“Lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và làm nở hoa cho cuộc sống’’. Đó là lý tưởng giải thoát, giác ngộ, thoát ly sinh tử, mà người tu và mọi người phật tử phải hướng đến và đạt cho được, để tự thân được an lạc hầu làm điều kiện căn bản xây dựng gia đình hạnh phúc, giúp xã hội được bình an, góp phần vào kiến tạo hoà bình cho thế giới, và Tinh độ nơi trần gian.
Tại sao phải cầu giải thoát, giác ngộ? Ai ràng buộc Ta? Ai làm cho Ta mê mờ mà phải cầu giác ngộ? Tâm ta vẫn luôn trong sạch như mặt trời vẫn luôn toả sáng kia mà! Có bao giờ mặt trời không toả sáng đâu! Có phải chăng do bởi mây ngăn che nên mặt trời tạm thời không chiếu soi khắp cả được. Cũng vậy, Tâm của mỗi chúng ta vẫn luôn trong sáng, nhưng vì một chút vô minh, vọng tưởng “chấp ngã, chấp pháp”, khiến cho tham – sân – si khởi lên làm mê mờ tâm trí để phải tạo ra muôn ngàn tội lỗi.
Tự trong Tâm ta vọng niệm khởi lên, thì cũng phải tự trong Tâm ta vắng lặng, mới trả lại sự trong sáng của Chân Tâm được. “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc’’ có nghĩa là tự soi xét lại mình đó là phận sự chính, không vì ở ngoài mà được, không tìm cầu ở đâu ngoài Tâm mà được là như vậy đấy.
Tại sao chúng sinh phải chịu nhiều đau khổ, có phải chăng do ái dục gây ra, vì: “Ái dục là gốc khổ đau, ham muốn nhiều luỵ khổ càng sâu, nhọc nhằn sinh tử bấy lâu, đều do ái dục dẫn đầu gây nên’’. Biết được gốc rễ là do ái dục, mà ái dục là do thấy mọi cảnh chung quanh đều thật có, trường tồn vĩnh viễn để rồi ham muốn lo gom góp về để thụ hưởng, tất cả đều phục vụ cho bản ngã mà gây nên cả. Nhưng thực tế trong cuộc đời có cái gì là trường tồn mãi mãi đâu nhỉ! Có đó rồi cũng mất đó, có rồi hoàn không kia mà, nếu ta cứ mãi chạy theo sắc dục, những tiện nghi vật chất hiện đại của vô thường, sinh diệt này, thì cái của báu chân thường vắng lặng trong mỗi chúng ta sẽ khó mà hiển lộ, và trầm luân sinh tử chúng ta vẫn mãi đeo mang. “Nếu không có niềm vui chân thật bên trong thì mọi tiện nghi vật chất bên ngoài chỉ là suối nguồn đau khổ’’. Niềm vui chân thật chỉ có khi không còn bản ngã, tức là vô ngã mà vô ngã tức là Niết bàn.
Thấy rõ ràng được như vậy nên đức Phật đã nói Tâm Kinh Bát nhã và chư Tổ đã đưa vào nghi thức cho chúng ta trì tụng hằng ngày, với mục đích là nhắc nhở chúng ta luôn nhớ và thực hiện theo, mà câu quan trọng nhất là: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách’’, có nghĩa là phải luôn quán chiếu thấy năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) này đều là không, tức là VÔ NGÃ.
Nghĩa là: “Không có một cái gì tự nó sinh ra, tự nó tồn tại và giữ nguyên vị trí cố định của nó mãi mãi, tất cả đều phải chuyển biến. Vật thể thì chuyển biến từ vật này để sinh ra một vật khác; từ thân thể này qua thân thể khác. Tinh thần thì chuyển biến từ một loài này qua một loài khác, tất cả cũng giống như nước gặp nóng biến thành hơi, hơi tụ lại thành mây, mây gặp lạnh biến thành mưa, mưa biến thành nước tuôn xuống ao, hồ, sông, suối… rồi tràn vào biển cả, và cứ thế luân hồi xoay chuyển. Sự thay đổi vật chất đến tinh thần như vậy là vì tự thân nó không có một cái gì đích thực là nó, mà phải do nhiều duyên hợp lại mới thành. Nếu có một cái gì đó đích thực là nó, thì không thể nào kết hợp được với một cái khác để sinh ra một cái khác nữa. Cái không đích thực đó gọi là vô ngã”. Hiểu rõ điều này để không bị chấp chặt và dính mắc vào, thì qua khỏi hết mọi nạn tai khổ ách.
Muốn vô ngã và bào mòn được bản ngã, thì mỗi chúng ta phải luôn quên mình đi, lo sám hối tội lỗi tự bao đời, thường luôn soi xét lại mình và hay mang an vui hạnh phúc đến cho mọi người. Sống tuỳ duyên, đơn giản, ít muốn, biết đủ là ta đã lần hồi giảm bớt khổ đau và từng bước đi vào con đường an lạc để đạt đến sự giải thoát và giác ngộ. Chỉ có đơn giản như vậy, nếu chúng ta có chánh kiến và tinh tấn tu tập, giới định nghiêm trì thì trí tuệ sẽ phát sinh, thần thông hiển lộ. Đây là cách tu tập bình dị, hiệu quả để biến pháp Phật nhiệm mầu thành những thang thuốc trị tâm bệnh thần diệu và là dưỡng chất nuôi sống tô đẹp cuộc đời, đó cũng là cách tu để báo ơn, đền ơn một cách rốt ráo nhất.
Đức Phật, nhà đại y vương đã dạy: “Nước của bốn đại dương chỉ có một vị đó là vị mặn, giáo lý của Ta cũng chỉ có một vị đó là hương vị giải thoát”. Hương vị này là những phương thuốc thần diệu để trị Tâm bệnh, hướng vào Tâm để tu đó là chánh đạo, còn hướng ra ngoài Tâm là ngoại đạo. Nếu ai sử dụng pháp Phật để trị Tâm bệnh mà không lành thì hãy xem lại Tâm ta có được an chưa? Hay việc sử dụng có đúng thuốc, có đúng liều lượng, có đúng thời gian và sử dụng liên tục hay không? (cũng giống như mài củi lấy lửa, nếu chưa có lửa mà ngưng thì sẽ không bao giờ có được lửa, Tu hành mà không đến nơi đến chốn thì cũng khó mà thành Phật).
Phật tại Tâm chứ có đâu xa, nếu Ta cứ chạy theo bên ngoài mãi tìm cầu, coi như tà kiến thì muôn kiếp có mãi tu hành đều thành vô ích, cũng như “gãi ngứa ngoài giày” mà thôi!
(Thầy Hạnh Trung – Nguồn link: buddhismtoday)