Bài viết phân tích sâu sắc vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập và phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt thời Lý và thời Trần. Tiếp đến, tác giả nhấn mạnh sức mạnh của Phật giáo vẫn tiếp tục lan tỏa và phát triển cho đến ngày nay
Thượng tọa Thích Huệ Thông UV HĐTS TW – Phó trưởng Ban Hoằng Pháp TW
Phó Ban Thường Trực BTS PG Bình Dương
Nhân sự kiện Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, hôm nay chúng ta cùng nhau nhìn lại “Vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt thời Lý Trần và những thời đại về sau”. Có thể nói đây là một chặng đường lịch sử đầy chông gai nhưng cũng rất vinh quang và tự hào của dân tộc, với những chiến tích hào hùng trong công cuộc bảo vệ toàn vẹn chủ quyền độc lập và những thành tựu vượt bật trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.
Suốt chiều dài lịch sử từ 1000 năm Thăng Long đến nay, trong niềm tự hào vinh quang của dân tộc luôn có sự đồng hành, sự đóng góp tích cực và hiệu quả của Phật giáo. Đặc biệt là vai trò của Phật giáo trong việc tham gia kiến lập triều đại nhà Lý và việc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày nay. Tiếp theo đó là vai trò của Phật giáo đối với việc phát triển đất nước Đại Việt thời nhà Trần và sự đồng hành, sự đóng góp nhiệt thành và hiệu quả của Phật giáo trong thời đại ngày nay.
Lịch sử đã chứng minh Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, luôn gắn liền vận mạng dân tộc, đồng cam cộng khổ chia ngọt sẻ bùi cùng dân tộc, thăng trầm cùng dân tộc trải qua nhiều thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Sự an nguy của dân tộc cũng chính là nỗi lo canh cánh trong lòng của những người con Phật, bởi tất cả đều luôn mong muốn một đời sống thanh bình an lạc… Sự gắn kết mật thiết này đã hòa quyện nhuần nhuyễn giữa truyền thống đạo đức của tổ tiên với tinh thần từ bi, trí tuệ, vị tha, vô ngã của đạo Phật. Sự hòa quyện này đã tạo nên dấu ấn sinh động trong công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, điều đó đã thể hiện qua những trang sử vàng từ thời Đinh – Lê cho đến thời Lý – Trần, mãi đến các đời sau và nhất là thời đại Hồ Chí Minh lịch sử.
- Vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt thời Hậu Lý:
Nhìn lại lịch sử chúng ta sẽ thấy, dưới các triều đại từ Đinh Lê đến Lý Trần tinh thần nhập thế phổ độ chúng sinh của Phật giáo đã lấn át những ảnh hưởng vốn có vị thế vững vàng của đạo Nho trong đời sống xã hội đương thời, bằng chứng là các vị cao Tăng đạo hạnh của Phật giáo đã tham gia triều chính, đảm nhận vai trò quân sư, cố vấn cho vận mệnh quốc gia, vì các ngài nhận thấy sự có mặt kịp thời của mình là cần thiết để hóa giải nỗi đau triền miên của một dân tộc nhỏ bé vốn đã từng và đang bị ngoại bang xâm lấn. Vào thời nhà Đinh, năm 971, sau khi lên ngôi vua, Đinh Tiên Hoàng đã có những quy định cụ thể cho các cấp bậc Tăng đạo. Sư Ngô Chân Lưu đã được vua phong chức Tăng thống, đứng đầu Phật giáo thời bấy giờ và được ban hiệu là Khuông Việt Thái Sư. Việc nhà vua ban tước hiệu “Thái Sư” cho một vị thiền sư, cũng đồng với nghĩa, triều đại nhà Đinh đã chính thức công nhận nhân sự của Phật giáo trực tiếp tham gia chính sự trong vai trò chỉ đạo tâm linh, điều này đã được thể hiện qua nền “đức trị” với các chính sách sáng suốt và từ bi nhân đạo rất hợp lòng dân. Đến thời Lê, vua Lê Đại Hành đã cho mời hai thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh làm cố vấn chính trị. Đặc biệt, thiền sư Vạn Hạnh được vua Lê Đại Hành đích thân xin ý kiến về cuộc kháng chiến chống quân Tống vào năm 980… Bước sang thời Lý và cả thời Trần, Phật giáo đã được khẳng định vị thế của một tôn giáo chính thống, bởi các vị vua nhà Lý đều là những Phật tử thuần thành, thâm tín Phật pháp, có học thức và tri kiến Phật pháp; và bởi những ảnh hưởng lớn lao từ nền giáo dục đạo đức và tinh thần nhập thế khơi nguồn tuệ giác trong đời sống nhân gian rất hiệu quả.
– Khởi sự hình thành triều đại nhà Hậu Lý và Vai trò của Phật giáo trong việc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày nay:
Nói đến vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt thời nhà Lý, trước hết chúng tôi xin trình bày vắn tắt khởi sự hình thành triều đại nhà Hậu Lý và việc dời đô từ kinh thành Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày nay. Vì đây là cột mốc thời gian rất quan trọng đánh dấu sự khởi đầu 1000 năm Phật giáo đồng hành, đóng góp tích cực hiệu quả cho dân tộc. Đồng thời cũng nói lên vai trò chủ đạo của Phật giáo trong việc sát cánh với triều đình nhà Hậu Lý lèo lái con thuyền dân tộc, góp phần làm cho đất nước Đại Việt ngày càng phồn vinh và thạnh trị…
Nói về việc dời đô, trước đó thiền sư Vạn Hạnh đã sớm nhận thấy kinh thành Hoa Lư tọa lạc ở một vùng núi non hiểm trở chật hẹp cùng nhiều yếu tố không còn hợp thời, còn thành Đại La lại là một vùng đồng bằng thoáng rộng với nhiều địa thế thuận lợi có thể xây dựng phát triển trở thành một kinh đô quy mô; một trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội, thương mại mang tầm vóc và diện mạo mới của nước Đại Việt. Điều này đã được thể hiện khá rõ trong chiếu dời đô (Thiên đô chiếu): “Đây là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Do vậy khi Lý Công Uẩn lên ngôi, thiền sư Vạn Hạnh đã cố vấn cho nhà vua quyết định dời đô từ kinh thành Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất 1010, ngay sau đó đổi tên Đại La thành Thăng Long và đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thành Đại Việt.
Việc làm táo bạo này của vua Lý Thái Tổ đã chứng tỏ bản lĩnh của một đấng minh quân sáng suốt. Điều đáng chú ý là đại sự cực kỳ hệ trọng của cả một dân tộc lại được thực hiện bởi ý tưởng của một Tăng sĩ. Chính ý tưởng dời đô của thiền sư Vạn Hạnh đã thể hiện một tầm nhìn sâu xa và đầy trách nhiệm của một bậc quân sư trí tuệ đầy tâm huyết với vận mạng dân tộc. Đây là việc làm đầu tiên có ý nghĩa quan trọng nhằm khẳng định vị thế của một quốc gia độc lập.
– Vua Lý Thái Tổ xuất thân từ chốn thiền môn, các vua nhà Lý sau này đều là những Phật tử thuần thành, thâm tín Phật pháp:
Như chúng ta đã biết, ngay từ khi vừa mới lên ba, vua Lý Thái Tổ đã được mẹ đem vào chùa Cổ Pháp, thiền sư trụ trì Lý Khánh Văn đã nhận ông làm con nuôi và đặt tên cho ông là Lý Công Uẩn. Các vị vua nhà Hậu Lý đều rất tôn sùng đạo Phật, nhất là vua Lý Thái Tổ, sau khi dành được quyền lực từ triều đại Tiền Lê, vào tháng 10 âm lịch năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua xưng vương hiệu là Lý Thái Tổ, khởi đầu vương triều nhà Hậu Lý. Điều đáng nói, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, các vương triều nhà Lý đã giữ vững được ngai vàng lâu dài đến 216 năm (1009 – 1225) trãi qua 9 đời vua, điều mà các vương triều trước đó không thể nào thực hiện nỗi, nếu cố gắng lắm cũng chỉ giữ được vài chục năm. Một điều đáng ghi nhận nữa là, các vị vua nhà Lý không chỉ giữ yên giang sơn xã tắc mà còn khiến cho quân xâm lược phải khiếp sợ hùng uy của quân dân Đại Việt.
Cùng với việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La là hàng loạt công trình kiến trúc xây dựng chùa chiền, đúc chuông, thỉnh kinh và độ Tăng xuất gia tu học theo Phật pháp. Nhà vua xuống chiếu phát tiền kho xây dựng rất nhiều chùa…Năm 1018, mùa hạ, tháng 6, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nước Tống xin thỉnh Tam Tạng kinh… Năm 1019, xuống chiếu độ dân trong nước làm Tăng… Năm 1021, làm nhà Bát giác thờ kinh… Năm 1024, mùa thu, tháng 9, làm chùa Chân Giáo ở trong thành để nhà vua tiện ngự đọc tụng kinh kệ”. Về các sự kiện này, sử gia Lê Văn Hưu đã ghi trong Đại Việt Sử Ký: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm Tăng hơn nghìn người ở kinh sư” Và “Về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê…”. Trên đây là một số sự kiện thể hiện sự sùng mộ Phật pháp và đạo đức sâu dày của vua Lý Thái Tổ. Các đời vua kế tiếp như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông… vẫn tiếp tục các Phật sự như xây chùa độ Tăng, đúc chuông tạc tượng, ghi chép kinh sách và khuyến khích nhân chúng tu hành theo Phật pháp. Vào thời kỳ này Phật giáo trở thành quốc giáo, đạo Phật phát triển mạnh mẽ rộng khắp trong đời sống nhân gian, đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu đã phải thốt lên: “Trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền, nhân dân quá nửa là sư sãi”…
Lịch sử ghi lại rằng, dưới thời nhà Lý, các vị vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông thay nhau kế tục nghiệp đế vương, cả ba vị vua này đều rất kính Phật và yêu dân, điều đó đã được thể hiện khá cụ thể trong tư tưởng, đường lối của nền “đức trị”. Do đó từ việc nhiếp chính điều hành đất nước, đến việc đánh dẹp các cát cứ trong nước, đập tan các đoàn quân xâm lược phương Bắc, sự nghiệp giữ nước, xây dựng phát triển đất nước đều thành tựu viên mãn, nhờ vậy nước Đại Việt ngày càng phồn vinh thạnh trị.
– Vài nét về những đóng góp tiêu biểu của Phật giáo thời nhà Lý đối với văn học và kiến trúc:
Vào thời nhà Lý, nền văn học dân tộc xuất hiện ba áng thơ văn rất cô đọng nhưng gói gọn khí phách quật cường hào hùng của cả dân tộc, điều này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lịch sử văn học nước nhà. Đó là tờ “Chiếu dời đô”, bài văn “Lộ Bố” và bài hịch “Nam quốc sơn hà”. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cũng được xếp vào một trong ngũ tác gia tầm cở đương thời với bài kệ “Sắc không” mang tư tưởng Phật giáo rất nổi tiếng. Đặc biệt nền văn học Phật giáo thời Lý cũng đã xuất hiện một lực lượng tác gia lỗi lạc, đa phần là các vị thiền sư uyên bác, như Thiền sư Mãn Giác, Thiền sư Viên Chiếu, Thiền sư Viên Thông, Thiền sư Không Lộ, Thiền sư Quảng Nghiêm, Thiền sư Bảo Giác, Thiền sư Ngộ Ấn… Vào thời kỳ này, một tác phẩm Phật giáo rất có giá trị là Thiền Uyển Tập Anh được ra đời, trong đó ghi lại hành trạng của 68 vị Thiền sư lỗi lạc, được xem là nguồn tư liệu quý hiếm rất quan trọng mà giới học Phật cũng như các nhà nghiên cứu Phật giáo quan tâm. Các thiền sư vào thời nhà Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ Việt Nam. Dù hầu hết các sáng tác của các vị thiền sư đều mang ý nghĩa khai sáng con đường giải thoát giác ngộ cho nhân thế, nhưng vẫn bao hàm yếu tố xã hội tích cực và rất có giá trị văn học. Bên cạnh đó, từ những thời pháp thoại, những bài giảng về “phát bồ đề tâm” trong đó nhấn mạnh đến cơ sở để người học Phật phát tâm tu hành là “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường)… vô hình chung những áng văn thuần túy Phật pháp này đã khơi dậy truyền thống yêu nước sâu rộng trong đời sống nhân dân và hiển nhiên nó đã hình thành một nguồn văn học yêu nước rất tự nhiên trong văn học nước nhà vào thời kỳ này. Trong sách Việt Nam Cổ Văn Học Sử của Nguyễn Đổng Chi đã ghi lại rằng:“Trong thế kỷ 10, cửa chùa đã đóng một vai trò rất quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và được chính phủ nể vì”.
Các vua Lý không những sùng mộ đạo Phật mà còn thâm hiểu Phật pháp, tin sâu nhân quả, nên việc trị quốc an dân đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Vào đời Lý, có nhiều công trình xây dựng Phật giáo có giá trị nghệ thuật cao, chẳng hạn như tượng Đức Phật được tạc bằng đá hoa cương xanh ngồi thiền định trên tòa sen, cao 1m87, kể cả bệ là 2m77, tượng Phật này được đặt tại chùa Phật Tích, được xem là kỷ lục về tạc tượng đương thời. Thời nhà Lý có tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên ở chùa Sùng Khánh dựng năm 1057 gồm 12 tầng, chuông Qui Điền đúc năm 1101 và vạc (đỉnh) Phổ Minh là những công trình mỹ thuật tuyệt vời, được xem là quốc bảo với danh hiệu “An Nam Tứ Đại Khí”. Ngoài ra còn có một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng nữa, đó là chùa Diên Hựu được xây dựng vào năm 1049, chùa này còn có tên là chùa Một Cột (chùa Nhất Trụ, Liên Hoa Đài)… Ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám và chùa Một Cột được xem là những biểu tượng văn hóa và tâm linh rất sâu sắc của thủ đô Hà Nội…
– Những ảnh hưởng rất quan trọng của Phật giáo đối với việc trị quốc an dân dưới thời nhà Lý:
Một khi nói đến vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt dưới thời Lý Trần và những thời đại về sau, tức là chúng ta đang nói đến những ảnh hưởng rất to lớn và vô cùng quan trọng của đạo Phật đối với nền chính trị của đất nước trong giai đoạn lịch sử này
Nhìn lại lịch sử dân tộc chúng ta đều nhận thấy rất rõ giai đoạn thời Lý – Trần là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đạo Phật. Đồng thời đây cũng là giai đoạn nước Đại Việt có bước phát triển vượt bật về kinh tế, quân sự, chính trị, văn hóa xã hội so với hàng ngàn năm trước đó. Đặc biệt vương triều nhà Lý rất quan tâm tới phát triển văn hóa, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc nhằm ổn định an ninh trật tự xã hội. Dưới triều nhà Lý cũng như nhà Trần, đạo Phật, Nho giáo và Lão giáo đều cùng tồn tại và phát triển nhưng không hề xảy ra xung đột tôn giáo. Tuy nhiên, đạo Phật được các vua Lý và vua Trần sùng bái từ đó đưa ra những chính sách ưu ái tạo điều kiện cho đạo Phật phát triển mạnh mẽ. Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo trở thành tư tưởng chính thống của quốc gia, nền chính trị dưới thời Lý và Trần chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tư tưởng hướng thiện xuất phát từ đức hạnh từ bi trên tinh thần trí tuệ, giải thoát cứu vớt con người ra khỏi khổ đau từ giáo lý của đạo Phật
Dưới triều Lý, từ vua quan đến thần quân đều tôn sùng đạo Phật. Trong bộ máy chính quyền trung ương của triều Lý thời bấy giờ có một ngạch quan dành riêng cho những người tu hành gọi là hệ thống Tăng quan. Đứng đầu hệ thống Tăng quan là vị Tăng Thống. Tăng Thống là một chức sắc của đạo Phật, là người đứng đầu Tăng Ni cả nước. Cấp dưới Tăng Thống là Tăng Lục, ngoài ra còn có Tăng Ty giác nghĩa, Tăng đạo chánh, phó Tăng đạo chánh… Tăng quan cũng đầy đủ chín cấp bậc phẩm hàm (cửu phẩm) như bên quan văn và quan võ. Khi đất nước lâm nguy hay có biến cố, các bậc Tăng quan được nhà vua trực tiếp mời đến để thỉnh thị những cao kiến, hoặc cùng bàn bạc với nhà vua những đối sách giữ gìn giang sơn xã tắc. Vào thời Lý, thiền sư Đa Bảo, Viên Thông, Nguyễn Thường… nhiều lần được vua Lý Thái Tổ thỉnh vào cung để luận bàn việc nước. Một số nhà sư đóng góp công lao to lớn với đất nước được triều đình phong làm Quốc sư như Quốc sư Viên Thông, Quốc sư Thông Biện… các Tăng quan đạo đức và uyên bác đều là những cố vấn chính trị đặc biệt của nhà vua.
Đường lối chính trị thiên về “đức trị” dưới triều Lý đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền luật pháp mang nặng tính chất đạo đức, chứa đựng tinh thần nhân ái, khoan dung mang dấu ấn tư tưởng” từ bi hỉ xả” của đạo Phật. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép: “Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót sai trung thư sửa định luật lệnh”
Như chúng ta đã biết, luật pháp dưới thời phong kiến chủ yếu là công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đạo Phật, luật pháp triều Lý lại chứa đựng những nhân tố đạo đức rất tiến bộ, nổi bật lên là tinh thần khoan dung đối với người có tội, yêu thương chia sẻ cảm thông đối với nhân dân; bảo vệ, chăm lo tới cuộc sống của dân. Từ đó chúng ta thấy cái tâm yêu dân như con của các vua Lý cũng chính là cái đạo trị nước của triều đình nhà Lý. Qua đó chúng ta có thể xác định tư tưởng từ bi của đạo Phật vào thời Lý đã thật sự hòa quyện với đạo đức truyền thống mang đậm tính chất nhân ái của dân tộc Việt. Lòng nhân ái, thương người của các vua Lý không chỉ đối với nhân dân Đại Việt mà còn cả với những tù binh Chiêm và Tống. Việc triều Lý đối xử khoan hồng độ lượng với những tù binh nhà Tống và Chiêm Thành bị bắt trong chiến tranh, chính là xuất phát từ tư tưởng vị tha nhân ái và cái tâm đạo đức của người cầm quyền. Và điều chắc chắn rằng, nền “đức trị” ấy đã được hòa quyện nhuần nhuyễn giữa truyền thống đạo đức của người Việt và tư tưởng từ bi cứu khổ, giác ngộ giải thoát, phổ độ chúng sanh của đạo Phật.
– Tóm lược vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt thời nhà Lý:
Nói đến vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt dưới thời nhà Lý, tức là chúng ta nói đến sự hình thành và phát triển của một nền văn hóa Việt Nam hoàn toàn độc lập và tự chủ, được các thiền sư xây dựng trên nền tảng trí tuệ tâm linh, sáng suốt nhân quả và tường tận muôn duyên, thể hiện qua ý tưởng dung hòa giữa văn hóa đạo đức truyền thống dân tộc và văn hóa tâm linh đặc thù Phật giáo một cách nhuần nhuyễn sâu sắc, tạo ảnh hưởng tích cực đến sự thái bình thạnh trị của đất nước. Nhìn lại lịch sử thời Lý Trần và nhất là thời đại ngày nay, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò quan trọng và đóng góp vô cùng hiệu quả của Phật giáo trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Trước tiên chúng ta nói đến vai trò của Phật giáo trong việc dời đô, về đại sự quốc gia này, từ lâu thiền sư Vạn Hạnh đã có chủ ý dời đô từ Hoa lư về Đại La để đất nước có điều kiện thuận lợi hơn trong việc bảo vệ nền độc lập chủ quyền dân tộc, phát triển đất nước Đại Việt và tính kế trường tồn cho các thế hệ mai sau chứ không riêng gì chỉ cho nhà Lý và điều đó đã được khẳng định một cách thuyết phục trong suốt một ngàn năm qua. Điều may mắn cho dân tộc Việt Nam, là vua Lý Thái Tổ vốn xuất thân từ chốn thiền môn, lại là đệ tử thuần thành của thiền sư Vạn Hạnh. Chính vì vậy mà chỉ sau một năm nhiếp chính, nhà vua đã không ngần ngại thực hiện ý tưởng trọng đại này.
Về phương diện chính trị, các thiền sư đã gầy dựng nên cả một triều đại thuần thiện thuần từ, lấy ánh sáng tuệ giác của đạo Phật quán chiếu hiện tượng thế gian kết hợp với đạo đức và tâm từ bi làm nền tảng cho chính trị, từ đó hình thành nền “đức trị”, nhờ đó mà triều đình nhà Lý đã đưa ra những chính sách hợp lòng dân, đem lại hạnh phúc ấm no cho dân chúng, đất nước thái bình an lạc. Chúng ta cũng cần lưu ý, Thiền sư Vạn Hạnh và Thiền sư Đỗ Pháp Thuận là hai nhà sư đã có công rất lớn trong việc hình thành nên triều đại nhà Lý, chính hai vị thiền sư lỗi lạc này đã đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua và đây là một vị minh quân đã làm rạng rỡ thêm những trang sử vàng son của dân tộc. Nhờ thấm nhuần nền tảng đạo đức, trí tuệ, từ bi và đạo lý nhân quả của Phật giáo, nhất là dựa vào niềm tin chuyển hóa, nên các hình phạt và tù ngục trong triều đại này dần dần được thay thế bởi các chính sách giáo dục đạo đức và cảm hóa có hiệu quả. Nền chính trị và luật pháp được xây dựng trên cơ sở giáo dục đạo đức, cảm hóa con người, ươm mầm từ bi sâu rộng trong đời sống nhân gian, điều này không những không làm cho dân chúng đói nghèo, xã hội rối ren, mà ngược lại phương cách giáo dục phẩm hạnh nhân cách kết hợp với nền “đức trị” hợp lý đã làm cho đất nước thái bình, muôn dân no ấm. Có thể nói đây là một dấu ấn sinh động mà Phật giáo đã để lại trong lòng dân tộc trong vai trò nhập thế độ sanh của mình
Về phương diện văn học, các thiền sư là những tác gia then chốt xây dựng nên nền văn học nước nhà thời bấy giờ, các tác phẩm của các thiền sư đã đóng góp rất lớn vào việc khơi nguồn đạo đức, xây dựng đời sống tâm linh bền vững trên dòng chảy thế sự thông qua các chủ đề Phật giáo. Về kiến trúc mỹ thuật, hầu hết các công trình lớn mang tầm cở quốc gia, ngoài hệ thống chùa chiền, bảo tháp, thì các cung điện, hoàng thành… đều là những công trình kiến trúc mỹ thuật mang đậm chất Phật giáo. Thiền sư Vạn Hạnh đã tham mưu cho triều đình kết hợp phong thủy địa lý với văn hóa tư tưởng Phật giáo trong việc xây dựng kinh thành Thăng Long, chúng ta sẽ thấy ở đó là những ngôi chùa được xây dựng đều khắp kinh thành cũng như ngay trong nội cung để các vua Lý nghiên cứu giáo lý, tĩnh tâm tham thiền, những công trình kiến trúc đặc biệt này hiển nhiên được hình thành từ suy tư trăn trở của thiền sư Vạn Hạnh đối với vận mệnh lâu dài và bền vững của dân tộc. Về phương diện giáo dục, các thiền sư thời nhà Lý rất coi trọng vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức cho con người, các ngài không chỉ mở trường dạy cho Tăng chúng mà còn dạy cho quần chúng Phật tử, không chỉ dạy cho tín đồ Phật giáo mà còn dạy cho những người theo đạo Nho, đạo Lão. Thiền sư Vạn Hạnh đã đào tạo nên Lý Công Uẩn tại chùa Lục Tổ, thiền sư Trí ở núi Cao Dã đã đào tạo nên Tô Hiến Thành, Ngô Hòa Nghĩa, đây là những bậc anh tài kiệt xuất trong lịch sử dân tộc… Các thiền sư thời nhà Lý am tường cả tam giáo lẫn các môn khoa học xã hội, trên nền tảng suốt thông bởi nguồn tuệ giác, các ngài đã uyển chuyển vận dụng kiến thức Nho giáo và khoa học xã hội vào các chính sách trị quốc an dân, nhờ đó đã rất thành công trong vai trò quân sư, cố vấn. Vào thời Lý, sự gần gũi và gắn kết giữa vua với quần thần, giữa vua quan với dân chúng, giữa đồng bào trong làng xóm thôn ấp đều hết lòng yêu thương bảo bọc cho nhau, điều đó đã nói lên mức độ ảnh hưởng nền đạo đức và văn hóa tâm linh của Phật giáo rất là to lớn và sâu rộng. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã ghi nhận điều này trong cuốn Lý Thường Kiệt rằng: “Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là ảnh hưởng của đạo Phật”. Còn thiền sư Pháp Thuận, một trong hai vị Tăng sĩ kiến tạo nên triều đại nhà Lý đã tóm lược nền đạo đức truyền thống dân tộc hòa quyện với văn hóa tâm linh của Phật giáo, đưa đất nước Đại Việt vượt lên tầm cao mới, với bốn câu thơ súc tích như sau:
“Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình
Đạo đức ngự cung điện
Muôn xứ hết đao binh”.
Khái quát sơ lược điều này để tất cả chúng ta một lần nữa khẳng định rằng sự hiện diện các nhà sư trong bộ máy chính quyền trung ương dưới triều đại nhà Lý là tinh thần nhập thế cao cả và đầy trách nhiệm của đạo Phật đối với dân tộc.
2. Vai trò của Phật giáo thời nhà Trần đối với công cuộc phát triển đất nước Đại Việt:
Nếu như Phật giáo thời nhà Lý là sự phát triển khởi đầu đáng ghi nhận với nhiều thuận lợi bởi các vua Lý đều là những Phật tử thuần thành, các vua Lý đã cống hiến rất nhiều cho Phật giáo, từ việc xây chùa độ Tăng đến các chính sách trị quốc an dân được thực thi trên nền tảng trí tuệ và từ bi từ giáo lý nhà Phật… thì Phật giáo đời Trần là một sự kế thừa và phát triển rực rỡ huy hoàng nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, bởi các vua Trần không chỉ là những Phật tử thuần thành mà còn là những hành giả đích thực thâm chứng Phật pháp. Hành trạng nhập thế độ sanh của các vua Trần là hình ảnh sinh động phản ảnh toàn bộ bức tranh xán lạn của Phật giáo thời kỳ này.
– Các vua Trần không chỉ là Phật tử thuần thành, mà là Tăng sĩ với vai trò lãnh đạo giáo hội:
Trong lịch sử nước ta hiếm có một thời đại nào một vị vua lại hoàn toàn không muốn làm vua, chỉ mong ước được làm một ông Tăng để có điều kiện tập trung tu học Phật pháp, nhưng sự việc này lại xảy ra, đó là vua Trần Thái Tông, vị vua khởi đầu triều đại nhà Trần. Lịch sử ghi lại rằng, năm 20 tuổi, Trần Thái Tông đã từng trốn khỏi hoàng cung lên núi Yên Tử để diện kiến Thiền Sư Trúc Lâm (tức Đạo Viên) xin được xuất gia làm đệ tử, như lời nhà vua đã ghi trong lời tựa cuốn Thiền Tông Chỉ Nam: “Trẫm còn thơ ấu đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng giữa sĩ dân, không có nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên trẫm mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật chứ chẳng muốn tìm gì khác”. Vua Trần Thái Tông ở ngôi vua mà không màng đến vinh hoa phú quý, vừa làm tròn chức trách của một đấng quân vương lại vừa liễu ngộ Phật pháp ngay khi còn ngồi ở ngai vàng. Có thể nói đây là một nhân cách lớn của dân tộc Việt Nam và của Phật giáo Việt Nam. Sinh thời ông đã trước tác nhiều tác phẩm rất giá trị như Thiền Tông Chỉ Nam, Kim Cang Tam Muội Kinh chú giải, Lục Thời sám Hối Khoa Nghi, Bình Đẳng Lễ Sám Văn, Khóa Hư Lục, Phổ khuyến Phát Bồ Đề Tâm…
Vua Trần Thánh Tông là một Phật tử có đạo hạnh đặc biệt, tin sâu Tam Bảo, là bậc đế vương nhưng ông phát tâm trường trai chay lạt và để tâm rất nhiều vào việc học Phật, về sau ông đắc pháp với thiền sư Đại Đăng. Ông đã có công đánh tan tập đoàn quân Nguyên Mông do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích tràn sang xâm lược nước ta.
Vua Trần Nhân Tông năm lên ba ngài đã được vua cha gởi cho Tuệ Trung Thượng Sĩ, một thiền sư thâm chứng Phật pháp sống tự tại giữa cuộc đời dưới hình thức một cư sĩ. Lịch sử đã ghi nhận vua trần Nhân Tông là một nhà chính trị tài ba nhưng đồng thời cũng ghi nhận ông là một thiền sư lỗi lạc, một nhà lãnh đạo quan trọng và uy tín của Phật giáo trong nhiều thế kỷ qua. Sau khi hoàn thành trọng trách đối với dân tộc trên cương vị của một bậc quân vương, thì suốt cuộc đời làm Tăng sĩ của ngài. Tinh thần nhập thế độ sanh của vua Trần Nhân Tông đã tạo ra ảnh hưởng rất lớn trong đời sống đạo đức xã hội, tạo ra một đời sống thái bình an lạc cho muôn dân. Với chủ trương xây dựng một xã hội an lạc ổn định, thì tinh thần nhập thế của vua Trần Nhân Tông được xem là rất thành công và ấn tượng, trong thời kỳ mà chính quyền nhà nước có một ông vua đương vị rất nhiệt tình ủng hộ Phật pháp và một ông vua cha vừa là Thái Thượng hoàng làm cố vấn chính trị, vừa là một Tăng sĩ du phương hóa độ chúng sanh. Đây là một sự kiện đặc biệt chưa từng có trong lịch sử nước nhà và cả lịch sử nhân loại.
Công cuộc đem đạo vào đời một cách tích cực của vua Trần Nhân Tông đã không ngừng nâng cao vị thế nhà Trần, củng cố triều đại, tạo ra sự an lạc thật sự trong đời sống nhân dân là những dấu ấn sinh động của Phật giáo thời nhà Trần.
Kế vị vua Trần Nhân Tông là vua Trần Anh Tông, vua Trần Minh Tông đều là những vị vua sùng kính Tam bảo, việc vua Trần Anh Tông thọ Bồ Tát Giới tại gia đã thu hút rất nhiều vương công quan lại trong triều thọ Bồ Tát Giới tại gia, số đông khác quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới. Ông là người đầu tiên của nước ta thỉnh Đại Tạng Kinh tại Trung Hoa về tôn thờ và cho khắc bản pho kinh tạng lớn nhất này.
Nói đến Phật giáo thời nhà Trần, ngoài các vị vua Trần, thiết nghĩ cũng nên nhắc đến hai vị thiền sư có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự tu tập của Tăng Ni Phật tử và sự phát triển của giáo hội Trúc Lâm. Đó chính là Tuệ TrungThượng Sĩ và nhị tổ Pháp Loa. Thiền sư Pháp Loa đã phụng chỉ của vua Trần Anh Tông đề ra những quy định chức vụ trong giáo hội và đặc biệt là thực hiện làm sổ Tăng tịch để chứng nhận sự hiện diện của Tăng Sĩ trong giáo hội. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Tăng sĩ có hồ sơ tại Giáo hội Trung Ương. Chính nhờ vậy mà giáo hội đã có thể thống kê số lượng và giám sát sự tu học của chư Tăng, từ đó có định hướng tích cực, kịp thời trong việc nâng cao chất lượng tu hành cũng như hoằng pháp. Dưới thời thiền sư Pháp Loa lãnh đạo, giáo hội Trúc Lâm có đến 15 ngàn Tăng sĩ, xây trên 100 ngôi chùa và hoàn thành chu toàn rất nhiều Phật sự quan trọng khác, để thành tựu được điều này phải nói đến sự tận tình ủng hộ Phật pháp của vua Trần Anh Tông.
Những đóng góp tiêu biểu của Phật giáo thời Trần đối với đất nước:
Trước khi nói đến vai trò của Phật giáo đối với việc phát triển đất nước Đại Việt , chúng tôi xin trình bày vắn tắt những đóng góp tiêu biểu của Phật giáo thời nhà Trần. Về phương diện văn học, Phật giáo đời nhà trần đã để lại cho dân tộc một kho tàng văn học rất có ý nghĩa và vô cùng quan trọng đối với những ai có nhu cầu tĩnh thức tâm linh. Nổi bật lên là công trình khắc bản bộ Đại Tạng Kinh vào thời vua Trần Anh Tông, đã làm phong phú thêm kho tàng văn học cổ nước nhà. Các nhà sư và các vua Trần là những nhà học Phật uyên bác, tinh thông Nho học, phần lớn tác phẩm của họ đều có nội dung cảnh sách người đời hướng về con đường chân thiện, tiến đến giải thoát giác ngộ. Không gian văn học thời nhà Trần còn có thiền sư thi sĩ Huyền Quang, Tam tổ thiền phái Trúc Lâm, ông rất yêu hoa cúc, ngoài việc tụng kinh tham thiền ông còn thôi sáo ngâm thơ, ông để lại cho đời những bài thơ tràn đầy thiền vị.
Về phương diện kiến trúc, Phật giáo nhà Trần tập trung xây dựng cơ sở chùa chiền tịnh viện để phục vụ sự tu học ngày càng đông của chư Tăng trong giáo hội Trúc Lâm. Chỉ riêng thời nhị tổ Pháp Loa đã xây dựng được hàng trăm ngôi chùa, trong đó nổi tiếng với hai cơ sở Quỳnh Lâm và Báo Ân. Bên cạnh đó, hình thành một hệ thống bảo tháp do các vua Trần cúng dường. Tại các thôn ấp làng xã, dân chúng cũng đã tự cất chùa để thờ phượng, dù không nằm trong hệ thống các chùa chiền của giáo hội Trúc Lâm, nhưng sự hiện diện của các chùa chiền am cốc tự phát trong nhân dân vào thời Trần, ngoài việc thờ phượng tín ngưỡng, nó còn được xem như là những trung tâm văn hóa có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng đời sống tinh thần thanh cao giải thoát trong quần chúng. Đây cũng là một trong những đóng góp tiêu biểu, tích cực và hiệu quả của Phật giáo đời nhà Trần đối với việc nâng cao đời sống đạo đức cũng như góp phần không nhỏ vào trật tự an ninh xã hội.
Về phương diện ngoại giao, vua Trần Nhân Tông khi làm Thái thượng hoàng, đồng thời với tư cách là một Tăng sĩ, ông đã đến Chiêm Thành để quan sát tình hình Phật giáo tại đây, tuy nhiên thực chất mục đích chuyến đi này là để xây dựng tình hữu nghị giao hòa lâu dài cho hai đất nước Việt – Chiêm. Sau lần tiếp xúc thân mật với vua Chiêm là Chế Mân, Trần Nhân Tông đã hứa gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, bù lại đất nước Đại Việt có thêm hai châu Ô và châu Lý được xem là sính lễ của vua Chiêm, sau này châu Ô và châu Lý được nhà Trần đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Cùng với việc mở mang bờ cõi phương Nam, các nhà chính trị Phật tử đời Trần đã hai lần đánh tan đoàn quân xâm lược Nguyên Mông nổi tiếng là bất bại trên khắp các chiến trường Trung Á.
– Vài nét về vai trò của Phật giáo đối với việc phát triển đất nước thời nhà Trần:
Vào thời hậu Lý, nếu các vua Lý rất cần sự hiện diện của các thiền sư để cùng đảm dương trọng trách quốc gia, bởi họ rất uyên bác trên nhiều lãnh vực. Tuy nhiên đến đời nhà Trần thì các vua Trần đều là những bậc trí giả, tinh thông cả Nho lẫn Phật, hơn thế nữa, họ còn là những hành giả thực thụ của thiền tông và đều thâm chứng Phật pháp như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông; chính vì vậy mà Phật giáo đóng một vai trò chủ lực cực kỳ quan trọng trong việc phát triển đất nước Đại Việt. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy, vai trò đầu tiên của Phật giáo là xây dựng nền tảng đạo đức và luân lý Phật giáo trong toàn dân, tạo mối đại đoàn kết sâu rộng trong mọi tầng lớp xã hội. Nhà Trần đã thành công trong việc liên kết nhân tâm từ vua quan đến thường dân, để thực hiện công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Điểm nổi bật trong thời đại Trần Nhân Tông là thời kỳ Phật giáo cực kỳ hưng thịnh, điều đáng ghi nhận là dù nền chính trị xã hội được xây dựng trên tinh thần từ bi, đạo đức, khoan dung của đạo Phật, nhưng trật tự xã hội vẫn ổn định, mọi hình thức tiêu cực dường như sẽ dễ phát sinh dưới một nền pháp luật thiên về đức trị nhưng điều này lại không xảy ra, ngược lại đất nước ngày càng thái bình an lạc. Phật giáo đời nhà Trần dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các vua Trần, đã gắn chặt khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tất cả cùng hướng về mục tiêu cao cả là phát huy truyền thống tự lực tự cường của dân tộc, bảo vệ vững chắc giang sơn xã tắc Đại Việt, điều này đã được thể hiện qua Hội nghị Diên Hồng do chính vua Trần Nhân Tông đứng ra hiệu triệu và tất cả đều đồng lòng chung sức cùng triều đình quyết tâm đánh tan giặc ngoại xâm. Thời đại nhà Trần, nói đến Phật giáo là nói đến dân tộc, nói đến dân tộc là nói đến Phật giáo. Từ đó chúng ta có thể khẳng định rằng, Phật giáo đời Trần là nền Phật giáo độc lập, nó phục vụ cho dân tộc Việt, duy trì bồi đắp phẩm chất Việt, phát huy nội lực của dân tộc Việt, đây là điểm sáng lung linh làm nổi bật lên vai trò đồng hành và gắn kết của Phật giáo với dân tộc dưới thời nhà Trần đối với việc phát triển đất nước Đại Việt.
Từ hành trạng của các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và đặc biệt là Trần Nhân Tông đã nêu bật lên tính nhập thế hết lòng phụng sự dân tộc của đạo Phật, đã định hướng một đời sống tâm linh dồi dào nội lực cho cả một dân tộc, làm nền tảng cho sự bền vững đạo đức, là cơ sở vững chắc để phát triển đất nước, đồng thời tạo kế lâu dài cho sự nghiệp triều đại nhà Trần. Lịch sử Phật giáo đã ghi lại lời quốc sư Trúc Lâm (tức thiền sư Đạo Viên hay Viên Chứng) giáo huấn vua Trần Thái Tông về bổn phận của một nhà chính trị khi đã là một Phật tử: “Đã là người phụng sự dân thì phải lấy cái muốn của dân làm cái muốn của mình, phải lấy ý dân làm ý mình, trong khi đó không được xao lãng việc tu học của bản thân”. Hay như vua Trần Nhân Tông đã khẳng định đường lối trị nước của mình: “Nhà chính trị phải thực hiện đạo Phật trong xã hội”. Có thể nói đây cũng là những ưu điểm của Phật giáo nhà Trần trên tinh thần tự do và khoan dung đặc biệt. Chính sự linh động mềm dẻo và khoan dung này mà các vua Trần đã nhận được sự đồng tâm hiệp lực của khối đại đoàn kết dân tộc, tất cả đều hết lòng cùng triều đình chống lại giặc ngoại xâm, hết lòng phụng sự tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước. Về phương diện chính trị, nhờ ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng từ bi và tinh thần vị tha vô ngã của đạo Phật nên nền chính trị nhà Trần áp dụng đã thể hiện rõ ba nét đặc trưng: Bình dị, Thân dân, Dân chủ. Tinh thần bình dị, thân dân, dân chủ được các vua trần áp dụng triệt để, năm 1284, trước vó ngựa dần dập của quân xâm lược Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng mời tất cả bô lão gần xa đến tham dự để nhà vua được nghe tiếng nói của dân. Hoặc mỗi khi có việc phải ra ngoài thành, thay vì tiền hô hậu ủng thì các vua Trần sống rất đơn giản, nhà vua thường dừng lại ân cần hỏi thăm dân chúng, chào hỏi những bậc cao niên. Vào những năm mất mùa, dân tình lâm cảnh thiếu trước hụt sau, nhà vua ngoài việc ủy lạo còn đứng ra vận động những nhà giàu có đóng góp lúa gạo để phát cho dân nghèo, thậm chí còn chế cả thuốc men để chữa bệnh cho dân…
3. Vai trò của Phật giáo đối với đất nước sau thời nhà Trần:
Sau thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, là thời kỳ suy giảm, khi nhà Hậu Lê lên cầm quyền, đã tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Đến đời vua Tự Đức thì Việt Nam mất chủ quyền, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Phật giáo trở nên suy vi, vì chính quyền Pháp đã du nhập đạo Ky-tô vào Việt Nam. Kể từ đó cho đến mãi cuối thế kỷ 19, với nhiều biến động của thời cuộc đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của Phật giáo. Dù dân tộc Việt Nam có trải qua những bước thịnh suy và Phật giáo Việt Nam có thăng trầm thế nào đi chăng nữa, thì nguồn sống đạo đức trong lòng dân tộc và mạng mạch Phật pháp vẫn ngấm ngầm trong hàng triệu triệu trái tim người Phật tử Việt Nam. Bước qua thế kỷ 20, Phật giáo Việt Nam bắt đầu phục hưng trở lại, vào những năm 30 của thế kỷ trước, các hội Phật giáo ở Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ lần lượt ra đời, hoạt động sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, tạo nền luồng gió mới trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt là đến thời đại Hồ Chí Minh lịch sử, Phật giáo Việt Nam một lần nữa chuyển mình sang giai đoạn có thể nói là huy hoàng xán lạng.
Từ thế kỷ 19 trở đi, thế lực chính trị chủ yếu ảnh hưởng từ Nho giáo, trong khi đó thực dân Pháp dùng con đường truyền đạo Ki Tô và hợp tác chặt chẽ với Cơ Đốc giáo làm bàn đạp cai trị nước ta. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Phật giáo lại một lần nữa chung sức đồng lòng tham gia kháng chiến cứu nguy dân tộc. Trong thời chống Pháp, nổi bật lên là cuộc khởi nghĩa của cư sĩ Võ Trứ vào năm 1898, ông là đệ tử của thiền sư Đá Bạc tu trong một hang động trên dãy Trường Sơn nằm giữa hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ tỉnh Bình Định, thiền sư Đá Bạc đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này là vận động khởi nghĩa chống thực dân Pháp khiến cho người Pháp gọi cuộc khởi nghĩa này là “giặc thầy chùa”. Kế đến là cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính nổ ra ở phía Bắc rải rác từ Nghệ An ra tới Bắc Ninh quy tụ hàng vạn nghĩa quân là Phật tử. Cuộc tấn công thực dân Pháp tại Hà Nội vào đêm 5.12.1898 thất bại, khiến cho hàng ngàn Tăng Ni Phật tử bị bắt bớ tù đày, xử tử. Chúng ta có thể thấy rằng, Phật giáo Việt Nam dù ở thời đại nào, lâm vào hoàn cảnh nào thì cũng luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, điều này càng khẳng định khi thế lực thực quân Pháp quá mạnh, khiến cho phong trào Cần Vương kháng chiến chủ yếu là thành phần Nho sĩ, bị tiêu hao sinh lực đành phải lui về ẩn sau trong lòng quần chúng. Điều thú vị là “quần chúng” mà phong trào Cần Vương đặt niềm tin rất lớn và an toàn nhất lại là những ngôi chùa, ở đó họ được sự che chở đùm bọc tận tình của chư Tăng, chẳng hạn như các chí sĩ yêu nước Lương Văn Can, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Quyền, Trần Cao Vân thường hội họp ở các chùa Trấn Quốc, Hà Mã, Liên Phái để tránh sự dòm ngó của thực dân Pháp. Đến đầu thế kỷ 20, Phật giáo Viện Nam được chấn hưng trở lại, mọi hoạt động đều tập trung vào công tác giáo dục và hoằng pháp, xây dựng lại cơ sở tu học, ổn định nhân sự, nên vai trò của Phật giáo đối với đất nước chỉ thiên về hỗ trợ tâm linh và đạo đức . Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những vị Tăng nhiệt tình tham gia cách mạng để thỏa lòng thực hiện hoài bão đóng góp cho dân tộc, trong đó phải kể đến sư Thiện Chiếu và sư Trí Thiền, hai nhà sư này đều từng bị giặc Pháp đày đi Côn Đảo…Trong đó có sự tham gia tích cực của phật tử sĩ phu yêu nước Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng phật giáo. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước tạm thời chia cắt hai miền Nam Bắc, tại miền Nam, chế độ độc tài của gia đình Ngô Đình Diệm, thẳng tay đàn áp Phật giáo một cách dã man vì cho rằng “Phật giáo chính là Cộng Sản”.
Trong giai đoạn này, hàng ngàn ngôi chùa trên khắp miền Nam bị chính quyền Ngô Đình Diệm ra tay đập phá, hàng chục ngàn Tăng Ni bị bắt bớ, tra tấn đánh đập dã man, thậm chí dùng cả xe tăng, lựu đạn và súng đại liên tàn sát tín đồ Phật giáo trước Đài phát thanh ở Huế một cách bạo tàn, điều này tạo nên luồng dư luận căm phẩn sâu sắc trên thế giới và điều này đã khiến cho chế độ họ Ngô sụp đổ một cách thê thảm. Cũng cần nói thêm trong thời gian này, trên khắp miền Nam đã có hàng chục Tăng Ni tự thiêu phản đối chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và để cầu nguyện cho đất nước sớm hòa bình thống nhất, nổi bật lên là ngọn lửa của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã làm rung động hàng triệu triệu trái tim yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Bước sang chế độ Nguyễn Văn Thiệu, các vị lãnh đạo Phật giáo Việt Nam cũng như hàng triệu tín đồ Phật giáo đã hết lòng ủng hộ cách mạng, do vậy mà chùa chiền là nơi trú ẩn giao ban hội họp của cán bộ cách mạng, sư sãi nhiều người trực tiếp tham gia công tác ngay trong lòng địch, các cuộc xuống đường biểu tình của Phật giáo đòi chấm dứt chiến tranh, đòi hòa bình thống nhất đất nước. Vai trò của Phật giáo trong giai đoạn này đối với dân tộc rất là quan trọng, bởi Phật giáo đã thể hiện quyết tâm cao nhất của mình bằng sự gắn bó sắc son, đồng hành sâu sắc với dân tộc. Phật giáo đã đem hết khả năng để phụng sự dân tộc trong lúc nước nhà gặp cơn nguy biến.
Sau năm 1975, đất nước hòa bình thống nhất, đây có thể nói đây cũng là nguồn cảm hứng sâu xa để Phật giáo nói chung và nơi cá nhân mỗi người con Phật đem hết khả năng của mình phụng sự đạo pháp và dân tộc.
Nhìn lại lịch sử , nếu nói nhà Lý là khởi đầu của sự phát triển Phật giáo Việt Nam, nhà Trần là sự thống nhất Phật giáo và là thời kỳ hưng thịnh tuyệt vời nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, thì Phật giáo trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử hiện nay, chúng tôi mạo muội cho rằng, đây cũng chính là thời kỳ Phật giáo nước nhà lặp lại chu kỳ đúng 1000 năm lịch sử dân tộc.
Thật vậy, sau gần 1000 năm tụ tán thăng trầm, ngày nay Phật giáo Việt Nam đã được thống nhất thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nếu Phật giáo thời Trần có giáo hội Trúc Lâm là giáo hội của triều đình các vua Trần, thì nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng được sự quan tâm sâu sắc và hỗ trợ hết mình của Nhà nước, nhờ vậy mà Phật giáo có nhiều điều kiện hơn để tu hành và đóng góp cho đất nước. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự phát triển lớn mạnh của Phật giáo Việt Nam cũng như vai trò của Phật giáo Việt Nam đối với đất nước, thể hiện trong lãnh vực văn hóa xã hội, ngoại giao… thông qua hai con đường hoằng pháp và giáo dục trải dài trong suốt 35 năm qua.
Nhìn lại một chằng đường ngàn năm lịch sử sân tộc, chúng ta thấy rằng, thời Lý – Trần, các vị vua đều là những Phật tử thuần thành chứng ngộ Phật pháp, chính vì vậy nên các ngài đã hoàn thành trọng trách quốc gia, đất nước không ngừng phát triển và thạnh trị. Nguyên nhân chính để các vua Lý – Trần hoàn thành sứ mạng của mình là nền tảng đạo đức và trí tuệ, xuất phát từ quá trình tu nhân tích đức, tham thiền học đạo. Đồng thời nguyên nhân sâu xa là sự đóng góp tích cực và hiệu quả của các thiền sư và toàn thể tín đồ Phật giáo trên nhiều phương diện cuộc sống. Do vậy, để làm tốt vai trò đồng hành cùng dân tộc trên phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ Nghĩa Xã Hội”, thì mỗi cá nhân Tăng Ni Phật tử phải thật sự tinh tấn hành trì, giữ gìn giới luật, đem hết khả năng phụng sự đạo pháp và dân tộc trên tinh thần vô ngã, cộng hưởng sự tích cực giữa chính quyền và Phật giáo thì đất nước Việt Nam sẽ ngày càng thạnh vượng, dân chúng sẽ được hưởng cảnh thái bình ấm no an lạc lâu dài.
Nhân sự kiện 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, chúng tôi tự tin khẳng định rằng, nói đến dân tộc Việt Nam tức là nói đến Phật giáo Việt Nam, và ngược lại, quả thật như vậy, trong quá khứ và ngay trong thời nay, Phật giáo Việt Nam quả là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, trong vai trò chủ đạo, Phật giáo Việt Nam đã kiến lập nên triều đại nhà Lý, đã đưa dân tộc Việt Nam trở thành đất nước Đại Cồ Việt, rồi phát triển vượt bật hơn nữa để trở thành Đại Việt, một quốc gia bất khả chiến bại với bất kỳ đoàn quân xâm lược hùng mạnh nào đi chăng nữa, dù đó là quân Tống, Minh, Thanh hay quân Pháp, Nhật, Mỹ… cũng đều phải cúi đầu khuất phục bởi một dân tộc tràn đầy ý chí quật cường và dạt dào lòng yêu nước. Chính những điều này đã tạo nên một nền văn hóa Việt Nam độc lập ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam. Từ 1000 năm qua, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa được hòa quyện nhuần nhuyễn giữa văn hóa dân tộc việt Nam và văn hóa Phật giáo Việt Nam, một sự hòa quyện không thể tách rời nhau . Trong quá khứ, phương châm “Đạo pháp và Dân tộc” đã được hai triều đại Lý – Trần nâng lên làm quốc sách để phát triển đất nước và đã thành công mỹ mãn, thì thời nay, nhà nước cần đề ra phương án khả thi để dung thông văn hóa Phật giáo với văn hóa dân tộc, hòa quyện tâm từ bi cứu khổ của đạo Phật với đạo đức truyền thống của dân tộc, kết hợp trí tuệ giải thoát vô ngã vị tha của đạo Phật với tư tưởng Hồ Chí Minh. Hài hòa tất cả điều này sẽ là một định hướng chuẩn cho sự phát triển để đưa đất nước Việt Nam ngày càng vươn lên tầm cao mới.