VI. PHẬT GIÁO THỜI KỲ ĐẦU CỦA NGƯỜI ÂU MỸ
hay những khóa của các sinh viên, học sinh Đức đến Chùa Viên Giác tại Hannover để tìm hiểu Phật Pháp; hoặc giả các Tổ chức Từ Thiện của Caritas hay Lion Club v.v… và những nơi mà tôi có cơ hội đến để thuyết trình về giáo lý Đạo Phật; nhờ đó tôi quan sát cách hiểu của họ về Phật Giáo như thế nào, để từ đó tôi hướng dẫn họ thực tế hơn.
Nhiều lúc tôi cũng khôi hài; nhưng cũng không thiếu tính cách thực tế và trình bày với người Đức rằng: “Nếu Đức Phật sinh ra tại Âu Châu, thì tất cả quý vị đã là Phật Tử rồi. Vì Đức Phật sinh ra tại Ấn Độ; cho nên giờ nầy người Đức và người Âu Mỹ mới tìm hiểu đến giáo lý của Đạo Phật”. Mọi người cười và tỏ ý gật đầu. Tôi tiếp tục chứng minh cho những người Đức hiện diện thấy rằng: Hầu như các bậc Giáo Chủ lớn của các Tôn Giáo đều phát xuất từ Á Châu. Ví dụ như: Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, Đức Khổng Tử, Lão Tử và ngay cả Đức Chúa Jesus cũng sinh ra tại Israel, là một phần đất nằm ở miền Trung Á Châu. Lý do tại sao thì để cho những nhà nghiên cứu về Tôn Giáo trả lời. Nhưng theo tôi: Sở những nhà Hiền Triết và các bậc Giáo Chủ của các Tôn Giáo đều xuất phát từ Á Châu, vì Á Châu có núi cao và sông dài, trong khi đó ở Âu Mỹ không có những thuận duyên ấy.
Riêng người Á Châu đã rõ biết Âu, Úc, Mỹ Châu theo Đạo gì từ thế kỷ thứ 16, khi mà những nhà thám hiểm Âu Châu đặt chân đến Á Châu và các châu lục khác về sau nầy. Khi họ đến chúng tôi, họ mang theo niềm tin của họ. Đó là quyển Thánh Kinh và cây Thập Tự Giá. Ban đầu khi họ đến Á Châu, với tư cách là những thương nhân theo nhũng thuyền buôn bán trao đổi hàng hóa; nhưng sau đó dẫn đến việc truyền đạo và làm bàn đạp để dẫn đến chủ nghĩa thực dân như tại Việt Nam, Lào, Cao Miên người Pháp đã chiếm làm thuộc địa từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ thứ 20. Tại Ấn Độ, Tích Lan người Anh đã chiếm làm thuộc địa cũng cùng thời gian như vậy. Rồi người Hòa Lan ở Indonesia; người Tây Ban Nha ờ Phi Luật Tân v.v… Tất cả đều khởi đi từ tham vọng của con người; nhưng Tôn Giáo không phải vậy. Tôn Giáo là chỗ dựa tâm linh của con người, khi con người gặp hoạn nạn, khổ đau hay những mục tiêu cao cả hơn về sự sống và sự chết.
Người Âu Mỹ hiểu về Đạo Phật có nhiều nguyên nhân và động lực khác nhau khi mà những người nầy có cơ hội đến Ấn Độ, Tích Lan, Đông Dương, Trung Hoa, Nhật Bản để tìm hiểu qua các việc khảo cổ hay hội họa, ngôn ngữ v.v… từ đó họ có cảm tình với Đạo Phật. Sau đây là một vài ví dụ điển hình.
Ví dụ như trường hợp tại Ấn Độ. Sau khi Vua A Dục trở thành một Phật Tử, ông Vua nầy đã cho xây 84.000 ngọn tháp khắp nơi trên xứ Ấn Độ và đặc biệt nơi nào có những sự kiện đặc biệt như Đản Sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp lần đầu tiên; hay nơi thị tịch Niết Bàn của Đức Phật v.v… ông đều cho xây những trụ đá với 4 đầu sư tử xoay theo 4 hướng và trên trụ đá ấy có khắc những chỉ dụ của Đức Vua. Ví dụ như tại Lâm Tỳ Ni, ngày nay chúng ta còn thấy trên trụ đá có khắc những dòng chữ như sau: “Đây là nơi Đản Sanh của Đức Phật, Trẫm miễn một phần bảy thuế cho dân làng nầy”. Những bia trụ đá ấy qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử trải qua hơn 2.300 năm tại Ấn Độ đã bị thiên nhiên hủy hoại như động đất, thiên tai; hoặc giả bị quân Hồi Giáo từ Thổ Nhĩ Kỳ tiến quân đánh chiếm Ấn Độ vào thế kỷ thứ 10 thứ 11 v.v… rồi bẵng đi một thời gian dài, Phật Giáo Ấn Độ đã trải qua thời kỳ suy vong, không ai còn tin theo giáo lý của Đức Phật nữa; cho nên ít người tìm hiểu cội nguồn làm gì. Mãi cho đến khi người Anh chiếm Ấn Độ làm thuộc địa vào cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20 những nhà khảo cổ học mới tìm tòi nghiên cứu lịch sử của Đức Phật và đến những nơi lịch sử ấy để khai quật bao nhiêu năm tháng mới rõ được ngọn ngành. Đấy là nhờ vào những bia ký của Vua A Dục còn ghi lại trên những trụ đá.
Ngay như Đại Tháp Bồ Đề; nơi Đức Phật Thành Đạo; ngày nay nằm ở Bang Bihar thuộc miền Bắc Ấn Độ cũng đã nhờ những nhà khảo cổ học người Anh tìm ra Đại Tháp nầy bị chôn vùi dưới lòng đất; từ đó dần khai quật lên và tái tạo thành một bảo tháp nguy nga như ngày nay là nhờ công lao của những nhà nghiên cứu Âu Mỹ và những Phật Tử hảo tâm trên thế giới. Sau khi khảo sát, nghiên cứu, tìm hiểu, đào xới những di tích lịch sử ấy thành công, họ trở lại quê hương họ, viết những bài tường thuật, phân tích v.v… từ đó khiến cho những học giả khác đương thời quan tâm đến Phật Giáo, rồi họ nghiên cứu tiếng Pali, tiếng Sanskrit để sau nầy tại Anh thành lập cả một cơ sở xuất bản tiếng Pali và ngay cả 3 Tạng Thánh Giáo Nam Truyền cũng được in ấn tại London. Những nhà học giả ban đầu của Anh như ông bà Rhys David hay triết gia Đức Schopenhauer v.v… là những nhà tiên phong của Âu Châu nghiên cứu về lãnh vực nầy.
Ví dụ trường hợp tại Tích Lan. Khi người Tây Ban Nha đi thì người Anh đến và khi họ đến thì họ lo xây nhà thờ Thiên Chúa và họ lo cải đạo người địa phương để trở thành con chiên ngoan đạo để phụng sự cho Tôn Giáo nầy. Tích Lan là một xứ Phật Giáo từ thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch do Công chúa Sanghamita và Hoàng tử Mahinda con Vua A Dục mang cây Bồ Đề từ Ấn Độ vào trồng tại đây, cũng như giáo pháp của Đức Phật đã được nhà vua Tích Lan thuở ấy chấp nhận một cách dễ dàng và giáo lý ấy phát triển tại đảo quốc nầy để sau nầy Phật Giáo trở thành quốc giáo; nhưng đến khi những người Âu Châu cai trị xứ nầy từ thế kỷ thứ 18, 19 thì họ đã triệt hạ Phật Giáo bằng nhiều hình thức khác nhau; đến nỗi Phật Giáo không còn một trường học, một tờ báo nào cả. Do vậy các học giả người Mỹ như ông bà Đại tá Henry Olcott có cơ hội đến thăm viếng đảo quốc nầy và ông ta muốn chủ trương phục hưng lại Phật Giáo. Điều đầu tiên là ông ta về Mỹ viết những bài báo có lợi cho Phật Giáo để cổ xúy cho Tăng Già và Phật Tử Tích Lan nắm lại vị trí của mình qua việc truyền thông và giáo dục. Ông bà đứng phía sau vận động các chính phủ Mỹ, Anh và tìm nguồn tài chánh giúp đỡ để cho những cơ quan ngôn luận của Phật Giáo tái phục hồi và điều đặc biệt là vào năm 1904 nghĩa là cách đây hơn một thế kỷ, ông Henry Olcott nhận thấy vầng hào quang trên đầu của Đức Phật có 5 màu gồm: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam; nên ông đề nghị với Hội Đồng Tăng Già Tích Lan là nên chọn làm lá cờ Phật Giáo chung cho cả thế giới. Thế là đi đến kết quả được biểu quyết chung tại Đại Hội Phật Giáo Thế Giới vào năm 1951 và đã thực hiện được điều nầy và Việt Nam là một thành viên cũng như một lá phiếu đã được tham dự trong việc thành tựu quan trọng ấy.
Từ những năm 1948 đến 1954 là những năm sau Đệ nhị thế chiến (1939-1945) các thế lực chủ động như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha v.v… đã trao trả độc lập lại cho các xứ Á Châu và Phi Châu. Từ đó những người có liên hệ với Á Châu, đặc biệt là Tôn Giáo, chính họ đã đi đến Á Châu để xuất gia học đạo và ở luôn tại đó nghiên cứu về Phật Học, ví dụ như Hòa Thượng Nanaponika người Đức, là một học giả tiếng Pali, đã dịch ra tiếng Đức tam tạng tiếng nầy. Do vậy người Đức theo Nam Tông ngày nay có đầy đủ tài liệu để nghiên cứu về Phật Học. Ngài xuất gia tại Tích Lan, hành đạo tại Tích Lan và viên tịch cũng tại Tích Lan.
Riêng Nhật Bản là một xứ đặc biệt, đã có rất nhiều thương thuyền của người Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đến xứ sở nầy từ thế kỷ thứ 16, 17 giống như trường hợp Việt Nam; nhưng mãi đến nay (2011) sau hơn 400 năm truyền đạo tại xứ nầy mà thành phần Thiên Chúa Giáo chỉ có khoảng 0,03% trên 130 triệu dân tại đảo quốc nầy, quả là điều rất hy hữu. Ngược lại những nhà truyền giáo Dòng Francisco họ còn đến những Trung tâm Thiền viện lớn của Nhật học Thiền và họ mang Thiền ấy trở về lại Âu, Mỹ để dạy cho tín đồ của họ.
Trước năm 1975 ở Việt Nam cũng có một vài vị Sư người Đức đến xuất gia và tu học tại Sàigòn như Ngài Anurudha, tên Đức là Dr. Peter Petri; chính chúng tôi đã gặp Ngài tại Hannover vào năm 1978 sau khi Ngài ở tù tại Việt Nam 2 năm và được trở về lại Đức. Ngài có tường thuật lại đời sống của Ngài trước và sau 1975 trên báo Viên Giác; nhưng chẳng bao lâu sau thì Ngài viên tịch tại Hamburg.
Nêu lên những ví dụ như trên để chúng ta thấy rằng Đạo Phật không có một cơ quan truyền giáo nào cả. Chỉ do những người Âu Mỹ, qua việc thôi thúc bởi nghề nghiệp hay cảm tình, họ đã đến với Đạo Phật; không những chỉ tìm hiểu qua loa, mà còn đi xuất gia tại các nước Á Châu rồi ở luôn tại đó; hoặc về lại quê hương của họ để gây dựng nên những đạo tràng để cho người bản xứ cùng tu học giáo lý của Đạo Phật.
Cuộc Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 tại Trung Hoa đã chấm dứt chế độ Vua Chúa nhà Thanh. Tôn Dật Tiên chủ trương chủ nghĩa Tam Dân. Đó là Dân sinh, Dân tộc và Dân quyền. Tiếp theo cách mạng của Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch là người lãnh hội tư tưởng nầy và năm 1949 khi Mao Trạch Đông chiếm toàn cõi Trung Hoa thì Tưởng Giới Thạch và những người tùy tùng đã bỏ lục địa qua Đài Loan để lập quốc. Trên những con đường nhiều ngõ ngách và đổ nát ấy từ năm 1911 đến năm 1949 đã có không biết bao nhiêu người Trung Hoa chạy sang Hoa Kỳ và Úc Châu để tỵ nạn. Trên đường đi tìm tự do ấy cũng không thiếu những bậc tu hành danh tiếng cùng đi chung và sau khi đi đến những nơi nầy họ đã lập chùa, quy tụ quần chúng cả người Hoa lẫn người địa phương để nghe pháp, cúng bái, cầu nguyện. Từ đó những Chùa, Viện được lập ra và người xuất gia có nơi được kế thừa mà cũng có nơi đã thay ngôi đổi chủ.
Từ Đại Lục Trung Hoa chạy sang Việt Nam và Mã Lai có Ngài Diễn Bồi; chạy qua Hồng Kông có ngài Tuyên Hóa, sau đó Ngài Tuyên Hóa sang Hoa Kỳ để tiếp tăng độ chúng. Ngài Tuyên Hóa là một trong những chư tăng thành công việc cấy hạt giống Bồ Đề tại Mỹ quốc qua việc truyền thọ giới Tỳ Kheo cho những người Mỹ và chính những vị Sư người Hoa Kỳ nầy là gạch nối tương đối khá quan trọng cho việc dịch Đại Tạng Kinh từ chữ Hán sang tiếng Anh tại Vạn Phật Thánh Thành gần San Francisco Hoa Kỳ ngày nay.
Từ Trung Hoa Đại Lục đến Đài Loan gồm các Ngài Bạch Thánh, Ngộ Minh, Tinh Vân, Ấn Thuận, Thánh Nghiêm v.v… Các vị nầy đã mang tư tưởng Phật Giáo Trung Hoa đến Đài Loan và từ Đài Loan đến Nhật Bản rồi Hoa Kỳ (như Ngài Thánh Nghiêm). Riêng Ngài Tinh Vân sau khi đã xây dựng cơ sở Phật Quang Sơn tại Đài Nam Đài Loan rồi; Ngài cho các đệ tử qua Nhật Bản và Âu Mỹ du học. Sau khi thành tài trở về lại Đài Loan và Ngài tiếp tục gây dựng cơ sở từ 1949 đến năm 2011; qua hơn 60 năm ấy đã có hơn 160 ngôi chùa lớn nhỏ trên khắp các lục địa Âu, Á, Mỹ, Phi và Úc Châu. Nơi nào cũng có trường Đại Học đi kèm để dạy ngôn ngữ Phổ Thông, tiếng Anh cho người địa phương hay con em của những người Hoa sinh ra tại đó mà không rành tiếng mẹ đẻ. Ví dụ như Nam Thiên Tự ở Woolongong Úc Châu, Tây Lai Tự ở Los Angeles Hoa Kỳ v.v… là những nơi đào tạo ở cấp bậc Đại Học và Hậu Đại Học của Phật Giáo.
Xem tự truyện và tiểu sử của các Ngài Ấn Thuận, Tinh Vân, hầu như không có một vị nào có một bằng cấp nào cả, mà qua một cuộc đời tận tụy với Phật Pháp, các Ngài đã làm cho bông hoa giác ngộ nầy tỏa ngát hương thơm khắp bốn phương trời. Quả là Phật Pháp nhiệm mầu và vi diệu. Ngay cả Ngài Thánh Nghiêm sáng lập Pháp Cổ Sơn tại Đài Loan và Đông Sơ Thiền Tự ở Mỹ cũng vậy, theo trong tự truyện của Ngài kể là Ngài chưa hề tốt nghiệp Trung Học và Đại Học; nhưng nhờ có nhân duyên viết nhiều bài nghiên cứu về Phật Pháp, Ngài được qua Nhật du học 7 năm, từ năm 1969 đến năm 1976 thì tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật Học tại Đại Học Risso (Lập Chánh) ở Tokyo thuộc Nhật Liên Tông. Khi sang Hoa Kỳ Ngài cũng đã sống một cuộc đời thuở ban đầu thật vất vả; nhiều khi không có nhà cửa để ở, Ngài phải sống ngoài nhà gare xe lửa chung với những kẻ bụi đời. Thế mà ở vào cuối đời Ngài, Ngài đã làm được vô số công việc tại Đài Loan và tại ngoại quốc. Ví dụ như Pháp Cổ Sơn tại Đài Loan ngày nay cũng có Đại Học Phật Giáo đi kèm và Tăng Ni Chúng tại Bổn Bộ nầy không dưới 400 người.
Đa phần những người Âu Mỹ tin và học theo Phật Giáo đều bắt nguồn từ truyền thống Nam Tông như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan v.v… là do những động cơ như trên đã trình bày. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 20 Phật Giáo được du nhập vào các nước Âu Mỹ do những tư tưởng chủ đạo sau đây:
Đầu tiên là Thiền Học Nhật Bản do Đại Sư Suzuki Daietz người Nhật chủ trương qua các tác phẩm: Easy Zen and Easy Practice, Japanese Zen v.v… đã làm cho nhiều người Âu Mỹ lưu tâm đến tinh thần Thiền Đại Thừa nầy. Như trên đã trình bày rằng: Thiền vốn bắt nguồn từ Ấn Độ, qua Trung Hoa rồi được truyền sang Nhật Bản; nhưng khi đến Nhật, Thiền ấy đã trở thành Zen của người Nhật và ít ai quan tâm đến Ch’an của Trung Hoa hay Dhyana của Ấn Độ nữa. Đây là một thành công lớn của người Nhật.
Năm 1904 ở vào đầu thế kỷ thứ 20, sau chiến tranh Nhật Nga; thế giới để tâm vào sự chuyển hướng và tiêu thụ văn hóa Tây Phương của người Nhật qua công cuộc duy tân của Vua Minh Trị (Meiji) vào năm 1868. Ông Vua nầy là một Ông Vua Cách Mạng của Nhật; ông chủ trương nước Nhật phải học hỏi văn hóa và kỹ nghệ của Tây Phương và đem tư tưởng nầy vào canh tân xứ sở Nhật Bản. Từ năm 1868 đến năm 1904 chưa đầy nửa thế kỷ qua việc canh tân mà Nhật đã thắng Nga, khiến cho thế giới phải lưu tâm. Dĩ nhiên là Tôn Giáo của Á Châu không nhờ những đoàn quân viễn chinh đi trước để truyền được đạo vào quê hương sở tại, mà điều quan trọng chính là do người Âu Mỹ thích tìm hiểu đến Phật Giáo nên đã tự động đến với Phật Giáo bằng nhiều hình thức khác nhau, thế thôi!
Ông Suzuki được một cái lợi điểm là ông có vợ người Anh; nên những gì ông diễn thuyết hay viết thành sách vở, đều nhờ người vợ nầy chỉnh đốn lại bài vở trước khi thuyết trình hay in ấn thành sách để xuất bản; cho nên người Âu Mỹ đến với Thiền Học dễ dàng hơn. Rõ ràng là Thiền không cần nhiều ngôn ngữ; nên những vị Thiền Sư hay dùng sự im lặng trong tỉnh thức để dạy học trò là vậy. Với hình thức nầy ngày xưa các vị Tổ Sư thường lấy tâm truyền tâm. Còn bây giờ đa phần là lấy pháp để truyền tâm.
Theo Ngài Ấn Thuận, một Đại Sư, một Đại học giả của Phật Giáo Đài Loan thì Ngài cho rằng: khi Thiền đến Trung Quốc, thiền đã biến dạng quá nhiều. Ví dụ như quán thoại đầu hay nghi tình v.v… vốn trong thiền nguyên thủy không có. Các Ngài đã đi xa quá rồi. Lúc đến Nhật lại càng xa với cội nguồn hơn nữa; nhưng dẫu sao đó cũng là những đề tài khiến cho những thiền sinh phải lưu tâm nhiều hơn để đi sâu vào nội tâm của mình và từ đó có thể tập trung tư tưởng một cách dễ dàng hơn.
Khi người Âu Mỹ đến với Thiền qua các buổi diễn thuyết của ông Suzuki tại London, New York hay một vài địa phươhg khác tại Âu Châu; người Âu Mỹ bây giờ có một cái nhìn mới về Phật Giáo Đại Thừa qua việc thực tập thiền nầy, tương đối với thiền Tiểu Thừa Vipassana, vốn lâu nay họ đã hành trì. Thiền Vipassana dựa theo An Bang Thủ Ý Kinh, là thiền quán niệm hơi thở. Đây là căn bản để thực tập Thiền nầy đi sâu vào trong chánh định. Nhưng căn bản của Tiểu Thừa là chỉ có người xuất gia mới chứng nhập quả vị A La Hán; còn người tại gia dầu cho có thực tập thiền ở mức nào đi chăng nữa thì điểm cao nhất mà họ đạt được chỉ ở quả Dự Lưu mà thôi. Mục đích họ làm phước, bố thí trong đời nầy chỉ để cho kiếp sau được sanh Thiên, sống đời giàu có hơn và được làm chư Thiên hay loài người đẹp đẽ hơn để hưởng phước lạc, do cái nhân ở kiếp trước mình đã trồng. Trong khi đó Đại Thừa thì khác hẳn. Đại Thừa là con đường Bồ Tát để đi đến Phật quả. Quả vị Bồ Tát và ngay cả quả vị Phật đối với Đại Thừa không có phân biệt là Cư sĩ hay Tăng sĩ. Từ đây có một lối nhận định mới với người Phật Tử Âu Mỹ, vốn họ là những người đang lãnh đạo Hội Phật Giáo; hoặc tự tu cho cá nhân mình có cái nhìn khác hơn. Do vậy kể từ đầu thế kỷ thứ 20 trở đi, người Âu Mỹ đã bắt đầu thực tập Thiền Nhật Bản và một ít Thiền Trung Hoa và sau nầy thì còn Thiền Đại Hàn và Việt Nam nữa.
Từ năm 1959 trở về sau nầy, khi mà có sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tại Ấn Độ và rồi những sách vở bằng tiếng Anh về Kim Cang Thừa xuất hiện và nhất là những năm sau nầy khi Đức Đạt Lai Lạt Ma trực tiếp đi diễn giảng tại Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và Á Châu thì phong trào học Phật lại còn cao hơn nữa. Cao nhất vẫn là Trung Quán, Bồ Đề Tâm, Tánh Không. Thế nhưng một số các bậc Kỳ Lão của Phật Giáo Việt Nam và ngay cả Phật Giáo Đài Loan (ví dụ như Ngài Ấn Thuận) vẫn không tin tuởng vào Mật Tông mấy, nhất là phái mũ đỏ. Phái nầy như chương về Phật Giáo Tây Tạng chúng ta đã thấy, thuộc phái Cổ Mật do Ngài Liên Hoa Sanh truyền vào, sau đó Ngài Atisa (A Đề Sa) tiếp tục; nhưng giữa hai phái nầy đối chọi nhau qua tư tưởng của Trung Quán và tư tưởng của Du Già Sư Địa Luận. Việc nầy đã xảy ra từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15 tại Tây Tạng; khiến cho cách hành trì của phái mũ đỏ nầy đi vào chỗ mê tín, cầu đảo và điều huyền bí khó hiểu hơn là Vô Thượng Du Già đã đưa đến chỗ thật bí hiểm giữa sự giao cấu nam nữ với nhau, tạo ra những khoái cảm về dục lạc, thay vì chứng đạo giải thoát và thoát ly sanh tử luân hồi (quan điểm nầy có Ngài Ấn Thuận và Ngài Tịnh Hạnh không đồng ý). Nhưng đến thế kỷ thứ 15 Ngài Tông Khách Ba xuất hiện tại Tây Tạng và Ngài đã tổng hợp hai khuynh hướng Trung Quán của Ngài Long Thọ, Du Già Sư Địa Luận của Ngài Atisa để trở thành chỗ kết hợp phần cao thâm nhất của 2 phái nầy và loại trừ những mê tín, dị đoan của Vô Thượng Du Già để Ngài Tông Khách Ba trở thành vị Tổ Sư của phái Mũ Vàng và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thuộc về truyền thống giữ giới nầy. Ngoài ra Ngài Ban Thiền Lạt Ma thứ 10, đang ở bênTrung Hoa cũng thuộc hàng đệ tử nối pháp của Ngài Tông Khách Ba.
Phật Giáo Tây Tạng còn phái mũ trắng cũng xuất hiện cùng thời với phái mũ vàng nữa. Chỉ còn phái mũ đen; tức là Đạo Bon, vốn là tín ngưỡng nhân gian của Tây Tạng thờ thần, thì phái nầy vẫn còn tồn tại.
Khi nghiên cứu về Phật Giáo mỗi nước, chúng ta cố gắng thận trọng vấn đề nầy. Ví dụ như Phật Giáo Việt Nam có các phái Cổ Sơn Môn và Ông Lục; họ vẫn có gia đình vợ con và ăn mặn v.v… không sống đời sống tịnh hạnh như những vị theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Như vậy không có nghĩa là chúng ta loại bỏ giáo hội truyền thống nầy khi thấy Giáo hội Cổ Sơn Môn có gia đình. Ở đây Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng vậy; chính bản thân chúng tôi đã có nhiều lần tiếp xúc và học đạo với Ngài tại Hannover, Hamburg, Frankfurt, Schnever-dingen v.v… khi nào Ngài cũng lấy những kinh điển của Ngài Nagarjuna (Long Thọ), Tông Khách Ba; đôi khi có những tác phẩm của Ngài Atisa ra hướng dẫn người Âu Mỹ trong đó có cả người Việt Nam nữa.
Bây giờ thì sách vở viết và dịch về Phật Giáo Tây Tạng quá nhiều; người ta có thể lên NET hay ra tiệm sách để tìm xem. Điều quan trọng là chúng ta học được gì nơi lòng từ bi và trí tuệ của chính Ngài đã truyền dạy mới là điều quan trọng, chứ không phải chỉ là hình tướng ở bề ngoài. Ví dụ như một hôm có một ký giả hỏi Ngài rằng:
Thưa Ngài: Thế nào là hạnh phúc?
Hạnh phúc hả! Đó là điều mà bạn phải tìm bên trong bởi chính bạn; chứ nó không có ở bên ngoài. Điều nầy người ta không thể đi mua ngoài siêu thị được.
Rõ ràng đây là tinh thần Phật Giáo qua sự thực tập Thiền Định bởi chính Ngài. Theo truyền thuyết và truyền thống, Ngài là hóa thân của Bồ Tát Quan Thế Âm; nhưng với Ngài, chuyện ấy không quan trọng. Quan trọng là vấn đề làm sao tiêu thụ được lời Phật dạy để chuyển hóa nội tâm của mỗi người; ấy mới là điều quan trọng.
Vào năm 2007 tại Hamburg có một Đại Hội chư Tăng Ni và những truyền thống luật tạng có sẵn để bàn về vấn đề: “Có hay không nên cho chư Ni Tây Tạng thọ giới Tỳ Kheo Ni”. Đại Hội được tổ chức tại Đại Học Hamburg. Hôm đó chính chúng tôi cũng đã tham dự. Ngôn ngữ chính được dùng trong Đại Hội nầy là tiếng Anh và tiếng Đức. Đại Hội cũng tán đồng là nên như vậy. Vì có nhiều người nữ Tây Phương khi xuất gia theo truyền thống Tây Tạng; nhưng họ không được thọ giới Tỳ Kheo Ni; nên họ phải qua truyền thống Việt Nam hay Đại Hàn hoặc Đài Loan để thọ giới; do vậy có nhiều khó khăn khi độ cho người nữ Tây Phương đi xuất gia và thọ giới. Khi nghe những sự khó khăn và điều có thể ấy rồi, Ngài gãi đầu và nói rằng: “Phải chi có Đức Phật ở đây thì đỡ biết mấy”.
Câu nói nầy khẳng định một điều, chính Ngài là vị Pháp Vương của Phật Giáo Tây Tạng; nhưng Ngài vẫn không tự sửa đổi giới luật được; ngoại trừ Đức Phật và phải có sự đồng thuận của Hội Đồng Tăng Già Trưởng Lão của Tây Tạng.
Vào buổi ăn trưa cùng ngày của năm 2007 ấy tôi được ngồi chung cùng bàn với Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Tây Tạng, một vài chánh khách Đức và Thượng Tọa Thích Quảng Ba, tôi có hỏi thăm Ngài rằng: Tại sao Tây Tạng lại không cho người nữ xuất gia? Ngài bảo rằng: Từ xưa đến nay Tây Tạng chưa có truyền thống truyền giới cho Tỳ Kheo Ni. Do vậy Ngài cũng không thể làm gì khác hơn được.
Theo tôi nghĩ: Có lẽ đây là một Đại Hội Thế Giới để tìm cách đồng thuận của chư Tăng, Ni ngoại quốc và đây cũng là cái nhân tố để Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền lại cho Hội Đồng Tăng Già Tây Tạng biết rằng đã có bao nhiêu truyền thống đồng thuận cho tinh thần thọ giới của Tỳ Kheo Ni theo Tứ Phần Luật vốn đã có từ lâu đời tại các nước Á Châu. Mãi từ năm ấy đến nay đã trải qua 4 năm hơn rồi; nhưng chúng ta vẫn chưa thấy được một dấu hiệu nào tích cực cho vấn đề truyền thọ Tỳ Kheo Ni giới cho Tây Tạng. Hy vọng sẽ có một ngày Tây Tạng sẽ tiếp nối con đường luật tạng theo truyền thống của những nước Đại Thừa đã đi trước như: Trung Hoa, Đại Hàn và Việt Nam.
Từ năm 1954 đến năm 1975, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (trước năm 1963 là Tổng Hội) đã gởi một số chư Tăng Ni ra ngoại quốc du học gồm các nước sau đây:
Tại Ấn Độ có những vị đã tốt nghiệp Tiến Sĩ như: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi, Cố Hòa Thượng Thích Trí Chơn, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, Hòa Thượng Thích Pháp Nhẫn, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Châu, Thầy Huyền Diệu v.v… Ở đây chúng tôi không đề cập về tư tưởng hay chính kiến khác của những vị nầy, mà chúng tôi chỉ muốn ghi lại những dữ kiện có tính cách lịch sử về công đức truyền bá Phật Pháp cho người Việt cũng như người ngoại quốc, sau khi đã tốt nghiệp thành tài mà thôi.
– Hòa Thượng Thích Minh Châu năm nay (2011) đã ngoài 90 tuổi. Ngài có công rất lớn trong việc phiên dịch Tam Tạng Thánh Điển tiếng Pali sang tiếng Việt. Năm 1964 khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập Đại Học Vạn Hạnh tại đường Trương Minh Giảng Sàigòn thì Hòa Thượng được Giáo Hội và chính quyền miền Nam Việt Nam thuở ấy bầu làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Đại Học nầy đã cho ra trường nhiều ngàn sinh viên gồm nhiều phân khoa như: Phật khoa, Giáo dục, Nhân văn, Kinh tế v.v… Cho đến năm 1975 thì đóng cửa. Sau nầy Viện Nghiên Cứu Phật Học Vạn Hạnh hay Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Sàigòn là hậu thân của Đại Học Vạn Hạnh ngày xưa. Tuy Hòa Thượng không có công nhiều trong việc truyền bá tư tưởng Phật Giáo Việt Nam ra ngoại quốc; nhưng học trò, đệ tử của Ngài được đào tạo tại Đại Học Vạn Hạnh ngày trước, bây giờ họ có mặt khắp năm châu. Do vậy tư tưởng của Ngài cũng đã gián tiếp giúp cho người Âu Mỹ biết ít nhiều về Phật Giáo Việt Nam.
– Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Ấn Độ, Ngài về nước năm 1968, có dạy tại Đại Học Vạn Hạnh và năm 1975 Ngài sang Pháp, sáng lập và trụ trì Chùa Linh Sơn tại Paris và sau nầy Ngài trở thành Tăng Thống của Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn trên thế giới. Giáo Hội nầy có rất nhiều cơ sở trên thế giới (hơn 50 chùa viện và 100 Tăng Ni) và có một số vị đang trực hay gián tiếp mang Phật Giáo Việt Nam đến cho người Mỹ, người Pháp v.v… Năm 2010 Học Viện Huyền Vi được thành lập tại Paris, Pháp quốc; Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đương kim Viện Trưởng Viện Đại Học nầy. Đây là nơi đào tạo và giao lưu văn hóa Phật Giáo Đông Tây, nhằm giới thiệu cho người Tây Phương biết về Phật Giáo Đông Phương.
Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi đã thuyết giảng và sáng tác rất nhiều sách vở rất có giá trị (xin vào trang nhà quangduc.com để tham khảo) Ngài là vị Đại Pháp Sư của Việt Nam của thế kỷ thứ 20. Chi nhánh của Linh Sơn cũng có mặt tại Phi Châu; ngoài Mỹ Châu, Âu Châu, Úc Châu và Á Châu. Đây là kết quả một đời hoằng pháp của Cố Hòa Thượng. Tuy khi còn sanh tiền Ngài không chủ trương tu theo pháp môn nào rõ nét; nhưng con đường Thiền Tịnh song tu và căn cứ vào giáo lý cả Đại lẫn Tiểu Thừa để tấn tu đạo nghiệp.
– Cố Hòa Thượng Thích Trí Chơn là một vị Đại Sư đặc biệt. Sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Ấn Độ, Ngài không về nước mà qua lời mời của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Ân, Ngài sang Hoa Kỳ từ thập niên 80. Từ đó cho đến ngày viên tịch, Ngài đi chu du khắp Hoa Kỳ và các nơi trên thế giới để hoằng pháp lợi sanh. Những đặc điểm đáng lưu ý của Ngài là Ngài không chủ trương lập Chùa, không nhận đệ tử xuất gia để có thời giờ rảnh rỗi lo phiên dịch và trước tác. Những dịch phẩm của Ngài từ tiếng Anh ra tiếng Việt rất có giá trị. Không những chỉ ở ngoại quốc, mà trước khi đi du học Ấn Độ, Ngài cũng đã dịch và viết trên tập san Liên Hoa tại Huế nhiều bài vở về Phật Giáo rất quý giá. Ngài không chủ trương tu theo pháp môn nào; nhưng cuối đời Ngài vẫn khuyên Phật Tử niệm Phật để cầu vãng sanh. Ngài đã viên tịch; nhưng những kinh sách và những biên khảo, dịch thuật của Ngài bao giờ cũng là kim chỉ Nam cho những người muốn nghiên cứu về Phật Pháp bằng ngoại ngữ Anh-Việt.
– Cố Hòa Thượng Thích Thiện Thanh sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Ấn Độ, Ngài cũng đến thẳng Hoa Kỳ. Sáng lập Chùa Phật Tổ tại Long Beach, California. Đời Ngài trụ thế tuy ngắn ngủi; nhưng Ngài cũng đã soạn dịch được bộ “Kinh Tụng Hằng Ngày” hoàn toàn bằng tiếng Việt, là một trong những vị Đại Sư chủ trương Việt hóa những kinh điển, mà lâu nay Giáo Hội ở trong cũng như ngoài nước chưa hoàn thành.
– Cố Hòa Thượng Thích Thiện Châu sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Ấn Độ và Anh quốc, Ngài sang Paris, Pháp quốc để hành đạo và sáng lập Chùa Trúc Lâm tại ngoại ô Paris từ những năm 1978, Ngài có dạy học tại Đại Học Sorbonne và có một số sáng tác biên khảo bằng tiếng Anh và tiếng Pháp có giá trị. Tuy Ngài không có đệ tử xuất gia nào nổi bật; nhưng những công việc giảng dạy và biên khảo của Ngài cũng đã giúp cho những người Pháp hiểu ít nhiều về tư tưởng Phật Giáo Việt Nam.
Riêng Đài Loan trước năm 1975 chỉ có 3 vị Hòa Thượng du học tại đó. Đó là Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Hòa Thượng Thích Chánh Lạc và Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh. Tất cả 3 vị nầy đều đỗ Tiến Sĩ; một vị đã viên tịch; một vị đang ở Hoa Kỳ và một vị đang ở Đài Loan và ở Pháp.
– Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm có công rất lớn trong việc in ấn lại những sách vở Phật học Việt Nam đã được xuất bản trước năm 1975 và một số sáng tác mới được biên soạn tại ngoại quốc sau nầy. Phật Học Viện Quốc Tế nằm ở vùng North Hills California là nơi đã xuất bản những kinh sách giá trị trong suốt 3 thập niên như vậy. Ngoài ra Cố Hòa Thượng cũng đã biên tập, hiệu đính, dịch giải rất nhiều kinh sách từ chữ Hán sang tiếng Việt hoặc ngược lại. Tuy tư tưởng của Ngài, người Âu Mỹ chưa trực tiếp nhận được lợi lạc mấy; nhưng những thế hệ kế thừa sẽ diễn dịch và tiếp thụ những lời giáo huấn của Ngài và sẽ làm lợi lạc cho những thế hệ trẻ trong tương lai.
– Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh trong hiện tại Ngài là đương kim Tăng Thống của Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn trên thế giới, kế vị Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi. Sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Đài Loan, Ngài không về lại quê hương hay đi các nước khác, mà vẫn ở lại Đài Loan để kiến lập Đạo tràng Linh Sơn tại Đài Bắc để tiếp Tăng độ Chúng. Đệ tử của Ngài đa phần là người Đài Loan. Nay Ngài là Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Huyền Vi tại Paris, Pháp quốc. Học viện nầy tương đương với một Đại Học; nơi dạy dỗ và huấn luyện cho những người Pháp và ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo.
Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh là người có công lớn nhất trong việc chủ trương phiên dịch, in ấn bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịchh sử Việt Nam, kể từ thời lập quốc đến nay chưa có triều đại nào hay cá nhân nào thực hiện được việc ấy. Nay có Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh thực hiện được việc nầy, quả là công đức bất khả tư nghì.
Những vị du học tại Hoa Kỳ trước năm 1975 như Cố Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn, Pháp Sư Thích Giác Đức, Giáo Sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Cố Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, Hòa Thượng Thích Tịnh Từ v.v… đã đương và sẽ có nhiều vị được đề cập đến. Riêng Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh đóng một vai trò đặc biệt với những người Phật Tử Âu Mỹ hiện nay; cho nên chúng tôi chỉ xin tóm tắt một vài điều qua cái nhìn phiến diện của mình. Nếu quý vị nào muốn tìm hiểu thêm về Ngài thì nên vào trong langmai.com để rõ hơn.
– Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh tốt nghiệp Cao Học Đại Học Wisconsin Hoa Kỳ từ năm 1966 và sau đó được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước cử Ngài làm Đại diện cho Giáo Hội tham gia những cuộc Hội Nghị và thuyết trình ở những tổ chức tại ngoại quốc về đường lối của Giáo Hội đối với đất nước. Ngài chủ trương thành lập Đại Học Vạn Hạnh và Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở trong nước. Tổ chức nầy đã gây được tiếng vang một thời trong nước trong quần chúng; nhưng chính quyền miền Nam thuở ấy không ưa chuộng mấy. Vì tư tưởng cũng như mục đích của tổ chức xã hội hóa bằng tư tưởng Phật Giáo; cho nên những người lãnh đạo khác tôn giáo và khác chánh kiến họ không thích mấy.
Trong khi ở ngoại quốc Ngài chủ trương phong trào tiếp hiện và chế ra 14 giới căn bản cho những người vừa như xuất gia, vừa như cư sĩ nầy. Đây là cái nhân để chư Tôn Đức Việt Nam vốn theo khuynh hướng Đạo Phật truyền thống khó chấp nhận. Nếu người ta theo dõi tư tưởng của Ngài thì thấy rằng ban đầu Ngài không muốn độ cho người xuất gia; nhưng mãi đến những năm 1989, 1990 phong trào tiếp hiện nầy vẫn không thành công mấy ở tại ngoại quốc; cho nên Ngài đã nhận người xuất gia để nối dõi việc Tông Môn và truyền thừa. Sư Cô Chơn Không Cao Ngọc Phượng là người đầu tiên được Ngài cho xuống tóc tại núi Linh Thứu từ năm 1988. Sau đó Ngài mới tiếp tục nhận những đệ tử Âu Mỹ xuất gia. Cho đến nay sau hơn 20 năm thâu nhận đệ tử xuất gia, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh có hơn 1.000 người như vậy. Còn đệ tử tại gia và giới Tiếp Hiện thì vô số.
Ngài đã viết, dịch, chú giải nhiều kinh sách cho đến nay (2011) trên 100 đầu sách và sách của Ngài được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau. Do vậy người ngoại quốc rất gần gũi với tư tưởng của Ngài. Ngôn từ bình dị, dễ hiểu và dễ thực tập; nhất là lối thiền quán niệm hơi thở của Ngài chủ trương. Lợi thế của Ngài là giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp và dĩ nhiên rất thành thạo tiếng Việt và chữ Hán. Do vậy mà những thế hệ thanh niên nam nữ Việt Nam trước 1975 ở trong nước ảnh hưởng cũng không phải là ít. Ngày nay tại ngoại quốc thì khác, có lẽ Ngài chú tâm hướng dẫn Thiền cho người ngoại quốc nhiều hơn; nên ảnh hưởng của Ngài đối với hơn 2 triệu người Việt Nam tại ngoại quốc không nhiều bằng thuở xưa.
Ngài lập phái, lập tông riêng, gần như là một Tổ Sư Thiền; loại mới, không giống với Thiền Nguyên Thủy và Thiền Đại Thừa để hợp với căn cơ của người Tây Phương. Do vậy phái Thiền nầy ít có liên hệ với những tông phái khác của Phật Giáo Việt Nam hiện có mặt khắp nơi trên thế giới. Ai chấp nhận lối tu của Ngài thì vào tu học để trở thành học trò, đệ tử. Ngoài ra Ngài không chủ trương liên kết với những tổ chức Phật Giáo khác, ngay cả tổ chức của người Âu Mỹ.
Xấu, tốt, đúng, sai của một đời người thật là quá ngắn ngủi để luận bàn. Khi nào nắp quan tài đậy lại và cả hằng trăm, hàng ngàn năm sau nữa, nếu pháp môn ấy còn tồn tại trên thế gian nầy; tức là pháp môn ấy có nhiều người theo; có kẻ nối truyền và là giềng mối cho tông phong, tổ chức. Bằng ngược lại, phong trào ấy chỉ nổi lên một thời, rồi qua thị hiếu của con người được đáp ứng, có rất nhiều người theo và sau nầy nếu người sáng lập khuất bóng, tư tưởng ấy quần chúng không theo và không còn tồn tại với đời, thì đó cũng chỉ là một phong trào học Phật ở trong một thời gian nhất định nào đó mà thôi.
Lịch sử đã chứng minh điều đó. Từ Ấn Độ qua Trung Hoa; từ Tây Tạng qua Nhật Bản rồi Việt Nam, Đại Hàn v.v… có không biết bao nhiêu triều đại lẫy lừng lấy Phật Giáo làm Quốc Giáo. Đã có không biết bao nhiêu vị Tổ Sư khai sáng tông môn muốn làm hiển hách cho Tông Phái của mình; nhưng thời gian trôi qua, một số đã trở về quên lãng, ngay như những Tông Thiền nổi tiếng ở Trung Hoa hay Việt Nam cũng vậy. Dĩ nhiên, mỗi một vị Bồ Tát, một vị Tổ Sư đi vào đời cũng chỉ có một nhiệm vụ nhất định ở vào một thời điểm nào đó mà thôi. Khi thế sự thăng trầm, lòng người thay đổi, quốc độ chẳng bền, nhân tâm thế sự nhiễu nhương v.v… thì các pháp cũng đều phải bị chi phối bởi vô thường, khổ, không và vô ngã cũng như sự thành, trụ, hoại, không bởi sự biến thiên của lịch sử và nhân thế. Cho hay việc nầy Đức Phật đã tiên liệu từ lâu rồi.
Nhưng phải công tâm mà nói rằng Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh là người có công to lớn nhất đã đem tư tưởng Thiền của Phật Giáo Việt Nam đến với người Âu Mỹ. Ngài chỉ sắp hàng theo thứ tự của những nhà lãnh đạo tinh thần trên thế giới và đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma mà thôi.
Như thế trước và sau năm 1975, Thiền Việt Nam qua Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã thu hút hằng ngàn, hằng vạn người ngoại quốc tham gia tu học và xiển dương pháp môn nầy là một dấu ấn khó quên đối với những người Phật Tử Việt Nam tu theo pháp môn khác, nhìn về Làng Mai tại Pháp vậy.
Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số chư Tôn Đức Tăng Ni đã du học Nhật Bản từ năm 1954 đến 1975, đã và đương đóng góp cho Phật Giáo tại ngoại quốc từ xưa đến nay có liên hệ trực hoặc gián tiếp với người Âu Mỹ để quý vị lãm tường. Dĩ nhiên có một số vị chúng tôi không giới thiệu nhiều, vì vấn đề của thời cuộc và những vị không được đề cập đến trong sách nầy vì lẽ chúng tôi không được biết đến lai lịch của những vị đó; hoặc giả còn thời gian để lại giới thiệu sau v.v… Kính mong chư Tôn Đức và quý vị hoan hỷ cho điều nầy.
Những vị đi du học tại Nhật Bản đa phần đã tốt nghiệp Tú tài 2 tại Việt Nam hoặc Cử nhân Phật học. Sở dĩ những người Tăng Sĩ Việt Nam chọn đi Nhật; vì lẽ Nhật là một quốc gia Phật Giáo nằm tại Á Châu và đặc biệt có nhiều đại học Phật Giáo. Hầu như mỗi Tông Phái đều có từ 1 đến 7 trường Đại Học; đó là chưa kể những trường Trung Học, Tiểu Học và nhà trẻ. Nền giáo dục tại Nhật Bản nói chung và giáo dục Phật Giáo nói riêng phải nói là tuyệt vời nhất. Đa phần chư Tăng Nhật Bản đều phải tốt nghiệp Đại Học của Tông Phái họ rồi mới ra Trụ Trì. Có những vị nghiên cứu tiếp lên Cao Học hoặc Tiến Sĩ. Họ nói ngoại ngữ tương đối không nhanh nhẹn như người Việt Nam; nhưng những đề tài nghiên cứu của họ bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Đức v.v… làm cho các học giả trên thế giới phải cúi đầu trước họ. Lâu nay chúng ta hay thấy được rằng cứ mỗi năm vào ngày 10 tháng 12, ngày Kỷ niệm bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền thì Hoàng gia Thụy Điển đều phát những giải thưởng Nobel về vật lý, y khoa, hóa học, khoa học, hòa bình v.v… đa phần là người Âu Mỹ Úc; chứ ít thấy người Phi Châu hay Á Châu. Nếu có cũng rất hiếm. Vì lẽ các chính phủ Âu Mỹ có ngân khoản rất lớn để tài trợ cho những người chuyên nghiên cứu về những lãnh vực trên. Còn các nước Á Châu chúng ta tương đối còn nghèo; cho nên những nhân tài nổi tiếng như thế rất hiếm. Riêng ngành Phật Học và Tôn Giáo học tại Nhật rất có giá trị. Do vậy chư Tăng Ni Việt Nam, Đại Hàn, Đài Loan, Trung Quốc đều chọn Nhật Bản để đến tu học và nghiên cứu là vậy.
Tuần tự theo thời gian năm tháng từ 1954 đến 1975 có chư vị Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Ni Sư đến du học tại Nhật như sau:
Đầu tiên đại diện cho 3 miền có Cố Hòa Thượng Thích Tâm Giác (Bắc), Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân (Trung), Thượng Tọa Thích Quang Minh (Nam).
Kế tục theo đó có các: Cố Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Cố Hòa Thượng Thích Thiền Định, rồi Hòa Thượng Thích Trí Tâm, Hòa Thượng Thích Trí Quảng, Hòa Thượng Thích Minh Tâm, Cố Hòa Thượng Thích Minh Lễ, Hòa Thượng Thích Minh Tuyền, Cố Hòa Thượng Thích Trí Hiền, Hòa Thượng Thích Trí Đức, Thượng Tọa Thích Chơn Minh, Hòa Thượng Thích Chơn Thành, Hòa Thượng Thích Nguyên Đạt, Hòa Thượng Thích Như Điển, Cố Thượng Tọa Thích An Thiên, Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Thượng Tọa Thích Minh Tuấn, Cố Ni Trưởng Thích Nữ Như Chính, Ni Trưởng Mạn Đà La.
Ngoài ra cũng có một số quý vị không còn tiếp tục tu nữa như: Giáo sư Nguyên Hồng, Giáo sư Long Nguyệt, Giáo sư Lâm Như Tạng, Thầy Giác Thiện v.v…
Kể ra trước năm 1975 chư Tăng Ni đi du học ở Nhật nhiều nhất so với các nước khác như Ấn Độ, Tích Lan, Hoa Kỳ và Đài Loan. Đây là nhân tố lúc ban đầu của Giáo Hội. Sau năm 1975 tuy Giáo Hội gặp rất nhiều khó khăn trên mọi lãnh vực; nhưng số Tăng Ni ra ngoại quốc du học rất nhiều; sau khi thành tài, cũng như lớp đi trước của chúng tôi, họ có người ở lại ngoại quốc và có nhiều vị trở lại Việt Nam để làm việc cho Giáo Hội.
Cố Hòa Thượng Thích Tâm Giác sau khi tốt nghiệp Cao Học Phật Giáo tại Nhật, Ngài về lại Việt Nam làm Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo từ năm 1963 và sáng lập Trung Tâm Nhu Đạo Quang Trung cũng như khai sơn Chùa Vĩnh Nghiêm tại Sàigòn. Năm 1973 Ngài đã viên tịch tại Việt Nam; nhưng những môn sinh Nhu Đạo tại Quang Trung thuở ấy với Ngài, bây giờ vẫn còn nhiều người đang mở trường dạy Nhu Đạo cho người Việt Nam và người ngoại quốc ở các quốc gia Âu Mỹ không phải là ít.
Riêng Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là một vị Thầy rất đặc biệt. Vì đây là vị Tăng Sĩ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Đại Học Waseda, Tokyo vào năm 1964 Ngài đã về nước. Ngài đã dạy Thiền và Phật học tại Đại Học Vạn Hạnh Sàigòn cho đến năm 1966. Kể từ năm nầy trở đi, Ngài làm thỉnh giảng viên của các Đại Học tại Hoa Kỳ. Những năm tháng đầu tiên Ngài đến Hoa Kỳ dạy Thiền Học cho người Mỹ. Mãi cho đến bây giờ vẫn còn những người Tăng sĩ Tây Phương xuất gia thọ giới với Ngài theo truyền thống Phật Giáo Việt Nam. Đó là Hòa Thượng Bodhi, Hòa Thượng Ân Từ, Ni Sư Karuna v.v… Đây là những người Mỹ có văn bằng Tiến Sĩ, đã xuất gia và thọ giới với Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân từ những năm đầu khi Ngài đến Hoa Kỳ. Có thể nói rằng Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là người đầu tiên khai sơn Chùa Việt Nam tại Los Angeles và các chùa khác tại Hoa Kỳ kể từ năm 1975. Đến năm 1976 Ngài thành lập Viện Đại Học Đông Phương (Oriental University) tại Los Angeles và Thiền Viện Quốc Tế. Học trò, đệ tử của Ngài đa phần là người Hoa Kỳ. Bây giờ mỗi lần đi hội nghị hay tham dự diễn thuyết ở nơi nào trên thế giới, những Hòa Thượng Bodhi hay Ni Sư Karuna đều không ngại ngùng gì với thính chúng và tự giới thiệu mình là đệ tử của Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân và tu tập theo truyền thống Phật Giáo Việt Nam.
Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đã viên tịch tại Hoa Kỳ vào năm 1979 ở tuổi đời chưa tới 60 là một mất mát rất to lớn đối với người Phật Tử Việt Nam cũng như người Hoa Kỳ. Hòa Thượng cũng đã để lại một số tác phẩm bằng Anh ngữ như Zen and Buddhism in Vietnam, Japanese Zen v.v… Ngài là một trong những học giả có tên trong tự điển danh nhân thế giới.
Cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác tức nhà thơ Huyền Không. Ngài trước năm 1975 đã làm Khoa Trưởng Phân Khoa Phật Học Viện Đại Học Vạn Hạnh Sàigòn, sau đó năm 1978 Ngài tỵ nạn sang Pháp và cuối cùng đến Hoa Kỳ để cộng tác với cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân và làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Đông Phương tại Los Angeles, California Hoa Kỳ. Ngài là một nhà văn, nhà thơ, dịch giả rất nổi tiếng bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Nhật ngữ, Anh ngữ, Hán văn và Việt ngữ. Thơ văn và sách vở của Ngài vẫn còn đó. Hậu thế có cơ hội để tham khảo và tưởng niệm về một bậc Thầy vừa là Tăng nhân vừa là thi sĩ nổi tiếng một thời trên thế gian nầy.
Cố Hòa Thượng Thích Thiền Định sau khi tốt nghiệp Cao Học Phật Giáo tại Nhật, Ngài về lại Việt Nam năm 1969, dạy ở Đại Học Vạn Hạnh và Đại Học Cần Thơ. Đến năm 1975 Ngài tỵ nạn sang Pháp, sáng lập Chùa Pháp Hoa tại Marseille từ năm 1976. Sau khi Ngài viên tịch, vì không có đệ tử Tăng xuất gia, cho nên chùa của Ngài sáng lập đã trao quyền cho đệ tử Ni. Tuy Ngài không có để lại tác phẩm nào nổi tiếng; nhưng cuộc đời và sự nghiệp hoằng pháp của Ngài tại Pháp, Âu Châu và Mỹ Châu là một tấm gương sáng để cho hậu thế noi chung.
Hòa Thượng Thích Trí Quảng sau khi tốt nghiệp Cao Học tại Nhật, Ngài về lại Việt Nam năm 1973 và Ngài ở lại quê hương mãi cho đến ngày hôm nay (2011). Trong hiện tại Hòa Thượng Thích Trí Quảng là Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Sàigòn và là người chủ trương lấy kinh Pháp Hoa làm tiêu đề chính trong sự giáo hóa chúng sanh tại Việt Nam; giống như Ngài Nhật Liên ở Nhật Bản chủ trương vào thế kỷ thứ 13 tại Nhật.
Hòa Thượng Thích Minh Tâm là một trong những vị Thầy đặc biệt. Vì lẽ suốt gần 45 năm xa quê hương Việt Nam, chưa một lần trở lại. Ngài là đệ tử y chỉ của Cố Hòa Thượng Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang. Ngài sang du học tại Nhật vào năm 1968 đến năm 1973, Ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cử Ngài sang Pháp để thay thế cho Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh. Nhưng Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ không cho Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh về lại Việt Nam; nên Hòa Thượng Thích Minh Tâm đã ra thành lập Niệm Phật Đường Khánh Anh và tờ báo Khánh Anh từ năm 1974 tại Acceuil, Paris, Pháp quốc.
Vào lễ vía Quan Thế Âm Bồ Tát 19.2.1979 Chùa Khánh Anh đã chính thức dời về Bagneux và đến ngày 18.5.1995 thì làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây chùa Khánh Anh mới tại Evry. Cho đến nay gần 20 năm xây dựng với kinh phí gần 20 triệu đô-la Mỹ; nhưng vẫn chưa hoàn thành. Đây là một công trình thế kỷ, là một công trình có một không hai của Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại ngày nay.
Ngài là chiếc đầu tàu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Âu Châu ngay từ những buổi sơ khai và vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Tuy Ngài không có một sáng tác nào đặc biệt; nhưng những quan điểm và tư tưởng của Ngài bàn bạc trên các số báo Khánh Anh, sau nầy các đệ tử tập họp lại cũng sẽ trở thành những tác phẩm của Ngài. Bản thân chúng tôi đã làm Tổng Thư Ký cho Ngài từ năm 1972 tại Nhật cho đến nay (2011) đúng 40 năm vẫn chưa một lần gián đoạn. Ngài là một người rất kiên tâm trì chí và phải nói rằng: Nếu Âu Châu không có Ngài lãnh đạo, thì Phật Giáo tại các quốc gia Âu Châu không có được như ngày hôm nay.
Từ những hoạt động năng nỗ đó, qua sự giới thiệu của Thượng Tọa Seelawansa, người Tích Lan, đang dạy tại Đại Học Wien, Áo quốc, giới thiệu Ngài với Hội Đồng Tăng Già và Chính phủ Tích Lan nên ngày 8 tháng 7 năm 2011 vừa qua Ngài đã nhận được phần thưởng danh dự cao quý nhất của quốc gia nầy đã trao đến Ngài, là người đã có công mang ánh sáng Phật Pháp đến cho người Âu Mỹ. Đây là danh dự riêng của Ngài và là một niềm hãnh diện chung cho tất cả Phật Tử Việt Nam của chúng ta ở trong cũng như ngoài nước.
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc là bào huynh của chúng tôi, đã du học tại Nhật từ năm 1974. Đến năm 1980 sau khi tốt nghiệp tại Đại Học Komazawa, Ngài sang Sydney, Úc Đại Lợi để hành đạo. Năm 1984 bắt đầu xây dựng ngôi Tự viện Pháp Bảo tại Smithfield và đến năm 2001 thành lập thêm Tu viện Đa Bảo tại Capelltown (cũ) và Blue Mountains (mới). Song song với việc xây chùa, độ đệ tử xuất gia và tại gia Ngài đã sáng tác, dịch thuật, làm thơ, biên khảo cho đến nay cũng gần 40 tác phẩm bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Ngoài ra Hòa Thượng cũng là người sáng lập báo Pháp Bảo từ năm 1981 đến nay. Đây là một trong những tờ báo Phật Giáo sống lâu nhất nhì tại hải ngoại nầy. Về tư tưởng và cách tu hành của Ngài, quý vị có thể tìm đọc các sách vở của Ngài để hiểu biết tường tận hơn.
Hòa Thượng Thích Như Điển, về cá nhân chúng tôi, thiết nghĩ không cần phải viết nhiều. Quý vị có thể xem sách hoặc đọc trên Internet sẽ rõ; nhưng cũng có điều cần phải nói. Vì nếu bây giờ không viết, ngày sau những người sao chép lại, chưa hẳn đã đúng với ý của tác giả. Trong 60 tác phẩm mà tôi đã sáng tác, dịch thuật, biên khảo từ năm 1974 đến nay (2011) bằng nhiều ngôn ngữ như: Việt, Anh, Hán văn, Nhật, Đức ngữ cũng như hằng trăm bài viết khác gồm đoản văn, dịch thuật, tùy bút v.v… đã đăng trên báo Viên Giác hay các báo khác cũng là những tư tưởng chủ đạo của chính mình. Tư tưởng của tôi được tóm gọn trong một số pháp ngữ như sau:
“Con nguyện mình là một dòng sông, chuyên chở những trong đục của cuộc đời và con xin nguyện mình làm mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế”.
Hoặc: “Sự học nó không làm cho người ta giải thoát; nhưng muốn mở cánh cửa giải thoát kia không thể thiếu sự tu và sự học được”.
Hay: “Ngày xưa các vị Thiền Sư đa phần tu trên núi, tối đến không có đèn; nhưng hào quang của họ sáng rực một phương trời sau khi đã chứng đạo. Còn bây giờ chúng ta tu học đa phần sự rực sáng ấy đều nhờ đèn điện; trong khi nhìn người tu nào cũng chưa được tự sáng như người xưa”.
Sau nầy nếu tôi đã ra đi; xin nhắc lại một điều chính yếu qua những pháp môn mà tôi đã hành trì để làm gương cho những người kế tục.
Tôi không sáng lập ra một tông phái mới nào cả, mà tôi chỉ thực hành Phật Giáo truyền thống. Nghĩa là chư Tổ đã sắp đặt như thế nào; tôi vẫn theo như thế để hành trì theo Thiền Môn quy cũ; mỗi ngày 2 thời công phu sáng tối; nhất là thời Kinh Lăng Nghiêm vào mỗi sáng mai. Kể từ khi xuất gia năm 1964 đến nay (2011) cũng gần 50 năm rồi, mỗi sáng tôi vẫn hành trì miên mật Thần Chú nầy. Ngoài ra lạy kinh văn mỗi chữ mỗi lạy như: Hồng Danh Sám Hối, Ngũ Bách Danh, Tam Thiên Phật Danh, Vạn Phật, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn. Khi lạy mỗi chữ mỗi lạy như vậy, chúng ta có cơ hội để sám hối tự thân và tin sâu vào lời Phật dạy.
Tôi tu theo Pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà; ngoài tín, hạnh, nguyện ra tôi thực hành Pháp môn niệm Phật như Ngài Thân Loan dạy để cầu vãng sanh Tịnh Độ sau khi lâm chung. Nghĩa là việc niệm Phật không phải do tự lực của mình niệm mà được vãng sanh. Sự vãng sanh ấy chính là do Bổn Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà khiến cho chúng ta thành tựu ước nguyện ấy và đó cũng là lời nguyện thứ 18 của Ngài đã phát ra như vậy.
Khi mới đến Đức, tôi đã chỉ Thiền cho người Đức. Vì người Đức nào cũng ham học Thiền. Tôi đã dịch quyển Thiền Học của Ngài Yosioka ở Fukushima ra tiếng Việt để hướng dẫn người Đức theo lối Thiền Mặc Chiếu của Tào Động Tông Nhật Bản. Nghĩa là khi ngồi Thiền cứ để cho những vọng niệm khởi lên; không cần phải tìm cách tránh né những vọng niệm ấy, mà cứ mặc nhiên quán chiếu những gì đang xảy ra, từ từ chúng ta sẽ thấy rõ bản thể chơn như và tự tánh; nhưng càng về lâu về dài ngoài tọa thiền ra, tôi lấy câu Phật hiệu làm đầu. Dầu ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng nhớ đến từ dung và những lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, đặc biệt là những lời nguyện thứ 18, 19 và 20.
Ngày nay nếu có ai đó đi lễ bái Chùa Viên Giác tại Hannover Đức quốc khi gặp người Việt Nam họ sẽ chắp hai tay lại để chào Nam Mô A Di Đà Phật là chuyện đã đành, mà hàng ngàn người Đức đến tham dự lễ, họ vẫn biết chào và niệm câu Phật hiệu nầy nữa. Dĩ nhiên Phật Giáo tại nước Đức cũng mới có mặt chừng 200 năm; nên đây là thời gian quan trọng để cho người Đức chọn pháp môn để tu. Ngay cả các nước Á Châu khác cũng vậy; sau khi Phật Giáo du nhập vào nước sở tại, ít nhất cũng từ 300 đến 500 năm sau các Tông Phái mới được thành hình.
Do tôi là người đến đầu tiên tại xứ Đức đối với người Phật Tử Việt Nam và truyền Tịnh Độ Tông cho người Đức có lẽ cũng là người đầu. Vì lẽ ở tại Đức đa phần theo Thiền Học Nhật Bản hoặc Phật Giáo Nguyên Thủy hay Kim Cang Thừa. Tuy việc hành đạo tại đây cũng khá vất vả, vì ngôn ngữ, văn hóa, tập quán, tôn giáo v.v… cái gì cũng mới lạ; nhưng tôi vẫn cố công trì chí để mong cho cái rễ của Phật Giáo được mọc sâu vào mảnh đất nầy. Do vậy quan niệm về Tôn Giáo của tôi cũng có phần khác với nhiều người khác, vì tôi đang hành đạo tại ngoại quốc, chứ không phải tại một quốc gia Phật Giáo nào đó. Tôi quan niệm về Tôn Giáo cũng giống như những bông hoa nhiều màu sắc; nếu trong một vườn hoa mà có hoa nhiều màu cùng trổ một lúc thì vườn hoa ấy đẹp đẽ biết bao! Hơn là chỉ có một cành đơn độc đang nở. Do vậy tôi mong rằng: Trong vườn hoa văn hóa của Tôn Giáo tại xứ Đức nầy cũng như vậy, mà Phật Giáo sẽ là một bông hoa sen, mang hương sen thơm ngát từ Á Châu đến đây để hòa quyện cùng với những hoa hồng hoa cúc vốn đã nở từ lâu đời tại đây rồi.
Chính nhờ những hoạt động từ bên trong lẫn bên ngoài đối với người Việt cũng như người Đức; người Âu cũng như người Mỹ nên vừa qua vào ngày 8 tháng 7 năm 2011, qua sự giới thiệu của Thượng Tọa Seelawansa người Tích Lan đang dạy tại Đại Học Wien, Áo Quốc; nên Hội Đồng Tăng Già và Chính phủ Tích Lan đã trao tặng bằng danh dự cao quý nhất cho chúng tôi và Hòa Thượng Thích Minh Tâm là những người có công mang ánh sáng giáo lý Phật Giáo đến với người Âu Mỹ.
Đây không phải là bằng Tiến Sĩ danh dự. Vì bằng Tiến Sĩ danh dự chỉ có Viện Trưởng của một Viện Đại Học trao, mà đây là bằng tưởng thưởng của một quốc gia cho một Tăng Sĩ ngoại quốc có công với Đạo Phật.
Buổi lễ đặt dưới quyền chủ tọa của vị Tăng Trưởng của Tăng Già Tích Lan, Thủ Tướng, Phó Thủ Tướng chính phủ; vị Chủ tịch Hội Phật Giáo Tích Lan và hằng trăm chư Tăng học giả, cư sĩ nổi tiếng đến để tham dự lễ nầy tại Hội Trường Lễ Tân của chính phủ vào lúc 16 giờ chiều ngày 8 tháng 7 năm 2011 vừa qua. Về phía Việt Nam có chư Tăng đại diện từ Tổ Đình Chúc Thánh Hội An, chư Tăng đang du học tại Ấn Độ, Ban Biên Tập Báo Viên Giác ở Đức, Thụy Sĩ, Đan Mạch cùng những khách của Hòa Thượng Thích Minh Tâm đến từ Trung Hoa và Pháp. Về những diễn tiến chi tiết của buổi lễ nầy, quý vị có thể xem trên báo Viên Giác số 185 phát hành vào tháng 10 năm 2011 và báo Khánh Anh xuất bản tại Pháp, số 89 – Bản Tin tháng 10 năm 2011.
Riêng phần cá nhân chúng tôi chỉ mong rằng những ngày còn lại trên cuộc đời nầy sẽ mang tình thương đến cho mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ và dùng trí tuệ của Phật Giáo để quán xét nội tâm và từ đó sẽ làm lợi lạc cho mình và cho người ở nhiều hình thức và lãnh vực khác nhau.
(Còn tiếp)
HT Thích Như Điển biên soạn