CHUYỆN CỬA THIỀN

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nhà xuất bản Văn Nghệ

 

Audio Player

Lô Sơn

Khách là người đàn ông chưa đến tuổi trung niên, ăn mặc chải chuốt, đến chùa vào một buổi chiều mùa xuân. Khách đưa mắt nhìn chung quanh rồi hỏi chú Đa Trí:

– Chùa Huyền Không ở đâu vậy chú?

Đa Trí ra giọng thiền sư thi sĩ:

– Nếu không phải là Tô Đông Pha thì dù đang ở tại Lô Sơn, chú vẫn cứ đi tìm Lô Sơn như thường!

-!?

    ******************************

Khi Đa Thức bắt chước cổ nhân

Một vị y sĩ đến chùa chích ngừa bệnh dịch tả. Xong xuôi, Đa Thức lân la lại gần vị y sĩ:

– Chú nè! Đa Thức hỏi nhỏ – chú đi chích ngừa dịch tả cho người ta mà chú có chích ngừa cho chính mình không?

– Dạ, có chớ! Vị y sĩ thật thà vén tay áo mình lên – tôi đã chích ngừa, còn sưng đây này!

– Không phải! Đa Thức lắc đầu nguầy nguậy – Không phải cái đó. Đó là cái bệnh dịch tả thời khí, cấp tính. Cháu muốn nói đến cái bệnh dịch tả kinh niên, truyền đời, truyền kiếp kia!

Vị y sĩ cau mày:

– Chú nói gì, tôi không hiểu.

Bất đồ, Đa Thức cười lạt, đứng bật dậy:

– Rứa mà cũng đòi làm y sĩ chữa bệnh cho thiên hạ! Ngu ơi là ngu!

Vị y sĩ tím mặt, giận run lẩy bẩy.

Đa Thức mỉm cười, cất giọng huờ hưỡn:

– Cái đó! Cái đó! Nó vừa ló một cái đầu rắn dịch tả thâm căn cố đế bất trị ra đấy! Còn một con nữa. Rứa chú đã tiêm ngừa bao giờ chưa?

Y sĩ nghe xong, cung tay xá, khuôn mặt dịu lại.  

    ******************************

Hoa thật và hoa ni-lông

Vị khách Tăng từ miền Nam ra, biếu chùa một bó hoa ni-lông và một giò phong lan.

Khi trao hoa ni-lông, vị Tăng nói:

– Loại hoa này quí và đẹp. Lúc cắm lên, mọi người sẽ trầm trồ vì họ tưởng là hoa thật.

Và khi trao giò lan:

– Còn đây là vương giả chi hoa, rất tuyệt vời, khi nở trông đẹp như hoa ni-lông vậy!

    ******************************

Còn bị kẹt

Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói:

– Con xin được hầu chuyện với thầy.

– Được, nhà sư gật – có gì con hãy nói.

Đa Văn trịnh trọng :

– Thầy có biết thầy bị kẹt gì không?

– À, hay lắm! Con cứ thẳng thắn mà chỉ rõ ra đi!

Đa Văn nói:

– Một cái tên là đã kẹt rồi! Mà thầy, nào là tục danh, bí danh, pháp danh, tự hiệu,… sao mà thầy ham danh quá vậy?

Nhà sư :

– A… ơ…!

Đa Văn bước ra, nói vọng lại:

– May mà thầy không có cả hàng chục chức vụ đi theo sau, nếu có, con mà không nhớ hết thì còn gì là “đa văn” này nữa!

    ******************************

Thức biến

Một cư sĩ chuyên nghiên cứu và dạy Duy Thức mấy chục năm. Một hôm, ông ta đến thăm nhà sư và kể huyên thuyên những sở đắc của mình. Cuối cùng, vị ấy kết luận:

– Tất cả đều do thức biến, chỉ là thức biến! Cả thầy, tôi, tài sản, y áo, vật thực… tôi đều có thể lý luận rất rõ ràng và cụ thể là do thức biến ráo trọi!

Nhà sư gật đầu tán thưởng. Đến giờ ngọ trai, nhà sư lặng lẽ ăn một mình. Khách đợi hoài chẳng thấy ai mời cơm trưa. Nhà sư thủng thỉnh ăn, rồi đưa tay chỉ vào mâm cơm, thong thả nói:

– Phần cơm hủ lậu quê mùa này là do “nhà trù biến” chứ bần tăng chẳng có tài cán gì. Đạo hữu có sẵn thần thông Duy Thức quảng đại, thì cứ tùy nghi biến hóa một mâm cơm “rõ ràng và cụ thể” mà dùng vậy nhé!

    ******************************

 Vô công

Bữa nọ nhân một đêm trăng sáng, nhà sư cao hứng xuống sông gánh nước. Khi nâng gánh, vì mất thăng bằng nên nước đổ ào xuống sông.

Vô Văn đang đứng trong biền bắp, thấy vậy, bật ra hai câu thơ, ngâm sang sảng:

   – “Nhà sư làm việc vô công
Dưới trăng gánh nước, đổ sông ra về!”

Đa Văn đang dạo chơi, tình cờ nghe được, liền ngâm tiếp:

   – “Ví như gánh vác Bồ-đề
Tâm không muôn việc, tỉnh mê bỏ ngoài!”

Nhà sư đứng thẳng dậy, chống đòn gánh nói lớn:

– Gánh nước mất thăng bằng thì nó đổ, có gì là tỉnh, là mê, là Bồ-đề ở đây hử? Chữ với nghĩa!

    ******************************

Trồng khoai

Hai chú đang cuốc đất.

Vô Văn nói:

– Kể cả việc trồng khoai, một vị Bồ-tát cũng cần kinh qua và chứng nghiệm.

Đa Lễ hỏi:

– Có lẽ là nhằm tích lũy phương-tiện-trí để rộng độ chúng sanh phải không?

– Không phải!

– Vậy trồng khoai để làm gì?

– Để ăn độn chứ gì nữa! Chú không biết hổm rày gạo quá đắt hay sao?

    ******************************

Kẹt đạo! Kẹt đời!

Uống xong tuần trà, khách nhìn nhà sư cười cười nói:

– Tôi từ phương xa tới đây, áo lấm bụi đường, mặt chưa kịp rửa đã được nhà sư cho hầu trà, thật là duyên vạn hạnh. Nhưng tôi còn có cái khao khát hơn, ấy là sự hiểu biết. Rất mong nhà sư trả lời cho vài câu hỏi, nhưng xin nhà sư…

– Đạo hữu cứ nói!

– Dạ, xin nhà sư đừng dùng những từ như khổ đế, trí tuệ, đức tin, nhân quả, nghiệp báo… Tóm lại là nhà sư đừng sử dụng một thuật ngữ nào thường dùng trong Tam Tạng. Nghe hoài những danh từ, chữ nghĩa của Đạo, tôi chán lắm! Cái ấy gọi là kẹt lời, kẹt chữ, kẹt Đạo vậy!

Nhà sư ôn tồn nói:

– Cũng được thôi! Nhưng bần tăng cũng có một đề nghị!

Khách mau mắn:

– Dạ được! Nhà sư cứ nói!

– Vâng, bần tăng cũng xin đạo hữu đặt những câu hỏi nào đừng có những từ ngữ, lời tiếng thường dùng ở trong đời. Vì cái ấy cũng gọi là kẹt lời, kẹt chữ, kẹt Đời vậy!

Khách ngẩn người giây lâu, rồi… nhấp một ngụm trà!

    ******************************

Tình yêu và cục đá

Một thanh niên Phật tử có lẽ là suy gẫm đạo lý đã lâu nên hôm kia đến nói chuyện với Đa Trí:

– Nếu tôi yêu cục đá, tình yêu ấy có phạm tội không?

Đa Trí lắc đầu nói:

– Yêu là không được rồi, đừng yêu là hơn.

– Đừng yêu thì tôi sợ sẽ trở thành cục đá!

Đa Trí ỡm ờ:

– Thì tốt thôi!

Người Phật tử nhăn mày:

– Tôi không hiểu!

– Có gì mà không hiểu! Cục đá thì có bao giờ yêu cục đá đâu mà sợ!

    ******************************

Kẻ ở ngoài tương quan

Một Ni cô đến gặp nhà sư, nghiêm trang nói:

– Có một thời pháp, nhà sư thuyết rằng: “Thế giới tương quan là đau khổ”, có phải vậy không?

Nhà sư đáp:

– Đúng thế!

Ni cô bèn nói:

– Vậy giáo lý đã bị giảng sai, nhà sư có biết không?

Hơi bất ngờ, nhà sư hỏi:

– Ở chỗ nào, Ni cô cứ dạy!

– Không dám! Nhưng con đã từng suy nghiệm: “Có những pháp không nằm trong thế giới tương quan mà vẫn đưa đến đau khổ.”

– Xin Ni cô trình bày cho rõ ràng hơn.

– Dạ! Ví dụ, con thấy thế giới tương quan là rắc rối, não loạn, xung đột… con bèn rút lui một mình, tịnh cốc, tĩnh cư, sống hạnh không giao tiếp với mọi người!

– Vâng, rồi chuyện gì xảy ra?

– Dạ, ni chúng đồng đạo nói cạnh, nói khóe, nói xa, nói gần rằng con là kẻ cao thượng hảo, kiêu căng, ngã mạn… Họ nói những điều mà con không thể chịu nổi. Vậy là, “không tương quan” mà vẫn đưa đến đau khổ! Từ rày về sau, nhà sư dạy pháp nên cẩn thận và dè dặt hơn mới được!

Nhà sư mỉm cười:

– Ni cô muốn làm Thượng đế chắc?

-!?

    ******************************

Thấy pháp không phải ta

Nhà Sư đang nghỉ trưa, bỗng nghe tiếng “sàn sạt” ở hiên sau, bèn hỏi:

– Ai đó?

– Không có ai hết!

Nghe ra là giọng chú Đa Lễ.

– Chú làm cái gì đó?

– Chẳng làm cái gì hết!

Một hồi nhà sư mới biết chú ấy đang quét lá. Nhà sư hơi ngạc nhiên về cách trả lời trống không, vô lễ của chú điệu được tiếng là lễ phép bấy lâu nay. Vừa mới nhổm dậy thì nhà sư nghe tiếng đọc kinh vang vang xa dần:

   “Khi trí tuệ quán chiếu
Thấy pháp không phải ta
Liền thoát ly khổ não
Đó là Thanh Tịnh Đạo!”

– À, ra thế! Nhà sư lẩm bẩm gật đầu rồi nằm xuống trở lại.

    ******************************

Thường ích kỷ Bồ-tát

Đa Trí tưới lan xong, ngắm những giò hoa nở một hồi lâu, có vẻ ngẫm ngợi rồi nói với Đa Văn:

– Chú nè, mình chơi lan thế này thiệt là kẹt!

Đa Văn ngạc nhiên hỏi:

– Kẹt sao?

– Nếu người ta xin?

– Thì cứ nhất định là không cho!

– Vậy là ích kỷ rồi!

Đa Văn giải thích:

– Đồng ý là ích kỷ. Nhưng chú tưởng hành theo “hạnh ích kỷ” dễ lắm sao? Ích kỷ nhưng không phải cho cá nhân mình mà là phụng sự cái đẹp chung. Mình mang tiếng ích kỷ, nhưng mọi người lại có chỗ để di dưỡng tinh thần, để thần kinh được thư giãn. Điều đó nên làm lắm chứ!

Đa Trí lắc đầu:

– Đó là tâm địa Bồ-tát, tôi chịu thôi!

Vô Văn đi ngang qua, nghe được liền hỏi:

– Bồ-tát ấy có tên là gì?

Đa Văn đáp:

– Đấy được gọi là: “Thường Ích Kỷ Bồ-tát!”

Vô Văn vỗ tay:

– Vậy từ đây ta có thêm một Bồ-tát mới nữa rồi! “Nam Mô Thường Ích Kỷ Bồ-tát Ma ha tát!” Hoan hô!

    ******************************

Cái gì dơ?

Buổi sáng, Đa Văn nhận trách nhiệm phân phối công việc, chú nói:

– Hổm rày cái sân dơ quá, chỗ này chú Vô Tâm nhận cho!

Vô Tâm cười cười:

– Sân đâu có dơ, chú!

Đa Văn gặn hỏi:

– Sân không dơ thì lá dơ chắc?

Vô Tâm ỡm ờ:

– Lá có lẽ cũng không dơ!

Đa Văn nghiêm mặt lại:

– Sân không dơ, lá không dơ, nhưng chú cũng phải quét, thế thôi!

Mọi người cười xòa.

Vô Văn nghe được, nói lầm thầm: “Đa Văn vì dụng thường ngữ, kẹt nơi tục đế nên gọi sân dơ! Vô Tâm vì dụng pháp ngữ, kẹt nơi chân đế nên gọi sân không dơ, lá không dơ! Ta biết cả hai mà còn ngứa óc, ngứa mồm muốn nói, thế là chổi dơ! Ôi! Nếu chổi dơ thì làm sao quét và quét là quét cái gì đây?”  

    ******************************

Mắc mớ gì đến ta

Một nam Phật tử đau khổ vì tình đến gặp Đa Văn:

– Chú ơi! Xin chú hãy giúp tôi một vài ý kiến.

Đa Văn đang ngồi lim dim mắt:

– Chuyện gì vậy?

– Tôi có một mối tình!

– Ờ!

– Tôi rất hạnh phúc!

– Ờ!

– Không, nàng đã phản bội tôi rồi!

– Ờ!

– Tôi rất đau khổ!

– Ờ!

– Vậy bây giờ tôi phải làm sao?

Đa Văn mở mắt ra, hỏi:

– Ai đem hạnh phúc cho anh?

– Dạ, nàng!

– Ai mang đau khổ cho anh?

– Dạ, cũng chính nàng!

Đa Văn “hừm” một tiếng:

– Vậy thì mắc mớ gì đến ta mà hỏi!

-!?

    ******************************

Ai ngộ?

Đa Văn và Vô Văn đang trỉa lúa khô, Đa Thức cắp nách rổ đi hái rau, dừng lại nói:

– Nè, các chú ơi! Có một ông cư sĩ rất chi là trí thức vừa bị thầy “cạo” cho một trận.

Đa Văn đứng thẳng lưng dậy:

– Kể nghe!

Đa Thức hăm hở:

– Ông cư sĩ ấy đạp xe từ dưới phố lên, thầy hỏi: “Có mệt không con?” Cư sĩ chậm rãi dựng xe cười: “Bạch thầy, mệt gì đâu! Con cứ để tâm “vô phân biệt” mà đạp. Lên dốc thì con nghĩ: “À, lên dốc à!” Qua ruộng thì con nghĩ: “À, qua ruộng à!” Thế là con luôn trú nơi cái sát-na vĩnh cửu của hiện tại. Không gian, thời gian bất khả hiện hữu. Năng tri và sở tri không hai. Vậy thì có gì xa với gần, mệt với không mệt hở thầy?”

Nghe xong, thầy nói: “Hay dữ ha! Vậy ra con tu hành là để “xa với gần không biết”, “người với đường thành một”, “không tôi, không người”, “đàn ông, đàn bà không khác”… “Vô phân biệt” tuốt, luốt! Hay dữ ha!

Kể xong, chú Đa Thức nói tiếp:

– Hôm trước, có một ông “phân biệt” thì bị thầy “lóc”. Bữa nay, một ông “vô phân biệt” thì bị thầy “cạo”! Eo ôi! Khó ơi là khó!

Đa Văn nói:

– Tại cái ông cư sĩ dại, không biết đàng mà lui tới. Thầy nói gì cứ mặc thầy. Có bao giờ tâm vô phân biệt mà biến thành sỏi đá đâu mà sợ? Con ruồi bay qua vẫn biết rõ ruồi đực ruồi cái mà tâm vẫn vô phân biệt như thường!

Vô Văn vẫn lom khom trỉa lúa:

– Này, thôi nghe! Hãy lo làm công chuyện!

Đa Văn nhìn Vô Văn ngờ ngợ:

– Ê, chú ngộ rồi hả! Giải quyết sao?

Vô Văn đứng dậy:

– Ngộ cái gì? Giải quyết cái gì?

Chú Đa Thức đưa hay tay lên trời, chiếc rổ lăn tròn xuống hồ rau muống, than dài:

– Eo ơi! Cha nào cũng thiền sư hết trơn hết trọi! Cho chết! Dù có biết, có thấy, ta cũng không nói nửa lời đâu!

    ******************************

Không thỏa hiệp

Chú ơi!

– Gì đó anh?

– Kỳ này tôi cương quyết “không thỏa hiệp” với trần gian nữa!

– Một lần nói dối!

Người thanh niên tức giận:

– Sao chú bảo tôi nói dối?

Vô Văn đưa thêm một ngón tay nữa:

– Hai lần nói dối!

Thanh niên như không còn tự chủ được:

– Nếu chú không giải thích, tôi không để chú yên đâu!

Vô Văn cười khà khà.

Thanh niên tím mặt lại:

– Chú lại còn trút thêm dầu vào lửa!

Vô Văn bây giờ mới thủng thỉnh nói:

– Cái gì anh cũng “thỏa hiệp” cả mà dám bảo là “không thỏa hiệp”! Nói dối vừa vừa thôi chứ!

-!

    ******************************

Tâm vô thường

Đa Trí được nhà sư giao cho việc hướng dẫn các chú giới tử sơ cơ học giáo pháp. Hôm đó, chú đang say sưa giảng về cái tâm vô thường của chúng sanh. Chú thao thao phân tích, đưa ra những ví dụ thực tiễn, xác đáng… muốn cho đàn em ai cũng phải khâm phục sức học uyên bác và trí tuệ thâm sâu của mình!

Nhìn xuống lớp học, Đa Trí chợt thấy Vô Tư đang gục lên gục xuống trên bàn. Chú gọi to:

– Vô Tư!

Vô Tư giật nẩy mình, ngơ ngác:

– Dạ!

– Điệu có biết điệu bao nhiêu tội rồi không?

– Dạ, không ạ!

Đa Trí cất giọng rổn rảng:

– Này, hãy trả lời cho tôi nghe. Lần trước tôi bảo ngủ thì điệu lấy bài ra học. Bây giờ, giờ học thì điệu lại ngủ gà ngủ gật. Tại sao khi siêng năng lúc biếng nhác thất thường vậy hả?

– Dạ… Dạ… cái đó thì em cũng chịu thôi!

– Sao vậy? Đa Trí gắt – trả lời cho đứng đắn xem nào!

– Dạ, chú dạy cái gì… à, “quán tâm vô thường”. Tâm đã vô thường thì nó thay đổi luôn, lúc là thế này, lúc là thế nọ! Vậy thì thử hỏi, em làm sao lại dám đi ra ngoài định luật vô thường ấy?

Đa Trí la hoảng lên “chết tôi”, rồi chú đứng im sững!

    ******************************

Nếu biết thế!

Vị sư đệ tam y nhất bát phong trần trở về đến gặp vị trụ trì:

– Sư huynh ạ! Cái câu mà bên thiền tông họ hay nói: “Thần thông là gánh nước, bổ củi là diệu dụng” hồi trước đệ nghĩ là nói láo, nghe láo chơi, bây giờ đệ thấy nó chí lý làm sao!

Vị trụ trì cân cần:

– Ừ! Đệ thấy chí lý như thế nào?

Sư đệ đáp:

– Thiền là pháp môn tiêu hủy phiền não. Vậy thì bất cứ khi nào tâm ta trong sáng, bình lặng, tỉnh thức thì đấy là thể hiện thiền, là thiền quán, là thiền Minh Sát Tuệ. Dù gánh nước hay bửa củi mà tâm ta vô ưu, vô lự, vô phiền, thì đó là diệu dụng chân thật, là thần thông chân thật rồi!

Vị trụ trì khen ngợi:

– Cảm ơn Phật Thánh! Đệ đã thấy!

Buổi chiều, sư huynh nói với sư đệ:

– Lúc này hạn hán quá, bể cạn, cây khô, sư đệ hoan hỷ vận thần thông diệu dụng gánh ít chục đôi nước nghe!

Sư đệ mau mắn:

– Dạ, xong ngay!

Tối đến lúc uống trà, sư huynh nói:

– Thần thông và diệu dụng của đệ quả là ghê gớm, một buổi chiều mà gánh những bốn chục đôi nước! Sư đệ có mệt không?

Vị sư đệ cười cười:

– Cái đó gọi là trú nơi “tam muội chân hỏa”, làm sao mệt được sư huynh!

Sư huynh cười ha hả:

– Phật ôi! Nếu biết thế thì chùa mình khỏi đặt mua cái máy bơm nước tốn mấy chục ngàn!

-!?

    ******************************

Công án thứ  1701

Tôi đã bảo chú là “ngũ ấm vốn không”, các pháp vô tự tính, không có gì cả đâu!

– Sao lại không có được!

– Không có mà. Này nhé, “sắc” có không?

– Có!

– Nói sao kỳ? Vậy “thọ” có không?

– Có!

– Vẫn cứng đầu! “Tưởng”, “hành”, “thức” có không?

– Có!

– Thiệt là cái chấp kiến lì lợm! Té ra chú tu hành lâu ni, trí tuệ được thế đấy!

– Hừ! Đừng có lên giọng kẻ cả! Chú được tài lập lại kinh điển, ngôn ngữ của cổ nhân. Tôi hỏi chú, chú bảo tôi chấp hữu, lì lợm. Nhưng mà coi chừng! Hãy nghe đây! Nói rằng, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, đồng ý! Nhưng này, ai đang đứng trước mặt tôi đây?

– Bộ xương nặng 35 ký.

– Tầm bậy, bộ xương không biết nói!

– Ha… ha… ha…

Chú điệu cao, trắng vai vác cây cuốc chỉa vụt cất tiếng cười rang rảng rồi chạy lên đồi. Bóng chú lẫn vào rẫy sắn. Chú điệu thấp, da đen cháy, tay cầm cây chổi rành đứng dưới gốc bồ đề nhìn theo, bặm môi tức tối.

Nắng chiều ấm, nhảy loăng quăng trên những đọt sắn. Tiếng lá thông reo vi vu. Tiếng chim kêu rời rạc. Mấy chiếc lá khô đuổi nhau chạy loi choi về cuối vườn. Một đám mây trôi bâng khuâng trên vòm trời rộng, xanh lơ.

Chú điệu thấp, đen huơ mạnh cây chổi. Những chiếc lá vàng khô tung lên, rớt xuống. Cây chổi lại quét mạnh đẩy chúng về một phía. Lá lại bay lên, đáp xuống.

Những nhát chổi đều đặn hất tới, hất tới; những tấm lá bị đùa nhích tới vài bước rồi lại lì lợm nằm chờ nhát chổi kế tiếp.

Nắng dịu dần, gió thổi mạnh hơn. Nơi chân trời xa đã thấy thấp thoáng vài cánh chim bay về tổ. Tiếng nghé ọ của bầy trâu vọng lại từ con đường băng ngang sau đồi. Giọng hát trong trẻo của cô gái nào đó đang giặt dưới bến sông chốc chốc lại theo gió thoảng lên. Con chích chòe đậu trên cành thông cất tiếng hót phụ họa…

Chú điệu thấp dồn lá lại thành đống rồi chạy nhanh vào nhà bếp lấy cái bội tre. Lá sẽ được cất để chụm dần. Chú nhanh nhẹn hốt từng ôm lá nhét vào bội. Một, hai, ba, bốn… Bỗng một cơn gió quái ác: r…ào… ào, ào tới hất đám lá bay tứ tung. Chú điệu thấp loay hoay huơ chổi quét dồn lại. Nhưng mới hốt được một ôm, cơn gió thiên lôi lại ào tới phá đám.

– Cái lão gió này!

Chú đứng lên nhìn theo những chiếc lá bay chờn vờn như trêu ghẹo. Chú tức bực:

– Đồ phá đám!

– Ai phá đám?

Câu hỏi vang lên đột ngột.

Chú điệu đen, thấp quay lại. Chú điệu cao, trắng xách hai gốc sắn còn nguyên củ, tay cầm cái cuốc chỉa đứng đó tự bao giờ, cười hì hì.

– Gió chứ ai!

– Gió đâu?

– Đâu? Chú chỉ gió cho tôi coi nào?

– Thì đó… ủa!

Chú điệu đen, thấp ngớ ra, im lặng, vì lúc ấy trời không một chút gió. Những đọt thông thôi reo. Những chiếc lá nằm yên không nhúc nhích.

Im lặng.

– Gió đâu? Đâu là gió?

Chú điệu cao, trắng đứng cười hì hì, hà hà.

Chú điệu đen, thấp nhíu mày, bặm môi, quay qua quay lại. Chú tìm gió! Chợt chú ngồi xuống lượm cây chổi, nhanh như chớp, quất mạnh vào đôi chân của chú kia.

– Ý da! Sao chú đánh tôi? Chú điệu cao nhảy cẫng lên la lớn.

– Gió đấy! Gió đấy! Chú điệu đen, thấp lại cười khà khà.

Chú điệu cao, trắng tức tối:

– Đó là chú đánh tôi chứ gió đâu mà gió!

Chú điệu đen, thấp lên giọng:

– Chuyển động là gió. Kinh dạy như thế mà! Tôi là gió mà chú là vật bị gió quật chứ có gì lạ đâu! Hì hì…

– Được đấy!

Nói xong chú điệu cao, trắng hậm hực, quày quả đi về phía nhà bếp.

Chú điệu đen, thấp đứng chống chổi nhìn theo cười khì, rồi nhanh nhẹn cúi xuống ôm lá nhét vào bội.

Trời đã nhá nhem. Tiếng chuông công phu bắt đầu buông thong thả từng gióng một. Trên chánh điện, ánh sáng từ ngọn đèn lọt qua những khung cửa phóng thành những vệt dài trên các lối đi, cây cảnh, lùm bụi quanh chùa.

Sau giờ công phu tọa thiền, Tăng chúng qui tụ tại pháp đường. Ba hồi kiền chùy gióng lên. Tất cả chấp tay nghiêm cẩn. Hòa thượng bước vào và lên pháp tòa. Sau khi niệm Phật hiệu, hòa thượng cao giọng:

– Đêm nay, bần đạo sẽ đưa ra một công án. Quí vị ai có đủ thẩm quyền xin bước ra ấn chứng.

Rồi Ngài tiếp:

– Sinh tử là việc lớn. Quý vị cát ái từ thân vào chốn thiền lâm để làm gì? Phải chăng là nối gót chí nguyện của lão già mặt vàng và tên rợ mắt xanh? Vậy thì hãy quyết chí hạ thủ công phu, đêm ngày quên bặt. Trọn cả thân tâm như đặt trên bờ vực cao ngàn trượng; như ở trong đám cháy lớn bốn phía hừng hực, ráng mà chạy thoát ra ngoài; như ở trong cơn đại hồng thủy bị nước cuốn trôi, cố hết sức bám vào một mảnh gỗ duy nhất trôi bập bềnh trên sóng nước. Mau lên! Mau lên! Chớ để bạch câu vút qua, thoi đưa thấm thoắt rồi ngàn sau ân hận!

Nhảy qua! Nhảy qua bờ kia! Hãy nhảy qua cả bờ kia nữa, hỡi chư thiện hữu! Bodhisvàhà!

Công án thứ hai mươi ba của Vô Môn. Hai ông tăng tranh luận gió và phướn.

Một ông nói:

– Phướn động!

Ông kia bảo:

– Gió động!

Cả hai cãi qua cãi lại không ra lẽ.

Lục Tổ đi qua bảo:

– Không phải gió động, không phải phướn động. Tâm hai ông động đấy.

Hai ông tăng giật mình kinh sợ.

Bây giờ bần đạo xin được hỏi quý vị:

– Phướn động hay gió động? Nói mau! Nói mau!

Pháp đường ngột ngạt. Con tắc kè trên nóc điện tắc lưỡi thở dài.

Chợt một vị tăng bước ra. Hòa thượng hỏi:

– Phướn động hay gió động? Mau!

   “Gió thổi mưa dồn dập
Trời không, không gợn mây.”

– Tha cho ba chục hèo!

Vị tăng cúi lạy một lạy rồi lui về chỗ cũ.

Hòa thượng nhìn quanh cao giọng:

– Cả pháp đường không lẽ toàn là bọn giá áo túi cơm cả ư?

Im lặng trôi qua.

Hòa thượng bước xuống pháp tòa.

Chợt phía sau tăng chúng, chú điệu thấp, đen chạy ra:

– Bạch hòa thượng!

Hòa thượng chững lại, thét lớn:

– Là gì?

Chú điệu đen, thấp la to:

– Lão bán củi đất Dương Châu động chứ không phải hai ông tăng động.

Hòa thượng chụp vội cây gậy phang thẳng cánh vào người chú điệu.

– Ai động? Nói mau!

– Hòa thượng!

Nói xong, chú điệu thấp, đen cúi lạy đi về chỗ cũ.

Hòa thượng đưa gậy lên trời đứng sững, rồi bước ra khỏi pháp đường về tịnh thất.

Chú điệu đen, thấp cũng lách mình ra cửa. Chú chạy về hậu viện. Trong lúc vội vàng chú vấp phải vật gì ngáng ngang đường, té sấp xuống. Chú vội lom khom trổi dậy.

Chưa kịp hoàn hồn thì đã nghe quát:

– Ai động ? Nói mau!

– Dạ, không biết!

Chú ngửng đầu lên nhìn người lên tiếng hỏi.

– A! Té ra chú!

– Hì hì… Ai động? nói mau!

Chú điệu cao, trắng vừa cười vừa hét nhỏ.

Chú điệu đen, thấp im lặng quay mình đi vào đêm tối.

Bầu trời chợt như cao hơn, sâu thẳm hơn, huyền diệu và mông lung hơn với vô vàn hạt sao li ti lấp lánh nhảy múa.

Có tiếng rơi nhè nhẹ đâu đây…

Pháp Tông
Mùa Thu 1980

____________________

Nguồn: http://trungtamhotong.org/

Nguồn Audio: https://ph.tinhtong.vn