội là phương thức giải trí lành mạnh nhất cho mọi người, không có sự thư giãn nào hay bằng Thiền định. Thở vô ta biết ta đang thở vô, thở ra ta biết ta đang thở ra. Khi thở vô ta thấy khỏe, thở ra ta thấy thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Ta thở vô dài và sâu, khi thở ra ta cảm thấy bao nhiêu độc tố trong người cũng ra theo.
Khi con sư tử bị thương nó biết nằm xuống liếm vết thương để tự chữa trị và nghỉ ngơi, nó không tiếp tục chạy theo con cái hay đi kiếm mồi. Nhiều người mất ngủ vì căng thẳng, lo lắng, bệnh tật hay bực tức trong lòng. Thiền định là phương cách giúp ta buông bỏ những điều đó. Khi quay về tiếp xúc với hơi thở, nương vào hơi thở thì chúng ta đứng ngồi được yên, ăn ngon và ngủ an lành.
Chúng ta biết kham nhẫn, nhịn chịu với tình trạng tâm hay chạy nhảy, lăng xăng theo dòng đời như khỉ vượn chuyền cành, hết leo cây này lại trèo qua cây kia khiến thân đứng ngồi không yên, hay nghĩ ngợi lung tung. Có người ở nhà đang nói chuyện với ông xã nhưng tâm lại nghĩ đến chàng trai trẻ họ mới gặp hôm nào. Khi đi làm việc thì tâm để đâu đâu, khi đang ở nhà thì tâm cứ muốn đi tham quan, du lịch. Chính vì vậy, công việc họ đang làm không đạt kết quả tốt vì tâm lúc nào cũng tính toán tìm cầu không lúc nào dừng nghỉ.
Buổi sáng thức dậy chúng ta đánh răng súc miệng, làm vệ sinh cá nhân rồi lên bàn thờ Phật đốt nén tâm hương, sau đó ngồi Thiền một chút rồi kế đến thực tập Thiền lạy Bồ tát và Thiền trong đi đứng, tâm chỉ quán sát một cách rõ ràng. Một buổi sáng chỉ cần một tiếng đồng hồ để Thiền thì tâm làm sao chạy hoang từ đầu trên đến xóm dưới. Cái đầu nhỏ bé của chúng ta lúc nào cũng tính toán đủ thứ nên tâm ít khi được nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nó lúc nào cũng lăng xăng, lộn xộn và hay chạy theo những niệm thương ghét. Chúng ta thực tập tỉnh giác trong mọi hoàn cảnh sẽ giúp cho tâm có sức định tĩnh, nhận diện rõ ràng chuyện đang xảy ra là tốt xấu, phải quấy hay đúng sai. Chúng ta chú tâm vào công việc đang làm tức là ta đang áp dụng Thiền định, nhờ vậy ít phóng tâm nên kết quả việc làm càng thêm tốt đẹp.
Trên thế gian này có rất nhiều đứa trẻ mồ côi không có cha mẹ, không nơi nương tựa nên phải tự kiếm sống, tự bươn chải, tự chăm sóc bản thân. Xã hội đầy dẫy những cám dỗ, sự thiếu hiểu biết, không tin sâu nhân quả. Nếu không ai dạy cho chúng điều gì nên làm, điều gì không nên làm thì chúng sẽ rơi vào vòng xoáy của tệ nạn xã hội.
Có những tội phạm tuổi đời còn rất trẻ và cũng có những người lính tuổi đời còn rất trẻ, và rất nhiều người trẻ thất học, nghèo dốt khác. Nếu chúng ta biết kham nhẫn với những trò tiêu khiển không lành mạnh, biết dừng lại để ôm ấp, chia sẻ, yêu thương trẻ em, chăm sóc trẻ em như chính con cái của mình thì chúng sẽ được khôn lớn trưởng thành trong hiểu biết.
Chúng ta cũng hãy kham nhẫn, chịu đựng trong giao tiếp, ứng xử một cách ôn tồn, điềm đạm. Người ôn tồn luôn nói lời từ ái, nhẹ nhàng, cử chỉ hay lời nói của họ đều toát lên sự thanh tịnh của nội tâm. Chúng ta có đầy đủ phúc duyên được gần những người này sẽ không bao giờ cảm thấy lo lắng, sợ hãi hay bất an một điều gì vì không bị la mắng hay bị phán xét một cách vô cớ.
Người điềm đạm là người có sức định tĩnh vì đã có khoảng thời gian dài thực tập hạnh kham nhẫn nên không la mắng và phán xét người khác. Chúng ta hãy dừng lại sự la mắng để có thời gian lắng nghe người khác, để hiểu và thương được những hạnh phúc và khổ đau của họ. Ta dừng lại những suy nghĩ ác ý không đúng về họ để thấy ta và người tuy hai mà một. Người có những hạnh phúc và khổ đau thì ta cũng vậy nên ta thương mình bao nhiêu thì cũng phải biết thương người bấy nhiêu. Ta biết dừng lại những lời nói ác ý và những phán xét để tâm ta trở nên khiêm tốn thấp mình với mọi người mà bớt đi sự kiêu căng, ngã mạn.
Do tâm yếu đuối nên chúng ta vẽ ra đủ thứ những buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua nên vọng tưởng nhiều mà phát sinh lo lắng, sợ hãi. Nhìn thấy sợi dây bên vệ đường ta tưởng là con rắn. Nghe tiếng bụi tre kêu xào xạc ta nhìn bóng tre che khuất bờ tường lại tưởng tượng có ma vì âm thanh kỳ lạ và bóng tre đung đưa. Chúng ta kham nhẫn trong sự sợ hãi để biết buông xả, lìa bỏ những vọng tưởng không đâu mà quay trở về giây phút thực tại nên được yên ổn, bình an.
Vì trong thâm sâu ta có ý niệm về sự tấn công của các loài rắn, ta nghe nói loài rắn ngoằn nghoèo phùng mang, lè lưỡi phóng tới dí con mồi nên ta liên tưởng chúng sẽ mổ mình nên ta sợ hãi. Nỗi sợ hãi này đeo đẳng bấy lâu nay nên nhìn thấy cái gì ngoằn nghoèo, dài dài thì ta liền cho đó là rắn nên hoảng sợ. Có người bỏ chạy thụt mạng mà không dám quay đầu lại. Khi còn nhỏ chưa biết gì nên mỗi khi bướng bĩnh người lớn lại dọa ta sẽ bị ông kẹ bắt. Ta tưởng tượng hình ảnh ông kẹ chắc ghê gớm và độc ác lắm. Hình ảnh đó khắc sâu vào tâm thức khi có cơ hội ta sẽ nhớ lại và rất hoảng sợ. Những người hay yếu bóng vía là do chất chứa sự sợ hãi quá nhiều. Trong bóng tối họ rất lo sợ, chỉ cần nghe một tiếng động vu vơ là họ có thể đứng tim.
Sự kham nhẫn kế đến chúng ta cần phải thực hành là kham nhẫn với những lời phải quấy, đúng sai. Đức Phật suốt 49 năm hoằng pháp độ sinh đã bị không biết bao nhiêu tiếng thị phi nhưng Ngài vẫn bình tĩnh, thản nhiên trước những lời lẽ không được dễ thương cho lắm. Chúng ta kham nhẫn với tiếng thị phi để xem mình đã làm gì sai mà người ta đã nói như vậy. Khi biết lắng nghe ta sẽ nhận biết rõ mình đúng hay sai mà biết cách sửa lỗi và cảm ơn người đã cho ta cuộc sống. Nếu lời nói phải quấy đó không đúng thì ta biết họ đang hiểu lầm mình nên ta hãy thực hành rải tâm từ thương yêu đến họ.
Chúng ta nhờ có quán chiếu nên biết rõ nhân quả nghiệp báo mà không dám phạm sai lầm. Có người rất thích chửi thề và đã quen thói chửi thề nên ngày nào không chửi là họ không thể ăn cơm. Nhưng chính những tiếng chửi đó làm cho tâm họ bực tức, giận hờn trong mệt mỏi, chán chường. Với người hay chửi thề như vậy ta hãy quán chiếu sự tha thứ và cảm thông. Khi ta thương yêu nhau thì mình cần đối xử tốt với nhau. Ta cần nói lời nhẹ nhàng, biết lắng nghe, biết chia sẻ, biết tôn trọng nhau nên làm gì có đối kháng, xung đột xảy ra.
Ta cũng phải biết kham nhẫn với bệnh tật của thân, với những khổ đau đang thấm nhuần trong cơ thể mình. Thân này rồi phải già-bệnh-chết là lẽ đương nhiên, chỉ bệnh ít hay bệnh nhiều mà thôi. Bệnh nhẹ thì dễ trị, chỉ cần vận động làm việc thì qua khỏi. Bệnh nặng thì hơi khó trị và có thể làm ta đau đớn, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần. Người không biết tu khi bị bệnh thân đau nhức một thì tâm đau nhức mười. Thân đau thì có thể hết nhưng tâm đau thì lại rất khó trị.
Thế giới chúng ta ngày hôm nay có quá nhiều bệnh tật vì ô nhiễm môi trường, ô nhễm thức ăn thực phẩm và do con người ăn uống vô độ. Có ai bệnh mà lại không buồn phiền? Điều đầu tiên chúng ta lo lắng là phải hao tiền tốn của lo thuốc thang, tìm cách chữa trị. Bệnh có hai dạng là thân bệnh và tâm bệnh, nhưng phần nhiều thân bệnh là do tâm điều hành, sai sử. Thân chúng ta tại sao lại bệnh? Vì tâm tham ăn uống nên ta đưa nhiều các thức ăn uống nhiễm độc vào cơ thể. Do tâm tham muốn quá nhiều nên trở thành tâm bệnh, vì tham nên chúng ta muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng trong khoái khẩu lại là nguyên nhân gây ra bệnh.
Ta không biết trân quý sức khỏe sẽ làm tổn thương thân này. Có người suốt cả cuộc đời lúc nào cũng bệnh, khi bị như vậy ta phải biết mình đã gieo tạo nghiệp sát sinh hại vật quá nhiều. Ta hãy nên thường xuyên thực tập sám hối để dừng nghiệp cũ, không cho chúng tái phạm nữa; mặt khác lại hay giúp người cứu vật, nhờ vậy chúng ta sẽ được mau lành bệnh. Khi bệnh ta hãy tìm phương cách chữa trị như đi khám bác sĩ, đi bệnh viện theo dõi, đồng thời phải biết sám hối, biết làm thiện để chuyển hoá nghiệp xấu ác thì sẽ từ từ hết bệnh.
Chúng ta biết kham nhẫn, chịu đựng với bệnh tật nên thân tuy đau nhức mà tâm vẫn an ổn, nhẹ nhàng. Thân này chịu sự vận hành của đất-nước-gió-lửa nên chúng thường chống trái lẫn nhau. Gió thổi mạnh thì đất rung rinh. Lửa nhiều thì sinh nhiệt và nóng nảy. Bản thân chúng tôi trước kia do thiếu hiểu biết nên làm quá nhiều nghiệp xấu ác, do đó khi vào Thiền Viện tu hành phải chịu rất nhiều bệnh tật khốn khổ, có những bệnh nan y tưởng chừng không qua nổi. Cụ thể nhất là bệnh huyết áp cao với chỉ số lúc nào cũng từ hai mươi mốt hay hai mươi hai trên mười một hoặc mười hai. Nếu có uống thuốc đều đặn, liên tục với đô mạnh thì giảm xuống còn khoàng mười tám trên mười.
Mẹ chúng tôi đã chết vì bệnh này, em gái ruột của tôi cũng bị đột quỵ chết liền tại chỗ. Sau ba năm bị liên tục như vậy với huyết áp cao dẫn đến mất trí nhớ, mất tự chủ lại là thời gian chúng tôi viết sách nhiều nhất . Từ năm 2010 đến năm 2013 huyết áp đã hạ xuống còn khoảng 15/9 thì coi như chúng tôi đã tạm thời thoát chết.
Tuy nhiên, chúng tôi giờ đây còn rất nhiều bệnh tật khác dẫn đến mất năng lực đề kháng, thành ra phải chịu đau nhức, mệt mỏi hoành hành mãi. Đành phải chịu thôi! Nghiệp sát sinh hại vật, làm người khác đau khổ quá nhiều nhưng nhờ có tu chút đỉnh nên thân này tuy chịu hành hạ nhưng tâm bớt khốn khổ. Phương pháp hay nhất để chuyển hóa bệnh tật là ta phải biết sám hối lạy Phật-Bồ tát hay làm phước giúp người cứu vật, giữ Giới và biết buông xả phiền não tham-sân-si.
Hạnh chi sẻ yêu thương của Quan Âm Thị Kính
Trong thế giới loài người có một vị Bồ tát ai cũng có thể biết như một vị cứu tinh. Ngài có trái tim yêu thương và hiểu biết, luôn mở rộng tấm lòng nhân ái chẳng nỡ bỏ một ai đau khổ. Ngài chính là Bồ tát Quán Thế Âm. Khi nghe ai trong khốn khổ, khó khăn, tuyệt vọng tâm niệm đến Ngài thì Ngài liền ra tay cứu giúp và nâng đỡ.
Bồ tát Quán Thế Âm thực hành hạnh lắng nghe, hạnh không sợ hãi, hạnh từ bi và trí tuệ và hạnh chia vui sớt khổ nên Ngài không những giúp đỡ chúng sinh vượt qua nỗi khổ, niềm đau về vật chất mà còn hướng dẫn chúng sinh về mặt tinh thần nhằm giúp người tin sâu nhân quả, tin chính mình có khả năng vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống bình yên, hạnh phúc bằng trái tim hiểu biết.Thật ra, tất cả chúng ta đều là một vị Bồ tát Quán Thế Âm đích thực ngay tại đây và bây giờ, nơi chính bản thân mình.
Nếu nói về chùa và tín ngưỡng của người Việt Nam thì hầu như hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm đã ăn sâu và thấm nhuần trong lòng mọi người. Từ khắp ba miền đất nước hầu như chùa nào cũng có thờ tượng Bồ tát Quán Thế Âm, thậm chí mỗi nhà đều có thờ Ngài. Rõ ràng, niềm tin vào Bồ tát Quán Thế Âm đã ăn sâu vào tàng thức của người dân nước Việt.
Bồ tát Quán Thế Âm đã thành Phật từ vô lượng kiếp nhưng vì thương chúng sinh còn mãi chìm đắm trong biển khổ, sông mê nên đã phát tâm đi vào đời để cứu độ chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán vì Ngài thấy mọi người đáng thương hơn đáng trách.
Sở dĩ Bồ tát được mang danh hiệu là Quán Thế Âm vì Ngài luôn chia vui sớt khổ với muôn loài trong mọi trường hợp như thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, hạn hán, bị yêu tinh ma mị hãm hại, bị giam cầm tù tội, cho đến nạn trộm cướp và bị vua quan chiếm đoạt. Hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm xứng đáng cho chúng ta học hỏi và bắt chước làm theo. Ngài lúc nào cũng ứng hóa hiện 32 thân, khi thì làm người nữ, lúc lại làm vua, làm thương buôn hay kẻ bần cùng, cho đến mọi thành phần trong xã hội để độ khắp hết thảy chúng sinh.
Chúng ta tu và học theo tinh thần của Bồ tát Quán Thế Âm như nhịp cầu kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống với tinh thần từ bi và trí tuệ, với tấm lòng vô ngã vị tha. Hình ảnh của Ngài đã in sâu vào lòng mỗi người con đất Việt. Sự tôn thờ và kính ngưỡng Bồ Tát Quán Thế Âm xem ra đời nào cũng có, nhưng để hiểu biết và thực hành theo hạnh của Ngài thì dường như rất ít người đạt được trọn vẹn.
Đức Phật đã từng dạy: “Tin Ta mà không hiểu Ta thì cũng như hủy báng Ta”. Thật vậy, kính ngưỡng, lễ bái, tưởng niệm và tôn thờ Bồ Tát Quán Thế Âm đã trở thành một việc làm thuờng xuyên và phổ biến của người Việt Nam. Thế nhưng, tuyệt đại đa số đều đến với Ngài bằng niềm tin hơn sự hiểu biết, điều đáng buồn hơn nữa là phần đông dân ta xem Ngài như một vị nữ thần linh có đủ quyền năng để ban phước giáng họa.
Đối trước Ngài, thay vì chúng ta lắng lòng chiêm ngưỡng, quán xét đức hạnh của Ngài để phản chiếu lại nơi tâm mình mà học theo hạnh Ngài, bồi dưỡng tinh thần, làm thăng hoa đời sống tâm linh, mang lại lợi ích cho gia đình và xã hội thì chúng ta lại cứ duy trì niềm tin mù quáng nên chính ta là người góp phần đưa Phật giáo đến bờ vực thẳm của mê tín dị đoan bằng cách cầu khẩn, van xin.
Như chúng ta đã biết, sự gia bị cùng với hạnh nguyện ban vui cứu khổ của Bồ Tát Quán Thế Âm là có thật, nhưng chúng ta không phải vì thế mà bỏ quên khả năng tự lực của chính mình. Phật dạy mọi hành động tốt hay xấu đều được quyết định bởi nguyên lý nhân quả. Hơn nữa, đạo Phật luôn khuyên nhủ mọi người hãy “tự mình làm chỗ nương tựa cho chính mình”, “chính mình là chủ nhân của bao điều hoạ phúc” và phải “tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp”.
Nhiều người không hiểu cứ nghĩ đem của cải vật chất, vàng ngọc quý báu để khoác lên tôn tượng Bồ tát Quán Thế Âm mà van vái, cầu xin được Ngài phù hộ để được an vui, hạnh phúc. Niềm tin và thái độ tôn thờ như thế không chóng thì chầy cũng sẽ bị “thần tượng sụp đổ” bởi niềm tin thái quá khi việc làm ăn sa sút. Bởi lẽ, khi sự việc không thành họ sẽ cho rằng Bồ tát không linh và trở lại hủy báng mà đánh mất mình trong hiện tại.
Ngày xửa ngày xưa, có một người trải qua vô lượng kiếp hành Bồ tát đạo vì lợi ích chúng sinh nên siêng năng, tinh tấn tu hành. Cứ như thế nhiều kiếp ngài chịu thống khổ trong sinh tử luân hồi để hành Bồ tát đạo, đến kiếp chót Bồ tát đầu thai làm con gái nhà họ Mãng ở đất Cao Ly. Gia đình họ Mãng có hai người con và Thị Kính là chị. Nàng lớn lên tài sắc vẹn toàn, lại hết lòng hiếu thảo với mẹ cha. Đến tuổi lấy chồng nàng được cha mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ, một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, con nhà giàu lại rất siêng năng, chăm học. Hai vợ chồng sống với nhau rất ấm êm, hạnh phúc.
Một buổi tối nọ, Thiện Sĩ ngồi đọc sách và Thị Kính ngồi may bên cạnh chồng. Lát sau, chàng cảm thấy mệt nên lăn ra ngủ thiếp đi. Nàng quay sang nhìn chồng và bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược rất khó coi. Thị Kính lấy dao định tỉa sợi râu thì Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, thấy vợ cầm dao kề sát cổ mình chàng tưởng nàng muốn sát hại chồng liền nắm tay nàng la lớn: “Nàng định cầm dao giết ta sao?” Thị Kính đáp: “Em thấy chàng có sợi râu mọc ngược khó coi nên định cắt nó đi!”
Trong cơn hoảng hốt nửa tỉnh nửa mê, Thiện Sĩ nhất định không tin lời vợ mà một mực tin nàng định sát hại mình. Giữa lúc đó, cha mẹ chồng nghe tiếng hai người lời qua tiếng lại bèn sang phòng hỏi rõ sự tình. Nghe con trai kể ông bà tin ngay Thị Kính có ý giết chồng nên lập tức mời ông bà xui sang trách móc và trả lại con. Mặc dầu Thị Kính đã quỳ xuống van xin tha thứ và thanh minh cho mình nhưng cả nhà chồng đều nhất định không nghe.Tiếng xấu đồn xa, Thị kính không biết giải bày cùng ai đành nuốt lệ đau thương một mình chịu tiếng oan giết chồng.
Cuộc sống thế gian điều hạnh phúc nhất là khi lớn lên được lập gia đình, yên bề gia thất, sinh con đẻ cái làm rạng rỡ Tông phong. Ước mơ ấy không thành hiện thực mà còn chuốc lấy nỗi oan khiên giết chồng nên nàng chẳng còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ. Không còn con đường nào khác, Thị Kính xuống tóc xuất gia để báo ân phụ mẫu và sau này tẩy rửa nỗi oan giết chồng. Nhưng ngặt nỗi, ngày xưa không có chùa Ni mà chỉ có chùa Tăng, nàng muốn đi tu thì chỉ còn cách giả dạng nam nhi và trốn nhà đi mới có chỗ tu hành. Nhưng một lần nữa, Thị Kính lại chịu tiếng xấu bỏ nhà theo trai khi nỗi oan giết chồng vẫn chưa kịp gột rửa.
Nàng bây giờ với hình dạng của một đấng nam nhi đành nuốt lệ đau thương đến chùa Vân Tự xin được công quả, xuất gia. Thầy trụ trì không biết nàng giả trai nên đã chấp nhận cho nàng công quả rồi xuống tóc thọ giới Sa Di với Pháp danh Kính Tâm. Từ đó, Kính Tâm nương náu cửa chùa, sớm khuya Thiền định, sáng làm việc, trưa học hỏi, chiều sám hối để vượt qua bao nỗi ưu phiền.
Thời gian tu hành chưa lâu thì tai vạ khác lại ập đến, tuy giả trai nhưng nhan sắc mặn mà của thầy Kính Tâm làm một tiểu thư tên Thị Mầu đem lòng thầm thương trộm nhớ. Thị Mầu là con gái một phú hộ giàu có trong làng, nàng thường xuyên đi chùa lễ Phật, thấy Kính Tâm quá đẹp trai nên dệt mộng muốn gá nghĩa vợ chồng. Đã nhiều lần nàng nói rõ sự thật nhưng đều bị từ chối, vì yêu thương muốn chiếm đoạt mà không được nên nàng ta trở nên thù ghét thầy Kính Tâm.
Một lần nọ Thị Mầu quan hệ với một đầy tớ trong nhà và đã có thai. Khi mọi chuyện vỡ lẽ nàng bị làng xã phạt vạ “không chồng mà chữa” thì bèn đổ tội do thầy Kính Tâm dụ dỗ. Thầy bị làng xã kêu đến giải bày nhưng không biết trả lời ra sao. Nếu thầy nói thật mình mang phận nữ nhi thì không thể tiếp tục tu hành, còn nếu không nói thì phải chịu tội bị đánh đập tàn nhẫn. Oan khiên giết chồng chưa giải quyết xong thì vụ việc này còn nặng nề hơn trước. Nếu nói sự thật thì được vô tội nhưng Thị Mầu sẽ bị chịu tội vu oan và bản thân thầy cũng không thể tiếp tục tu. Vậy là cuối cùng thầy đành chấp nhận tội lỗi về mình và phải chịu bị mọi người sĩ nhục, đánh đập. Thầy trụ trì thấy đệ tử bị đánh nhiều quá nên thương xót, van nài, năn nỉ làng cho nộp tiền bồi thường.
Tuy thương đệ tử nhưng vì sợ ô danh cửa Thiền môn nên thầy trụ trì cho Kính Tâm ra ở cổng Tam Quan, không cho thầy được ở trong chùa nữa. Rồi thời gian lặng lẽ trôi qua, sau 9 tháng 10 ngày đứa bé ra đời là một bé trai bụ bẫm. Gia đình phú ông bắt Thị Mầu phải đem đứa bé giao cho cha nó là thầy Kính Tâm. Đang lúc lạy Phật sám hối, nghe tiếng trẻ thơ kêu khóc thầy vội ra xem thì thấy đứa bé, bèn ẵm vào chùa vì không còn cách nào khác.
Dư luận bên ngoài lại càng bàn tán xôn xao, nếu không phải là con mình thì thầy nuôi đứa bé đó làm gì? Mỗi ngày trôi qua, ngày nào thầy cũng đi hết đầu làng đến cuối xóm để xin sữa cho đứa bé, chịu không biết bao nhiêu tiếng đời dèm pha, chỉ trích, mắng nhiếc. Chúng ta thấy, nỗi oan ức quá nhục nhã ê chề nhưng thầy Kính Tâm vẫn chấp nhận nhịn chịu. Bình thường ta có thể chịu nhục một hai ngày, nhưng chịu nhục những mấy năm trời với bao nhiêu lời mắng chửi thì quả thật không thể tưởng tượng nổi.
Sau ba bốn năm ròng rã với nỗi oan khiên không thể giãi bày nhưng thầy Kính Tâm vẫn nuôi đứa bé ngày một khôn lớn. Cậu bé giờ đây là một chú tiểu với ba vá trên đầu, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Cuộc hành trình giả dạng nam nhi xuất gia tu hành cũng đã sắp đến ngày viên mãn. Trước khi an nhiên, tự tại ra đi khi duyên trần sắp hết, thầy Kính Tâm viết một bức tâm thư giao cho cậu bé và dặn dò chú đưa bức thư cho cha mẹ mình rồi vui vẻ ra đi.
Đứa bé nhớ lời cha dặn vội chùi nước mắt đến gặp sư ông báo tin cha chú đã qua đời. Khi chuẩn bị làm lễ nhập quan mọi người mới té ngửa ra thầy Kính Tâm là một người nữ. Tin tức nhanh chóng lan truyền, cả làng người già trẻ nhỏ tìm đến chùa rất đông như những ngày lễ hội. Nỗi oan tình bấy lâu nay đã được tỏ bày khi lá thư đến tay cha mẹ nàng. Ai nấy đều biết nàng không phải là gái giết chồng và cũng không phải đã trốn nhà theo trai. Hai mối nghi ngờ nơi quê nhà nay được sáng tỏ, Thiện Sĩ hay tin vội theo cha mẹ vợ đến chùa Vân Tự làm lễ tang cho người vợ năm xưa.
Lúc bấy giờ, ai nấy cũng đều xuýt xoa khen ngợi hạnh nhẫn nhục, chịu đựng của nàng cùng tấm lòng từ bi vô hạn. Thầy trụ trì đã cung thỉnh chư vị Hoà thượng đến làm lễ giải oan và phú ông khi biết mọi chuyện đã phát tâm lo mọi chi phí và đứng ra xin lỗi, tạ lễ trước mặt mọi người. Giữa lúc cử hành lễ giải oan, một đám mây ngũ sắc xuất hiện trên bầu trời cùng một âm thanh làm chấn động cả đoàn người. Nàng Thị Kính đã tu hành đắc đạo nay hết duyên trần nên trở về cội gốc. Chàng Thiện Sĩ sau khi chôn cất vợ xong cũng xin ở lại chùa tu đến hết cuộc đời. Dân gian từ đó nhắc đến câu chuyện đã quen gọi nàng là Quan Âm Thị Kính.
Ngày xưa, trong thời đại phong kiến người phụ nữ phải chịu luật Tam tòng, khi chưa chồng thì thờ cha, khí có chồng thì thờ chồng, khi chồng chết thì thờ con, ngoài ra còn phải công-dung-ngôn-hạnh. Thường người thế gian gái lớn lên thì phải có chồng, trai lớn lên thì phải có vợ để phát triển và duy trì giống nòi nhân loại, có con để nối dõi Tông đường. Thị Kính đã có người chồng gia giáo, giàu có nhưng vì một phút sơ ý mà phải chịu tiếng hàm oan, mang tiếng giết chồng. Nếu là người khác chắc họ đã phải mượn chai thuốc độc để kết liễu đời mình. Vì nhân duyên nhiều đời hành Bồ tát đạo chưa được viên mãn nên Thị Kính tiếp tục con đường đang đi và đã đi để báo ân Phật tổ, ân cha mẹ, ân pháp sư và ân tất cả chúng sinh.
Xuất gia là con đường thiêng liêng, cao cả có thể giúp cho mọi người vượt qua nỗi khổ, niềm đau mà tiến lên con đường Phật đạo. Lần thứ nhất Thị Kính chịu oan vì một phút sơ ý, sự nhẫn chịu này nằm trong tình thế bắt buộc chứ không phải thật là kham nhẫn. Lần thứ hai khi giả thân nam xuất gia làm Tăng mà phải chịu tiếng dụ dỗ gái lành, chịu nỗi oan ức, bị người mắng chửi, đánh đập nhưng nàng vẫn tiếp tục nhẫn chịu. Lần nhẫn chịu thứ hai này cũng chưa phải thật là kham nhẫn vì còn nằm trong sự chọn lựa. Nàng chấp nhận chịu oan vì muốn giữ kín thân phận để được tiếp tục tu hành và để tránh cho Thị Mầu phải mang tiếng xấu “không chồng mà có chữa”.
Đến lần thứ ba sau khi Thị Mầu sinh con rồi đem bỏ trước cổng chùa, nếu không phải là cha thì tại sao nàng lại nhận nuôi? Chính việc này đã khiến cho thầy trụ trì và mọi người tin chắc thầy Kính Tâm đã dan díu với Thị Mầu và là cha ruột của đứa bé. Nhiều người oán ghét, chửi bới om sòm vì nghĩ thầy là một thầy tu vô liêm sĩ, nhưng cũng có người thương tình cho thầy chút sữa nuôi đứa bé qua ngày.
Tuy oan khiên đến như thế nhưng thầy Kính Tâm mỗi ngày vẫn công phu đều đặn, sáng trưa chiều tối trong mọi thời, mọi lúc, mọi nơi. Ai nghĩ tốt xấu, đúng sai hay dèm pha, chỉ trích thì cũng là chuyện của họ. Thầy vẫn nuôi đứa bé không phải con mình cho đến tận gần 5 năm trời. Dù quá khứ, dĩ vãng vẫn còn đó nhưng việc gì cần làm đã làm xong nên Bồ tát biểu hiện thân bệnh rồi an nhiên, tự tại ra đi.
Lần an nhẫn thứ ba này Bồ tát đã cứu được đứa bé dù đó không phải là con ruột của mình. Người xưa có câu “dẫu xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”. Quả thật, dù có xây mười ngôi chùa đi nữa cũng không bằng làm phúc cứu cho một người. Sự ra đi của Thị Kính đã đánh tan bao nhiêu oán hờn từ xưa nay, người ở lại cảm thấy vô cùng ân hận vì đã xúc phạm đến vị Bồ tát mà không hay, không biết.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy lòng từ bi của Bồ tát quá lớn lao. Lòng từ bi đó được trọn vẹn bởi sức kham nhẫn tột cùng. Chúng ta thấy, nếu là một người nữ bình thường chắc phải tự tử chết để được yên thân, nhưng nàng Thị Kính vẫn kham nhẫn nhịn chịu để được sống và tiếp tục tu hành. Trong ba lần kham nhẫn, hai lần đầu vì có sự bắt buộc nên đành chịu; đến lần thứ ba nàng kham nhẫn vì lòng tư bi thương xót, muốn cứu mạng đứa bé mà quên đi bao tủi nhục, ưu phiền.
Như vậy, ai có lòng từ bi và sự kham nhẫn nhờ biết quán chiếu cuộc đời là một dòng chuyển biến của khổ đau và hạnh phúc tạm bợ sẽ có ngày thành tựu viên mãn công hạnh của Bồ tát. Nói tóm lại, muốn thực hiện viên mãn công hạnh Bồ tát thì phải có giới đức, có tấm lòng từ bi rộng lớn, có trí tuệ mới biết rõ bản chất của các pháp là không thật và sự kham nhẫn chịu đựng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Trong kinh A-hàm có nói người nữ có 5 chướng nên không thể thành Phật. Vậy tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại hiện thân một người nữ? Thật ra, Bồ tát Quán Thế Âm là hiện thân của người biết giữ giới đức, có tấm lòng từ bi bao la rộng lớn, có trí tuệ và biết lắng nghe. Bồ tát hiện thân người nữ để nói lên tình thương bao la rộng lớn mà trong các thứ tình không gì thiêng liêng, cao cả như tình mẫu tử, tình mẹ thương yêu đứa con duy nhất của mình.
Người mẹ dù bận việc gì nhưng khi nghe tiếng con khóc liền buông bỏ tất cả mà vội vàng chạy lại vỗ về con. Bồ tát Quán Thế Âm cũng lại như thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu nhưng một khi nghe tiếng chúng sinh kêu cứu thì liền hiện thân đến giúp đỡ, sẻ chia. Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm tay mặt cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm nên không bao giờ bị gió cuốn gãy. Nếu cứng quá thì dễ gãy, còn mềm quá thì không có sức chịu đựng lâu dài.
Hạnh kham nhẫn, nhịn chịu là khéo tuỳ thuận chúng sinh để hướng họ quay về với Chánh pháp. Người nhẫn nhục mới trông qua thấy rất yếu hèn nhưng kỳ thật họ có sức mạnh phi thường vì đã tự chiến thắng được tình cảm và phản ứng của bản năng. Bị dèm pha, chửi mắng nặng nề nhưng nàng Thị Kính không giận; bị vu oan giá hoạ nhưng nàng vẫn bình tĩnh, an nhiên. Vậy nàng không phải Bồ tát là gì?
Nước cam lồ là thứ nước trong, mát và ngọt dịu phải hứng ngoài sương mới có được. Khi chúng ta đang bị nóng bức, khô khan mà được uống một giọt nước cam lồ sẽ thấy ngọt ngào, mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho tâm trong sạch và lòng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sinh bị lửa phiền não tham-sân-si làm nóng bức thì Bồ tát sẽ dùng nước từ bi dập tắt và đem lại sự mát mẻ, an lành.
Từ bi là lòng thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ; lòng thương chân thật, bình đẳng, thấy người khổ liền giúp không có sự mong cầu. Bởi tính chất quí báu vô thượng của nước cam lồ nên phải được đựng trong bình thanh tịnh. Bình thanh tịnh là tượng trưng cho ba nghiệp trong sạch, tức tâm không còn phiền não tham-sân-si. Chữ cam là ngọt, lồ là sương. Sương mù đọng trên lá cây. Nước sương trong sạch, dịu ngọt gọi là nước cam lồ. Nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi rộng lớn không có sự phân biệt. Tâm ấy trong sạch, dịu ngọt như nước cam lồ. Vì vậy, nước từ bi rưới tới đâu thì lửa phiền não tắt ngụm tới đó.
Ngọn lửa thù hằn, oán giận của chúng ta cháy hừng hực nên chỉ có nước từ bi mới đủ sức dập tắt được. Chúng ta muốn hết sân si, nóng giận thì phải có lòng từ bi nên nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi rưới tắt lửa sân hận. Khi ai gặp bất hạnh, khổ đau, người có lòng từ bi sẽ tìm cách giúp đỡ, khuyên nhủ, động viên họ qua cơn hoạn nạn. Nước cam lồ là tượng trưng cho tâm thanh tịnh, sáng suốt. Nếu muốn đem rưới cho mọi người được mát mẻ thì phải nhờ cành dương liễu là sự kham nhẫn, chịu đựng mà không có ý niệm tốt xấu.
Như vậy, sự kham nhẫn, nhịn chịu khi gặp nghịch cảnh, khó khăn là luôn tùy thuận, nhẫn nại, không chống đối hay than phiền. Do đó, hình ảnh cành dương liễu là nói lên sự chịu đựng trong an nhiên, tự tại chớ không phải gượng ép. Vì tâm an ổn, nhẹ nhàng, không xao động mới có thể đem nước cam lồ hay lòng từ bi chan rải đến tất cả mọi người.
Chúng ta thấy, rõ ràng từ bi và nhẫn nhục song hành bên nhau thì làm việc gì cũng dễ thành tựu. Có từ bi mà thiếu nhẫn nhục, hay ngược lại có nhẫn nhục mà thiếu từ bi thì cũng không được. Cho nên, trong kinh đã nói Bồ tát cầm cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp cả nhân gian. Qua đó chúng ta thấy hình tượng Bồ tát cầm cành dương liễu rải nước cam lồ lên tất cả mọi người là đem lòng từ bi chan rải cho tất cả chúng sinh. Nhờ có sức mạnh của lòng từ bi mà Bồ tát đã chuyển hoá được lòng sân hận do tập khí nhiều đời của con người.
Cho nên, muốn thực hiện lòng từ bi điều kiện tiên quyết là ba nghiệp phải thanh tịnh. Người có tâm từ bi rộng lớn muốn cứu giúp chúng sinh nếu không có sức kham nhẫn, chịu đựng thì sự cứu độ khó được viên mãn. Do đó, muốn đi vào đời chia vui sớt khổ, giúp đỡ thế nhân phải có cành dương liễu rồi về sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sinh.
Câu chuyện Quán Âm Thị Kính đã cho ta thấy muốn tu hành viên mãn ngoài việc giữ giới đức trọn vẹn còn phải thể hiện lòng từ bi và thực hiện hạnh kham nhẫn, chịu đựng. Vậy chúng ta tu đều phải học hạnh kham nhẫn và có lòng từ bi. Nhẫn không có nghĩa là gồng mình gánh chịu mà là dùng trí tuệ để thấy biết đúng như thật, buông xả mọi hơn thua, tốt xấu, phải quấy với người mà không phiền muộn, khổ đau.
Bình tĩnh thản nhiên với sự vu oan giá họa
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh. Chỉ trong vòng vài năm mà Phật đã độ được vô số người. Ngoại đạo thấy nhiều người xuất gia theo Phật, các tín thí cúng dường Phật và Tăng đoàn làm họ thiệt thòi về quyền lợi, mất sự cung kính và lợi dưỡng thì tìm cách nói xấu, bôi nhọ và tung ra những tin đồn thất thiệt nhằm hạ uy tín và phẩm chất của Phật cùng Tăng đoàn.
Một số ngoại đạo thấy không có kết quả nên bắt đầu lập mưu kế khác, chúng xúi giục một cô gái ngoan đạo khá xinh đẹp thường xuyên lui tới Tịnh xá Kỳ Viên để nghe pháp và làm quen với các Phật tử để mọi người biết mặt. Cô ta thường đi về hướng Tịnh xá mỗi khi chiều tối để tạo sự chú ý, cứ như vậy kéo dài trong nhiều tháng. Sau cô lấy rơm độn vào bụng từ nhỏ đến to dần để chứng minh cho mọi người biết việc mình đang có thai.
Cho đến một hôm cô dùng cái gáo bằng gỗ độn vào bụng để bụng săn chắc và to lớn hơn rồi dùng dây thắt ngang lưng, mặc áo bầu dành cho người có thai đi tới Tịnh xá Kỳ Viên trong lúc Phật đang thuyết pháp. Cô đi nhanh đến với vẻ mặt giận dữ trước Phật rồi dùng tay chỉ vào cái bụng mà nói thật lớn: “Này sa môn Cồ Đàm, ông chuyên sử dụng lời nói đạo đức để lừa dối thiên hạ, ông đã dùng lời ngon ngọt dụ dỗ tôi và chiếm đoạt tôi. Tôi bây giờ bụng mang dạ chữa, ông phải có trách nhiệm lo cho tôi và đứa con trong bụng chứ? Trời ơi, mọi người hãy làm chứng cho tôi, có ai ăn ở thất nhơn ác đức như sa môn Cồ Đàm không?”
Nói xong, cô giả vờ khóc lóc rất thảm thiết, ai thấy vậy cũng không khỏi bàng hoàng. Đức Phật bình tĩnh lắng nghe lời cô nói từ đầu đến cuối rồi ôn tồn trả lời: “Này cô gái, những gì cô vừa nói chỉ có tôi và cô biết được sự thật như thế nào.” Trước sự vu cáo như thế mà Phật vẫn an nhiên, bình thản khiến cô ta bắt đầu run sợ rồi quýnh quáng quờ quạng cái bụng và vấp ngã xuống đất. Sợi dây buột đứt ra và cái gáo bị văng ra ngoài, cả bốn chúng đều ồ lên một tiếng khiến cô quá xấu hổ, vội vàng chạy đi mất.
Do dính mắc vào quyền lợi và bị giảm bớt sự cung kính của nhiều người nên ngoại đạo lên phương án và kế hoạch làm hạ uy tín của Phật. Nhưng bằng sự bình tĩnh và sáng suốt của một người đã làm chủ được thân tâm nên đức Phật an nhiên, tự tại chứng minh cho đời sự trong sạch của mình. Người ngoại đạo do tu tập chưa tới nên sự hiềm hận và ganh ghét phát khởi mà tìm cách huỷ hoại Phật pháp, những người như vậy họ đáng thương hơn đáng trách. Kẻ làm ác hại người chắc chắn sẽ bị luật nhân quả trừng trị khi đủ nhân duyên. Ngoại đạo không đủ sức ra tay nên phải nhờ một người phụ nữ chân yếu tay mềm đi bôi xấu Phật, nhưng chính sự yếu đuối và giả dối của cô làm cô biết xấu hổ mà bỏ chạy, bằng không hậu quả xảy ra sẽ đến cỡ nào.
Vào một lần khác khi Phật đi khất thực trong làng Bà-la-môn nọ, một Bà-la-môn vì ganh ghét, tật đố nên cứ đi theo sau và kêu tên chửi Phật. Phật vẫn cứ làm thinh, vẫn chậm rãi bước đi trong tự tại, bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Ông ấy tức quá chạy lên phía trước chặn đường Phật lại hỏi: “Cồ Đàm, ông có điếc không, tại sao tôi chửi mà ông vẫn làm thinh?” Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại: “Giả sử trong nhà ông có đám giỗ và ông mời khách đến dự. Khi khách ra về ông đem quà biếu tặng mà họ không nhận thì quà ấy thuộc về ai?” “Tôi tặng mà họ không nhận thì quà ấy thuộc về tôi chớ về ai?” “Cũng vậy, ông chửi Ta từ sáng sớm đến giờ Ta đâu có nhận nên trong lòng Ta vẫn bình yên, hạnh phúc.”
Chúng ta thấy, Phật không gồng mình mím môi nhẫn chịu mà bình tĩnh, an nhiên vì Ngài dùng trí tuệ để soi sáng nên biết người đó đang ôm ấp nỗi khổ, niềm đau mới nóng nảy chửi mắng như thế. Họ thật đáng thương hơn đáng ghét. Chúng ta ngày nay tu mà giả sử có ai nói “Ông đó tu hú chớ tu cái gì” mà mình thật tu thì sẽ không nổi giận, mà đã nổi giận thì đó là tu hú chớ còn gì nữa. Song, cái bệnh chung của chúng ta là ưa thọ nhận nên ai động tới thì mình dính mắc liền mà quyết ăn thua đủ, từ đó sanh ra phiền não mà phải chịu khổ đau.
Đức Phật đã dạy ai còn thấy hơn, thấy thua là còn khổ. Hơn người thì thêm oán hờn, thua người thì đêm trằn trọc, không ngon giấc. Chỉ khi nào ta bỏ được hơn thua thì tâm ta mới bình yên, an ổn, nhẹ nhàng. Vậy trong gia đình cho tới ngoài xã hội chúng ta phải sống và tu như thế nào để được tốt đẹp, trọn vẹn đây? Trong gia đình khi chồng lớn tiếng thì vợ bớt lời, phải nhẫn nhịn nhường, chồng nói vợ nghe. Người ngoài ta còn phải nhẫn nhịn thì nói chi đến nhẫn nhịn người trong nhà. Chúng ta nhẫn nhịn được tức là mình đã tự chế ngự được sự nóng giận của bản thân.
Nhịn người lớn hơn hoặc bằng mình thì còn dễ, nhịn người nhỏ tuổi hơn mình mới thật là khó. Có những người nhỏ kém đức hạnh nên ăn nói thô lỗ, nhưng chẳng lẽ chúng ta lại đi cãi vã với họ sao? Cho nên, ta nhịn tất cả, lớn nhỏ gì cũng cần phải nhẫn nhịn thì tâm ta mới bình yên, không dậy sóng. Chúng ta nên từ bi nhẫn nhục không chỉ đối với người ngoài mà còn đối với người trong gia đình thì cuộc sống mới vuông tròn, tốt đẹp.
Nếu muốn trở thành một Phật tử chân chính thì ta phải có tâm từ bi, có đức nhẫn nhục và có lòng bao dung. Đã là Phật tử mà có ai động tới thì đều nổi giận, hoặc thấy người khổ mà không thương, không giúp thì có xứng đáng được gọi là Phật tử không? Chúng ta phải biết rằng, trên đường tu luôn gặp nhiều chướng duyên, mà chướng duyên tức là thắng duyên. Nếu không hiểu chúng ta sẽ nghĩ chẳng lẽ mình không có phước nên mới gặp chướng duyên, nghịch cảnh hoài.
Người tu hạnh nhẫn nhục mà đi đến đâu cũng được mọi người quý kính thì chưa thể thực hành hạnh nhẫn nhục. Ví như đức Phật nếu không có người mạ lị, chửi mắng, vu oan giá hoạ thì làm sao chúng ta thấy được đức tánh cao cả của Ngài. Nhờ có kẻ càn bướng dám mắng chửi Ngài chúng ta mới thấy được nhẫn lực phi thường của Phật. Chúng ta tu mà có người kính, có người chửi, có người khinh mà mình đều tự nhiên như không thì mới gọi là người chân thật tu hành.
Đa số Phật tử ngày nay cứ ngỡ tu là cúng kính, là làm phước mà không biết tu là xây dựng cho bản thân mình một tâm hạnh từ bi nhẫn nhục. Vì vậy, những trở ngại trên đường tu chúng tôi không gọi là trở ngại mà gọi là thắng duyên. Nhờ có người chửi mắng, phỉ báng chúng ta mới thực hành trọn vẹn hạnh nhẫn nhục, nếu không thì mình đâu biết đạo lực tu của mình đến đâu?
Quý Phật tử tu đừng sợ khó và sợ bị thử thách, bởi thử thách chính là cơ hội tốt để chúng ta thể hiện tinh thần tu hành của bản thân. Tu là có sức an nhẫn, có sức chịu đựng mọi thử thách chứ tu không phải để đón nhận mọi thứ an lành. Người tu cũng như người chèo thuyền đi ngược nước, ngược gió; nếu thả lơi thì thuyền sẽ trôi ra tới biển, nếu ra sức chèo thì thuyền mới đến tận nguồn, tận nơi chúng ta muốn. Người tu hành mà muốn gì được nấy thì còn gì gọi là tu.
Khi hiểu được ý nghĩa của sự nhẫn nhục thì chúng ta không còn than van trong việc tu hành sao gặp nhiều khó khăn quá. Vị nào tu mà gặp trở ngại thì nên vui mừng nói với huynh đệ “tôi thật là đại phước, tu gặp cả mười trở ngại và tôi đều vượt qua hết”. Vậy đó, nhờ có trở ngại chúng ta mới thành công, không có trở ngại thì làm sao thành công được. Cũng vậy, ta tu là để mỗi ngày được thanh tịnh, sáng suốt. Muốn được như vậy thì tất cả trở ngại chúng ta đều phải vượt qua và xem đó như trò chơi, không có gì đáng để bận tâm. Ta tu như vậy mới gọi là thật tu; còn tu mà sợ khổ, sợ khó, sợ bị trở ngại, mong được sung sướng thì đó không phải tu để được giác ngộ-giải thoát.
Đức Phật thường dạy: “Ta không có quyền ban phước giáng họa cho ai.” Nếu Phật có quyền ban phước giáng họa cho người thì chắc rằng Phật không dạy chúng ta phải nhẫn nhục, phải từ bi và tu nhân quả. Ta gây nhân tốt thì được quả tốt, gây nhân xấu thì chịu quả xấu. Nếu Phật cho được thì chúng ta đâu cần gieo nhân tốt làm chi, cứ lạy Phật thì Phật sẽ cho. Vậy Phật có cứu chúng ta không? Phật chỉ cho chúng ta một con đường vượt thoát mọi khổ đau, ai đi đúng đường thì an vui hạnh phúc, ai đi sai đường thì phiền muộn đau khổ.
Tóm lại, chúng ta tu Phật là phải mở rộng lòng từ bi và đức nhẫn nhục. Sự nhẫn nhục, từ bi đó phải từ sự tu sửa của chúng ta chớ không phải từ nơi đâu đem đến. Công phu có được chính do sự huân tập hàng ngày mà thành tựu. Vì vậy, chúng ta nên tập đức từ bi, nhẫn nhục trong từng giây phút trong cuộc sống để có đủ đạo lực khi gặp các chướng duyên. Ngày này, giờ này chúng ta thấy thua thiệt nhưng phước đức sẽ sâu dày ở nhiều đời, nhiều kiếp không bao giờ mất.
Không có một vị Phật nào ngẫu nhiên thành Phật mà các Ngài đều do tu hành mà đắc thành Chánh quả. Cũng vậy, không có vị Bồ-tát nào bỗng dưng thành Bồ-tát mà tất cả đều qua vô lượng kiếp tu hành, dấn thân vào đời để làm lợi ích cho chúng sinh. Nên vì vậy, là đệ tử Phật chúng ta phải cố gắng tu tập chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc mới xứng đáng với những lời Phật dạy.
Người tu hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm không phải chỉ người mới tu bị khảo đảo mà càng tu lâu thì sự khảo đảo càng nhiều. Người tu cũng giống như đứa học trò đi học, học cấp 1 thì bài học dễ, học cấp 2 thì bài học khó hơn một chút, tới học cấp 3 thì bài học lại càng khó hơn nữa và cứ như thế học càng cao chừng nào thì bài học càng khó chừng nấy. Do đó, ta đừng tưởng rằng tu cao rồi mọi việc xảy ra đều được như ý. Cho nên, ta tu lâu lâu thì cũng có người đến kiếm chuyện chửi mắng để xem thử mình còn sân giận hay không.
Nếu chúng ta còn giận thì phải thấy mình còn dở mà nỗ lực tiến tu nhiều hơn nữa để điều phục cơn giận của chính mình. Như vậy, chúng ta tu mà có cơ hội thử thách nhiều thì mới biết sức tu của mình có tiến hay không. Chính vì vậy, nói đến tu là nói đến sự kham nhẫn, chịu đựng trong mọi hoàn cảnh. Người tu mà không chịu nhẫn nhục thì đâu có giá trị thiết thực trong việc chuyển hoá phiền não tham-sân-si.
Tại sao chúng ta phải tu hạnh kham nhẫn, chịu đựng trong mọi hoàn cảnh? Phật nói thế gian chúng ta đang ở là Ta bà khổ, muốn sống trong cõi Ta bà phải có sức chịu đựng bền bỉ. Ta bà còn có nghĩa là kham nhẫn, “kham” là có thể chịu được, “nhẫn” là nhận chịu, kham nhẫn là sự nhịn chịu. Nỗi khổ, niềm đau ở cõi Ta bà chúng ta có thể chịu nổi chứ không phải là không chịu được, nếu chịu không được thì ta làm sao sống được. Bằng chứng là có một số người vì chịu không nỗi nên mới tự tử chết, còn ai đang sống tức là có sức nhẫn nhịn chịu nhiều hay ít mà thôi, có kham nhẫn mới sống được trong cõi Ta bà này.
Song, nhẫn ở đây không phải chỉ nhận chịu sự mắng chửi, vu oan, huỷ nhục hoặc cách thức đối xử tệ bạc của người đời mà nhẫn ở đây là nhịn chịu mọi trường hợp không như ý. Trong cuộc sống, người thế gian thường quan niệm nhẫn là khi người ta nói làm trái tai gai mắt, nói lời hung dữ, chửi mắng thì mình phải trân mình, gồng mình, mím môi lại để mà nhịn chịu. Nhẫn theo cách này thì có giới hạn vì còn sự đè nén bên trong, chúng ta có thể nhẫn lần thứ nhất, thứ hai, rồi đến lần thứ ba thì nhẫn không nổi nữa. Đến lúc không chịu nổi nữa thì nổi trận lôi đình rồi quyết ăn thua đủ với người đó.
Phật dạy chúng ta nhẫn không phải gồng mình nhịn chịu mà phải thấy lời nói như gió thoảng mây bay, nhờ có trí tuệ soi sáng nên thấy mọi việc trái ý nghịch lòng rất nhẹ nhàng, êm ái. Phật dạy người xấu ác hay mắng chửi, hãm hại người khác cũng giống như kẻ ngậm máu phun người tự làm dơ miệng mình. Cũng như người đứng ngược gió ném bụi, người đứng dưới gió hốt bụi ném thì gió sẽ đùa bụi trở lại phủ trên đầu, trên mặt người ném. Người bị ném thì bụi không bay tới nên họ chẳng hề gì. Như vậy, người nóng giận chửi mắng hay huỷ nhục người khác chưa hại được ai mà đã tự làm cho mình khổ đau, khó chịu.
Hoặc đang khi trời nóng bức mà chúng ta phải làm việc ngoài trời, mồ hôi ra nhễ nhại nhưng mình vẫn vui, không bực bội, khó chịu, không bỏ dỡ công việc thì cũng là sự nhẫn chịu. Nhẫn không phải chỉ là sự nhẫn nhịn khi bị người chửi mắng, lấn hiếp mà chúng ta còn phải nhẫn nhịn với hoàn cảnh khắc nghiệt, nhẫn với bản thân trong mọi điều kiện. Thân nhọc nhằn, nóng bức, đói rét cũng phải kham chịu, đó là nhẫn ở tâm mình và nhẫn ở thân mình.
Một lần khác Phật cũng đi giáo hóa ở một làng Bà-la-môn nọ, số người tu theo Bà-la-môn bỏ tu theo Phật ngày càng đông. Một thầy Bà-la-môn quá tức giận nên sinh tâm thù ghét, oán hờn Phật. Nhân lúc Phật đi khất thực ngang qua làng, ông nhân cơ hội trả thù bèn đi theo sau Phật chửi nhưng Phật vẫn ung dung, bình thản bước đi. Đến ngã tư đường Phật lấy tọa cụ trải trên đất rồi ngồi kiết già, thầy Bà-la-môn chạy lại trước Phật hỏi: “Cồ Đàm, ông thua tôi chưa?” Phật bèn nói kệ:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Phật dạy, người tranh giành để mình được hơn kẻ khác thì người thua càng thêm oán giận, thù hằn mà tìm cách làm hại lại; kẻ thắng thì dương dương tự đắc, cứ nghĩ mình hay hơn người nên sinh tâm cống cao ngã mạn coi thường mọi người, làm tăng trưởng thêm sự sân hận. Cho nên, cả hai ý niệm hơn thua đều phải buông xả thì tinh thần mới được an ổn, thoải mái mà ngủ nghỉ. Chúng ta thấy, người giành hơn và kẻ thấy mình thua đều sẽ chuốc lấy khổ đau. Thế cho nên, chúng ta phải sáng suốt nhờ biết quán chiếu thường xuyên nên buông xả bỏ qua mà không buồn, không giận.
Trường hợp nếu ta là người tốt mà bị người khác chê bai, chỉ trích thì ta cũng hãy bình thản, an nhiên mĩm cười mà thôi. Chỉ có người bị chê mà vẫn tươi tỉnh, vui vẻ, ai nói sao cũng cười thì người đó mới trọn vẹn là tốt. Đó mới là chân thật nhẫn nhục, không phải sự gồng mình chịu đựng mà là dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật. Vậy tất cả người tu muốn cho tiến bộ, có kết quả tốt là phải có đức nhẫn nhục, kham chịu trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta thường xuyên thực tập quán tâm trong tâm sẽ giúp ta biết về tâm một cách vững vàng. Không ai biết tâm mình bằng chính mình, tâm mình nghĩ xấu nghĩ tốt mình đều biết cả. Mình có thể giấu diếm, qua mặt người khác nhưng mình không thể che giấu chính mình. Khi quán tâm chúng ta sẽ thấy tâm vô thường, luôn biến chuyển, đổi thay như một dòng nước chảy. Việc bị bôi xấu, bị mắng chửi, bêu rếu trước mặt nhiều người đều do sự tác động của nhân quả xấu chiêu cảm. Nhưng chúng ta tu là mục đích để chuyển nghiệp và hoá giải nghiệp nên mình không đổ thừa tại-bị-thì-là. Nếu không dám can đảm nhận chịu mọi thứ tốt xấu trong cuộc sống mà cứ mãi đổ thừa cho nghiệp rồi buông tay tới đâu thì tới, thì chúng ta không thể tu hành tiến bộ được.
Việc tìm cách bôi nhọ hay mắng chửi để hạ uy tín người khác mà không dám trực tiếp đối diện là tâm địa của những quá ích kỷ và sợ hãi nên phải viết kịch bản, phải dàn dựng đủ thứ. Người tu như chúng ta trong thời hiện tại có cần phải lên tiếng đính chính việc vu oan giá hoạ này để mang lại thanh danh cho bản thân mình không, hay chúng ta phải thực tập im lặng? Nếu chúng ta đã quyết tâm tu học thì việc bôi xấu hay mắng chửi đó đúng hay sai nếu có ai hỏi thì mình trả lời còn không thì thôi, ta không cần phải đính chính.
Sở dĩ đức Phật nhiều lần bị huỷ nhục, bị mắng chửi nhưng Ngài vẫn im lặng, không đính chính là vì Ngài đã an nhiên, tự tại, làm chủ được bản thân. Chúng ta thấy, những gì đang diễn ra và đang xảy ra trước mắt đều là vô thường, thoáng qua nhanh. Người đi bôi xấu hay mắng chửi ta là do lòng tham lam, ích kỷ, do tâm ganh ghét, tật đố sai sử. Người đó đang lạc đường nên rất bơ vơ, đau khổ và sợ hãi nên thường sống trong đau khổ lầm mê.
Sự kham nhẫn còn cần phải thực hành đối với thời tiết thất thường và sự tấn công của các loài sinh vật. Thời tiết thay đổi với sự nóng lên của trái đất, nước biển ngày càng dâng cao, con người phá huỷ rừng khai thác gỗ ngày càng nhiều nên nơi nào nóng thì nóng hơn, nơi nào lạnh thì lạnh hơn vì mất cân bằng âm dương. Thời tiết thay đổi thất thường làm ảnh hưởng lớn đến đời sống loài người, sự trồng trọt các loại hoa màu trở nên khó khăn, hao hụt, tốn kém nhiều và bệnh tật ngày càng phát sinh thêm.
Thời tiết nóng bức làm cho con người dễ trở nên cáu gắt, bực tức và không kìm chế được cơn giận. Thời tiết quá lạnh thì làm con người dễ trở nên trầm cảm. Chúng ta sống trong môi trường lạnh, môi trường mát mẻ hay môi trường nóng bức đều do sự chiêu cảm của nghiệp báo. Người có thói quen nóng nảy hay bực bội, khó chịu thì sống trong môi trường nóng bức, ngột ngạt, chật chội. Người có lòng từ bi, biết kham nhẫn, biết tha thứ, biết bao dung và độ lượng thì sinh ra trong môi trường mát mẻ, thời tiết thuận lợi.
Cho nên, khi gặp hoàn cảnh khắc nghiệt chúng ta không nên ngồi đó mà than thân trách phận hay đổ thừa tại-bị-thì-là. Chúng ta hãy biết nhìn lại chính mình, nếu nóng quá thì mặc đồ mát, còn lạnh quá thì mặc áo ấm. Ta biết kham nhẫn với thời tiết là đã biết cách điều hoà trong cuộc sống vì luôn giữ cho tâm mình an ổn để làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và xã hội. Chúng ta hãy thực tập kham nhẫn, nhịn chịu trong mọi hoàn cảnh và sống với tâm tỉnh giác thì việc gì cũng tốt đẹp hết.
Đức Phật không thấy ai là kẻ thù
Uy tín và danh tiếng của đức Phật ngày càng vang xa, nhất là thành Xá Vệ. Mọi người đến Tịnh xá Kỳ Viên cúng dường Phật cùng Tăng đoàn, đồng thời nghe Phật giảng dạy giáo lý nhân quả, đạo làm người và giáo lý giác ngộ-giải thoát ngày càng đông. Những người ngoại đạo thấy vậy nên càng bực tức hơn nữa vì quyền lợi của họ ngày càng sa sút, các vị trước đây cúng dường họ bây giờ đã chuyển sang cúng dường và phát tâm tu học theo lời Phật dạy.
Đức Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người vu oan hủy nhục trước mặt vua quan, thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt đại chúng khi đang thuyết pháp Ngài vẫn an nhiên, không lời đính chính, minh oan cho mình. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến thế nào mà trong lúc cô đang diễn kịch thì cái bụng bầu giả rớt xuống, cô quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy. Chuyện đó xảy ra không lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và độc ác, dã man hơn nữa làm rúng động lòng dân cả nước. Bọn người đê tiện, thấp hèn muốn hại Phật lần này đã tung một chiêu đòn quyết định. Chúng muốn tẩy chay cả giáo đoàn đức Phật nên lập mưu bày kế tinh vi hơn gấp ngàn lần.
Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái trẻ đẹp rồi giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở và lên trình báo với vua quan cô gái ngoan đạo của họ thời gian gần đây hay đến Tịnh xá nghe pháp đã bị mất tích. Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo ấy. Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng, đâu còn ai nghi ngờ gì nữa vì mọi người đều tai nghe mắt thấy không thể chối cãi được. Vậy ai là thủ phạm đã giết cô gái và chôn ở chỗ Phật? Phật à? Không thể nào có chuyện đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.
Bọn người xấu lúc này lợi dụng thời cơ đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Sự việc xảy ra quá bất ngờ làm cho vua Ba Tư Nặc không biết giải quyết ra sao. Ông biết rõ đức Phật trước kia là thái tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ tuyệt đẹp mà vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản. Nhà vua tin chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét tật đố mà làm nên chuyện tày trời để vu oan hủy nhục đức Phật.
Cuộc điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc có mặt khắp nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng chờ đợi kết quả cuối cùng. Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao, tuyên truyền, tung tin việc cô gái do sa môn Cồ Đàm thất nhơn ác đức hãm hiếp rồi giết chết, chôn xác ngay Tịnh xá. Lúc này, những người hiểu biết đạo chỉ biết trông chờ kết quả điều tra để minh oan cho Phật. Người không hiểu đạo thì nguyền rủa đức Phật sao mà quá tàn ác, nhẫn tâm. Kẻ bêu rếu, người chửi bới làm náo loạn khắp cả thành Xá Vệ.
Lệnh khẩn cấp được ban hành giới nghiêm 24/24, toàn thể chư Tăng đều phải ở yên một chỗ, không ai được rời khỏi trú xứ cho đến khi nào điều tra được vụ án, nếu ai vi phạm sẽ bị xử trảm ngay. Một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua nhưng vẫn không có tin tức gì sáng sủa. Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng, lo âu về sự thật quá phũ phàng. Từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng tày trời như thế. Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo gió thì gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban chuyên án đã tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn.
Ai hay tin cũng thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã qua cơn đại nạn. Số là bọn nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn xấu ác, do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm cổ. Thế là cả bọn đều được đưa về cung chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ quá nên đã khai hết việc một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy chay giáo đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền vào hầm lửa thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh xét xử sau.
Chuyện xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực. Phật an nhiên, tự tại, bất động trước mọi biến động của cuộc đời nên ngày hôm nay ta thờ Phật, cung kính lễ lạy Phật vì nhân cách siêu phàm vượt Thánh của Ngài mà cố gắng bắt chước tu tập để vượt qua cạm bẫy cuộc đời trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui.
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để cho họ có cơ hội cải tà quy chánh. Thứ đến, Ngài tùy căn cơ chúng sinh mà nói pháp thích hợp để giúp họ chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Bất kể là thành phần nào trong xã hội khi gặp Phật đều được lợi lạc, an vui.
Chính việc làm và hành động cao thượng của Phật đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời, giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà sống bình yên, hạnh phúc. Hương thơm của các loài hoa có ngào ngạt cách mấy cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh luôn bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ, người hiểu biết thì ít mà kẻ thấy biết sai lầm thì lại quá nhiều. Xã hội ngày càng thêm phức tạp về mặt quản lý, giáo dục tệ nạn xã hội và cách thức chuyển hóa tệ nạn để con người ý thức được cuộc sống này cần phải có tình thương yêu nhân loại mới có thể cùng nhau vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Học chuyện xưa để ta thấy con người vì si mê chấp ngã cho mình là trung tâm của vũ trụ, là đấng tối cao, là đấng bề trên nên có quyền ăn trên ngồi trước mà hưởng thụ lạc thú trần gian. Chính vì những sai lầm đáng tiếc này mà từ khi con người có mặt trong cuộc đời đã tương tàn, tương sát lẫn nhau để tranh danh đoạt lợi. Lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu theo quy luật vay trả, trả vay. Vì bảo tồn mạng sống cho mình mà ta đành lòng giết hại lẫn nhau.
Thế giới loài người từ khi có mặt trong bầu vũ trụ bao la này vì miếng ăn, sự sống mà chiến tranh chẳng khi nào thôi dứt do không giữ được 5 Giới của nhà Phật. Con người càng phát triển và tiến bộ nhiều chừng nào thì thiên nhiên, tài nguyên, cho đến các loài vật bị hủy diệt một cách tàn độc, dã man đến đó vì chén cơm manh áo loài người. Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh còn đang lặn hụp, đắm chìm trong biển khổ sông mê nên Ngài từ bi thương xót chế ra 5 Giới nhằm giúp con người giảm bớt tệ nạn xã hội mà cùng yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần chia vui sớt khổ.
_ Ta không giết hại, không ăn thịt chúng sinh, không làm khổ một ai thì thế giới này cùng vui sống hòa hợp với nhau và hòa bình sẽ có mặt khắp mọi nơi.
_ Ta không gian tham, trộm cướp, lường gạt của ai mà còn hay san sẻ, giúp đỡ mọi người khi cần thiết với tinh thần từ bi và trí tuệ thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.
_ Ta vui vẻ chung thủy sống một vợ một chồng, luôn giữ lòng thành thật, biết cảm thông và tha thứ cho nhau; biết gánh vác, siêng năng làm việc hỗ trợ lẫn nhau; biết nuôi dạy con cái đúng cách và biết cung kính hiếu dưỡng với ông bà cha mẹ thì cõi cực lạc sẽ hiện tiền.
_ Ta luôn nói lời thành thật, không nói dối gạt nhau; luôn nói lời nhẹ nhàng, dễ nghe; không nói lời hằn học, mắng chửi, móc họng, mạt sát hay lời ngon tiếng ngọt để dụ dỗ người nhẹ dạ, cả tin và lời gian dối dua nịnh. Hãy nên nói lời yêu thương để ta và người cùng biết cảm thông, tha thứ, khoan dung và độ lượng.
_ Ta không dùng các chất say sưa có tác dụng gây nghiện như xì ke, ma túy, rượu chè be bét làm tổn hại thần kinh dẫn đến quả si mê, điên dại đời này, đời sau. Ai giữ được 5 Giới nhà Phật thì sống một đời an ổn và bình yên, hạnh phúc mà không làm đau khổ cho người và vật.
Trong thời Phật còn tại thế, một vị tỳ kheo đem lời ác hủy nhục hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Phật biết được nguyên nhân sâu xa của nó nên đã khuyên dạy, ngăn cản nhiều lần mà vị tỳ kheo ấy vẫn không nghe. Do nhân phỉ báng, hủy nhục hai vị Thánh tăng nên một thời gian sau vị tỳ kheo ấy bị bệnh ung nhọt đầy mình hành hạ đau nhức, khốn khổ và cuối cùng bị chết.
Phật biết vị tỳ kheo này sau khi chết bị đọa địa ngục chịu khổ báo vô số kiếp nên mới họp chúng mà chỉ dạy rằng: “Người si mê chết vì phát ngôn bừa bãi giống như búa bén để trong miệng, thế nên các thầy phải nên thận trọng trong lời nói. Nói đúng chỗ, đúng nơi, đúng sự thật và đúng đối tượng thì họa may mới tránh được những lỗi lầm đáng tiếc. Lời nói ác độc hại hơn lửa dữ, hơn rắn độc, làm cho nhân loại giết hại lẫn nhau không thương tiếc bởi sự nóng giận, thù hằn mà ra”.
Vì sao chúng ta hay nóng giận để rồi cãi vã, đánh đập nhau đến nỗi vợ chồng ly tán, cha con xa lìa vì những chuyện vô cớ đâu đâu. Chúng ta không chịu mở mắt ra mà quán xét cho kỹ trong khi lời nói như gió thoảng qua tai. Ta tranh nhau từ lời ăn tiếng nói, từ miếng cơm manh áo mà vô tình làm khổ đau cho nhau.
Phật nói bài kinh này nhằm nhắc nhở các vị tỳ kheo hãy ý thức việc tu hành mà điều phục nhiếp tâm từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động. Ta phải nói như thế nào để gia đình, người thân, bè bạn cùng thấm nhuần lời Phật dạy mà cùng nhau yêu thương, nói lời hòa kính. Vị tỳ kheo đó có phước duyên ra đời gặp Phật, được xuất gia tu hành nhưng không tranh thủ thời gian để gạn lọc tâm tư mà cứ một bề chấp trước, bám víu vào những cái thấy biết sai lầm của mình nên vô tình phỉ báng bậc Thánh; được Phật khuyên răn rất nhiều lần nhưng vị đệ tử này vẫn một bề ngoan cố, do đó bị khổ báo ngay hiện đời chịu thân mình ghẻ lở, cuối cùng khi chết bị đọa vào địa ngục.
Việc tu hành của chúng ta cũng vậy, trước tiên ta phải nhiếp phục ý nghĩ, không cho nó âm ỉ sôi sục bên trong mà phát ra lời nói ác độc cùng lời nói hủy nhục. Nguyên nhân chính từ sự bực tức hay không hài lòng, vừa ý một việc gì đó nên ta mất bình tĩnh mà điên tiết nói những lời cuồng nộ.
Ngày xưa vẫn có những thầy tỳ kheo tu hành chểnh mãng như vậy và đã được Phật trực tiếp khuyên nhủ, chỉ dạy nhưng vẫn không chịu sửa đổi để rồi cuối cùng phải chịu quả báo sống khổ, chết đọa. Ngày nay cách thời Phật đã quá xa nên xảy ra việc đấu tranh kiên cường để tranh hơn tranh thua bảo vệ Tông môn Pháp phái. Ai cũng cho rằng Pháp mình cao còn Tông kia thấp nên dễ dàng chống đối, phỉ báng lẫn nhau.
Chúng ta không biết rằng lời Phật dạy là tùy bệnh cho thuốc, tùy theo căn cơ, trình độ và sở thích của mỗi người mà Phật hướng dẫn Pháp tu thích hợp. Sở dĩ ta nói lời nóng giận vì ta lầm chấp mình đúng, người sai. Ai không làm theo ý mình thì ta bực bội, tức tối rồi sinh ra thù hằn, ghét bỏ mà tìm cách hủy nhục lẫn nhau. Từ sự thấy biết sai lầm mà ta cố chấp, người trước nói thế nào thì người sau bắt chước làm vậy nên mới có sự chê bai, hủy nhục lẫn nhau mà vô tình phỉ báng lời Phật dạy.
Cho nên, sống ở đời chúng ta cần phải sáng suốt nhận định đúng sai mà làm chủ bản thân để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Lúc này, Phật đã được giải oan nhưng vẫn khuyên vua: “Đại vương! Do bị sai sử bởi tham lam, sân hận và si mê, ba thứ tâm độc này đã làm lu mờ bản tính thanh tịnh của con người. Xin đức vua hãy giảm nhẹ tội cho họ để họ có cơ hội được ăn năn hối cải và làm mới lại chính mình”. Vua càng cảm kích trước tấm lòng vô ngã vị tha của Phật, nhờ đó uy tín của Phật và Tăng đoàn ngày càng lan xa hơn, tín tâm của mọi người tu theo đạo Phật càng thêm vững chắc.
Tham lam, sân hận, si mê, ganh tị là ba thứ được chất chứa sau bao nhiêu kiếp của chúng sinh. Tham lam và dính mắc vào sự cung kính, lợi dưỡng nên ta không đành lòng chia sẻ quyền lợi cho người khác dẫn đến thù hằn, ghét bỏ. Chúng ta không chịu chia sẻ quyền lợi nên tâm từ bi bị thui chột, không chịu vui với quyền lợi người khác có được nên tâm hỷ của chúng ta không được rộng mở.
HỌC HẠNH KHAM NHẪN CỦA THIÊN NHIÊN KỲ DIỆU
Một trong các phương pháp thực tập sự kham nhẫn là học hạnh chịu đựng của đất. Đất có thể bao dung hết muôn loài vật trên thế gian này. Đất nuôi sống thiên nhiên, cỏ cây, hoa trái để nuôi dưỡng chúng sinh. Từ đất con người khai thác các loại tài nguyên khoáng sản để có điều kiện gia tăng sản xuất, nâng cao đời sống để nhân loại và muôn loài vật tồn tại.
Đất vốn chất phát, hiền lành và đôn hậu, thuần tuý. Chỉ cần chúng ta biết cách là có thể trồng lúa, trồng hoa màu, trồng cỏ hay trồng rừng để nuôi sống con người. Con người sống được nhờ có cây lúa, hoa màu. Con người tận hưởng màu xanh nhờ đồng cỏ bao la và hít thở không khí trong lành nhờ những cánh rừng bạt ngàn. Nhờ có đất đã nuôi dưỡng muôn loài vật nên sự sống được phát triển, tiếp nối nhau. Vậy mà chúng ta đã vô tình huỷ hoại sự mầu mỡ của đất, ta vứt bỏ đủ thứ rác rến vào đất, thải ra các chất độc hại dưới nhiều hình thức làm cho đất bị ô nhiễm nặng nề.
Mặc dù vậy, đất không bao giờ phản kháng lại mà vẫn an nhiên, bình thản đón nhận những chất độc hại đó và âm thầm chịu đựng trong suốt thời gian không có giới hạn. Đất vẫn giúp rừng cây xanh bạt ngàn, tươi tốt và con người có thức ăn trong lành. Chỉ vì lòng tham lam, ích kỷ của chính mình mà con người chỉ biết xâm hại đất và làm tổn hại đất. Vậy mà đất vẫn im lặng chịu đựng bền bỉ, lâu dài.
Khi chúng ta đã hiểu rõ được Phật pháp từ thấp tới cao thì đều biết tất cả đều dựa trên nền tảng của nhân quả. Hiểu rõ ý kinh thì sự trì tụng mới có được lợi ích thật sự và đời tu của chúng ta sẽ đi đúng theo lời Phật dạy; nếu không, chúng ta có thể rơi vào lầm lạc, mê tín và uổng phí cả một đời tu hành. Chúng ta là đệ tử Phật, ta tắm mình trong ánh hào quang của Phật và hào quang ấy là trí tuệ Phật tâm sáng suốt hằng chiếu soi muôn loài vật đã có sẵn ngay nơi thân mỗi người.
Đức Phật thường được các hàng đệ tử xưng tán là “Như Lai biết nghĩa, biết pháp, biết trình độ, biết thời cơ và biết chúng hội”. Sự thuyết pháp của Phật căn cứ vào ba yếu tố thời, xứ và vị – nghĩa là thời gian nói pháp, nơi chốn nói pháp và đối tượng nghe pháp. Vì vậy, Phật không nói pháp nào chỉ có ý nghĩa một chiều. Có khi Ngài nói pháp thấp cho hàng căn cơ kém; có lúc Ngài nói pháp vừa cho hàng trung căn; cũng có khi lại nói pháp cao, rốt ráo cho hàng căn cơ bậc thượng. Cho nên, nhiều khi trong kinh điển chúng ta thấy có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng kỳ thực đó là do tùy duyên hóa độ hay còn gọi là tuỳ bệnh cho thuốc.
Nếu chúng ta đã chấp ngón tay là mặt trăng thì sẽ ỷ lại vào tha lực và tin tưởng vào thần quyền, rồi vô tình ỷ lại và bài bác lý nhân quả. Như vậy, chúng ta khỏi cần tụng kinh, sám hối, niệm Phật-Bồ tát, tọa Thiền hay tu Bát quan trai mà chỉ cần một lòng cầu Phật-Bồ tát và chờ đến lúc gần chết sẽ có các Ngài đến cứu độ, rước đi. Như vậy thì tinh thần nhân quả ai ăn nấy no, ai uống thì hết khát nên nhân nào quả nấy cũng không có ý nghĩa.
Đức Phật ra đời đã từng tuyên bố: “Ta chỉ là vị thầy dẫn đường, Ta không có quyền ban phước giáng hoạ”. Nếu chúng ta không cải ác làm lành, không dứt trừ các nghiệp ác nơi thân-miệng-ý thì cũng không có vị Phật-Bồ tát nào cứu vớt cho mình ra khỏi biển khổ sông mê. Cũng như thế, chư Phật và chư Bồ tát không phải hoàn toàn không có tha lực đối với chúng sinh nhưng tha lực của các Ngài chỉ là sức trợ duyên ban đầu mà thôi.
Ví dụ, trong một lớp học người thầy đem hết khả năng để dạy học trò một cách công bằng nhưng trong lớp có trò học giỏi, có trò học dở. Chủ ý của thầy là dạy hoàn toàn bình đẳng nhưng kết quả học tập lại tùy thuộc trí thông minh, sự siêng năng chăm chỉ học hành và bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh gia đình của mỗi em. Cũng vậy, đức Phật ra đời khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến, tức tính biết sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý của mỗi người. Nếu Phật có thể ban cho chúng sinh cái tri kiến Phật ấy thì chúng ta đâu cần tu và tinh thần “tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp” hóa ra vô nghĩa.
Cho nên, nếu người có tu một chút sẽ tự thấy rõ mọi kinh điển đều nhằm kích thích trực giác để ta nhận ra cái thường biết rõ ràng ấy là bổn tâm sáng suốt, rồi chúng ta tự nỗ lực để cứu chính mình ra khỏi biển khổ sông mê. Tất cả chúng ta hãy lắng lòng nghe lời tuyên bố của Đức Phật Thích Ca trước khi nhập diệt ở rừng Ta La Song Thọ: “Các ông hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp”.
Nếu chúng ta không tự thắp đuốc lên mà đi, cứ trông cầu sự cứu độ của Phật-Bồ tát thì chúng ta đã rơi vào thần quyền mất rồi, nghĩa là chúng ta đã tin có một đấng thần linh thượng đế ban phước giáng hoạ. Chúng ta tin như vậy thì đức Phật đã trở thành một vị thần linh thượng đế mất rồi. Và nếu chúng ta thần thánh hóa các Ngài thì chúng ta sẽ rơi vào mê tín dị đoan và chỉ biết cầu cạnh van xin, vô tình phỉ báng và đi ngược lại lý nhân quả. Giáo lý của Đức Phật cũng bị đánh mất tính thực tiễn, tính khoa học và tính nhân bản là nền tảng nhân quả và đạo đức muôn đời của đạo Phật gắn liền với con người.
Cho nên, người Phật tử chân chính phải y cứ vào tinh thần “tự mình thắp đuốc lên mà đi” vốn là kim chỉ nam cho mỗi người con Phật dù là xuất gia hay tại gia. Có thể nói, ta không thể lìa tâm để tu hành, không thể lìa tâm mà giải thoát. Đây là điều chúng ta phải hết sức lưu ý, chúng ta tu là tu tâm của chính mình. Ta thanh tịnh là thanh tịnh cái tâm, khi giác ngộ là giác ngộ tự tâm, cho đến lúc thành đạo cũng là thành tựu cái bản tâm ấy, ngoài tâm cầu Phật tức thiên ma ngoại đạo.
Đất ở đây có nghĩa là tượng trưng cho đất tâm. Đất tâm rất kiên cố, không có gì công phá được, hủy diệt được. Tâm địa kiên cố là đức tính thứ nhất của mỗi người chúng ta, đức tính thứ hai là sâu dày. Chúng ta thấy, biển sâu cách mấy cũng có thể dò được nhưng làm sao chúng ta có thể dò được tâm. Tâm không có hình tướng, kích thước nhưng hay soi sáng muôn loài vật nên gọi là sâu dày. Đức tính thứ ba của tâm là rộng chứa cùng khắp. Phật dạy: “Bổn tâm của mỗi chúng sinh thật bao la không ngằn mé, nếu đem hư không so với Bổn tâm cũng như hòn bọt ví cùng biển cả”.
Tất cả pháp luôn luôn mời gọi nhưng vì chúng ta không lắng tâm lại để nghe mà mải chạy theo những vọng tưởng lăng xăng, điên đảo nên không biết tất cả tiếng đều là tiếng Phật. Trên mặt đất hiện thực của cuộc đời này, nếu tâm ta thanh tịnh, sáng suốt thì mình sẽ thấy nơi nào cũng bình yên hạnh phúc, ở đâu cũng là cõi Cực Lạc. Vì sao? Vì Cực Lạc là lòng trong sạch. Tất cả pháp đều hướng từ nơi tâm, tất cả cảnh giới đều do tâm lượng mà biến hiện.
Ví dụ, chỉ là một dòng sông nhưng đối với loài người thì đó là nước để ăn uống, tắm rửa, giặt giũ, tưới tiêu; đối với loài cá là cả thế giới cho chúng bơi lội, sinh sống, là không khí cho chúng thở; đối với loài ngạ quỷ thì chúng toàn là máu; đối với chư Thiên thì do phước nghiệp nên các vị thấy là lưu ly, pha lê trong suốt. Cho nên, cõi Tịnh độ hay thế giới Ta bà cũng ở tại đây, thiên đường hay địa ngục cũng tại đây hết.
Trong sự học Phật nếu chúng ta hiểu được kinh điển theo tinh thần lý sự viên dung, thì ta sẽ thấy rất tự tin nên không sống theo sự mong cầu và ỷ lại vào tha lực. Tha lực chỉ là bước đầu của người mới bắt đầu tìm hiểu vì chưa đủ niềm tin vào Phật pháp. Người học Phật phải thường xuyên quán chiếu, soi sáng lại thân tâm, hoàn cảnh thì tự nhiên sẽ cảm nhận được lý nhân quả là nền tảng của sự sống trên thế gian này. Chính vì vậy, lời Phật dạy “tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp” là hoàn toàn chính xác, thực tế trong cuộc sống không ai có thể ăn uống dùm và sống dùm cho ai cả.
Hạnh của đất là tượng trưng cho hạnh nguyện cao cả của Bồ tát Địa Tạng. Bồ tát nguyện đi vào địa ngục, đi vào những nơi khổ đau để giáo hóa và cứu độ chúng sinh. Ngài nguyện khi nào trên thế gian này không còn địa ngục, không còn khổ đau thì khi ấy Ngài mới thành đạo giải thoát. Thực tập quán về đất sẽ biết hạnh của đất và thực tập hạnh của đất giúp chúng ta phát triển năng lượng Địa Tạng trong tâm mình.
Địa Tạng là một biểu tượng và ai cũng có năng lượng này. Nếu biết chuyển hóa khổ đau là chúng ta biết cách dang tay để góp phần giải trừ địa ngục. Thân này có thể khổ đau, tâm này có thể khổ đau. Nếu chúng ta không chịu nhận diện và chuyển hóa khổ đau thì khổ đau sẽ chồng chất sâu dày và tạo điều kiện cho địa ngục hiện tiền.
Đặc tính quan trọng đầu tiên đáng để chúng ta học tập là tính chịu đựng bền bỉ, lâu dài của đất. Dù người ta có đổ lên đất những thứ dơ dáy như rác rến; các thứ đồ bẩn thỉu, hôi hám như phân, nước tiểu và đầy dẫy máu mủ tanh hôi; hoặc người ta xả thải các chất độc hại thì đất cũng thản nhiên, không hề có sự phản kháng hay chống đối lại hoặc buồn bã hay vui mừng.
Đất có chất liệu của sự vững chãi, từ bi và bao dung nên không bao giờ biết than vãn, phiền muộn một điều gì. Đất luôn vững chãi, bền vững vì không màng đến sự đào xới, bươi móc của con người. Đất có chất liệu của từ bi nên mang cả tấm lòng bao la rộng lớn. Đất thương muôn loài vật nên cung cấp thức ăn, thức uống, cung cấp chỗ ở, nghỉ ngơi và luôn bao bọc, che chở. Đất có chất liệu của bao dung, độ lượng, không phân biệt thân hay sơ. Dù ai có tàn hại, phá huỷ đất thì đất vẫn đón nhận như người mẹ đứng tựa cửa ngóng trông mừng đón đứa con trở về.
Chúng ta phải học theo hạnh của đất, phải kiên trì, bền bỉ chịu đựng trong sự khó khăn, khắc nghiệt của mọi hoàn cảnh. Ta phải biết cách làm chủ bản thân từ những điều tầm thường nhất trong cuộc sống hàng ngày vì đất còn là điểm tựa cho tất cả muôn loài vật trên thế gian này. Đất đã cưu mang và nâng đỡ tất cả mọi sự vật, không thiên vị một ai. Dù vật đó đã làm tổn hại cho đất thì đất cũng không phiền muộn, khổ đau.
Đất đã sẻ chia và nâng đỡ cho cỏ cây, hoa lá. Đất giúp con người và các loài động vật có sự sống lâu dài. Chúng ta học theo hạnh sẻ chia và nâng đỡ của đất thì phải cố gắng sống làm sao để trở thành một người tốt bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Nếu như chúng ta không thể đem đến cho người khác niềm vui, không sẻ chia hay giúp đỡ được cho ai thì cũng đừng hãm hại ai.
Đất tượng trưng cho sự chịu đựng bền bỉ, lâu dài. Sự nâng đỡ muôn loài vật là chất liệu yêu thương bình đẳng của đất. Đất chuyển hóa những thứ đã tiếp nhận dù tốt hay xấu. Dù đó là thứ làm cho đất bị ô nhiễm nặng nề thì đất vẫn chuyển hóa lần hồi để tạo nên những gì có ích cho cuộc sống. Chúng ta thực tập hạnh của đất để chan rãi tình yêu thương tràn ngập khắp tất cả mặt đất để thế giới này được hòa bình, chúng sinh được bình yên, hạnh phúc.
Tất cả mọi hiện tượng sự vật đang hiện hữu trong cuộc đời đều có một giá trị, lợi ích thiết thực nhất định. Nếu chúng ta tiếp xúc với mọi hiện tượng sự vật bằng cách quán chiếu thì chúng ta sẽ sống được với tính “nghe” của Bồ tát Quán Thế Âm. Bây giờ, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp xúc với đất để “lắng nghe” tiếng lòng của đất và học từ đất nhiều điều bổ ích thiết thực.
Mọi thứ rác rưởi dơ bẩn đến với đất sẽ được đất chuyển hóa thành loại phân bón hỗn hợp để nuôi dưỡng hoa màu, cây cối. Chính vì đất có công năng chuyển hoá mọi thứ nhơ uế để tạo thành sự sống có ích cho nhân loại mà chúng ta cần phải học theo hạnh của đất. Học theo hạnh của đất có nghĩa là chúng ta thực hành hạnh kham nhẫn, chịu đựng trong mọi hoàn cảnh.
Khi ai ca ngợi, cung kính, tôn trọng, thân thiết với mình thì mình không vì thế mà kiêu căng, tự đắc, không vì thế mà hãnh diện tự hào để sinh tâm cống cao ngã mạn, khinh khi người khác. Khi một ai đối xử với mình không được tốt đẹp, hài hoà, hay công kích và nhục mạ thì mình vẫn không phản kháng, chống đối, không oán giận, thù hằn, ghét bỏ. Ngược lại, mình vẫn giữ lòng bình thản, an nhiên, sẵn sàng tha thứ, bao dung và thương yêu mọi người bằng trái tim hiểu biết.
Cuộc sống của chúng ta với muôn màu muôn vẻ. Đời người có lúc gặp thuận duyên, xuôi chèo mát mái nhưng cũng lắm khi gặp chướng duyên, nghịch cảnh. Đó là lẽ thường nhiên của cuộc sống nên ta hãy nhìn đời bằng sự sáng suốt nhờ biết cách quán chiếu và buông xả. Như chúng ta đã biết, đất luôn tiếp nhận muôn loài vật một cách rất tự nhiên, không hề có sự phân biệt người thân hay kẻ thù. Một khi chúng ta thực tập hạnh kham nhẫn được thuần thục thì trong lòng mình sẽ không thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm mà thôi.
Học theo hạnh của đất thì chúng ta biết kính trên nhường dưới, biết thương yêu bình đẳng với tất cả mọi người mà không làm tổn hại cho bất cứ một ai. Chính sự kham nhẫn, từ bi và độ lượng mà chúng ta có thể làm thay đổi cách sống của người khác từ xấu trở nên tốt, từ tiêu cực trở thành tích cực. Kham nhẫn, nhịn chịu và thương yêu bình đẳng đem lại lợi ích lớn cho tự thân, gia đình và xã hội. Kham nhẫn giúp con người giữ được tâm an tịnh trước những chuyện phải quấy, hơn thua, trước những cám dỗ trong cuộc sống.
Chúng ta hãy nên học theo hạnh của đất. Dù người ta đổ và rải lên những thứ tinh sạch và đẹp đẽ như hoa, nước thơm, sữa thơm; hoặc người ta đổ lên đất những thứ dơ dáy, hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ; hoặc người ta khạc nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp nhận tất cả một cách thản nhiên, không vui vẻ, mừng rỡ mà cũng không chán ghét, tủi nhục. Cũng như thế, khi những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh chúng ta đừng để chúng làm nhiễu loạn thân tâm mình.
Quả thật, hạnh kham nhẫn có công năng rất lớn hay trị lành bệnh oán giận, thù hằn, ghét bỏ. Trong cuộc đời ai cũng muốn mình trở thành một người tốt có nhân cách đạo đức, một người sống có ích cho nhân quần xã hội và muốn xây dựng cho mình một giá trị thiết thực về tâm linh. Muốn được như thế chúng ta cần phải học theo hạnh của đất, thực hành hạnh kham nhẫn, nhịn chịu trong đời sống hàng ngày. Lúc nào thấy lòng mình buồn thương, giận ghét thì chúng ta hãy nhìn xuống đất, nhớ đến hạnh của đất để tỉnh giác quay về với thực tại của chính mình.
Từ bi và kham nhẫn là hai pháp tu tối thiết yếu của người Phật tử cũng như người xuất gia. Từ bi là ban vui, cứu khổ. Người có lòng từ bi rộng lớn là người biết thương yêu bình đẳng chúng sinh. Vì thương tất cả mọi người còn mãi chìm đắm trong biển khổ sông mê nên Bồ tát dấn thân phục vụ làm cho mọi người hết khổ, được vui nên gọi là hạnh ban vui cứu khổ.
Nói từ bi theo nghĩa cứu khổ ban vui thì chúng ta cảm thấy khó hiểu. Để gần gũi và dễ hiểu hơn chúng ta có thể nói từ bi là tình thương mình vì mọi người chớ không phải mọi người vì mình. Chúng ta thấy người khổ thì giúp họ chén cơm, củ khoai, củ mì. Dù họ không cám ơn nhưng chúng ta vẫn thấy vui. Đó là tình thương của lòng từ bi, thấy người khổ mình thương, mình giúp mà không cần đền đáp.
Là người Phật tử thấy ai khổ, ai đói thì chúng ta thương. Chúng ta sẻ chia, giúp đỡ mà không mong cầu người giúp lại. Bởi từ bi hệ trọng như vậy nên người Phật tử khi hiểu đạo phải tập mở rộng lòng thương xót mọi người. Khi chúng ta có tâm từ bi rồi thì mình tu mới có thể buông xả được bớt phiền não tham-sân-si; còn tu mà chưa có lòng từ bi thì vô tình ta trở thành tham lam, ích kỷ.
Nhưng tại sao từ bi phải đi đôi với sự kham nhẫn, nhẫn nhịn? Như ở thế gian người vợ gặp ông chồng bạo hành, nhiều người khuyên sao cô không ly dị thì cô nói vì thương con, sợ con bơ vơ không còn đủ cha mẹ, việc học hành sa sút. Nhờ thương con, sợ con sau này khổ mà kham chịu, nhẫn nhịn sự bạo hành của chồng. Làm như vậy cũng vì tình thương nên mới phải chịu đựng. Chúng ta nên biết, nhờ tình thương mà người ta có thể nhẫn chịu được những cái khó nhẫn. Nếu không có tình thương thì chắc chắn con người sẽ không đủ sức sống ở đời để vượt qua những chướng duyên, nghịch cảnh. Nhẫn nhục là một sức mạnh chứ không phải sự yếu đuối. Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
Thắng một vạn quân không bằng thắng chính mình
Thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.
Thắng giặc bên ngoài chưa phải là hay, chúng ta thắng được những thói quen tham muốn về tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn sung mặc sướng mới là quan trọng. Người hùng nơi chiến trường với chiến công hiển hách nhưng không qua nổi ải mỹ nhân. Như vậy, sự kham nhẫn nhịn chịu trong mọi hoàn cảnh là việc dễ hay khó? Chúng ta bị người nói nặng, mắng chửi, sỉ nhục, nếu không biết cách làm chủ bản thân ta sẽ mắng nhiếc lại. Mắng lại là dễ vì đó là thói quen của người đời, chúng ta tu thì người khác chửi mình, mình cũng chỉ cười thôi.
Chúng ta thử tập khi bị người khác nói nặng hay mắng chửi mà mình vẫn cứ lặng lẽ làm thinh, không nói gì hết thì người đó sẽ tự dưng chùn bước liền. Người chửi cảm thấy bực bội, khó chịu, mặt mày trông rất dữ tợn. Chúng ta cứ tưởng tranh hơn thua là hay nhưng không ngờ người muốn tranh hơn lại càng tăng thêm phiền não, chẳng khác nào như lửa cháy mà chúng ta cứ chế thêm dầu. Một người đã lỡ nóng giận thì tất nhiên trong lòng họ đau khổ, còn ta vẫn cứ im lặng, không chống trả lại thì làm gì có chuyện đấu tranh để dẫn đến những tai hại lớn lao.
Như vậy, người chịu đựng được là người mạnh mẽ, có một sức nhẫn phi thường. Do đó, chúng ta tu muốn đạt kết quả tốt đẹp thì đòi hỏi mình phải có lòng từ bi và cả đức nhẫn nhục. Có đầy đủ từ bi, nhẫn nhục thì tâm ta mới an ổn, nhẹ nhàng mỗi khi có chuyện không như ý. Chẳng hạn như khi ta thấy người nghèo khổ nên giúp đỡ họ nhưng họ lại có thái độ không tốt với ta.
Vì vậy, khi nói về lòng từ bi người ta hay dùng từ “mẹ hiền thương con”. Cha cũng thương con nhưng có khi phải răn, phải đánh, phải chỉ dạy nên đôi khi nghiêm khắc. Người mẹ thương con thường an ủi, vuốt ve, chìu chuộng nên ít đánh; do đó mà nói mẹ hiền, cha nghiêm. Chính vì vậy, lòng từ thường được tượng trưng qua người mẹ thương đứa con một. Bồ tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, nhẫn nhục và lắng nghe nên Ngài hiện thân người nữ để làm tròn hạnh nguyện của mình.
Chúng ta là hàng đệ tử của Phật thì phải học theo gương sáng của Ngài. Vì thương những người khổ hay người ngang ngạnh nên dù họ có gây khó khăn, làm điều hung dữ thì chúng ta vẫn phải độ họ, không nên giận họ mà còn thương xót họ nhiều hơn. Trong đạo Phật lúc nào cũng nhắc nhở người Phật tử luôn cố gắng thực hiện cho được tinh thần từ bi, nhẫn nhục. Chưa hành được hạnh đó thì chúng ta chưa phải là người Phật tử chân chính. Cho nên, khi chúng ta hiểu rõ mục đích của đạo Phật thì phải tập theo đức từ bi, nhẫn nhục thì sẽ được những điều lợi ích lớn.
Tất cả những gì chúng ta làm lợi ích cho người thì người sẽ đối xử tốt lại với mình, hiểu như vậy chúng ta mới cố gắng buông xả nhiều hơn nữa mà việc tu hành mới không trở ngại. Chúng ta không phải chỉ biết dùng lời nói suông mà còn phải có sức kham nhẫn, chịu đựng. Đức Phật suốt 49 năm hoằng hoá độ sinh, bất cứ trường hợp nào Ngài cũng nhịn chịu, không hề chống cự hoặc trách móc một ai dù bị họ mắng nhiếc, vu oan giá hoạ và huỷ nhục đến tận cùng. Ngài chỉ bình thản, an nhiên, tự tại trước những lời vu cáo nặng nề. Vì vậy, Ngài không hờn, không giận, không thù hằn, oán hận mà còn thương xót tất cả mọi người.
Thích Đạt Ma Phổ Giác