Nghiệp và sự sống
Tất cả mọi người, ai sinh ra trên cõi đời này đều phải chịu sự chi phối của nghiệp. Người phật tử mà không hiểu rõ ràng, cặn kẽ về nghiệp báo, thì sự tu hành khó mà đạt đến chỗ an lạc, giác ngộ và giải thoát. Vậy nghiệp là gì mà phật tử chúng ta cần phải hiểu để áp dụng trong đời sống hằng ngày?
Nghiệp rất đa dạng, phức tạp và phong phú, bởi nghiệp là sự kết tụ của những năng lực, những hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần qua thân-miệng-ý, lâu ngày trở thành thói quen; rồi thói quen đó có sức mạnh chi phối, dẫn dắt thần thức chúng ta đi vào trong luân hồi sinh tử.
Tuy nghiệp rất đa dạng và phức tạp, không cố định như ta lầm tưởng, do đó mình có thể thay đổi thông qua sự tinh cần tu tập, hành trì những lời Phật dạy, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Nghiệp gồm có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều người, biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng người.
Nghiệp là thói quen huân tập lâu ngày thuần thục, tạo thành sức mạnh, có khả năng chi phối mọi người sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Ngay từ khi mở mắt chào đời, con người đã chịu nghiệp nhân của quá khứ, dần dần khôn lớn, con người tiếp tục tạo tác và huân tập thêm những nghiệp nhân mới.
Ai biết sống gần gũi những người hiền thiện, đạo đức, có nhân cách và phẩm chất cao đẹp, hay làm những điều hay lẽ phải, nhờ sống gần người hiền thiện nên mình cũng bắt chước làm người tốt theo, và có thể giúp ích cho gia đình, xã hội, không vì quyền lợi cá nhân.
Còn người hay sống gần gũi những kẻ xấu ác, bất lương, bất thiện, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, tự làm khổ mình, hại người, và sẽ bị mọi người khinh chê, xa lánh.
Cũng vậy, chúng ta sinh ra trong cuộc đời này, mỗi người đều phải mang theo nghiệp riêng của mình. Vì thế, trong một gia đình, nhiều người cùng sống chung với nhau, nhưng mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình, nên không ai chịu thừa nhận nghiệp riêng của người khác. Do đó, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em trong nhà không có sự hòa hợp với nhau là vậy đó, vì ta không biết tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau.
Chính vì thế, trong một cộng đồng xã hội mới có sự tranh chấp, cãi vã, xung đột, không chịu nhường nhịn, gây đau khổ, bất hạnh cho nhau.Trong gia đình, người chồng huân tập nghiệp của người nam, người vợ huân tập nghiệp của người nữ, hai nghiệp này không giống nhau, đôi khi nghiệp của hai vợ chồng có nhiều điểm sai biệt và tương đồng với nhau. Cho nên, có nhiều cặp vợ chồng gây cãi, đánh đập với nhau hoài, chỉ vì người nào cũng chấp cái lý lẽ, cái hành động của mình là đúng, không chịu thông cảm, tha thứ cho nhau, để tạo nên bầu không khí gia đình ấm êm, an lành, hạnh phúc.
Xưa có một gia đình nọ, người vợ biết lo làm ăn, tiết kiệm, luôn tròn bổn phận người vợ đối với chồng, biết quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho con cái đàng hoàng. Ngược lại, người chồng thì bê tha, biếng nhác, rượu chè, cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc bị thua, về nhà kiếm chuyện gây gỗ với bà, nếu vợ không đáp ứng đủ các thứ cho ông, thì bị ông chửi mắng, đánh đập tàn nhẫn. Người trong nhà và hàng xóm ai thấy cũng thương tâm, không biết bà đã gieo tạo nghiệp nhân gì mà phải chịu quả báo như thế. Mọi người thắc mắc tại sao bà lại không chịu ly dị, bà nói vì bà vẫn còn thương chồng, nên bà không ly dị.
Bởi do mỗi người đều có nghiệp riêng của mình, không ai giống ai. Kết nghĩa vợ chồng với nhau mà sống bất hạnh, khổ đau như vậy là do hai người đã có tạo nghiệp ngang trái, nợ nần với nhau, nên dù bị đánh đập, chửi mắng, đối xử với nhau thậm tệ, mà người ta vẫn cứ thương nhau, không thể rời xa nhau được.
Ai thấu hiểu được vấn đề nghiệp riêng này, họ sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Chỉ vì ta không thường xuyên quán chiếu, hoặc thiếu tu hành, nên mới xảy ra nhiều điều bất hạnh như thế. Do vậy, chúng ta thấy, nhiều người sinh ra trong một gia đình, cùng cha, cùng mẹ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc, cùng học hành, thế mà mỗi người mang một tính khí khác nhau. Sự sai biệt ấy là do nghiệp riêng của mỗi người tạo nên, còn việc họ được sinh ra và chung sống trong một gia đình là do họ cũng có một số nghiệp chung với nhau. Những người có nghiệp duyên với nhau là do họ đã có cộng nghiệp với nhau từ kiếp trước, nên đời này họ mới phải chịu chung một hoàn cảnh nhất định nào đó.
Nghiệp chung và nghiệp riêng
Trong thời Phật còn tại thế, tại núi Linh Thứu, cùng lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo Ngài Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo Ngài Mục Kiền Liên, đoàn thứ ba đi theo Ngài Phú Lâu Na, đoàn thứ tư đi theo Ngài A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo Ngài Đề Bà Đạt Đa… Khi thấy các đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói rằng: “Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Xá Lợi Phất có nghiệp chung với Ngài, nên có trí tuệ đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Mục Kiền Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Phú Lâu Na có cộng nghiệp là thuyết pháp đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài A Na Luật có nghiệp chung là thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Đề Bà Đạt Đa có nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc, sau này dễ bị đoạ lạc”.
Tuy nhiên, không phải ai theo ngài Xá Lợi Phất là có trí tuệ đệ nhất, mà cần phải có thời gian hành trì, học hỏi, vì ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên mức độ đạt được tuỳ theo khả năng, không nhất định là ai cũng được như vậy.
Do đó, nghiệp cũng không cố định, có thể thay đổi được, vì sao? Vì nghiệp từ thân-miệng-ý tạo tác mà thành, tuy có tác ý nhưng không thật. Cái gốc của việc tạo nghiệp lành, nghiệp ác không có thật, bởi do si mê, ngu muội, mà tạo tác thành nghiệp dữ; nếu ta biết định tĩnh, sáng suốt, thì tạo tác nên nghiệp lành.
Phật dạy, nghiệp là cái không thật, tuy biết nó không thật, nhưng nếu si mê, để bị dính mắc nghiệp xấu ác, thì sẽ thọ quả khổ đau không ai tránh khỏi, chỉ có người biết tu tập, làm nhiều điều thiện lành thì quả xấu sẽ nhẹ hơn. Đối với thế gian, người khôn ngoan có thể che giấu, trốn tránh tội lỗi, nhưng đối với nghiệp báo thì ai tạo nghiệp gì thì phải chịu quả ấy, không thể trốn tránh vào đâu được; vì khi tạo nghiệp thì mắt thấy, tai nghe, thân thể cảm thọ, chủng từ nghiệp kết tụ, lưu trữ vào tàng thức, chờ khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp sẽ trổ ra.
Có người cho rằng, thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, đến khi chết thì những hành động ấy đâu còn nữa, chỉ còn lại cái xác nằm trơ, rồi thối rữa, rã tan, làm sao biết được nghiệp ấy còn hay mất?
Đây là quan niệm hết sức sai lầm của không ít người lầm chấp, cho rằng chết là hết, không có nhân quả, không có tội phước, nên họ mặc tình hưởng thụ các dục lạc thế gian, tha hồ gây tạo tội lỗi, có khi gây nên tội ác tày trời mà lòng không chút ân hận. Chính cũng vì quan niệm sai lầm như vậy mà bản thân tôi hơn nửa đời người đã gây ra biết bao lầm lỗi. Nhờ duyên gặp được Tam Bảo, gặp được Phật pháp, gặp được bậc minh sư chân chính, tôi mới quay đầu làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình. Nếu không nhờ Tam Bảo, nhờ Phật Pháp và minh sư chỉ giáo, hôm nay tôi làm gì có cơ hội được chia sẻ cùng với quý phật tử ở đây.
Khoảng năm Mậu Thân (1968), lúc ấy tôi chỉ là một cậu thiếu nhi mà đã biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc. Vậy cái gì đã xuôi khiến, thúc giục tôi đi vào con đường hư hỏng, sa đoạ quá sớm như vậy? Điều ấy trong nhà Phật gọi là tập nghiệp. Tập nghiệp đời trước cộng với sở thích trong đời hiện tại đưa đẩy chúng ta vào hố sâu tội lỗi.
Thế cho nên, ngay tại đây và bây giờ, quý vị đã có duyên được đến chùa nghe pháp, tụng kinh, lễ Phật, sám hối, tức là quý vị đã có hạt giống nghiệp lành với nhau từ nhiều đời trước rồi. Nếu không, bây giờ quý vị đã ngồi ở nhà mở truyền hình xem phim, hoặc đi chơi chỗ này, chỗ kia như bao người khác, chứ quý vị đâu có muốn đến chùa nghe pháp, học Phật với nhau như thế này. Đây đúng thật là một duyên lành hạnh phúc cho đời mình trong hiện tại, và nó sẽ còn lưu giữ để duy trì tới kiếp sau.
Hiện tại, quý phật tử đã có phước duyên thiện lành, tốt đẹp rồi, quý vị hãy xem nó như một món ăn tinh thần, ráng mà duy trì, ráng mà phát huy, lúc nào thiếu nó mà quý vị cảm thấy khó chịu thì quý vị nên mừng, bởi vì quý vị đã huân tập được một thói quen tốt. Trong nhà Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Ở đây, quý vị đã có được thân người trọn vẹn, khoẻ mạnh, lại biết nghe Phật pháp, và còn biết áp dụng Phật pháp để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Trong kinh, Phật thường nói: “Nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất, khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó hiện ra, không một ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.
Có một thí dụ cụ thể cho chúng ta thấy nghiệp không bao giờ mất. Có hai người khách qua sông, một người là thương gia mua bán, mang theo nhiều tiền bạc, của cải; một người chuyên nghề dạy học, chỉ mang chút ít sách vở và tiền lộ phí. Thuyền qua đến giữa sông, bất thần bị chìm, hai người may mắn được cứu và thoát chết, nhưng hành lý, tư trang, tiền bạc của hai người đều bị dòng nước cuốn trôi mất hết. Cả hai người đều trắng tay, riêng cái hiểu biết của nhà giáo dục không bị mất mát chút nào. Vì sao? Vì kiến thức là cái chuyên môn đã huân tập qua nhiều năm tháng, tức cái sở trường riêng của mỗi người, còn gọi là nghề hay nghề nghiệp, nên nó không bị mất.
Do đó, quý phật tử tại gia nên lưu ý, khi ta mới sinh ra với hai bàn tay trắng, đến lúc chết đi cũng không mang được gì, duy chỉ có nghiệp lành dữ, xấu tốt, là mình phải mang theo. Lúc ấy, những người thân thương mình nhất như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè, không giúp gì cho ta được. Vì vậy, quý vị cần nên thấy biết rõ ràng về nghiệp quả, để khi ta gặp nhiều bất trắc, mình không quá đau khổ, bi lụy.
Và ta nên nhớ rằng, khi chúng ta đã tạo được nhiều nghiệp lành, thì dù cho qua nhiều biến đổi, thân xác này chết đi, tan rã thành cát bụi, nhưng nghiệp thức tốt đó vẫn còn, không mất. Khi chúng ta rời bỏ sự sống, bỏ lại thế gian tất cả gia tài, sự nghiệp, vợ chồng, con cái, họ hàng, thân tộc, bạn bè thân hữu, mình chỉ mang theo nghiệp lành, nghiệp dữ mình đã gây tạo trong đời mà thôi. Đây là một lẽ thật, quý vị cần biết để cố gắng gieo tạo nghiệp lành.
Quả báo của ác nghiệp quá khứ
Một gia đình nọ sống trong làng đánh cá, một bà mẹ có thai và cả làng làm ăn sa sút, nhiều chuyến ra khơi không đánh bắt được cá tôm gì, nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn, đói kém. Trước tình hình như vậy, các bô lão trong làng mới họp lại với nhau để bàn bạc, tìm xem nguyên nhân vì sao dân làng gặp vận hạn như thế.
Một số người cho rằng, do bà mẹ kia đã lớn tuổi mà lại mang thai là điều quái dị, không hợp luật trời, vì thế dân làng mới chịu cảnh làm ăn thất bát, khó khăn. Một số người khác không nhất trí với ý kiến ấy, cuối cùng làng chia ra làm hai nhóm ra khơi, đánh bắt riêng biệt.
Trong nhiều chuyến ra khơi, nhóm người không tin việc bà mẹ già mang thai, thường xuyên bị nạn, không đánh bắt được cá; nhóm người tin việc ấy thì chuyến nào cũng đánh bắt đầy thuyền. Điều này khiến cả làng tin rằng, bà mẹ mang thai kia chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt, khó khăn của làng. Cuối cùng, cả làng quyết định đuổi bà ấy khỏi làng, không cần biết sự sống của bà sẽ ra sao.
Bà ra đi trong tình cảnh vô cùng bi đát, không có thứ gì mang theo, lại đang lúc bụng mang dạ chửa, bà lang thang đó đây, vất vả xin ăn sống qua ngày. Lúc ở nhà còn có chồng chăm lo, nhà cửa đàng hoàng, giờ đây với thân phận một người ăn mày không nhà, không cửa, sống bờ ngủ bụi, nhiều khi vì quá mệt, không xin được chút gì, bị đói khát, bà muốn phá đi cái thai trong bụng để tìm sự thảnh thơi cho riêng mình. Nhưng vì cái thai là sự đầu thai của một vị sẽ chứng A La Hán trong kiếp này, nên thai nhi có khả năng chuyển tâm, làm cho bà mẹ không đủ can đảm huỷ hoại cái bào thai ấy.
Thời gian trôi qua, đứa con của bà cũng được ra đời với bao khó khăn chồng chất. Trong những ngày sinh con, bà phải một thân, một mình tự lo mọi thứ, khổ sở tột cùng, bà vẫn cắn răng chịu đựng. Sinh con được mấy ngày, vừa khoẻ được một chút, bà lại phải ẵm con, tiếp tục cuộc hành trình với thân phận ăn mày, rày đây mai đó, để kiếm chút cơm thừa, canh cặn.
Từ đây, trong cuộc mưu sinh, bà lại có thêm đứa bé bên mình. Hai mẹ con cùng nhau lang thang hết làng này sang xóm nọ, rong ruổi khắp mọi nẻo đường, nhưng vẫn không đủ sống, phải đói khát, vật vờ. Ngày qua ngày, bữa đói, bữa no, áo quần rách rưới, thật chẳng giống ai, nhiều lúc đói lả tưởng chừng không sao sống nổi.
Vậy mà bà vẫn sống để nuôi đứa bé ốm o, gầy mòn. Bà lang thang xin ăn lây lất sống qua ngày, cho đến năm chú bé khoảng ba bốn tuổi. Một hôm, hai mẹ con vào một gia đình giàu có xin ăn, vì thương con phải chịu cảnh ăn mày, thiếu thốn, đói khát thường xuyên, bà bỏ lại đứa con trong vườn của người nhà giàu ấy, rồi trốn đi biệt tăm biệt tích, với hy vọng con mình sẽ được người nhà ấy nuôi nấng tử tế, đàng hoàng.
Bà nghĩ rằng, làm như vậy là để người giàu thương tâm mà nuôi đứa bé. Dù từ bỏ đứa con thân yêu, lòng bà xót xa, đau đớn như đứt từng khúc ruột, lúc nào nước mắt cũng tuôn tràn, quên ăn, bỏ ngủ, nhưng bà hy vọng con mình không khổ như kiếp ăn mày lâu nay.
Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như vậy, bởi vì nghiệp báo đâu cho phép mình muốn là được. Từ khi người mẹ bỏ đi, đứa bé càng khốn khổ hơn, một mình nó tự xin ăn, có lúc phải lượm từng chút cơm thừa, canh cặn người ta vứt đi để sống qua ngày. Nơi đầu đường xó chợ, người ta thường thấy một đứa bé gầy còm, ốm yếu, đen đúa, lem luốc, ngồi co ro thật tội nghiệp.
Một hôm, Ngài Xá Lợi Phất trên đường đi du hoá, thấy một chú bé khoảng chín mười tuổi, thân hình gầy còm, đen đúa, nằm co quắp bên vệ đường. Động lòng thương xót, Ngài đến bên hỏi rõ nguyên nhân mới biết được hoàn cảnh bi đát của chú bé. Sau đó, Ngài mới nói một bài pháp về nhân quả nghiệp báo cho chú bé nghe, rồi Ngài bảo rằng: “Con có muốn xuất gia theo thầy không?”
Đứa bé than: “Con là đứa ăn mày, một thân, một mình không nơi nương tựa, không cha mẹ, không bà con, họ hàng thân tộc, con thuộc giai cấp hạ tiện, làm sao con có thể xuất gia theo Ngài.”
Thời bấy giờ, việc xuất gia chỉ dành riêng cho giai cấp tôn quý. Nghe vậy, Ngài Xá Lợi Phất mới giải thích, trong giáo pháp của Phật Đà không có phân biệt giai cấp cao quý hay hạ tiện. Ai muốn sống đời giải thoát thì phát tâm gia nhập vào Tăng đoàn. Chú bé vui mừng chấp nhận và được Ngài Xá Lợi Phất đưa về Tăng đoàn. Nơi đây, chú bé lớn khôn, trưởng thành trong môi trường phạm hạnh đầy trí tuệ. Do tu hành tinh chuyên, chú được thọ giới đầy đủ, không bao lâu sau đã trở thành một vị tỳ kheo nổi tiếng phạm hạnh, và chứng quả A La Hán.
Câu chuyện trên đã cho chúng ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp trong quá khứ và hiện tại, không phải đơn giản như nhiều người hiểu lầm chết là hết, mà chúng ta sẽ phải trả một giá rất đắt nếu đã gây tạo nghiệp xấu ác.
Trên đời này, không có việc gì là không có nguyên nhân sâu xa của nó. Trong nhiều kiếp quá khứ, tiền thân của chú bé là người có tâm tật đố, ghen tỵ, đã ngăn cản nhiều cư sĩ cúng dường một vị Bích Chi Phật, và còn vu oan, xúi bảo người khác không cúng dường. Do tiền kiếp đã gieo những nhân xấu như vậy, nên đời này sinh ra phải làm một chú bé ăn xin nghèo hèn, thiếu thốn đầu đường xó chợ, không chỉ có thân mình chịu quả báo khổ đau mà người sinh ra cậu cũng cùng chung nghiệp ấy.
Khi biết được lý nhân quả nghiệp báo luôn đeo đuổi ta như bóng với hình, mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu người phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai lầm, mà sai một li là đi xa ngàn dặm, không biết sẽ về đâu.
Vì vậy, chúng tôi mong quý phật tử là người hiểu Phật pháp, biết tu hành theo lời Phật dạy. Nếu chúng ta không có khả năng bố thí, cúng dường, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khó, thì khi thấy người khác bố thí, cúng dường, làm điều phước thiện, chúng ta phải phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm tốt đó, thì mình cũng có phước đức không khác gì người bỏ tiền ra giúp đỡ.
Đức Phật thường dạy: “Người phát tâm bố thí, giúp đỡ, sẻ chia, và người tuỳ hỷ với việc bố thí ấy, có phước báu ngang bằng nhau”. Vì sao? Vì người bố thí cúng dường thì được phước báo hiện tại và mai sau không nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn; còn ta thấy người khác bố thí, cúng dường, mà phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm ấy, sẽ không bị quả báo tật đố, ganh ghét. Người có tâm tật đố, ganh ghét dễ dẫn đến hận thù, làm những việc xấu ác; còn người xúi bảo người khác làm việc xấu ác, thì quả báo lại càng nặng nề hơn.
Như trường hợp của dân làng đánh cá trong câu chuyện trên, cái đói khổ là do cộng nghiệp xấu. Khi đứa bé mới đầu thai vào bà mẹ, nghiệp nhân đã chiêu cảm những quả xấu, nên cả làng bị thiếu thốn, đói khát, dẫn đến việc bà mẹ bị đuổi ra khỏi làng, người con phải thọ quả ăn mày từ trong bụng mẹ mãi đến khi chín, mười tuổi. Thật là khủng khiếp! Đó cũng chỉ vì tuỳ hỷ hay xúi bảo với việc làm xấu ác mà ra.
Do đó, khi học về giáo lý nghiệp báo, chúng ta nên cẩn thận với mọi hành vi từ thân-miệng-ý, mình chỉ tán thán và tuỳ hỷ khi thấy người khác làm việc phước thiện mà thôi; còn khi thấy ai làm việc bất thiện, mình nên tìm cách khuyên can, cả hai việc ấy đều mang lại lợi ích trong hiện tại và mai sau.
Đối với khẩu nghiệp, chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong lời nói. Ta nên nói những lời có lợi cho mình và cho người, còn những lời nói mình cảm thấy có hại cho bản thân hay cho người thì phải dè dặt. Muốn được như vậy, chúng ta phải biết cách tu hành từ ý nghĩ khi chưa phát sinh ra lời nói. Ta nghĩ và nói theo lời Phật dạy, biết tận dụng, tranh thủ thời gian quán chiếu, suy xét, cho đến khi nào mình cảm thấy lời nói không có hại cho ai thì mình mới nói.
Ai tu được như vậy, sẽ từng bước chuyển hóa được nghiệp xấu ác huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp, không còn nghi ngờ gì nữa, nhà Phật gọi đó là niềm tin bất thoái chuyển. Người có niềm tin như thế sẽ càng ngày càng sống tốt hơn, nhờ trí tuệ khai phát, do đó luôn sống vì tha nhân nhiều hơn.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật đã nói: “Phàm cái gì có tướng đều hư (giả) vọng”. Hư vọng có nghĩa là không phải không có, mà là giả có (không thật có).
Thân của chúng ta có phải thật là ta hay không? Nếu thân này là thật, tại sao ai cũng sinh-già-bệnh-chết? Cái gì thật thì trước sau như một, không biến đổi, trước như thế nào thì sau như thế đó, dù trải qua thời gian vô cùng tận cũng không thay đổi. Còn thân người luôn bị già-bệnh-chết chi phối, thì làm sao nó là thật được. Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta.
Từ chỗ chấp thân này là thật, nên mới sinh ra chuyện vợ chồng luôn tranh cãi, bất hòa với nhau, dẫn đến ly dị, ly hôn, do không biết nhường nhịn lẫn nhau. Những điều bất hạnh ấy đến với mình cũng chỉ vì mình không hiểu biết, thiếu tu hành mà thôi.
Do nghiệp xấu gieo tạo từ trước, nên khi sinh ra trong đời này, cậu bé phải chịu quả báo làm một đứa trẻ lang thang, ăn mày đầu đường xó chợ, bữa đói bữa no, chín mười năm trời. Tuy đã vào Tăng đoàn, được xuất gia tu hành, nhưng vẫn phải chịu nghiệp quả của sự thiếu thốn. Trong lúc đi khất thực hàng ngày, cứ hễ đến lượt Ngài thì hết thức ăn, hoặc người cúng dường muốn dân vật thực cho Ngài thì lại thấy trong bình bát của ngài đầy ấp thức ăn, nên lại thôi, không sớt bát nữa.
Bởi do ác nghiệp gieo tạo trong quá khứ, nay khiến Ngài phải trả quả báo như vậy. Cho nên, trong suốt thời gian tu hành trong Tăng đoàn, cùng đi khất thực với quý thầy, ấy thế mà Ngài chưa bao giờ có một lần no đủ, mặc dù ngài đã chứng quả A La Hán.
Thương tình vị đệ tử của mình suốt cuộc đời không một bữa ăn no, Ngài Xá Lợi Phất khất thực được một bát cơm thịnh soạn, bèn để Ngài dùng trước lúc nhập diệt; nhưng khi Ngài vừa dùng xong, tất cả thức ăn đều bị ói ra hết. Quý vị đã thấy rõ sức mạnh của nghiệp ác chiêu cảm thế nào chưa, ngay đến cả bữa ăn cuối cùng trong đời Ngài cũng không thể thọ nhận, dú đã chứng A La Hán quả.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng, hễ gieo tạo nghiệp gì thì phải thọ lãnh nghiệp quả nấy, không sai một li nào, không trốn tránh vào đâu được, cho dù đó là nghiệp riêng hay nghiệp chung.
Vì vậy, người phật tử chân chính phải hết sức cẩn trọng giữ gìn các hành vi của thân-miệng-ý cho chu đáo, khi đã lỡ gây tạo nghiệp bất thiện rồi thì trăm kiếp, ngàn đời, quả báo ấy cũng không hề mai một, mà chỉ nằm yên chờ đến lúc hội đủ nhân duyên thì sẽ trổ ra. Lúc ấy, ta không kêu cứu ai được, mà cũng không ai có thể cứu ta được. Chỉ có người hiểu rõ đạo lý nhân quả, nghiệp báo, biết tu hành, thì mới chấp nhận mà không phàn nàn, không than van hay oán trách một ai.
Còn đối với những bậc tu hành đã vượt qua được vòng luân hồi sinh tử, khi những quả xấu trổ ra, các ngài không hề sợ sệt, không hề oán than; có khi các ngài còn khởi tâm vui vẻ vì được trả quả trong kiếp này. Những vị cao Tăng, những bậc tu hành chân chính luôn giữ tâm an trú nơi tính biết sáng suốt của mình, không còn dấy niệm về buồn, thương, giận, ghét, nên các ngài lúc nào cũng an nhiên, tự tại.
Do đó, người phật tử chân chính phải nên thường xuyên quán chiếu, soi sáng lại chính mình, đừng chờ đến lúc quả xấu trổ ra, rồi mới ngồi đó mà than thân, trách phận. Bồ tát nhờ ý thức được quả khổ đau, nên đã kịp thời ngăn ngừa từ nhân, còn chúng ta chờ kết quả xấu đến thì làm sao trở tay cho kịp.
Bởi thế, phàm phu khi trả quả thì than thân, trách phận, oán trời, trách đất, đổ thừa đủ thứ, rồi sinh ra hận thù, tìm cách trả đũa; do vậy, nhân quả vay trả, trả vay không có ngày cùng. Muốn dừng được nhân bất thiện, chúng ta phải thường xuyên nghiền ngẫm lời Phật dạy, để biết được nhân nào dẫn đến sa đoạ, khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc, nhân nào được giác ngộ, giải thoát, để mình lựa chọn mà tu theo tâm nguyện của mình; đừng để nước tới chân mới nhảy thì làm sao kịp, hay chờ khát nước rồi mới đào giếng thì đã quá muộn màng.
Người học Phật phải biết phòng ngừa quả xấu từ nhân. Muốn được như vậy, trước nhất ta phải tin sâu Tam Bảo, cố gắng thực hành lời Phật dạy. Phật nay đã nhập diệt hơn 26 thế kỷ, nhưng giáo pháp của Ngài vẫn còn đang lưu truyền nhờ chư tăng, ni. Nếu không có chư tăng, ni hoằng truyền rộng rãi thì làm sao ta biết được điều hay dở, tốt xấu, đúng sai trong cuộc đời, để mình tu sửa, để khỏi chìm đắm, trôi lăn trong vòng sinh tử, luân hồi.
Tin sâu Tam Bảo là tin sâu vào lời dạy chân chính của Phật, không phải thần tượng vào vị thầy nào, vì thần tượng thì dễ bị sụp đổ. Điều đó dễ dẫn ta đến cống cao ngã mạn, chỉ thấy có thầy mình là tốt, là đúng, là hay, còn các vị khác đều sai, đều xấu. Đây là tai hoạ từ bệnh thần tượng cá nhân gây nên, bởi chư vị tăng, ni đang tu hành cũng là người bình thường, nên không sao tránh khỏi những khuyết điểm.
Biết được như vậy, chúng ta dễ dàng cảm thông cho những sai sót của quý tăng, ni, hay các bạn đồng tu với nhau. Khi xét thấy chư tăng, ni nào đầy đủ đức hạnh thì chúng ta cố gắng học theo; còn chư vị tăng, ni nào chưa trọn vẹn, nhiều khiếm khuyết, thì chúng ta cũng nên lấy đó làm bài học, để không vấp phải lỗi lầm. Đó là điều người phật tử cần phải nên biết, để tránh việc khen mình, chê người, chỉ gây đau khổ cho nhau mà thôi.
Đối với người phật tử, việc tích luỹ nghiệp rất là quan trọng, bởi chúng ta sinh ra trong đời là đã mang theo nghiệp tốt xấu lẫn lộn của nhiều đời trước. Bên cạnh tích luỹ nghiệp của quá khứ, việc tái sinh còn do lực tác động của cận tử nghiệp, cũng rất quan trọng. Cận tử nghiệp là nghiệp được tạo tác lúc sắp chết. Tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có liên quan mật thiết với nhau, nó kết thành yếu tố quyết định đưa thần thức người chết tái sinh về cõi lành hay cõi dữ.
Tích lũy nghiệp thiện thuần thục mới có thể không bị đọa vào chỗ xấu ác
Thời Phật còn tại thế, vua Ma Ha Nam- con của Cam Lộ Phạm Vương, là em nhà chú bác với đức Phật, ông tu tại gia, giữ năm giới, tu thập thiện, thọ Bát quan trai. Một hôm, ông đến gặp đức Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, con giữ gìn năm giới, tu thập thiện, thọ Bát quan trai thường xuyên như vậy, nếu chẳng may con bị chết bất đắc kỳ tử, sau khi chết, con sẽ tái sinh được chỗ tốt đẹp hay không?”
Đức Phật không trả lời mà hỏi lại ông: “Như có một cây cổ thụ thân và cành nghiêng hẳn về một bên, vậy khi cưa gốc, cây đó sẽ ngã về bên nào?”
Vua Ma Ha Nam trả lời: “Dạ thưa Thế Tôn, cây sẽ ngã về phía đang nghiêng”.
“Cũng vậy, bình thường nhà vua hay làm điều lành, giữ giới liên tục, không gián đoạn, khi gặp tai nạn bất thường, tuy có hơi bị khủng hoảng đôi chút, nhưng do nghiệp thiện tích luỹ quá nhiều, nên sẽ được sinh về cảnh giới an lành, nhà vua khỏi phải lo lắng, sợ hãi mà cứ yên tâm”.
Người tu hành chân chính phải biết tích luỹ nghiệp lành khi còn trẻ khoẻ, chứ không phải chờ đến tuổi già, sức yếu, rồi mới làm lành, lánh dữ, và tu hành, thì e rằng không còn kịp nữa. Tránh dữ, làm lành là phương pháp sống của người phật tử, hễ khi có cơ hội và nhân duyên thì mình phát tâm làm ngay dù việc lớn hay nhỏ.
Cho nên, tu là phải chịu khó hành trì bền bỉ từ khi còn trẻ, ta chỉ làm một việc là kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động cho được thuần nhất, không làm tổn hại cho mình và người.
Cận tử nghiệp đối vối việc tái sinh trong đời sau rất quan trọng. Một người trong đời đã làm nhiều việc thiện lành, tốt đẹp, nhưng đến lúc sắp lâm chung lại khởi lên tâm niệm xấu ác, hay oán giận ai, thì chưa chắc được sinh về cõi an lành. Ngược lại, ai trong đời lỡ tạo một vài nghiệp ác, đến lúc sắp lâm chung mà biết khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, người ấy có thể chuyển được nghiệp xấu và sinh về cảnh giới an lành. Bởi nghiệp không cố định, nên ta có thể chuyển hoá và thay đổi chúng.
Qua câu chuyện trên, đức Phật đã chỉ ra cho ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp, chúng ta phải thường xuyên huân tập việc tốt bền bỉ, lâu dài. Lúc nào, ta cũng ý thức việc làm ác sẽ gây quả xấu cho mình trong hiện tại và mai sau, nên không dám lơ là, buông lung, mà luôn cố gắng tinh cần chuyển hóa chúng khi còn trong trứng nước, tu hành như vậy ta mới có thể làm chủ tâm mình trước lúc lâm chung.
Cận tử nghiệp có thể chuyển hoá được các nghiệp xấu ác ta đã gây tạo ra từ trước. Nếu trước đây, chúng ta đã từng làm những việc xấu ác, đến lúc gần chết mình biết hồi đầu chuyển hướng, khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, nhờ tâm niệm đó, mình có thể được sinh về chỗ an vui, hạnh phúc.
Ngoài việc tích luỹ nghiệp lành, người phật tử còn phải biết tu hạnh buông xả. Nghĩa là không chấp trước vào việc làm thiện lành của mình. Người chấp trước vào việc tốt mà mình đã làm thì dễ sinh tâm ngã mạn, lúc gặp duyên xấu không làm chủ được bản thân, hay bị người khác xúi giục làm điều xấu ác không cưỡng lại được, biết xấu mà vẫn làm, biết mà cố phạm, vì thói xấu đã được thuần thục.
Nghiệp theo ta như bóng với hình
Trong đời, ta thấy có người hay làm những việc xấu ác, bất thiện, bất nhân, bất nghĩa, mà họ vẫn khoẻ mạnh, giàu có, không gặp hoạn nạn, là do nhiều đời, nhiều kiếp, họ đã gieo trồng quá nhiều nghiệp lành, tích luỹ nghiệp tốt của họ trong quá khứ còn nhiều, nên những nghiệp xấu ác họ đã gây trong đời hiện tại chưa đủ sức chi phối.
Có người thắc mắc cho rằng: “Tại sao có người suốt đời toàn làm điều ác, mà họ vẫn sống đầy đủ, giàu có, chẳng thiếu một thứ gì. Vậy luật nhân quả nghiệp báo có chuẩn xác và công bằng hay không?” Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng: “Nếu làm thiện sẽ được quả bảo vui, làm ác thì bị quả báo khổ”.
Bởi tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đối với người sắp lâm chung. Người làm ác mà vẫn sống phây phây là do tích luỹ nghiệp thiện lành của họ quá nhiều. Phật thường nói về nhân-duyên-quả, có nhân thì phải có duyên, đủ duyên thì chiêu cảm quả báo. Nhưng nhân quả có thể thay đổi được, nếu không chúng ta tu cũng tốn công, vô ích thôi.
Tu là mục đích chuyển khổ thành vui, chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ. Như khi xưa ta chưa biết tu nên hay hút thuốc, uống rượu; nay nhờ biết tu, nên mình không uống rượu, hút thuốc nữa, vậy không phải đã chuyển là gì. Bỏ thuốc, bỏ rượu là do ta bỏ, chứ đâu có ông thần linh thượng đế nào giúp cho mình làm được điều này.
Chúng ta nuốn được phước báo tốt, sống đời hiền thiện, đạo đức, thì phải cố gắng tu trong mọi hoàn cảnh, đừng chờ đến chùa rồi mới tu. Tu như vậy là không thực tế. Một tháng chúng ta đến chùa được mấy ngày? Không lẽ không đến chùa là không tu được hay sao? Quý phật tử hãy nên suy nghĩ chín chắn chỗ này. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng hạnh phúc gia đình và xã hội. Một giờ tu là một giờ hạnh phúc, một ngày tu là một ngày an lạc, giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát nguyện mạnh mẽ và ý thức rằng, làm ác sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Phát nguyện để làm mới lại chính mình và tin sâu Tam Bảo, giúp chúng ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất hạnh, ta biết đó là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều hơn để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến vinh hoa phú quý, một lòng nhất tâm tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để sống đời trong sạch, giải thoát.
(Thích Đạt Ma Phổ Giác)