Thiền ứng dụng

I. Thiền trị liệu (làm mới) – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền trị liệu (làm mới) 

Thở vào tâm tĩnh lặng

            Thở ra miệng mỉm cười.

                        Thở vào thân tâm khỏe

                        Thở ra thân tâm nhẹ.

            Thở vào thở thật sâu

            Thở ra thở thật chậm.

                        Thở vào an tịnh thân tâm

                        Thở ra lắng dịu thân tâm.

            Thở vào thân tâm thư giãn

            Thở ra thân tâm nhẹ nhàng.

                        Thở vào sự sống bình yên

                        Thở ra sự sống tuyệt vời.

            Thở vào giây phút thần tiên

            Thở ra giây phút rỡ ràng.

                        Thở vào hơi thở yên tĩnh

                        Thở ra hơi thở tươi mát.

            Thở vào thấy vui vẻ

            Thở ra thấy hạnh phúc.

                        Thở vào luôn an vui

                        Thở ra luôn yêu đời.

– Tâm lý trị liệu là gì?

            Các kỹ thuật thiết lập thành hệ thống nhằm cải thiện sức khỏe nhất là mặt tinh thần, cảm xúc, tình cảm và các hành vi cá nhân gọi là trị liệu. Những người trải qua các dao động mạnh với cuộc sống thường quá đau khổ trong các vấn đề liên quan đến sự nghiệp, gia đình, tình yêu hay sự mất mát. Nhà trị liệu sử dụng các bí quyết đặt câu hỏi và lắng nghe để tìm nguyên nhân sâu xa của các căn bệnh thời đại nhằm giúp đỡ bệnh nhân và thiết kế các phương án kỹ thuật phục vụ trị liệu tâm lý. Trận sóng thần ở Phukhet và động đất ở Tứ Xuyên vừa qua, người ta phải mời các chuyên viên tâm lý giúp đỡ các nạn nhân, người đau đớn cùng cực khi người thân của họ qua đời. Cựu chiến binh Hoa Kỳ cũng vậy, họ tìm đến các chuyên viên tâm lý nhằm áp dụng các phương pháp trị liệu để trấn an tinh thần khỏi nỗi ám ảnh về chiến tranh. Lời nói và giao tiếp giữa nhà trị liệu và bệnh nhân hay còn gọi thân chủ là hình thức chủ yếu giúp giải tỏa căng thẳng, xoa dịu nỗi đau và làm lắng dịu tạm thời những nhức nhối của thân tâm. Thân chủ phải trả tiền cho việc nhờ người khác lắng nghe và tư vấn. Các phương pháp tâm lý và lời nói ứng dụng đem ra tạo mối quan hệ giữa nhà tâm lý và thân chủ. Khi thân chủ nói và có người lắng nghe, họ đã vơi bớt đi phần nào đau đớn trong tâm và nếu được tư vấn đúng đắn, họ đem ra thực tập và chuyển hóa các khổ đau của mình.

            Thiền trị liệu có công năng chữa lành các vết thương lòng, trong đó bệnh nhân vừa là thân chủ vừa là nhà trị liệu. Bản thân là bác sĩ của chính mình và điều quan trọng không đợi đến khi có vấn đề mới tập thiền mà nên tập thiền khi chưa có vấn đề tâm lý phát sinh. Thực tập thiền trị liệu thuần thục, con người có thể đối diện với các khổ đau dễ dàng không sợ hãi, không tán loạn và biết cách đối trị với chúng một cách an lạc. Thiền là đối diện trực tiếp, không trốn chạy, không khỏa lấp. Nếu làm vậy, đến lúc nào đó nỗi đau sẽ tái phát và có sức công phá mạnh mẽ hơn lúc ban đầu. Thiền trị liệu làm công việc ngược lại. Hành giả trò chuyện với khổ đau và chuyển hóa ngay khổ đau thành an lạc. Đó là tính trị liệu của thiền và khi đối diện với nỗi khổ to lớn hơn, hành giả vẫn bình thản như thường. Trong đời sống hàng ngày, con người có nhiều va chạm như đau đớn, hoảng sợ, phiền muộn, quẫn trí, lạc lõng, thất vọng, bất ổn… Nguyên nhân vì họ có nhiều nỗi lo và đánh mất sự sống trong hiện tại, họ đau khổ hay tự hào về quá khứ hoặc chán chường và tuyệt vọng về tương lai. Thiền trị liệu giúp họ cân bằng được tâm lý, tiếp xúc với bản chất an lạc của hiện tại. Một khi cảm xúc được điều tiết, họ làm chủ được mình, không cho nó trở nên quá đáng. Bài thực tập làm gia tăng tính vững mạnh, toàn vẹn và an toàn cho con người. Họ tiếp xúc với các mầu nhiệm của niềm an lạc ngay chính trong thân tâm và sử dụng an lạc đó làm yên tĩnh mọi đau khổ.

2. Thiền thư pháp

            Thở vào, tinh thần ổn định

            Thở ra, tinh thần an tịnh.

                        Thở vào, cầm cọ tự nhiên

                        Thở ra, cầm cọ nhẹ nhàng.

            Thở vào, chấm mực

            Thở ra, giơ bút.

                        Thở vào, nghĩ về chữ sẽ viết

                        Thở ra, nghĩ về cách viết.

                        (Phần này có thể làm nhiều lần)

           Thở vào, phóng bút trong im lặng

            Thở ra, phóng bút trong im lặng.

                        Thở vào, tâm chú tâm vào từng động tác

                        Thở ra, tâm chú tâm vào từng động tác.

            Thở vào, nhấn ấn chương

            Thở ra, nhã ấn chương.

                        Thở vào, chờ mực khô

                        Thở ra, chờ mực khô.

            Thở vào, ngắm nhìn thư pháp

            Thở ra, mỉm cười với thư pháp.

                        Thở vào, lồng thư pháp vào kiếng

                        Thở ra, đặt thư pháp lên bàn.

(Thiền thư pháp có thể chú tâm vào động tác hơn là chú tâm vào hơi thở)

– Thư pháp là gì?

            Thư pháp (calligraphy) là nghệ thuật viết chữ đẹp, cách điệu, đầy sáng tạo và mang tính biểu cảm. Chữ thư pháp có thể biểu lộ cảm xúc và cái tâm của người cầm bút. Chữ viết mềm mại, mạch lạc, dễ đọc, không quá đơn giản cũng không quá cầu kỳ là nét chân phương của thư pháp. Đó cũng như hình thức hội họa, thay vì vẽ người hay phong cảnh thì lấy chữ ra vẽ, nhưng nhìn vào chữ lại thấy được hình ảnh tráng lệ hay tình người bao la. Người viết thư pháp phải có tâm và tập cho được chữ nhẫn. Khi đó họ dễ dàng thổi hồn vào nét chữ và kiên nhẫn trong việc phóng bút. Nét đẹp của tâm hồn qua nét chữ trong sáng, thảnh thơi và lành mạnh. Người đang ở trạng thái mệt mỏi và chán chường không có hứng thú viết và nếu viết, chữ viết sẽ hoang tàn và sụp đổ. Đây không chỉ mang tính nghệ thuật mà truyền đạt tư tưởng, đó là chất thiền trong thư pháp.

            Thiền thư pháp là bài thực tập chánh niệm dễ chịu, từng động tác, từng suy nghĩ đều được kiềm chế đến mức nhẹ nhàng. Hạnh phúc chân thật khi nhà thư pháp hoàn toàn an trú trong hiện tại, an trú trong thiền và đối tượng duy nhất được quán chiếu là bài thư pháp. Thư pháp không có sự rập khuôn giống như các tâm nghĩ về một đối tượng đều khác nhau, nhưng bản chất của tất cả thư pháp đều như nhau, đó là sự tĩnh lặng giống như bản chất của tâm là thanh tịnh. Cái tĩnh lặng hay thanh tịnh ấy được phác họa bằng nét vẽ, vẽ như không vẽ, không vẽ như vẽ. Thiền thư pháp không thể hiện cái gọi là cá tính hay liệu pháp gây sốc, nó thể hiện cái tâm lúc đang sáng tạo và cảm nhận khác nhau của những người thưởng thức chúng. Hình tướng của thư pháp không đồng nhất nhưng người viết đều phải nhất tâm, nghĩa là tâm và thân nhất như trong khi đối tượng làm điều này là bài thư pháp. Nhà thư pháp không hẳn đang sáng tác mà đang hành thiền. Bài diễn tập có thể diễn ra nhanh chóng nhưng sự chuẩn bị cho nó khá dài. Họ hành thiền nhiều nhất là đi thiền, ngồi thiền và thiền trà trước khi bắt tay vào cuộc. Hơi thở đem tâm hợp nhất với thân và sử dụng đối tượng thư pháp hay điều muốn viết ra làm quán chiếu theo kiểu quán thân trong thân. Nhà thư pháp biến thành bài thư pháp, ý thư pháp, nét chữ thư pháp. Đọc chữ viết đâu chỉ ngắm nhìn tác phẩm mà ngắm nhìn một con người, một tư tưởng hay một triết lý sống trong đó. Từng động tác hành thiền đều theo dõi với hơi thở nhẹ và đều. Loại thiền này chủ yếu là thiền động tác nhiều hơn thiền hơi thở. Từ việc dâng hương, ngồi thiền, uống trà, pha mực, chấm bút lông đến phóng bút đều trong chánh niệm. Chánh niệm làm công việc đưa nhà thư pháp sống trong thực tại mầu nhiệm, sống thiền, xung quanh là không gian thiền và mọi giác quan đều thiền. Thư pháp thiền mang yên lặng đến bất ngờ, nhìn rõ con người, lòng người được phơi bày. Hạnh phúc được tiếp xúc trong từng giây phút của thiền.

II. Thiền Trà – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Trà

Thiền trà

            Thiền sinh chú tâm thực tập chánh niệm vào từng động tác sau đây:

            – Vào thiền đường

            – Ngồi trên tọa cụ

            – Sắp đặt các khay trà

            – Dâng hương lên đức Phật

            – Lạy xuống ba lạy theo cách thiền lạy

            – An tọa trở lại theo vòng tròn hay vòng cung

– Mọi người theo dõi hơi thở hoặc quan sát người pha trà

– Bỏ lá trà vào bình

– Múc nước sôi vào bình trà

– Tráng các tách bằng nước sôi

– Chuyền bánh

– Chế trà ra tách

– Đặt các tách trà lên khay

– Chuyền khay trà

– Xá chào khi nhận bánh hay khay trà

– Ăn bánh và uống trà

– Thực tập chia sẻ hạnh phúc

– Nói lời cám ơn và tiễn khách.

– Tinh thần cốt lõi của thiền trà là gì?

            Thiền trà là việc uống trà có chánh niệm, thêm vào đó hương vị của thiền và hương vị của đất trời. Uống trà chỉ để uống trà, nhưng khi có chánh niệm, thiền giả có thể tiếp xúc với vạn vật và tình huynh đệ. Thật hạnh phúc và thi vị khi tự tay pha từng tách trà, mời cha mẹ, gia đình và bạn bè. Nhiều người đem chuyện làm ăn, chuyện phiếm, chuyện tranh cãi vào buổi trà nên không biết mình đang uống trà, đánh mất sự có mặt của chén trà. Uống trà được tổ chức thành tiệc trà trong các buổi họp mặt, cưới hỏi và gặp gỡ bạn bè, nhưng thiền trà là một thứ thiền có công năng gắn bó tình cảm giữa người với thiên nhiên và giữa người với người. Uống trà vào đêm trăng thanh cùng với bằng hữu hay các vị đồng tu không còn gì bằng. Hay buổi sáng mặt trời chưa mọc, im lặng nhâm nhi chén trà, thật sung sướng biết bao. Người trẻ bây giờ thích uống các loại nước ngọt, nước có gas và uống một cách ừng ực cho xong chuyện, đâu biết rằng bát chè nóng không chỉ xoa dịu được cơn khát mà còn giúp cho họ biết dừng lại, tìm kiếm những khoảng không gian tĩnh lặng và thênh thang.

            Uống trà biết mình đang uống trà, chén trà sẵn sàng có mặt cho mình thì mình cũng nên có mặt với chén trà. Trà chỉ là tên gọi nhưng trong đó có nước, hơi ấm, lá trà, đại địa, cơn mưa, người chăm sóc, cây trà… Rất nhiều yếu tố nằm trong chén trà nhưng chỉ cần thiếu một yếu tố thôi, chén trà khó lòng mà có mặt. Vị ngon của trà chính là sự tươi mát của nó. Trà không biết ghen, không biết giận, không biết chê, không biết khoe khoang. Trà chỉ biết cống hiến và thực sự có giá trị khi thiền giả nâng niu chén trà, uống từng ngụm và để cho hơi hướm của nó tan chảy. Những phiền não lo toan theo hương trà mà biến mất. Từng cử chỉ cung kính, nhẹ nhàng trong việc chào khách, pha trà, rót trà, mời trà, ánh mắt trìu mến, nụ cười nhè nhẹ, chắp tay xá chào, mời bánh mứt… đều phải trân quý và thực sự tập trung. Niềm vui xuất phát từ đó vì tất cả mọi người đều có mặt cho nhau. Thực tập thiền bạn bè cùng với thiền trà là sự kết hợp rất hay, mình thấy tình bạn thật đẹp và gìn giữ từng phút giây hiện tại. Nếu bạn bè thích lang thang trong những quán nhậu hay quán cà phê ồn ào, mời họ ngồi lại trong một khu vườn nhỏ, thắp vài ngọn nến dễ thương và pha trà uống cùng nhau. Hình ảnh thật bình yên, lãng mạn nhưng hùng tráng. Hát những bài hát ý vị, chia sẻ các tâm sự bạn bè, nghe một giai điệu quê hương và cùng nhau tập thiền như thiền trị liệu chẳng hạn là cách tom góp kỷ niệm đẹp, duy trì khả năng vui tươi của mỗi người và thư giãn lành mạnh. Tại nơi đây và vào lúc này, chén trà đánh dấu sự thắt chặt tình nghĩa gia đình, tình cảm bạn bè và cũng có thể là tình yêu đôi lứa. Đêm thật huyền diệu và nó được điểm tô bởi buổi thiền tập dễ thương do sự góp mặt của chén trà dễ thương và những người dễ thương.

Thiền đi tản bộ

            Thiền sinh thực tập chánh niệm theo các hướng dẫn sau đây:

            – Đi từng bước chậm rãi

            – Theo dõi từng bước chân

            – Đi chân không hoặc mang dép nhẹ

            – Chân trái bước biết chân trái bước

            – Chân phải bước biết chân phải bước

            – Ngắm nhìn cảnh vật xung quanh

            – Lắng nghe âm thanh cuộc sống

            – Cảm nhận lòng bàn chân chạm vào mặt đất

            – Đi ngay ngắn, chỉnh tề và buông thư

            – Ý thức các mùi hương của hoa cỏ

            – Biết rõ những sự việc đang xảy ra.

– Vì sao nên đi tản bộ mỗi ngày?

            Đi tản bộ hay đi dạo có lợi cho sức khỏe, điều hòa sự lưu thông của máu huyết, hệ tim mạch, giúp ngủ ngon và tăng cường trí nhớ. Đi tản bộ vào lúc sáng sớm, buổi chiều hay trước khi đi ngủ đều rất tốt. Mọi người đều có thể thực tập đi bộ như một phương pháp thể dục hàng ngày và làm tinh thần sảng khoái cũng như giảm căng thẳng. Đi bộ trong công việc, trong vườn hay trong phòng rất hay. Có thể đi một mình hay đi với nhiều người. Các chất thừa thải, đường trong máu và cơ thể có thể được trao đổi làm cơ thể cân đối, khỏe khoắn. Không nhất thiết phải đi nhanh, đi chậm hay đi với tốc độ vừa phải, đi một cách đúng đắn vẫn có tác dụng trị liệu cao. Cuộc sống công nghiệp khiến con người cũng đi bộ nhưng đi quá nhanh và hầu như không biết cách điều hòa hơi thở. Thiền đi tản bộ kết hợp bước chân với hơi thở, theo đó hai hay ba bước chân tương đương với hơi thở vào và ba hay bốn bước chân tương đương với hơi thở ra. Số lượng bước chân tùy thuộc vào độ dài của hơi thở nên không có tính bắt buộc. Tâm để vào từng bước chân, lắng nghe các âm thanh cuộc sống và ngắm nhìn phong cảnh. Thỉnh thoảng hít thở sâu và dừng lại theo dõi hơi thở trước khi đi tiếp. Người bận rộn quá không đi công viên hay ra vườn được thì tập tại chỗ như đi bộ tại chỗ và đi từ tòa nhà này sang tòa nhà khác, áp dụng thiền đi tản bộ. Không cần phải đợi đến giờ tập thể dục mới đi bộ. Tận dụng mọi cơ hội thư giãn khi đang bận rộn.

            Thiền đi tản bộ có thể gọi là thiền đi chơi hay đi dạo. Mọi lo toan buồn phiền bỏ qua một bên, cho phép đôi chân tiếp xúc với mặt đất, cảm nhận sự an toàn trong hiện tại. Đi làm sao cho có hạnh phúc và thảnh thơi, không đi trong khủng bố và đi như chạy. Đi có sự mầu nhiệm vì đôi chân còn khỏe, hơi thở còn trong lành, mặt đất còn mát mẻ và thiên nhiên còn dễ chịu. Mỗi bước chân đem lại hòa bình trong hiện tại, không chạy theo những bon chen và phù phiếm. Đi trong hiện tại để biết sự sống đang có mặt, con đường đang có mặt và cây cối đang có mặt. Ngồi trên tàu lửa tốc hành, cây cối vùn vụt trôi qua, một tiếng chim chưa kịp nghe hay một bông hoa chưa kịp ngắm đã trôi đi. Đi nhanh quá uổng lắm, đâu nghe được tiếng chim và đâu ngắm nhìn được bông hoa, trong khi chúng có mặt cho ta, dâng hiến cho ta, vậy mà ta chẳng thèm để ý tới. Thế gian đang đi theo tốc độ của máy bay siêu tốc hay xe lửa siêu hạng, nhưng chẳng bao giờ thỏa mãn tốc độ của mình. Thế gian quay cuồng trong những thứ hào nhoáng của tốc độ nhưng chẳng biết chầm chậm lại. Người tu không bao giờ đi như bị ma đuổi, mà đi chậm và đi thật bình an. Khi có công việc khẩn cấp thì đi nhanh nhưng hoàn toàn có chánh niệm và an trú trong sự đi nhanh đó. Sự sống ngắn như một hơi thở. Cách nói nghe hơi quá nhưng lại đúng như vậy. Ngoảnh qua ngoảnh lại, đời người trôi qua rất nhanh. Ấy vậy ta chẳng biết tận hưởng sâu sắc từng giây phút, ta cứ mãi rong ruổi ở phương trời nào đó và chẳng chịu có mặt cho hiện tại. Thiền đi tản bộ phần nào giúp ta đi vào thế giới của hiện tại, giây phút thực sự sống động và hơi thở tinh khôi.

III. Thiền Ăn Cơm – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Ăn Cơm

Thiền đi nhanh

            Thiền hành có thể đi nhanh nhưng thiền sinh phải biết mình đang đi:

            – Đi nhanh nhưng nhịp nhàng và thoăn thoắt

            – Hơi thở vào tương ứng với nhiều bước chân

            – Hơi thở ra tương ứng với nhiều bước chân

            – Tâm luôn chú trọng nơi bàn chân

            – Ý thức mình đang đi nhanh

            – Tập trung tư tưởng và kiểm soát cảm xúc

            – Điều hòa hơi thở nhịp nhàng với bước chân

            – Các bước chân ứng với hơi thở vào và ra.

– Thiền: nên chậm hay nhanh?

            Vấn đề không phải là nhanh hay chậm mà vấn đề là dù nhanh hay chậm, thiền giả có ý thức và nhận biết hay không. Chánh niệm làm nhiệm vụ biết sự chậm hay nhanh. Công việc của cư sĩ nhiều lúc đòi hỏi phải nhanh, nhưng không chìm đắm vào cái nhanh đó. Chậm và nhanh cũng có thể là bởi ý niệm. Đối với người đi như vậy là chậm hoặc quá chậm, nhưng với người khác như vậy lại nhanh hoặc quá nhanh. Cho nên không nhất thiết phải nhanh hay chậm mà tùy thuộc vào sự thích ứng của mỗi người và tùy trường hợp phải chậm hay nhanh. Thiền đi nhanh là một bài thiền tập dễ chịu, như liều thuốc bổ giúp cơ thể vận động, cũng như thiền đi tản bộ hay thiền đi dạo. Đi nhanh thì hoạt động nhiều hơn, nhưng thiền giả tập tỉnh thức trong các tình huống được cho là “khẩn cấp, đặc biệt, đánh nhanh, rút gọn”. Sức bền bỉ dẻo dai được luyện tập nhưng bài tập không khiến thiền giả rơi vào các môn thể thao hay thể dục nguy hiểm. Thiền đi nhanh mang tính thể dục nhiều hơn. Việc thực tập này không chỉ áp dụng ở việc đi mà còn áp dụng vào làm các công việc lúc cần nhanh. Chẳng hạn như lau nhà, quét dọn hay tưới rau. Dĩ nhiên làm các công việc này nhất thiết phải chánh niệm và từ tốn, nhưng khi cần gấp thì có thể làm nhanh và tính nhanh phải được ghi nhận. Công nhận tính nhanh đưa thiền giả vào trạng thái tỉnh thức. Như khi đang đi tản bộ ngoài trời, trời đổ cơn mưa, phải đi thật nhanh hoặc thậm chí chạy nhanh đến nơi trú mưa. Tuy nhiên, ý thức việc đi hay chạy giúp thiền giả không sợ hãi trốn tránh cơn mưa và không vội vàng lo lắng tìm kiếm nơi ẩn náu. Khoảng năm 1998 tôi tham dự một buổi phỏng vấn xin việc tại hãng TNT Express. Người phỏng vấn là phó giám đốc công ty hỏi tôi: Anh có cẩn thận không? Tôi trả lời: Tôi nghĩ là mình cẩn thận. Thế anh có nhanh không? Tôi nghĩ là mình nhanh nhẹn. Anh nói anh nhanh nhẹn thì làm sao cẩn thận được? Tôi cho rằng việc nhanh không có nghĩa đơn thuần là nhanh tay lẹ chân, mà còn nhanh trí, đôi lúc phải nhanh và đôi lúc phải chậm, đôi lúc nhanh nhưng không phải chỉ duy nhất thể hiện bằng thao tác, hoặc kết hợp giữa nhanh và cẩn thận thì vẫn hay hơn là chậm mới cẩn thận, cái đó gọi là chuyên môn hóa trong sáng tạo, còn chuyên môn hóa rập khuôn sẽ nhàm chán. Ở đây cũng vậy, có người cho rằng một ông thầy tu phải đi chậm và khoan thai và nếu ông ấy đi nhanh thì cho là người này không biết tu hay không có chánh niệm. Như vậy thật sai lầm. Đi chậm hay đi nhanh vẫn có chánh niệm như thường. Tuy nhiên, không nên lợi dụng việc đi nhanh để ngụy biện cho hành vi thất niệm của mình. Vấn đề là phải thực tập và đem ra áp dụng. Không ngồi than thở là muốn như vậy lắm nhưng sao thấy khó và sợ làm không nổi. Không nhảy vô thực tập thì làm sao biết dễ hay khó. Khó hay dễ chỉ bởi quan niệm, nếu có ý chí thì làm gì cũng được. Nhiều người trẻ cứ nói là thích tập lắm, muốn tập lắm, nhưng sợ người ta cười, sợ không có thời gian. Mình tập cho mình và khi có hạnh phúc, người khác sẽ bắt chước ta thôi. Ai cười mặc họ, có khi mình chỉ cho họ cách thiền cười, họ sẽ cám ơn mình.

Thiền ăn cơm

            Đặc điểm của thiền ăn cơm là nhai kỹ, thiền sinh thực tập chánh niệm từng động tác, động tác có chậm cũng không sao, quan trọng là ý thức càng chi tiết càng tốt:

            – Đi khất thực, theo dõi từng bước chân

            – Đứng chờ khất thực, theo dõi hơi thở

            – Lấy thức ăn, theo dõi từng động tác dù nhỏ nhặt nhất

            – Lấy thức ăn xong, luôn ôm bình bát trong hai tay

            – Vào trai đường, cúi chào đức Phật

            – Ngồi xuống, theo dõi tư thế ngồi

            – Ngồi chờ, theo dõi hơi thở

– Thực tập quán niệm trước khi ăn, đọc lời quán niệm và các bài kệ cầu nguyện

– Ăn cơm chậm rãi, gọi tên được từng món ăn hay thành phần của nó

– Ăn từng muỗng nhỏ, nhai ít nhất 30-50 lần đến 100-120 lần

            – Ăn xong, theo dõi hơi thở chờ mọi người

            – Ôm bình bát, đứng dậy xá chào đức Phật

            – Rời trai đường, đến nơi rửa bát trong im lặng

            – Rửa bát như tắm Phật sơ sinh

            – Kết thúc thiền ăn cơm.

– Ăn cơm chánh niệm?

            Ăn cơm chánh niệm là bài thiền tập an lành và tiếp xúc sâu sắc với sự sống trong hiện tại. Người ăn chay không có chánh niệm giống như ăn mặn và người ăn mặn có chánh niệm giống như ăn chay. Trong khi ăn, thiền giả ý thức từng động tác đang thực hiện, từ việc lấy thức ăn, múc cơm, để thức ăn vào miệng, nhai cơm,… đến khi đi rửa bát và nghỉ ngơi. Thiền ăn cơm có tác dụng tiếp xúc với thức ăn, vạn vật có mặt trong thức ăn và những người ăn cơm chung như tăng thân, gia đình, bạn bè. Những người tự cho là bận rộn khi ăn không biết mình đang ăn, cứ để những suy nghĩ vẩn vơ về công việc, tình cảm. Chính vì thế, hành động ăn uống không được biết đến, hệ tiêu hóa bị thờ ơ, các căn bệnh liên quan đến bao tử và đường ruột cũng phát sinh theo. Đất trời hiến tặng cho ta biết bao nhiêu nguồn thực phẩm quí giá, nhờ có chúng, ta bảo tồn hơi thở và thực tập giải thoát, cứu độ chúng sanh. Biết ơn thức ăn, người dâng tặng thức ăn và công phu làm việc của không biết bao nhiêu người dang tay góp mặt. Ăn để tu, tu cho bản thân, cho Phật, cho thầy, cho tăng thân, cho gia đình, cho đất nước, cho chúng sinh. Thiền giả mới thực tập chưa có khả năng chánh niệm từng động tác, có thể đọc các bài kệ có giá trị nuôi dưỡng các hạt giống từ bi trước lúc ăn và sau khi ăn. Phần đầu của cuốn sách thiết kế nhiều bài kệ cho thiền giả thực tập. Các bài kệ chỉ là gợi ý, bản thân có thể tự đặt ra các bài kệ cho mình. Khi đi khất thực hay thọ trai, nhất nhất thiền giả phải có chánh niệm, đi như đi thiền hành, ăn cơm thiền như đang ngồi thiền, vào trai đường như vào thiền đường. Thật hạnh phúc nếu mọi người đều biết thực tập thiền 24 giờ mỗi ngày, hơi thở lúc nào cũng tinh khôi.

Dưới đây là bài kệ số 57 dùng để thực tập quán niệm trước khi ăn.

57. Quán niệm trước khi ăn

Đức Phật dạy chúng con nên thực tập ăn cơm trong chánh niệm. Đại chúng hãy thực tập năm phép quán trước khi ăn như sau:

1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, của muôn loài và công phu lao tác, con nguyện ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi và bảo vệ sự sống của muôn loài.

2. Con nguyện ăn trong chánh niệm, với lòng biết ơn và luôn sống tỉnh thức.

3. Con nguyện ăn uống chừng mực, nhận diện và chuyển hóa những tật xấu, đóng góp vào tiến trình làm giảm sự nóng lên của địa cầu và hiệu ứng nhà kính.

4. Con nguyện chỉ ăn những thức ăn lành mạnh có tác dụng nuôi dưỡng, ngăn ngừa bệnh tật và mang lại hòa bình cho thân tâm.

5. Con nguyện tu tập tinh chuyên, hòa hợp tăng chúng, thành tựu đạo quả và cứu độ chúng sanh, để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.

Thiền Buông Thư – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Buông Thư

Thiền nghe chuông

            Thiền nghe chuông là bài thực tập vi diệu, tiếng chuông thức tỉnh chúng sinh quay về với chánh pháp, nên chuông là vị Bồ tát có công năng nhắc nhở bản thân tu tập:

            – Xá chào chuông, đọc bài kệ cầu nguyện

            – Nhấp chuông, thông báo chuông bắt đầu được thỉnh

            – Thỉnh chuông, lắng lòng ngồi nghe chuông

– Nghe chuông, dừng lại mọi rong ruổi của tâm, tâm chỉ nương vào tiếng chuông

– Kết thúc nghe chuông, nhắc nhở bản thân luôn tỉnh thức tiếp xúc với thực tại.

– Lắng lòng nghe tiếng chuông ngân

            Thiền nghe chuông có thể được thực tập vào buổi sáng hay buổi tối tại gia và các thời điểm thay đổi thời khóa tại tu viện. Ánh sáng có thể không tới được những nơi tối tăm nhưng tiếng chuông có thể vang tới. Nghe chuông, không nhất thiết phải đứng lại hay dừng lại mọi hành động như cái máy, trừ khi lúc đang ở thiền đường hay chánh điện. Nghe chuông ta nhắc nhở bản thân thực tập chánh niệm, theo dõi hơi thở và ý thức công việc đang làm. Đọc lên bài kệ thỉnh chuông và nghe chuông, đưa tâm đang rong ruổi quay về với thân và tâm chánh niệm hời hợt lập tức làm cho nó sáng tỏ. Chuông là người bạn tu và tiếng chuông là vị Bồ Tát. Nhiều người rất sợ nghe chuông. Một người học trò khá lớn tuổi từng học tiếng Anh với tôi đã giật mình và cảm thấy sợ hãi khi nghe tiếng chuông vang lên. Điều này không có gì phải nghi vấn, người này có nhiều sự tán loạn, dính mắc và đau khổ, nên nghe chuông khiến người đó sợ hãi. Âm thanh tạo nên một thứ phản xạ có điều kiện và thiền giả biết quay về với điều kiện hiện tại. Từ trẻ nhỏ đến người lớn đều có thể thiền nghe chuông, một bài tập rất dễ và có giá trị nuôi dưỡng rất lớn.

            Sự sống đang có mặt cho ta trong phút giây hiện tại. Toàn tâm toàn ý nghe chuông, ta biết năng lượng của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tăng đang có mặt trong ta. Ở nhà, cư sĩ thỉnh một, hai hay ba tiếng chuông đều có thể tiếp xúc với năng lượng của Tam Bảo trong cơ thể giúp dứt trừ và đoạn diệt mọi lo toan của đời sống hàng ngày. Người thờ cúng tổ tiên có thể thỉnh chuông, nghe chuông ta tiếp xúc với năng lượng tổ tiên và gen tổ tiên trong cơ thể. Tiếng chuông có thể được thâu vào đĩa và lưu vào máy vi tính. Ta cài đặt tiếng chuông cứ mỗi 15 hoặc 30 phút phát ra một lần. Điều này nhắc nhở ta đang sống trong hiện tại và tập bản thân hãy là hiện tại. Trong công sở khi làm việc nghe chuông trên máy vi tính vẫn có công năng kỳ diệu như nghe chuông trong chùa. Ta dừng lại một chút, khoan đánh máy, khoan thảo luận, thở vài cái và nhận biết hiện tại. Điều này nuôi dưỡng ta làm việc thoải mái, dễ chịu và tươi mát với mọi thứ xung quanh. Nơi làm việc trở thành không gian thiền và nhân viên cũng như giám đốc trở thành thiền giả. Những căng thẳng, áp lực và bực bội vì công việc được giải tỏa. Thân tâm trong phút chốc bình an, nhẹ tênh. Chỉ cần thực tập nho nhỏ nhưng khả năng trị liệu rất lớn thì đáng làm. Công việc đang làm rất nặng nề nhưng trở nên dễ dàng và hiệu quả làm việc sẽ nâng cao. Ta không than phiền về công việc mà biết yêu thích và tận hưởng những phút giây của công việc. Thiền nghe chuông cho phép thiền giả nghỉ ngơi trong giây lát và thư giãn ngay nơi làm việc. Bất cứ âm thanh nào cũng đều là biểu tượng của tiếng chuông: chuông gọi cửa, chuông điện thoại, chuông đồng hồ, còi xe máy, chuông nhà thờ, tiếng gà gáy, tiếng chó sủa, tiếng chim ríu rít, tiếng vi tính tắt mở, tiếng em bé cười… Lắng nghe để thấy mọi âm thanh sự sống đang giúp ta tu tập.

Thiền lạy

            Thiền lạy giúp ta tiếp xúc với đất Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, giúp ta hòa giải và tha thứ. Thiền sinh chú tâm vào từng động tác khi lạy:

            – Lạy thứ nhất, tiếp xúc với gia đình huyết thống

            – Lạy thứ hai, tiếp xúc với gia đình tâm linh

            – Lạy thứ ba, tiếp xúc với đại địa, với đất Phật

            – Lạy thứ tư, buông bỏ mọi giận hờn, trách móc, oán thù

            – Lạy thứ năm, hòa giải với tất cả mọi người

– Lạy thứ sáu, nguyện học theo tinh thần đức Phật và các vị Bồ Tát

– Lạy thứ bảy, buông bỏ mọi kiêu hãnh, ngạo mạn và ảo tưởng

– Lạy thứ tám, tiếp xúc với tự tính không sinh không diệt

– Lạy thứ chín, vượt thắng sợ hãi và đạt được an nhiên tự tại.

– Lạy thứ mười, tiếp xúc với an vui và hạnh phúc.

– Thiền lạy là gì?

            Thiền lạy là bài thiền tập có công năng xoa dịu khổ đau, phát tâm tha thứ và gìn giữ khiêm cung. Có nhiều cách lạy nhưng hay nhất vẫn là tư thế lạy năm vóc sát đất. Buông bỏ mọi ngã mạn của bản thân, lạy xuống và học theo hạnh của Tam Bảo. Thông thường ta lạy ba lạy, năm lạy, mười lạy hoặc nhiều hơn tùy trường hợp và đối tượng thực tập. Khi lạy ta có chánh niệm về từng động tác và tâm ý. Ta biết ta chấp tay, cúi xuống, quỳ xuống, phủ phục, tiếp đất và đứng lên. Lạy Phật không phải ta lạy bức tượng mà ta thực sự đang tiếp xúc với tinh thần Phật, tính cách Phật, từ bi Phật… Lạy chư tăng không phải ta lạy một con người mà ta thực sự đang bày tỏ tấm lòng nương tựa vào tăng thân, đi chung với tăng thân và tu tập cùng tăng thân. Lạy tổ tiên cha mẹ để bày tỏ lòng hiếu nghĩa, ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục và gầy dựng bảo vệ đất nước từ ngàn xưa. Lạy nhau cam kết gìn giữ tình huynh đệ, tình nghĩa vợ chồng hay tình anh em ruột thịt.

            Ta không phải là một cá biệt tách rời khỏi tập thể, cộng đồng hay thế giới. Không có gì gọi là cá tính, cái tôi và bản ngã. Ta có mặt vì hằng hà sa số yếu tố có mặt và chúng có mặt là vì ta. Lạy để biết rằng ta mang trong người hằng hà sa số yếu tố. Các yếu tố này nuôi dưỡng ta và vì ta mà phát triển. Ta thuộc về một tập thể nên bản thân không tự cho phép mình làm tổn thương tập thể. Muốn thực hiện điều đó, ta phải biết gìn giữ và trân quý chính ta, như vậy cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ và tu tập cho tập thể. Những người cô đơn vì tự giam hãm mình trong những bức tường của cá nhân và không chịu hòa mình với ai. Thiền lạy mang con người đến gần và làm bạn với nhau. Thiền giả được đất đai, vạn vật, người thương, tăng thân… nuôi dưỡng rất nhiều. Lạy không đơn giản mang ý nghĩa trả ơn mà ghi dấu một lời hứa vĩ đại: hứa thực tập hạnh phúc trong hiện tại, hứa gìn giữ khiêm cung với mọi người, hứa học theo hạnh của Tam Bảo, hứa tôn thờ kính trọng tổ tiên… Ta chấp nhận và tha thứ những lỗi lầm, sai phạm của tổ tiên, của chính ta, vì thế ta trở nên bao dung và không gò bó trong đau khổ. Những tuyệt vọng và bức xúc được buông bỏ trong mỗi lần lạy. Năng lượng nóng nảy tan biến và năng lượng tươi mát dồn dập tỏa ra. Ta thấy tổ tiên và ta là một, Phật và ta là một, tăng thân và ta là một…, cho nên tha thứ tất cả là tha thứ chính ta, thân tâm sẽ khỏe khoắn và bình an trở lại. Thiền lạy có thể giảm thiểu bằng thiền xá chào. Xá chào chánh niệm cũng có tác dụng to lớn không thua kém gì .

Thiền buông thư

            Thở vào, buông thư toàn thân

            Thở ra, buông thư toàn thân.

                        Thở vào, đây là bộ não của con

                        Thở ra, buông thư bộ não của con

            Thở vào, đây là đôi mắt của con

            Thở ra, buông thư đôi mắt của con

                        Thở vào, đây là gương mặt của con

                        Thở ra, buông thư gương mặt của con

            Thở vào, đây là đôi tai của con

            Thở ra, buông thư đôi tai của con

                        Thở vào, đây là cổ họng của con

                        Thở ra, buông thư cổ họng của con

            Thở vào, đây là trái tim của con

            Thở ra, buông thư trái tim của con

                        Thở vào, đây là hai lá phổi của con

                        Thở ra, buông thư hai lá phổi của con

            Thở vào, đây là bao tử của con

            Thở ra, buông thư bao tử của con

                        Thở vào, đây là lá gan của con

                        Thở ra, buông thư lá gan của con

(Tiếp tục buông thư các bộ phận khác trên cơ thể bắt đầu từ đầu cho đến chân, khi buông thư có thể quán chiếu các chức năng của từng bộ phận, từ đó biết ơn và nhắc nhở giữ gìn sức khỏe)

– Vì sao phải tập buông thư toàn thân?

            Buông thư toàn thân giúp nhận diện và đem lại sự thư giãn cho cơ thể. Thời gian thực tập từ 15 phút đến 30 phút nhưng hiệu quả lại cao, nhiều người lấy lại năng lượng và ngủ ngon. Hệ thần kinh căng thẳng, thân tâm không ở chung với nhau và thói quen giải trí không lành mạnh làm cơ thể mệt mỏi và bệnh tật. Thiền giả thực tập thiền buông thư giống như massage từng bộ phận trên cơ thể và cho phép chúng thư giãn toàn diện. Bảo vệ chúng bằng cách gọi tên từng bộ phận, biết được chức năng của chúng, cho phép chúng nghỉ ngơi, biết ơn sự có mặt của chúng và hứa với lòng không làm cho chúng kiệt quệ. Nói về đôi mắt, có người có đôi mắt rất đẹp và khỏe mạnh, nhưng không biết trân quý, cứ xem ti vi quá nhiều, sử dụng vi tính quá nhiều, đọc sách quá nhiều hoặc cây cối xanh tươi không nhìn mà đi nhìn những bực bội khó chịu, đôi mắt vì thế ngày càng cận thị, mê mờ và tàn tạ. Buông thư cho đôi mắt để biết đôi mắt quý như thế nào, đồng thời xin lỗi, biết ơn và cam kết bản thân không làm tình làm tội đôi mắt nữa. Khi được nghỉ ngơi, đôi mắt lấy lại vẻ đẹp hồn nhiên và thanh khiết vốn có của nó. Đôi mắt được sử dụng để ngắm nhìn thiên nhiên kỳ vĩ hay người thân thương hơn là chúi đầu vào các sản phẩm độc hại và giải trí không lành mạnh.

            Người thấy mệt mỏi hay không khỏe sẽ biết nghỉ ngơi để tái tạo lại năng lượng cho cơ thể. Đây chính là người biết mình. Người không biết mình sẽ mặc kệ cho cơ thể rệu rạo và kiệt quệ. Cơ thể trở nên bị quên lãng và mặc sức buông thả nó. Ta không có thói quen nghỉ ngơi và khi nghỉ ngơi lại chìm đắm trong các kế hoạch giải trí và khi giải trí xong, thân thể càng xói mòn nhiều hơn nữa. Thân thể do tổ tiên và cha mẹ mang lại. Bảo vệ chúng tức là có hiếu với tổ tiên và cha mẹ. Vì vậy tổ tiên và cha mẹ thiêng liêng bao nhiêu, thân thể cũng thiêng liêng như vậy. Chăm sóc cho thân thể và cho phép chúng nghỉ ngơi tức là chăm sóc người mình thương và thực sự có mặt cho người mình thương. Thân thể đáng được săn sóc và nuôi dưỡng bằng các yếu tố lành mạnh hơn là biến nó thành công cụ của công việc và năm thứ dục. Lợi dụng thân thể để tu tập nhưng không bị kẹt vào nó. Thân thể cần được trân quý nhưng không vì thế mà biến nó thành bức tượng cho các nhà điêu khắc. Hãy tắm gội thân thể bằng hơi thở tinh khôi, bằng môi trường trong lành, bằng các phương tiện trong sáng, bản thân sẽ trở nên tươi mát và dễ thương. Người sống hiền hòa nhân hậu sẽ có gương mặt đẹp đẽ, dễ mến, ưa nhìn. Người sống chuyên bày mưu tính kế, làm hại người này người kia, gương mặt và thân thể chứa đầy cạm bẫy và tù túng. Động từ buông thư nói rõ khả năng buông bỏ những phiền não, lo toan, bực bội, hờn giận, dính mắc, mê đắm… để quay về với trạng thái tinh khiết của thân thể. Khi bụi bậm, ta tắm rửa cho sạch sẽ bằng xà phòng và buông thư là biện pháp tắm rửa cho những bộ phận bên trong lẫn bên ngoài cơ thể. Mang bình yên và hòa bình trở về cho cơ thể, không cho nó có chiến tranh và bị quên lãng nữa.

Thiền Công Việc – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Công Việc

Thiền công việc

            Thiền công việc tức là thực tập chánh niệm trong từng động tác của công việc. Bài thực tập này giúp thiền sinh thực tập liên tục từ khi thức dậy đến khi đi ngủ trong tất cả mọi hành động của mình. Chi tiết công việc đã được liệt kê kỹ trong 164 bài kệ thực tập chánh niệm, Tuy nhiên, tùy theo tính chất công việc của từng thiền sinh mà có thể bổ sung thêm các công việc có thể thực tập chánh niệm. Dưới đây chỉ đề cập mười loại công việc giúp thực tập thiền hiệu quả.

            – Súc miệng

            – Ăn cơm

            – Rửa chén

            – Lặt rau

            – Quét nhà

            – Đi chợ

            – Lái xe

            – Ngồi đọc sách

            – Viết thư

            – Mặc quần áo

– Khi làm việc vẫn thiền được sao?

            Thiền được thực tập mọi lúc mọi nơi thì không lý do gì khi làm việc mà không thiền được. Thiền công việc, thiền làm việc hay thiền chấp tác đều lấy chánh niệm làm cơ bản cho việc thực tập. Nhiều pháp môn cho rằng vừa làm việc vừa theo dõi hơi thở nghe có vẻ mâu thuẫn. Tức là tâm vừa theo dõi hơi thở vừa theo dõi hành động công việc ? Tâm để ở hai nơi như vậy thì khó mà định tâm. Thiền công việc yêu cầu thiền giả chú trọng đến công việc đang làm, ý thức đến động tác, hoạt động tâm ý và các tác động của ngoại cảnh xung quanh. Làm việc một cách thảnh thơi, không cần có tiêu chí, mục đích và thời hạn chót. Làm việc vì bản thân, tăng thân và mọi người. Công việc làm chỉ để làm, không hấp tấp cho xong việc, không cẩu tha cho có làm. Làm việc chánh niệm mang chất liệu của cẩn thận và nâng cao phẩm chất cho công việc. Thiền giả có thể từ chối làm những công việc quá sức, không biết làm hoặc vượt khỏi khả năng. Tuy nhiên những công việc chưa biết thì nên tập cho biết và chánh niệm giúp cho các việc chưa biết trở nên thú vị. Mục đích của thiền công việc là thực tập chánh niệm. Công việc chỉ là phương tiện giúp cho việc thực tập thành tựu và hiệu quả công việc chính là niềm vui hay hạnh phúc khi tiếp xúc vời từng tế bào công việc.

            Thiền công việc góp phần xây dựng mối liên hệ giữa người này với người kia trong tự viện. Thiền giả bên cạnh đó còn thực tập khả năng lắng nghe, ái ngữ, hợp tác và chia sẻ. Bài thiền này là cách nghỉ ngơi trong công việc bận rộn. Tu sĩ sống trong tự viện mà không biết thiền, chỉ đổ tội cho Phật sự quá nhiều thì uổng lắm. Các công việc gọi là Phật sự kia chính là các bài tập về nhà mà các học trò có thể làm, đừng có đợi ngồi dưới cây bồ đề mới thiền được. Làm việc trong im lặng là tốt nhưng đừng im lặng thái quá. Thỉnh thoảng nhắc nhở bạn đồng tu thở, mỉm cười với nhau và đưa ra lời khen tặng. Hạnh phúc khi làm việc cùng nhau, không phải chăm chỉ thui thủi một mình.

Thiền viết thư

           Thiền viết thư mang tính chất chia sẻ tình thương với người nhận, khi viết thư người viết liên tục quán niệm trong suốt quá trình viết:

            – Nghĩ về lời nói đẹp ban tặng cho người thương

            – Nghĩ về hạnh phúc người thương có thể nhận được

            – Nghĩ về hạnh phúc bản thân mà mình muốn chia sẻ

            – Nghĩ về những kỷ niệm đẹp mình muốn nhắc lại

            – Nghĩ về lời nói thương yêu có thể được viết trong thư

            – Nghĩ về sự mong muốn của người thương

            – Nghĩ về sức khỏe và tinh thần của người thương

            – Nghĩ về hàn gắn, hòa giải và hòa hợp

            – Nghĩ về mối quan hệ lành mạnh, thủy chung

            – Nghĩ về tình mẫu tử, tình vợ chồng, tình quê hương…

– Viết thư bằng cả trái tim

            Đó chính là đem tiếng nói thương yêu của trái tim viết thành lời và gửi cho người mình thương. Bài thiền tập này rất lãng mạn, chứa chan niềm yêu thương, hóa giải những tri giác sai lầm và hàn gắn mọi vết thương. Có những lời giải thích khó nói bằng lời nên chữ viết thay cho lời muốn nói. Viết thư không cần phải hay, phải trau chuốt hay phải cực kỳ bay bướm mà chỉ cần giản dị, mộc mạc nhưng đầy trìu mến và đặc biệt là viết từ trái tim. Lời nói có thể tan biến rất nhanh nhưng bức thư có thể tồn tại lâu dài, là kỷ niệm đẹp và minh chứng cho yêu thương chân thành. Chồng viết cho vợ, con viết cho mẹ, cha viết cho con, bạn viết cho bạn, trò viết cho thầy cô, thủ tướng viết cho người dân… đều phải thực tập viết thư chánh niệm. Đây là bài thiền tập có tính chất quán chiếu, nói lên những lời ta suy nghĩ, rung động và vì hạnh phúc của người mà viết. Lời ái ngữ hoàn toàn được áp dụng với mục đích ban tặng niềm vui, sự thông cảm và hòa giải hơn là những lời buộc tội, trách móc, chỉ trích, lên án và phê bình. Ngồi thiền hay đi thiền hành trước khi viết thư có tác dụng tưới tẩm hạt giống an lành cho thân tâm trước khi đặt bút viết. Đừng để cho những cái tôi len lỏi và hãy đặt vị trí của mình vào vị trí của người đọc để biết người đó cần gì ở ta và viết điều người ấy cần hơn là viết những cái mình muốn. Tùy theo trường hợp mà thư viết ngắn hay dài. Thư ngắn nhiều khi có tác dụng tốt. Nhiều bức thư ngắn mang lại kết quả tươi đẹp hơn một bức thư dài giải thích lòng vòng. Tuy nhiên, vấn đề không phải là viết hay hay dở, vấn đề là làm sao người kia hiểu mình và mình hiểu được người kia. Bức thư mang niềm vui không thể chứa đựng yếu tố giận hờn, hoài nghi hay chia rẽ mà chỉ nói lời yêu thương, dễ chịu, nhẹ nhàng. Người đọc xem xong có cảm giác như vừa uống nước mía và có thể lâng lâng tuyệt vời hơn cả vậy. Có nghĩa là bức thư có yếu tố ngọt như đường, thơm như xoài chín và quyến rũ như đêm trăng thanh.

            Bức thư kiểu cách quá có thể mang yếu tố giả tạo. Thư viết nhằm xây dựng mối quan hệ, củng cố và hâm nóng tình thương. Vậy thì hãy viết chân thật, tự nhiên và đem tình cảm vào trong đó. Có người cầm một bức thư yêu thương đọc tới đọc lui, thuộc từng câu chữ, từng nét chữ và có thể đọc làu làu từng dòng trong đó. Ấy vậy vẫn cứ lấy ra đọc. Đơn giản vì bức thư có thể cứu người. Chỉ cần một câu yêu thương có thể giúp một người sắp tự tử trở nên yêu đời, một người đang tuyệt vọng trở nên mạnh mẽ và một người đang buồn tẻ trở nên tràn trề sức sống. Thiền giả viết làm sao để người đọc thấy được mình, biết ngay người viết là ai và chỉ mong mỏi được gặp mình, có mặt cho mình. Hạnh phúc của người đọc chính là hạnh phúc của mình. Hạnh phúc này thúc đẩykhuyến khích mình viết tiếp.

            Thiền giả có phong cách viết và lời văn riêng, không rập khuôn với ai và không bắt chước ai. Hạnh phúc càng chân thật bao nhiêu thì cường độ của nó càng lớn bấy nhiêu. Hạnh phúc giả dối cường độ rất thấp, thậm chí chẳng có cường độ nào. Người kia là người mình thương, cho nên họ đáng được tận hưởng lời nói yêu thương của mình. Thật vô lý khi mình nói với bạn bè hay khách hàng rất dễ thương còn nói với người thương thì không dễ thương chút nào. Nền tảng của yêu thương chính là yêu thương và lời yêu thương viết ra hay nói ra thì mới được chứng minh. Trong lòng rất yêu thương nhưng không bày tỏ, giấu diếm và có người xấu hổ không dám viết hay nói ra lời yêu thương thì thật buồn cười. Thương thì nói bây giờ, ngay chỗ này, đừng đợi ngày mai, ngày mai có thể mình hay người thương đã không còn nữa.

Thiền Lắng Nghe – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Lắng Nghe 

Thiền dâng hương

            Dâng hương cúng dường Phật là bài thực tập thiền, tiếp xúc với Phật, với tổ tiên và bản thân. Thiền sinh ngoài theo dõi các động tác thắp và dâng hương, có thể quán niệm như sau:

            – Dâng hương tiếp xúc với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.

– Dâng hương tiếp xúc với Tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới

– Dâng hương tiếp xúc với chư Phật ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai

– Dâng hương tiếp xúc với Tam học: Giới, Định, Tuệ

– Dâng hương tiếp xúc với tổ tiên mười phương

– Ý nghĩa dâng hương

            Nghi thức dâng hương có thể được phát triển thành một bài thiền tập hơn là bái sám. Điều quan trọng là phải làm như thế nào để có hạnh phúc khi dâng hương, không rơi vào việc cầu xin và trở thành máy thắp hương. Hương hay nhang chỉ cần thắp một cây với tấm lòng thành thật hướng về Tam Bảo là điều thiêng liêng lắm. Còn đốt một nắm hương chỉ để cầu xin và đốt cho có với người khác thì đốt làm gì, mắc công tốn tiền và ô nhiễm. Dâng hương không là hình thức mê tín mà là biểu hiện của tình thương. Vì thương tinh thần cao quý của Tam Bảo nên thắp hương lên tỏ lòng biết ơn và nguyện học hành theo. Vì thương tổ tiên ông bà nên thắp hương lên để tỏ lòng ghi nhớ, hòa hợp con cháu, nguyện sống yên bình và hòa thuận, hiếu thảo với cha mẹ còn sống. Thiền dâng hương đưa thiền giả vào thế giới tâm linh trong hiện tại, theo đó ta tiếp xúc với Tam Bảo, Tam Giới, chư Phật ba đời, Tam Học và tổ tiên mười phương. Thiền giả cần có chánh niệm trong việc thắp hương, chắp tay, xá chào, phát nguyện, tưởng nhớ, quán niệm, cắm hương bằng hai tay, tư thế quỳ xuống đứng lên… Mọi hành động đều được ý thức, giữ kẽ và thái độ khiêm tốn. Bài thiền nhắc nhở ta tu tập. Con người có tổ có tông, thờ cúng là chuyện đương nhiên. Đâu phải có một ông Phật sống hay ông bà ngồi trên bàn thờ để mình dâng hương. Dâng hương chỉ để dâng hương, nhưng thiền dâng hương mang hương vị thiền vào đời sống hàng ngày của ta, mùi hương thoang thoảng cùng với hình ảnh đức Phật, ông bà khiến ta thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, đồng thời hơi thở đưa ta có một chuyến đi du lịch trong hiện tại. Thật ngạc nhiên nếu thắp hương chỉ biết cầu xin, nếu ngược lại thắp hương để nguyện ban phước cho tổ tiên và chúng sinh thì lúc nào cũng hay hơn.

            Thắp hương bày tỏ lòng cung kính với những người đã đi trước, bậc tiền bối, những người đã hy sinh rất nhiều để ta có điều kiện tu tập và sống an lành trong ngày hôm nay. Có người sử dụng nén hương để tâm sự với người đã quá vãng, đọc kinh cho họ nghe, hay chia sẻ tình thương với họ. Bây giờ nhiều ngôi chùa không thắp hương nữa mà lại dâng đèn cầy hoặc dâng hoa. Như vậy cũng được, ý nghĩa cũng chẳng có gì khác. Biết đâu ta lại có thêm thiền dâng đèn cầy hay thiền dâng hoa. Nhiều bài thiền tập đem ra áp dụng cũng vui. Thắp hương vì thế cũng không chỉ tồn tại trong đạo Phật mà nhiều đạo khác hay người không tôn giáo. Họ cảm thấy an lành và thoải mái khi thắp hương cho đối tượng mình kính trọng và ghi ơn. Có điều người ta thường thắp hương cho người đã khuất hơn là thắp hương cho người còn sống. Thiền giả có thể thắp hương cho người còn sống và để tránh hiểu lầm, thay thế hương bằng trầm. Trong buổi pháp đàm thắp lên một ít trầm mang lại không khí dìu dịu cho buổi thực tập chia sẻ và thảo luận. Buổi nói chuyện cũng trở nên đậm đà.

Thiền sáng tạo nghệ thuật

            Quán niệm về tình thương, lòng biết ơn, nhắc nhở tu tập trong các tác phẩm nghệ thuật sáng tạo. Dưới đây là các sáng tạo nghệ thuật có thể áp dụng thiền:

            – viết thư pháp

            – viết thư

            – vẽ

            – sáng tác thơ

            – truyền tải thông điệp

            – diễn kịch

            – ca hát

            – viết sách

            – điêu khắc

            – làm gốm…

– Thiền và sáng tạo nghệ thuật

            Thiền có ảnh hưởng rất lớn đến sáng tạo nghệ thuật. Ở trên thư pháp là một ví dụ điển hình cho công việc sáng tạo này. Thiền giống như sự trở về, về với hơi thở. Khi hơi thở được nhận diện, tâm và thân hợp nhất, phút giây tĩnh lặng đến mức tuyệt đối, ý tưởng bắt đầu phát triển. Người sáng tác thơ, âm nhạc, điện ảnh hay kịch nghệ … thường hay làm việc trong lúc tĩnh mịch, mọi thứ lặng yên, sáng tạo thực sự lên ngôi và nghệ thuật cứ tuôn ra mãi không thôi. Thiền giả nắm lấy hơi thở, sử dụng các đối tượng để quán theo kiểu quán thân trong thân. Viết một tác phẩm phải quán tác phẩm đó, tức là người sáng tác và tác phẩm trở thành một. Trong tác phẩm có mười nhân vật khác nhau và tác giả đóng vai cả mười nhân vật. Thực sự nghệ thuật nằm ở chỗ biết hóa thân và nhìn thấu rõ. Khi một nghệ sĩ vào vai Dong-ki-sot thì người này hãy quên mình là nghệ sĩ, chỉ biết mình là Dong-ki-sot, đi đứng nằm ngồi là một Dong-ki-sot thực thụ. Đọc một tác phẩm hay thưởng thức một lời ca, điều ta thấy không chỉ là nội dung của nó mà là thấy tác giả, tác giả đang thở như thế nào : thở nhẹ nhàng, gấp gáp hay điên cuồng. Đọc Hơi Thở Tinh Khôi không chỉ học cách thiền, tập chánh niệm hay niệm Phật mà thấy được tác giả muốn nói cái gì, tác giả ra sao và tác giả hy vọng điều chi.

            Người sáng tác nếu tu thiền hay biết thiền tập có khả năng sáng tạo rất lớn và có trách nhiệm với sáng tạo của mình. Mình sẽ không tưới tẩm khán giả bằng những tác phẩm lố bịch, phản nhân văn và đi ngược với phát triển lành mạnh của thế hệ. Cái gọi là thú đau thương sẽ không được áp dụng vào nghệ thuật bởi vì thiền biết cách nhận diện và chuyển hóa đau thương. Nghệ thuật có quyền nói về đau thương nhưng cái đau thương đó phải được thể hiện một cách có nghệ thuật. Tức là nói về đau thương nhưng càng nói càng thấy thương, tình thương càng rộng mở và từ bi trỗi dậy, chứ không phải thứ đau thương đắm chìm, càng chiêm ngưỡng càng bị mắc kẹt, bế tắc và tuyệt vọng theo kiểu Tắt Đèn. Nếu như đèn tắt thì mở cái đèn khác lên. Kết thúc có hậu (happy end, un fin heureux) thường được tán thưởng hơn.

            Hương vị thiền trong nghệ thuật có tính cách giáo dục, đem niềm vui lành mạnh và hạnh phúc chân thật. Khi tôi còn là thiếu niên, tôi có xem một bức tranh vẽ một người đàn bà đang soi gương nhưng vẫn chưa hiểu nó nói cái gì. Nhưng nhiều lần ngắm nhìn và đến một ngày tôi nhận ra đó không chỉ là người đàn bà soi gương mà còn là một cái đầu lâu. Tác giả có thể muốn nói rằng cái gì ta dính mắc quá mức cũng sẽ tàn phai và lìa bỏ ta mà đi. Như cái được cho là sắc đẹp của người phụ nữ, cũng chỉ là một thứ giả danh, chẳng khác nào một cái đầu lâu, nằm lăn lóc ngoài nghĩa địa, không làm ăn được gì.

            Lĩnh vực sân khấu mà ứng dụng thiền thì hay biết mấy. Thiền có tác dụng trị liệu thì sân khấu cũng vậy. Loại hình nghệ thuật này dù dân gian hay đương đại đều có thể mang tính giáo dục trong việc đề cao tính nhân bản và trị liệu. Có người xem một vở kịch cảm thấy yêu đời hơn, có người xem vở khác lại thấy tuyệt vọng. Tại sao không mang chất liệu thiền vào vở thứ hai để thấy trong cái tuyệt vọng vẫn còn chỗ cho sự sống?

Thiền lắng nghe

            Lắng nghe trước hết đem lại êm dịu cho bản thân, tạo điều kiện cho người nói chia sẻ và hiểu được người nói hơn, khi đó mới có thể thương người được. Thiền lắng nghe là phương thức thực tập tình thương, chấp nhận mọi lời nói, buông bỏ phán xét, buông bỏ ý kiến riêng và bao dung tất cả. Thiền sinh thực tập lắng nghe từ đầu đến cuối và nói những câu chánh niệm sau đây.

            – Bạn nói đi, mình đang có mặt cho bạn đây.

            – Bạn nói đi, mình đang lắng nghe bạn đây.

            – Bạn nói đi, lời bạn nói rất thú vị.

            – Bạn nói đi, mình muốn hiểu bạn nhiều hơn.

            – Bạn nói đi, mình muốn được bạn chia sẻ.

            – Bạn nói đi, mình đang ở bên bạn.

– Bạn nói đi, nếu lời nói giúp vơi đi niềm đau, bạn hãy nói cho mình nghe.

            – Bạn nói đi, biết đâu mình giúp được cho bạn.

            – Bạn nói đi, mình mong được nghe giọng nói của bạn.

– Bạn nói đi, mình rất hạnh phúc khi được lắng nghe bạn.

– Lắng nghe

            Khi tiếp xúc với một người ăn nói nhẹ nhàng, dễ chịu, ta rất thích lắng nghe và lắng nghe chánh niệm là bài thiền tập từ bi mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như người nói. Ta chưa làm gì hết, chỉ cần lắng nghe thôi cũng đã làm vơi bớt đi khổ đau của người. Những người ăn nói dữ dằn, cay độc, và thô bạo dù họ chưa làm gì hết cũng thật đáng sợ và ghê gớm. Thiền lắng nghe là có mặt cho người muốn được nghe, khuyến khích người đó nói, biết người đó có nhiều hạnh phúc hoặc có nhiều đau khổ. Nhưng nhiệm vụ của thiền giả là nghe, cho nên không ngắt lời, không đưa ra ý kiến và cũng không tranh cãi. Khuyến khích người nói nói thêm, nói nữa và chi tiết hơn để có thể hiểu nhiều hơn. Người nói có thể có nhiều tri giác sai lầm, nhưng không sao, dù lời nói dịu dàng hay bạo động, thiền giả vẫn tập nghe cho đến khi nghe được. Thiền lắng nghe là bài thiền tập có tính chất xây dựng vì khi nghe đầy đủ, ta sẽ có cơ hội hiểu được người nói và khi hiểu được rồi, ta thương được điều người đó nói và bản thân người nói. Hạnh phúc hay khổ đau đều được chia sẻ, nếu là hạnh phúc, hạnh phúc sẽ tăng lên gấp bội, nếu là khổ đau, khổ đau được thông cảm và sẻ chia.

            Người trong gia đình lắng nghe nhau, gia đình có hạnh phúc. Quốc gia lắng nghe nhau, quốc gia không có nội chiến. Các nước lắng nghe nhau, các nước không có chiến tranh. Việc lắng nghe xóa bỏ biên giới giữa con người, đem con người đến gần và bắt tay, trở thành bạn bè huynh đệ của nhau. Nhiều người cho rằng cái tôi chứng minh bản thân khác người, phân biệt với người và đề cao bản thân. Lắng nghe xóa bỏ cái tôi đó đi, người nghe hóa thân vào người nói và biến người nghe thành người nói. Thiền giả không đặt mình vào vị trí người nói hay chan hòa vào người nói thì khó thiền lắng nghe được. Nghe thôi chưa đủ mà phải lắng nghe, lắng nghe thôi cũng chưa đủ mà phải bỏ đi mọi thành kiến đối với người nói, bỏ thành kiến rồi cũng chưa đủ mà phải trở thành người nói hoàn toàn mới mong hiểu được họ nói gì. Thực tập Thiền Minh Sát trước khi thiền lắng nghe là sự sắp xếp thích hợp. Buông bỏ bản ngã rồi lắng nghe, cái lắng nghe này sẽ trong sạch hơn. Con người giận hờn và đánh nhau vì quan điểm khác biệt, có quan điểm được cho là hay và có quan điểm được cho là tồi tệ. Đó là ý kiến riêng. Lắng nghe để thấy cái mình cho hay vẫn có cái dở và cái mình cho dở vẫn có cái hay. Học hỏi cái hay và từ bỏ cái dở. Nếu không chịu lắng nghe, con người mãi mãi ôm khư khư tri giác sai lầm và sống chết cho những điều ngu xuẩn.

            Lắng nghe rất kỳ lạ và mầu nhiệm. Đó là hạnh của Bồ Tát Quan Thế Âm : hạnh lắng nghe. Ngài lắng nghe mọi sự khác biệt và khổ đau của chúng sanh, đồng thời hóa thân thành muôn hình vạn trạng cứu giúp chúng sanh cho dù chúng sanh hành xử như thế nào. Thiền lắng nghe đồng nghĩa với thực tập tâm bi, lắng nghe mọi nỗi khổ của muôn loài. Bài thiền này không phải dễ nhưng khi đã thực tập, chỉ có tiến bộ chứ không lùi.

Thiền Nghe Pháp Thoại – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Nghe Pháp Thoại

Thiền nghe pháp thoại

            Nghe pháp thoại là đón nhận tuệ giác của người khác cho nên thiền sinh phải biết mình đang nghe pháp thoại nên không làm ồn, không đi tới đi lui, không sử dụng điện thoại di động, không phán xét, không so sánh, nghe chỉ để nghe thôi.

            – Thở, nghe pháp thoại thật hạnh phúc.

            – Thở, nghe pháp thoại thật dễ chịu.

            – Thở, nghe pháp thoại thật hay.

            – Thở, nghe pháp thoại thật lành mạnh.

            – Thở, nghe pháp thoại thật an vui.

            – Thở, nghe pháp thoại nguyện thực tập.

            – Thở, nghe pháp thoại nguyện vâng giữ.

            – Thở, nghe pháp thoại nguyện làm theo.

            – Thở, nghe pháp thoại nguyện buông bỏ.

            – Thở, nghe pháp thoại nguyện ban tặng.

– Nghe pháp thoại

            Nghe pháp thoại là bài thiền tập có tác dụng tưới tẩm các hạt giống của từ bi và trí tuệ. Những người khô cằn nhất thực tập nghe pháp thoại mà có thể biết lo tu tập, thân tâm nhẹ nhàng và phát nguyện tu tập. Thời đức Phật, có người chỉ chăm chú nghe pháp thoại và đắc đạo. Ngồi thẳng trong tư thế hoa sen, chăm chú lắng nghe, tai dõi theo từng âm thanh của tiếng pháp. Chất liệu hạnh phúc sẽ từ từ thấm vào cơ thể, xoa dịu các nỗi đau và đâm chồi hỷ lạc. Đón nhận các lời thuyết pháp và không cần đưa ra ý kiến chi cả, đơn giản đó là một bài thiền. Lời dạy cần có thực tập và chiêm nghiệm thì mới có thể tin được nhưng không vì thế mà sa vào tranh cãi làm đánh mất thì giờ thực tập quí báu. Thiền nghe pháp thoại tương tự như thiền lắng nghe, tức là lắng nghe tất cả, không cần phải che chắn, phòng thủ. Có người không dám nghe pháp thoại, nghe lén hoặc trở nên sợ hãi và tán loạn dù chỉ nghe vài câu mà thôi. Người này nghiệp nặng và căn cơ thấp kém. Trò chuyện với họ dưới dạng tâm sự và chia sẻ hơn là làm một bài thuyết pháp. Nói đến vai trò của người thuyết pháp, cần phải biết đối tượng nghe pháp là ai và cũng có thể cùng một đề tài nhưng thay đổi cách nói chuyện để dễ hiểu và bình dân hơn. Thuyết pháp không nên kể lại những vấn đề siêu hình, có tính chất kinh dị và ma quái, điều này có thể kích thích trí tò mò của người nghe nhưng nhiều khi lại phản tác dụng, gieo vào lòng họ những ý niệm sợ hãi. Cả người nghe pháp lẫn người thuyết pháp cần phải thực tập buông bỏ. Cả hai đều đang thiền tập. Thuyết pháp là một thứ thiền ái ngữ và nghe pháp thoại là một thứ thiền lắng nghe.

            Nghe pháp thoại có lòng biết ơn với chư Phật, chư tổ và thầy của mình. Những người đã tu tập hết lòng để có đủ kinh nghiệm và thực chứng nhằm chia sẻ cho ta. Ta nên đón nhận với lòng thành kính và chuyển hóa những cái gọi là kiến thức sai lầm của ta. Lời pháp nghe có vẻ đơn giản nhưng hết sức thâm sâu bởi vì nói thì dễ nhưng làm khó khăn hơn nhiều. Nghe pháp rồi phải biết thực tập, ứng dụng những điều được nghe tùy hoàn cảnh mà hành trì. Nghe mà không thực tập thì rất uổng.

Thiền thiên nhiên 

            Thở, đây là cây mai

            Thở, đây là cây sứ

            Thở, đây là cây đào

            Thở, đây là cây chuối

            Thở, đây là cây thông…

            Thở, đây là dòng sông trôi

            Thở, đây là dòng suối mát

            Thở, đây là bầu trời xanh

            Thở, đây là vầng mây trắng

            Thở, đây là tiếng chim ríu rít

            Thở, đây là ánh mặt trời…

– Trở về thiên nhiên                                           

     Thiền thiên nhiên đưa thiền giả đắm mình trong không gian tĩnh lặng nhưng kỳ vĩ của thiên nhiên. Đây thực là chuyến du lịch trở về: trở về nguồn cội. Thiền giả nhận diện từng cái cây, ôm ấp từng hơi thở, tận hưởng không khí trong lành và chan hòa với thiên nhiên tươi đẹp. Đi để mà thấy mình vững chãi như cây cổ thụ, to lớn như ngọn núi xanh, màu mỡ như đồng bằng bao la và tươi đẹp như sườn đồi thoai thoải. Thiên nhiên nếu đem vào thành phố thật hay, thành phố có quá nhiều tòa nhà chọc trời thì chán lắm. Màu xanh là biểu tượng của thiên nhiên, đó là màu của sự sống, trở về thiên nhiên là trở về với sự sống muôn màu. Gọi tên từng yếu tố của thiên nhiên để thấy sống thật, thiên nhiên nuôi dưỡng ta và vì ta mà hy sinh không biết bao nhiêu. Từ lâu thiên nhiên đã làm nhiệm vụ thiền và có mấy ai lại không xúc động khi nhìn ngắm vẻ đẹp thiền của nó. Có những cây tuổi thọ còn nhiều hơn đời người, chứng minh lịch sử thay đổi và thời thế chuyển dời, nhưng nó vẫn đứng đó nhẫn nhục mặc cho nắng gió và không khí ô nhiễm. Cây cối thanh lọc không khí và thải ra ô xi tươi mát cho con người. Thiền thiên nhiên mang con người trở thành một yếu tố thực sự của nó, trân trọng và gìn giữ thiên nhiên như chính hơi thở của mình. Thiên nhiên chính là hơi thở, là mạch sống, là nguồn năng lượng trong sạch và là chiếc nôi của bao nhiêu thế hệ. Cảnh quan thiên nhiên thanh thoát, mây trời, sóng nước, hoa nở, chim reo, những con đường thoai thoải đầy cỏ tươi, những chú nai ngơ ngác… Thiên nhiên đẹp như một bức tranh họa đồ và ngồi thiền hay đi thiền giữa thiên nhiên thấy sao thơ mộng và cõi trần gian đã là chốn địa đàng từ lâu. Đi vào thiên nhiên như Alice đi vào chốn thần tiên. Có gì vui bằng việc ca hát, vui chơi và nô đùa giữa rừng cây bạt ngàn, làn gió miên man và niềm vui chứa chan. Đứng giữa thiên nhiên, ta muốn ôm trọn lấy chúng dù ta rất nhỏ bé và có khi ta hét vang sung sướng, sao mà thiên nhiên dễ thương quá, bình yên quá.

     Thiền thiên nhiên là quá trình đưa bình yên lên ngôi. Thiên nhiên vốn dĩ rất bình yên và tâm con người cũng bình yên như vậy. Nếu tâm con người bệnh hoạn thì thiên nhiên sẽ bệnh hoạn, sẽ thiên tai triền miên và già cỗi. Bài thiền nâng cao khả năng trân quý và bảo tồn thiên nhiên, xa lánh các trò giải trí thế gian vì thiên nhiên là nguồn giải trí vô tận. Thiên nhiên tươi trẻ thì khí hậu mát mẻ, thiên nhiên nóng nảy thì khí hậu cũng hừng hẫy theo. Mặt trời, mặt trăng, ánh nắng, ngôi sao đều có thể là những người bạn thiền. Ngồi một mình trong khu vườn hay khu rừng không bao giờ thấy trống vắng mà lúc nào cũng thấy mình giàu có và hạnh phúc. Biết bao yếu tố thiên nhiên có mặt làm bạn với thiền giả. Trong sách tôi có đề cập đến thiền mặt trăng và thiền hoa. Chúng mang bản chất của thiền thiên nhiên và thực tập để thấy mình đã là thiên nhiên tự bao giờ.

Thiền ái ngữ

            – Nói lời ái ngữ thể hiện lòng biết ơn.

            – Nói lời ái ngữ thể hiện lời khen tặng cho nhau.

            – Nói lời ái ngữ xoa dịu niềm đau.

            – Nói lời ái ngữ khuyến khích động viên.

            – Nói lời ái ngữ bằng tâm bình tĩnh.

            – Nói lời ái ngữ tưới tẩm hạt giống lành.

            – Nói lời ái ngữ đúng lúc đúng nơi.

            – Nói lời ái ngữ thật thà, điềm đạm, ôn tồn, hòa nhã.

            – Nói lời ái ngữ dễ thương, lịch sự, lễ phép.

            – Nói lời ái ngữ thật cẩn thận, chậm rãi và cẩn trọng.

– Ái ngữ là ngôn ngữ của thiền

            Ái ngữ là lời nói đẹp, dễ thương đem lại hạnh phúc cho người, tạo nên sự hòa giải và hòa bình. Ái ngữ đi cùng với lắng nghe thực hiện tâm từ: dâng tặng niềm vui đến cho người. Vì sao nói ái ngữ là ngôn ngữ của thiền, đơn giản vì sự giao cảm giữa người nói và người nghe tạo nên sự thấu hiểu, vì vậy đến lúc nào đó không còn phân biệt người nào nói và người nào nghe nữa. Lời nói ác ngữ có thể làm tan nát, đổ vỡ tất cả, nhưng ngược lại lời nói ái ngữ chữa lành vết thương lòng, thúc đẩy tha thứ và tái lập truyền thông. Ái ngữ không chỉ là điều hay được nói ra, mà còn là điều viết nên, vẽ nên, thiết kế nên, ánh mắt, cái nhìn, nụ cười, cử chỉ, hành động, hành vi ứng xử… Tất cả tạo nên môi trường ái ngữ, con người đẹp và hòa bình chẳng đâu xa xôi, nó nằm ở lời của người biết nói.

            Ái ngữ không là lời nói suông, buông ra cho có và cho hết thời gian. Lời nói xuất phát từ trái tim, niềm tin và mong muốn giải bày. Gia đình nhiều thế hệ hay cộng đồng nhiều sắc tộc có thể sống chung hòa thuận nhờ biết nói và biết nghe. Trong cuốn sách Campus, một bài dạy tiếng Pháp trình bày về sự sống chung khó khăn (cohabitation difficile) trong đó nhiều bạn trẻ sống chung nhưng không được hòa thuận cho lắm vì người nào cũng tìm cách chỉ trích nhau, ít ai dám chấp nhận và ít ai dám hy sinh. Có trường hợp người này muốn nói nhưng người kia không chịu nghe, và ngược lại người này muốn nghe nhưng người kia không chịu nói. Hai bên phải có sự hợp tác cho thái độ không chịu kia mềm ra. Tất cả những ý kiến dẹp qua một bên, chẳng có ai đúng cũng chẳng có ai sai. Thiền ái ngữ làm cho những hạt sỏi to bằng trái núi tan ra thành đồng bằng. Buông bỏ thái độ khó chịu, ta sẽ trở nên dễ chịu. Đối với người chuyên nói lời ái ngữ, ta không thể nào nổi giận. Môi trường toàn những người nói lời hay và biết lắng nghe, môi trường đó ít có tranh chấp và nếu có việc hòa giải rất dễ dàng.

            Lời ái ngữ đẹp nhưng không phải quá trau chuốt mới đẹp, ngược lại rất bình dị, mộc mạc, chất phát và dễ hiểu. Con người có cảm giác không bị đánh lừa bởi ngôn từ hoa mỹ. Thiền ái ngữ đưa con người tiếp xúc với bản chất hiền từ và đơn giản của lời nói. Lời nói tuy ái ngữ nhưng không bị kẹt vào lời nói. Có người không biết cách ăn nói, muốn hòa giải nhưng vì ăn nói dở nên tình hình càng thêm rối. Vì vậy phải tập nói, nói chưa giỏi thì nói ít thôi. Thà nói một câu mà ai nấy đều vui còn hơn nói nhiều quá nhưng chẳng ai hiểu và thậm chí phát tâm nóng giận thêm. Thiền ái ngữ biến con người cộc cằn thô lỗ thành người điềm đạm, dịu dàng. Lời nói thể hiện từ tâm, suy nghĩ dễ thương, lời nói sẽ dễ thương. Đức Phật dạy phải biết điều phục thân, khẩu, ý là vậy, theo đó hành động, lời nói và suy nghĩ tương tức với nhau. Suy nghĩ có khả năng điều phục hành động và lời nói, muốn lời nói đẹp, hãy chỉnh trang tâm ý của mình. Ngôn ngữ vì thế chỉ là phương tiện giải bày, lắng nghe để nhìn thấy tâm của người và dĩ nhiên đừng cho rằng một lời nói vụng về nhưng chân thật lại được đánh giá là người không tốt.

Thiền Đọc Sách – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Đọc Sách

Thiền đọc sách 

            – Ngồi xếp bằng, lưng thẳng, buông thư.

            – Theo dõi hơi thở và sau đó thở tự nhiên nhẹ đều.

            – Cầm sách đọc trong hai tay.

– Đặt sách lên kệ, bàn hoặc gối, không đặt sách trên mặt đất, sàn nhà hay mặt giường.

– Chú tâm đọc sách, không làm việc khác ngoài đọc sách.

– Đọc sách chỉ để đọc sách, không so sánh, phân tích hay phán xét.

– Đọc xong một trang, nên nhắm mắt lại theo dõi hơi thở hoặc nhìn vào nơi có nhiều màu xanh.

– Mỉm cười nhẹ nhàng với trang sách.

– Trân quý cuốn sách vì nó chuyên chở biết bao tuệ giác của tác giả.

– Đọc sách thật nhẹ nhàng và thảnh thơi.

– Tâm duyên theo từng ý nghĩa câu chữ trong sách.

– Đọc sách nơi cửa thiền

            Thiền đọc sách là hình thức khác của việc nghe pháp thoại, cho nên cách thực tập không có gì khác. Có hai loại sách thiền giả có thể đọc là sách kinh điển và sách ứng dụng. Sách kinh điển chủ yếu là các loại sách được dịch lại từ kinh tạng, giảng giải hoặc làm mới. Sách ứng dụng là việc đem các giáo lý đó áp dụng vào đời sống hàng ngày như thế nào. Thiền giả nên lựa chọn các loại sách viết dễ hiểu, có tác dụng thực tiễn và phù hợp với đời sống hiện tại hơn là đi vào các sách giáo điều, xa rời với thực tiễn. Khi nghỉ ngơi, thay vì ngồi thiền, để thay đổi phương thức thực tập, ta có thể lấy một cuốn sách ứng dụng ra đọc. Không cần phải đọc nhiều, đọc nhanh hay đọc ngấu nghiến, chỉ cần đọc vài trang, vừa phải, từ tốn và nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng mỉm cười. Ngồi đọc giống như ngồi nghe pháp thoại hay ngồi thiền, tâm duyên theo từng câu chữ của sách. Những lời viết ra trong sách có thể là dị bản, quan điểm riêng của tác giả, đọc sách chỉ mang tính tham khảo và thiền giả có quyền đặt niềm tin rồi thực hành theo nếu như nhận thấy lời viết đó phù hợp với việc thực tập để mang lại hạnh phúc đích thực trong hiện tại. Sách như vậy thì nên đọc, còn sách kể lại những câu chuyện siêu hình, kinh dị, bạo động, cuồng tín, thèm khát và hận thù thì không nên đọc.

            Ngày nay người ta có thể đọc sách trên mạng lưới Internet, thư viện điện tử (e-library) hay sách điện tử (e-book). Vì vậy, vẫn có thể thiền đọc sách trên mạng. Tuy nhiên thiền giả không nên lên mạng lưới Internet một mình và khi thực tập cần thực tập chung với ít nhất hai hay ba vị đồng tu khác giúp cho mình được bảo hộ không bị rơi vào những vùng nguy hiểm. Mời nhiều người cùng thiền tập chung là một phương pháp hay vì năng lương tu tập lên cao, làm nương tựa cho những người còn yếu kém.

            Áp dụng công nghệ vào việc thiền tập cũng tốt không có gì đáng trách cả. Phần dưới này tôi có giới thiệu một bài thiền tập gọi là thiền công nghệ trong đó ứng dụng và nâng cao ý thức của thiền giả trong việc sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường, đồng thời công nghệ được chế tạo để phục vụ phẩm chất đời sống đi song hành với bảo vệ môi trường. Thư viện điện tử là thứ công nghệ tốt, nhiều người đọc nhưng không nhất thiết phải in thành sách, giảm tốn kém tài nguyên rừng. Tuy nhiên việc chế tạo máy vi tính và sự tiêu thụ điện năng của nó cũng cần xem xét nhằm làm giảm sự nóng ấm toàn cầu.

            Ngày càng có nhiều người đọc sách thiền và theo một trang báo điện tử, sách thiền thời đại này nở rộ hơn bao giờ hết. Đem theo một cuốn sách thiền trong tay, dù chỉ mới đọc một trang thôi, thiền giả đã cảm thấy bình an, huống chi thực tập thiền đọc sách. Hương vị thiền tràn ngập khắp nơi, ta chỉ cần dùng bút chì màu tô điểm cho nó sáng tỏ hơn. Người trẻ thực tập thiền ngày càng đông, thay thế cho các trò giải trí. Điều này chứng minh nhu cầu tâm linh và thư giãn lành mạnh trong thế gian thật to lớn.

Thiền ngâm thơ

            – Chuẩn bị buổi thiền ngâm thơ như chuẩn bị thiền trà.

– Chọn những bài thơ, bài kệ hay bài kinh bản thân thấy tâm đắc và có tác dụng xây đắp hạnh phúc trong hiện tại.

– In và photo các bài để mọi thiền sinh có thể theo dõi.

            – Các bài có thể hát, ngâm, đọc hoặc xưng, tán.

            – Tuần tự từng người tham gia.

            – Ngâm chậm rãi, truyền cảm và rõ ràng.

            – Có thể đọc ngâm một lần hoặc nhiều lần.

            – Ngâm theo nhóm.

            – Ngâm tập thể.

            – Tổ chức như buổi sinh hoạt nhóm.

– Ngâm thơ và thiền ca

            Thơ thiền và nhạc thiền thời gian gần đây phát triển rất nhanh được nhiều người trẻ thích thú, tham gia và ca hát. Những bài thơ dưới dạng kệ hoặc thơ, những bài hát với lời ca nhẹ nhàng dễ đi sâu vào lòng người và giúp chuyển hóa tâm hành bất thiện. Trong các buổi pháp đàm, thiền trà, thiền thiên nhiên, sinh hoạt tập thể, tăng thân cùng nhau ca hát và truyền đạt cho người trẻ âm thanh trong sáng. Phật giáo Nam Tông thường không cho phép hoặc cấm nghe đờn ca múa hát, xem nhạc biểu diễn, tuy nhiên cần hiểu rõ đó là thứ âm nhạc của thế gian, đưa con người vào giải trí không lành mạnh, ca ngợi thú đau thương và kiểu tình sầu đứt ruột. Còn nhạc thiền như một tha lực, một bài pháp thoại, một quyển sách kinh hay một bài kinh được phổ thành nhạc cho dễ nhớ, dễ tụng và dễ đi vào lòng người. Loại nhạc này có gì đâu mà phải cấm. Nếu kinh tụng bằng tiếng Pali hay tiếng Phạn đọc lên không hiểu gì hết, đọc không có hạnh phúc và đọc như cái máy thì đọc làm gì. Kinh bằng tiếng Việt đọc dễ hiểu, dễ nhớ và bản thân người đọc cũng như người nghe có thể thực tập được thì vẫn đáng khen hơn. Đọc Kinh Từ Bi bằng tiếng Pali chẳng hiểu chi cả nhưng đọc bản dịch bằng tiếng Việt có người cảm thấy xúc động và có nhiều hạnh phúc. Vậy ai dám nói đọc kinh bằng tiếng Việt chẳng có tác dụng gì so với kinh bằng tiếng Pali. Nếu kinh bằng tiếng Pali được phổ nhạc hay làm thành thơ thì chắc chắn sẽ dễ nhớ hơn nhiều. Tiếng Pali hay tiếng Phạn rất tốt, học thêm có thể dịch các kinh điển xưa, tuy nhiên kinh điển cần phải Việt hóa, kể cả kinh tụng, thần chú, lời niệm Phật. Đọc phải hiểu và hành trì, đọc mà không hiểu và cũng chẳng hành trì thì cho dù tiếng gì đi nữa cũng chỉ để khoe khoang và lầm đường lạc lối.

            Xưng, tán, ngân nga, ngâm, ca hát về các bài kinh, ca ngợi đức Phật, ca ngợi giáo pháp, nhắc nhở các phương pháp tu tập và rèn luyện tâm rất hay, tuy nhiên đừng có dính mắc và lạm dụng nó, bởi nó chỉ là phương tiện. Khi ca hát phải biết mình đang ca hát và tâm duyên theo từng câu chữ được xướng lên. Làm một máy cassette bấm một cái rồi cất tiếng hát thì rất uổng cho công lao người sáng tác thơ và phổ nhạc. Nếu thiền giả giỏi về xưng tán thì tham gia xưng tán, giỏi về ngâm thơ thì ngâm thơ, giỏi về ca hát thì ca hát, không cần phải ép buộc mình vào trong khuôn khổ của ca hát hay ngâm thơ. Người không có gì giỏi cả nên chọn việc ngồi theo dõi hơi thở, lắng nghe người khác, như vậy cũng đủ rồi. Một sư chú ở tu viện Bát Nhã nói với tôi, người mà không biết xưng tán ngân nga thì không phải là đệ tử của Sư Ông Nhất Hạnh. Tôi nghe mà mắc cười, nhưng tôi im lặng không nói gì. Nếu nói vậy thì hàng trăm ngàn cư sĩ Tây phương theo học pháp môn của Sư Ông không thể xưng tán lấy một câu đều không là đệ tử của Sư Ông hết à??? Và tôi, tôi đọc nhiều sách của Sư Ông, nghe Sư Ông giảng pháp thoại và thực tập các bài thiền theo pháp môn Làng Mai, nhưng tôi không thích xưng tán vì thấy nó khó quá, vậy chắc là tôi không thể trở thành đệ tử Sư Ông được rồi??? Tuy vậy tôi thích ca hát, nhất là bài Quay Về Nương Tựa, Đã Về Đã Tới hay bài Con Về Nương Tựa Bụt và Hạnh Phúc Trong Phút Giây (Happiness Is Here and Now, Le Bonheur C’est Maintenant). Phật giáo Bắc Tông thường hay xưng tán ca hát nhưng đó chỉ là hình thức, sử dụng nó để đánh vào lòng người và nhắc nhở người tu tập, nhưng nếu kẹt vào nó rồi đưa ra lời phán xét này kia, nó không còn là thiền nữa. Thiền ngâm thơ là hình thức khác của thiền tụng kinh, theo đó thiền giả thực tập để tâm hoàn toàn vào việc ngâm thơ và sử dụng những bài thơ có tác dụng chế tác hạnh phúc, làm mới bản thân và xây dựng tình thương trong giây phút hiện tại.

Thiền Đếm Hơi Thở – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Đếm Hơi Thở

Thiền đếm hơi thở

            Thở vào, một hơi thở

            Thở ra, một hơi thở.

                        Thở vào, hai hơi thở

                        Thở ra, hai hơi thở.

            Thở vào, ba hơi thở

            Thở ra, ba hơi thở.

                        Thở vào, bốn hơi thở

                        Thở ra, bốn hơi thở.

            Thở vào, năm hơi thở

            Thở ra, năm hơi thở.

                        Thở vào, sáu hơi thở

                        Thở ra, sáu hơi thở.

            Thở vào, bảy hơi thở

            Thở ra, bảy hơi thở.

                        Thở vào, tám hơi thở

                        Thở ra, tám hơi thở.

            Thở vào, chín hơi thở

            Thở ra, chín hơi thở.

                        Thở vào, mười hơi thở

                        Thở ra, mười hơi thở.

            (Quay lại một hơi thở)

– Tập đếm hơi thở

            Bài thiền tập thích hợp với những người bắt đầu tập thiền hoặc những người đã tập một thời gian nhưng tâm vẫn chưa hết tán loạn. Trẻ em cũng có thể tập bài thiền này. Đếm hơi thở giúp thiền giả phát triển định lực sơ bộ. Người khó chịu cách mấy cũng tập dễ dàng. Hơi thở đếm từ một đến mười, sau đó qua trở lại một. Có thể đếm tiếp 11, 12,… không nhất thiết phải quay lại số 1. Khi đếm giữa chừng mà quên thì phải quay lại từ đầu. Trường hợp có phóng tâm thì phải niệm phóng tâm, sau đó quay lại đếm hơi thở như cũ. Việc phóng tâm là chuyện bình thường, không cần phải lo lắng hay chán nản vì nó. Ý thức về việc phóng tâm cũng đủ để thành công cho bước đầu thiền tập. Theo dõi hơi thở vào ra thật nhịp nhàng. Lúc đầu hơi thở sẽ hổn hển, dồn dập, gấp gáp và nhiều lần đầu cũng có thể như thế, nhưng sau đó, hơi thở chậm dần, sâu hơn, nhẹ hơn và dài hơn. Đếm hơi thở không nhất thiết phải đếm một tiếng mà có thể nhiều tiếng. Ví dụ “thở vào, một, thở ra một” trở thành “thở vào một một một, thở ra một một một một”. Cách này làm cho hơi thở ngày càng dài ra và sâu thêm. Tâm từ từ an định và thiền giả cảm thấy bình an. Khi tâm định ở mức độ nào đó, thiền giả chuyển sang các bài thiền tiếp theo nhưng đừng quên bài thiền này ở mỗi lần thiền cho đến khi chuyển sang bài khác. Thiền đếm hơi thở như bài thiền khai vị cho các bài thiền.

            Hơi thở đếm dù dài hay ngắn không quan trọng, nhưng nếu là hơi thở dài biết là hơi thở dài và nếu là hơi thở ngắn biết là hơi thở ngắn. Không nhất thiết phải ép hơi thở bắt buộc nó phải ngắn hay dài. Thở bình thường và tự nhiên. Gượng ép hơi thở có thể gây tình trạng chóng mặt và nghẹt thở. Chú tâm vào hơi thở và đường đi của nó, theo đó hơi thở đi từ mũi vào họng đến bụng và chạm đan điền rồi theo dõi từ đó với hơi thở đi ra. Kiên nhẫn đi theo hơi thở, thiền giả sẽ có kết quả tốt ngay từ thời điểm đầu tiên. Theo dõi hơi thở ở tình trạng nhận biết, không phải đưa tâm theo đuổi hơi thở, tức là bắt nó chạy tuốt vào bên trong cơ thể cho đến khi đi ngược ra ngoài. Theo dõi tức là biết hơi thở đang như thế nào, gọi tên đây hơi thở vào đây hơi thở ra. Ban đầu thực tập năm phút, sau đó mười phút, OK rồi tiếp tục tăng thời gian lên hoặc chuyển bài tập. Hơi thở dài hay ngắn có thể đếm được nhưng việc đếm không tùy thuộc vào tính chất của nó. Kế đến, thiền giả thực tập theo dõi hơi thở từ đầu cho đến cuối, quan sát đường đi của hơi thở và đếm. Không chia một hơi thở ra làm nhiều giai đoạn mà chỉ biết nó đi vào và đi ra như là một đường thẳng. Hơi thở chính là dây neo đưa tâm về bến đậu của thân. Những người bị suyễn thì nghỉ ngơi, nhưng khi chưa suyễn thì hãy tranh thủ mà tập thiền. Đừng có đợi đến khi suyễn mới chạy đi thiền. Hơi thở nhẹ nhàng và ta cảm thấy thật bình an. Ta không cần phải đếm hơi thở nữa và theo dõi hơi thở bình thường. Thiền lâu hay mau không quan trọng mà quan trọng là phẩm chất của hơi thở hay phẩm chất của thiền. Chỉ cần năm phút thực sự có chất lượng hơn là năm tiếng mà chẳng có hạnh phúc gì. Khi năm phút hoàn hảo, lần sau tăng lên mười phút và cứ như thế.

Thiền theo bài kệ

Rửa tay

Thở vào, Rửa sạch đôi bàn tay

Thở ra, Thương yêu từng phút giây

Thở vào, Bây giờ hãy tiếp xúc

Thở ra, Hạnh phúc đang tròn đầy.

Đi thiền hành (2)

Thở vào, Chân phải bước

Thở ra, Chân trái theo

Thở vào, Chân phải đều

Thở ra, Chân trái vững

Thở vào, Chân phải đứng

Thở ra, Chân trái buông

Thở vào, Nghe tiếng chuông

Thở ra, Đi thiền hành.

Đi học

Thở vào, Học ăn và học nói

Thở ra, Học đứng và học ngồi

Thở vào, Đừng bao giờ từ chối

Thở ra, Những cái học làm người.

Đứng yên

Thở vào, Đứng yên

Thở ra, Nhìn lại

Thở vào, Ta đã

Thở ra, Làm gì

Thở vào, Ngày tháng

Thở ra, Qua đi

Thở vào, Tu mau

Thở ra, Kẻo trễ.

Buông bỏ (2)

Thở vào, Buông bỏ dính mắc

Thở ra, Để sống sâu sắc

Thở vào, Phút giây hiện tại

Thở ra, Đừng đợi ngày mai.

Trái tim

Thở vào, Trái tim không biên giới

Thở ra, Tình thương khắp mọi nơi

Thở vào, Dù năm châu bốn biển

Thở ra, Tăng thân chẳng xa rời.

Lắng nghe (2)

Thở vào, Lắng nghe thật sâu sắc

Thở ra, Thấy trời cao biển rộng

Thở vào, Thấy màu xanh ruộng đồng

Thở ra, Từng bước đi vững chắc.

Nhẫn nhục (1)

Thở vào, Nhẫn nhục để niềm vui được đầy

Thở ra, Nhẫn nhục để nỗi khổ được vơi

Thở vào, Nhẫn nhục để hoan hỷ được giữ

Thở ra, Nhẫn nhục để bình đẳng được thành.

Cười (1)

Thở vào, Nụ cười của thiên thần

Thở ra, Niềm vui thật chánh chân

Thở vào, Đánh thức trái tim cạn

Thở ra, Chuyển hóa mọi thù hận.

Đôi mắt

Thở vào, Đôi mắt cha mẹ cho

Thở ra, Nhìn đâu cũng diệu kỳ

Thở vào, Nhìn đâu cũng hạnh phúc

Thở ra, Nhìn đâu cũng yêu thương.

– Thơ thiền

            Thơ thiền là những bài kệ, bài thơ nói về thiền, triết lý thiền, bài giảng về thiền và hướng dẫn thiền. Thơ thiền phản ánh tâm hồn thi sĩ của thiền giả, không hề đưa con người xa lánh thực tại mà ngược lại, nó làm nhiệm vụ nuôi dưỡng tâm hồn thiền. Bài kinh viết thành văn xuôi cũng có thể được viết thành bài kệ hoặc bài thơ. Kệ và thơ không phản ánh tính ủy mị hay yếu đuối nhưng nó có tác dụng chuyển tải thông điệp rất nhanh, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Thiền mang dáng dấp của thong dong, tự tại và thơ mộng. Thơ chỉ là ngôn ngữ phần nào lột tả nét đẹp đó. Con người thích theo đuổi những cái xa xôi và bị kẹt vào chúng, tuy nhiên khi đã là chính mình họ vượt thắng những sợ hãi và không muốn rong ruổi nữa. Đọc một bài thơ hay xướng một câu kệ, ta như đang rong chơi giữa vô thường. Bản thân từ vô thủy đã là vô thường, nên hãy cười nói với vô thường, có chi phải lo phải sợ. Thơ thiền vì thế có khả năng cảnh tỉnh, đánh thức những trái tim khô héo, rưới cho họ vài giọt nước cam lộ cho tươi tỉnh trở lại. Chuyện nhân thế không cần bàn cãi chi nữa, hãy để nhân thế tự lo chuyện của mình. Nghe một bài thơ thiền thấy mây núi ngập tràn, hoa cỏ vui tươi và chim hót vang lừng. Thư giãn đi thôi, sao cứ phải chạy đuổi.

            Thơ thiền rất có ý tứ, tuy dám nói dám nhận diện. Có bài thơ đọc lên như bài thơ tình, nhưng đọc kỹ không phải vậy. Đó chỉ là trực chỉ chân tâm, cái tâm thế nào nói thế ấy, cho là tỉnh ngộ, còn tâm miên man mà không biết, cho là mê muội. Thiền đẹp như một bài thơ cho nên thơ có tính thiền. Đem thiền vào trong thơ như dùng thơ tả cảnh thiền. Đọc thơ thì đọc, nếu suy nghĩ lôi thôi thành ra suy diễn, không còn là thiền nữa. Đọc thơ rồi ngồi suy tư lung tung, không biết tác giả nói cái gì, chắc là nói cái này nói cái kia và người đọc bắt đầu vẽ vời đủ thứ. Ý tác giả muốn nói chưa chắc là ý mình hiểu. Giống như đọc bài Tây Tiến của Quang Dũng và học sinh bị buộc phải miêu tả nét đẹp của người lính với hình ảnh lãng mạn của họ. Người ra đề bài có chắc là Quang Dũng muốn nói đến tính lãng mạn đó không? Một học sinh có thể cho đó là hình ảnh xấu xí và chỉ muốn nói lên cái mình đang suy nghĩ thôi. Nếu cho cậu học sinh này đi lạc đề thì không còn cái gì gọi là sáng tạo văn học và phê bình văn học nữa. Thơ thiền không có ép buộc khán giả đi vào khuôn khổ mà tự do được đề cao, thứ tự do này không ràng buộc họ bất cứ điều gì. Đâu nhất thiết phải hiểu ý tác giả, chỉ cần biết điều mình đang suy nghĩ như vậy là đủ.

            Phật giáo đâu phải của riêng ai, tự nhiên đã là như thế. Vậy không có lý nào thiền không đem vào thơ. Thiền còn đem vào đời sống hàng ngày, huống chi là thơ. Người ta bàn nhiều về nghệ thuật sống, lối sống, tính cách, cá tính… và đủ thứ kiểu nghệ thuật khác nhưng thiền chính là chất xúc tác làm cho tính nghệ thuật lên ngôi. Thiền là một nghệ thuật hay là ông tổ các nghệ thuật.

Thiền Âm Nhạc – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Âm Nhạc

 Thiền âm nhạc

– Chọn các loại nhạc nhẹ, êm dịu, nhất là nhạc hòa tấu nhẹ.

– Có thể sử dụng nhạc niệm Phật, nhất là niệm Bồ Tát Quan Thế Âm.

– Có thể ngồi thiền hoặc nằm thiền.

– Thở đều.

– Tâm duyên theo giai điệu của nhạc.

– Chỉ lắng nghe nhạc và điều tiết hơi thở nhẹ đều.

– Có thể nhép miệng theo lời niệm Phật.

– Thân tâm ở trạng thái buông thư.

– Điều chỉnh âm thanh dưới mức vừa đủ nghe một chút.

– Thực tập thích hợp vào buổi tối khuya hoặc ban ngày.

– Âm nhạc Phật giáo

            Đức Phật thường hay khuyên đệ tử không nên say đắm vào âm nhạc vì nó có thể khiến con người sầu khổ, bi lụy hay ca tụng sự tang thương thái quá. Bằng chứng có nhiều bài hát càng nghe càng rầu, có bài kích động bạo lực và ngôn từ buông thả. Bài hát không dừng lại đó, những âm thanh nguy hiểm cũng không nên nghe. Mục đích là để tu sĩ dành thời gian tu tập, giữ phẩm hạnh và xa rời các giải trí của thế gian. Có tu sĩ nghe những bài nhạc não tình mà nhớ nhà, nhớ gia đình hay nhớ vợ con mà tìm đường về nhà, bao nhiêu công đức tu tập đều tiêu tan. Một đời sống thanh bạch, gìn giữ, khiêm cung, thiểu dục và tri túc luôn được đề cao. Vậy đã là tu sĩ đâu cần nghe nhạc gì nữa.

            Tuy nhiên không phải tất cả âm nhạc đều tang thương. Có những bài hát ca ngợi Tam Bảo, tình cha mẹ, tình quê hương, tình huynh đệ, tình nghĩa anh em. Những bài này vẫn có thể nghe và hát. Nói như vậy để thấy phải có sự lựa chọn trong việc thưởng thức âm nhạc. Tuy nhiên nếu nghe được nhạc xấu mà người tu sĩ vẫn an nhiên như thường thì mới giỏi. Nhưng khi chưa giỏi thì cấm là chuyện đương nhiên. Đọc truyện tích Thạch Sanh, chắc hẳn không ai không biết tới tiếng đàn Thạch Sanh. Tiếng đàn gieo rắc tình cảm gia đình khiến cho ba quân tướng sĩ của kẻ địch đều buông gươm đầu hàng và quay trở về quê hương, sống hạnh phúc bên cha mẹ vợ con. Tiếng đàn ấy vậy mà hay.

            Bây giờ cúng dường âm nhạc có thể được xem là loại cúng dường tốt. Bồ Tát Phổ Hiền có lời nguyện theo đó cúng dường hương hoa, tàng lọng và các thứ âm thanh vi diệu. Tiếng chim ríu rít hót là cũng để cúng dường đức Phật. Mặc dù việc tu tập theo chánh pháp là cách cúng dường cao thượng nhất, các cách cúng dường khác không cao thượng bằng nhưng vẫn nằm trong nhóm cao thượng. Hơn nữa âm nhạc Phật giáo chủ yếu phổ nhạc cho kinh, kệ và thơ thiền. Vậy thì đâu có gì phải cấm, nhiều khi nó lại giúp người nghe chuyển hóa khổ đau, chấp nhận tu tập và thấy rõ con đường mình phải đi. Giống như giới luật Sa Di và Tỳ Kheo, nếu không sửa đổi và cập nhật, giới luật truyền thống sẽ lỗi thời và cái gọi là nguyên thủy khó mà chấp nhận bởi người trẻ, những người đáng lẽ phải có nhiều cơ hội tiếp xúc và thực tập các lời dạy của đức Phật. Tuy nhiên không nên lạm dụng âm nhạc quá mức mà tuỳ trường hợp áp dụng. Sử dụng âm nhạc để truyền bá giáo pháp là mục đích hay hơn cả. Âm nhạc có khả năng trị liệu và âm nhạc Phật giáo cũng có khả năng như vậy. Âm nhạc phô bày ra để mang hương hoa cho nhân loại hơn là châm mẫm vào việc trình diễn nghệ thuật.

Thiền sắp xếp

            – Dọn dẹp nhà cửa.

            – Lau chùi phòng.

            – Quét dọn sân.

            – Xếp quần áo.

            – Xếp mùng mền.

            – Sắp đặt bàn ghế.

            – Sắp xếp sách vở.

            – Chuẩn bị tọa cụ.

            – Chuẩn bị kinh tụng.

            – Dọn thức ăn.

– Thiền trong đời sống hàng ngày

            Thiền trong đời sống hàng ngày trước hết để giảm sự căng thẳng và các áp lực công việc. Người bận rộn cách mấy vẫn có thể thiền được và giúp cho công việc có thêm các yếu tố thảnh thơi. Tâm thanh tịnh trong một cơ thể thanh tịnh, muốn vậy phải điều phục cả thân thể. Sắp xếp nhà cửa, quét dọn, giặt giũ, làm thức ăn… đều có thể là các bài thiền tập. Nơi ở và nơi làm việc ngăn nắp, mọi việc mới tiến triển tốt. Không gian thiền không chấp nhận sự bề bộn vì ăn ở nghiêm túc hợp vệ sinh khuyến khích thư giãn và thực tập chánh niệm. Sống ở nơi sạch sẽ, thoáng mát và có nhiều ánh sáng, ai cũng sẽ cảm thấy dễ chịu. Cũng vậy thân tâm có những chỗ tối tăm, rác bẩn, nóng nực nếu được sắp xếp dọn dẹp thì chúng có nhiều cơ hội được nghỉ ngơi. Ta mang thân tâm đi khắp mọi nơi, bây giờ còn có người bay lên vũ trụ nhưng mấy khi ta tranh thủ để thay nhớt, bơm mỡ, xịt dầu, lau chùi bụi bậm. Khi làm việc ta biết mình đang làm việc, thân tâm an trú trong công việc không cho nó bay nhảy nữa. Ta thích dung chứa nhiều việc cùng một lúc nhưng không có việc nào làm hoàn hảo cả. Chỉ cần ý thức chánh niệm công việc đang làm có mặt và ta đầu tư hoàn toàn vào công việc đó. Lịch làm việc đầy các công việc nhưng công cụ này đã giúp nhắc nhở ta rồi, ta không cần phải chạy theo các đề mục của danh sách kiểm tra nữa (checklist).

            Thiền công việc tạo điều kiện cho thân tâm được cân bằng. Một sợi dây quá căng sẽ bị đứt và sợi dây quá chùn sẽ bị vướng, nhưng sợi dây thả lỏng thì sức bền bỉ của nó không chê vào đâu được. Cũng vậy, thân tâm buông thư ngay khi làm việc sẽ tạo sức dẻo dai cho bản thân, thiền giả được hưởng lợi từ nó chứ không phải ai khác. Ta có rất nhiều ý kiến nhưng thực chất ta chẳng bao giờ thực hiện chúng, có chăng chỉ là 1% trong tổng số rừng ý kiến. Chọn một ý kiến và bắt tay vào việc. Anh nhân viên áp dụng phương pháp động não (brainstorming) liệt kê hàng loạt công việc nhưng chắc chắn anh không thể làm hết mà anh chọn một công việc thôi, làm nó hết lòng và thành công. Chánh niệm đòi hỏi thiền giả an trụ một chỗ như vậy, nếu muốn di chuyển chỗ mới, phải buông bỏ chỗ cũ. Tôi viết cuốn sách mới, cuốn sách cũ phải được bỏ qua một bên. Nhưng nhiều khi làm mãi một công việc sẽ chán, nên chêm vào đó một số công việc khác. Cho dù làm thế, chánh niệm cũng yêu cầu ta buông bỏ cái ôm đồm để thực sự có mặt trong một thứ mà thôi. Nói rằng thiền công việc yêu cầu toàn tâm vào một việc cũng chưa chắc đúng. Thiền giả làm nhiều việc trong một khoảng thời gian vẫn có chánh niệm như thường. Bởi vì tất cả các công việc đang vận hành đều diễn ra theo một chuỗi, khoảng cách thời gian giữa các công việc quá ngắn nên cứ tưởng là cùng một lúc. Chỉ cần biết cái đang làm là chánh niệm có mặt và khi đó công việc dù nhiều vẫn thấy thảnh thơi. Công việc có tính vô thường, thiền công việc giống như thiền vô thường nhưng bản chất của chánh niệm vẫn vậy dù đối tượng chánh niệm thay đổi.

Thiền tập thể dục

                        Thở vào, giơ tay lên cao (hình chữ V)

                        Thở ra, kéo tay xuống thấp (bắt chéo tay)

            Thở vào, giơ tay lên cao (hai tay song song)

            Thở ra, kéo tay xuống thấp (ép sát hai bên đùi)

                        Thở vào, giang hai tay (ngang vai)

                        Thở ra, khép hai tay (trước mặt)

Thở vào, kéo tay trái thẳng ra sau (tay phải thẳng phía trước)

Thở ra, kéo tay trái thẳng với tay phải (song song phía trước)

(Tương tự đối với tay phải)

                        Thở vào, gập người (tay phải đụng ngón chân trái)

                        Thở ra, gập người (tay trái đụng ngón chân phải)

            Thở vào, gập người (tay phải đụng ngón chân phải)

            Thở ra, gập người (tay trái đụng ngón chân trái)

                        Thở vào, ngửa đầu

                        Thở ra, cúi đầu

            Thở vào, quay đầu (qua bên trái)

            Thở ra, quay đầu (qua bên phải)

                        Thở vào, đưa chân trái ra sau (hai tay giơ cao)

                        Thở ra, đưa tay và chân về vị trí cũ

                        (Tương tự với chân phải)

            Thở vào, quay hai cánh tay

            Thở ra, quay hai cánh tay.

(Áp dụng các động tác mình thường dùng để tập thể dục, theo dõi hơi thở và cử động của cơ thể, tập chậm không cần nhanh)

– Thiền và tập thể dục

            Tập thể dục bữa sáng hay giữa giờ có thể áp dụng thiền trong việc điều hòa hơi thở và chánh niệm động tác. Khi giơ tay lên thở vào, thiền giả theo dõi hơi thở vào. Khi đưa tay xuống thở ra, thiền giả theo dõi hơi thở ra. Cách khác, giơ tay lên thiền giả ý thức mình đang giơ tay lên và đưa tay xuống thiền giả ý thức mình đang giơ tay xuống. Thể dục có rất nhiều bài tập, trong đó mười bài tập cơ bản về tay, đầu, cổ, mình, hông, chân và gót chân có thể được áp dụng. Mọi người sẽ thấy thiền thể dục cực kỳ dễ, vừa an trú trong chánh niệm vừa vận động cơ thể.

            Tập thể dục có tác dụng ngăn ngừa bệnh tiểu đường, bệnh trĩ và các căn bệnh lên quan đến đường ruột. Sáng sớm tập rất tốt và trước khi đi ngủ tập thể dục nhẹ cũng tốt. Người lớn nên tập cho các em nhỏ thói quen tập thể dục, nhất là cách điều hòa hơi thở. Tập thể dục giúp giảm nguy cơ bệnh ung thư và người ít tập lại đối diện với nguy cơ này nhiều hơn. Đem thiền vào thể dục rất tốt. Nhiều người tập thể dục nhưng không biết cách thở và thậm chí suy nghĩ nhiều chuyện khác ngay trong lúc tập. Điều này gây tác dụng ngược, tức là gia tăng việc đập nhanh quá đáng của tim mạch cũng như tâm thần không sảng khoái mà càng căng thẳng thêm. Chánh niệm đem thiền giả an trú trong bài tập thể dục, là hình thức khác của chánh niệm động tác nhưng động tác này có chủ đích hơn. Các hoạt động thể chất đem lại sự sảng khoái cho tinh  thần  nhờ  người  tập  điều  hòa  hơi thở và tinh thần tươi mới hơn nữa khi tâm người tập hoàn toàn an trú trong hiện tại và sự thật là người đó đang tập thể dục. Thể dục là một cách thư giãn hiệu quả, lành mạnh. Quan trọng là thiền giả phải có sự tập luyện và khi thành thục, định vẫn có thể có mặt trong một bài thiền hết sức đơn giản.

            Tập thể dục có thể phát triển bằng đi bộ, đi dạo, nhảy dây, chơi các trò dân gian, sinh hoạt cộng đồng, đạp xe, bơi lội, tập thể hình, chơi bi da, thể dục dụng cụ, múa, khiêu vũ,… Tất cả đều có thể là các bài thiền tập dễ thương và hơi thở nắm lấy mọi hoạt động của thân và tâm, liên kết thân và tâm lại. Đời sống con người có nhiều sức khỏe, dù bận rộn cách mấy cũng nên dành thời gian tập thể dục. Người làm việc tay chân cũng cần phải tập thể dục bởi vì sự vận động tay chân trong công việc của họ là điều cần thư giãn, có khi họ vận động chỉ theo một động tác và thiếu đi các động tác cần thiết khác. Tu sĩ ngồi thiền và nằm thiền nhiều nhưng cũng nên vận động cơ thể theo hình thức tập thể dục. Những động tác cơ bản nhất vẫn giúp cơ thể điều hòa, cùng với hơi thở vào ra nhẹ nhàng, ta trở nên mới mẻ và lấy lại năng lượng làm việc rất nhanh. Mỗi ngày chỉ cần bỏ ra 15 phút để tập thể dục thôi nhưng cả ngày tinh thần thật tích cực, 15 phút này đáng lắm chứ. Thiền là cách tập thể dục cho tâm, khi tâm ì ạch nó cần được chăm sóc và mát xa bằng các năng lượng của chánh niệm. Hoạt động thể chất được gìn giữ bằng ý thức thì tác dụng của nó cao hơn rất nhiều so với hoạt động bình thường nhưng lại không được ý thức.

Thiền Tình Yêu – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Tình Yêu

Thiền mặt trăng

            – Quán tưởng khi trời không có trăng.

            – Quán tưởng đường đi của trăng.

            – Quán tưởng từ trăng khuyết đến trăng tròn.

            – Quán tưởng từ trăng tròn đến trăng khuyết.

            – Quán tưởng ánh sáng vầng trăng bao trùm vạn vật.

            – Quán tưởng về nguyệt thực.

            – Quán tưởng về nhật thực.

– Quán tưởng về vẻ đẹp của trăng cùng tính vô thường của nó.

– Mặt trăng đã thiền từ bao giờ

            Người thành phố không có may mắn ngắm trăng sáng vào đêm rằm hay đêm mười sáu một cách rõ ràng như người thôn quê. Khắp nơi được chiếu sáng bởi ánh trăng. Trăng ôm ấp vạn vật. Ngồi yên để thấy trăng thật bình yên. Vào những ngày đầu chớm nở, trăng chưa tròn, trăng khuyết đi một vành lớn. Nhưng trăng nào có biến dạng, chỉ bởi trăng chưa đủ điều kiện để tròn. Trăng treo giữa không gian như đang ngồi thiền. Trăng không biết hờn, không biết giận, cũng không biết đòi hỏi vu vơ. Đơn giản vì trăng chỉ là trăng thôi. Trăng bình yên như vạn pháp bình yên. Trăng soi rõ gương mặt của những người bạn, không bị những tấm kiếng hay các bức tường bê tông ngăn chặn. Càng về khuya trăng càng lên cao. Cái tĩnh mịch của màn đêm tăng dần lên. Âm thanh cuộc sống đang ngủ yên và hơi thở của thiền giả nghe rõ hơn bao giờ hết. Khi trăng đang là cái đang là, hãy sung sướng và hạnh phúc đi, đâu cần phải đợi bình minh đến. Bình minh đâu có tắt lịm, bình minh chỉ đi du lịch vài tiếng đồng hồ rồi cũng quay về. Ngày đêm cứ xoay vần. Ban ngày mặt trời lên và ban đêm mặt trăng xuống. Ban ngày có thú vị của ban ngày và ban đêm có thú vị của ban đêm. Số tuổi càng tăng thì cái thú ngắm trăng càng nhiều. Trăng là một người bạn tu, là tiếng chuông báo đến giờ rồi, cất tiếng gọi hơi thở tinh khôi.

            Cái nóng bức của ban ngày tan biến nhường chỗ cho đêm trăng huyền diệu. Không biết bao nhiêu thi sĩ miêu tả vẻ đẹp của trăng. Những ai hối hả trăng treo trên đầu cũng không biết, làm gì còn thì giờ để ngắm trăng. Người đắm chìm trong tình cảm vu vơ cũng không thể nào thấy trăng đẹp lạ thường. Trăng hôm nay với trăng cách đây hơn 2,500 năm đâu có gì khác, lòng người cũng đâu có gì khác và hơi thở cũng đâu có gì khác. Đức Phật ngồi trên núi Linh Thứu hành thiền cũng đôi khi ngắm trăng, ánh sáng dìu dịu tỏa ra cúng dường Người. Bây giờ thiền giả hãy ngồi, hãy thong thả, hãy buông thư, đưa mắt ngắm nhìn trăng như đức Phật ngày xưa. Không cần làm gì, không cần nói gì, bạn bè, gia đình, tăng thân ở bên nhau. Mai này có ra sau thì ra, để ý làm gì, ngồi để thấy tình thương tràn ngập không gian, thênh thang khắp vũ trụ và thắm đượm cả vầng trăng. Có đêm ngồi thiền và mở mắt, giật mình thấy trăng vẫn ở đó, an nhiên, tự tại, đẹp như một thiên thần. Trăng thiền giỏi thật, không có hôn trầm, không có trạo cử. Trăng chẳng ghen tị với mặt trời, vẫn điềm nhiên khoe sắc, tỏa sáng riêng một góc trời. Có lúc mặt trăng to và gần đến nỗi đưa tay có thể với được trăng. Thực ra trăng đâu ở trên cao, trăng chan hòa khắp gương mặt và thân thể mình. Thiền giả trong phút chốc trở thành mặt trăng. Mặt trăng cũng có ở mặt đất đâu phải chỉ có trên trời cao. Quán cái gì sẽ trở thành cái đó, quán mặt trăng sẽ trở thành mặt trăng. Biến mình thành mặt trăng mới hiểu được trăng. Nhưng bản thân trăng đâu muốn ai hiểu, trăng hiểu trăng hay trăng biết trăng là được rồi. Ánh trăng thật xanh tươi, thắm đượm và bồng bềnh khắp làng quê. Những ai hối hả dừng lại mau, dừng mà ngắm trăng, thương trăng, trăng có mặt cho thế gian tự bao giờ.

Thiền tình yêu

            – Thở, con biết con đang yêu thương.

            – Thở, con biết con đang được yêu thương.

            – Thở, con trân quý sự có mặt của người con thương.

            – Thở, con lắng nghe người con thương.

            – Thở, con chỉ nói lời dễ thương với người con thương.

            – Thở, hiến tặng hạnh phúc đến người con thương.

            – Thở, con có mặt cho người con thương.

            – Thở, con chung thủy với người con thương.

            – Thở, con giữ gìn cho người con thương.

            – Thở, con có trách nhiệm với người con thương…

(Tiếp tục thêm về các kỷ niệm đẹp hay lời nói đẹp về người mình thương)

– Thiền hâm nóng tình yêu

            Khi thiền giả nhận ra chính mình, lúc này thực sự mình đang yêu. Tình yêu không có tính chất chiếm hữu mà tôn trọng và gìn giữ cho người mình yêu. Chánh niệm trong tình yêu, thiền giả biết mình đang yêu và trân quý tình yêu. Tình yêu có chánh niệm luôn được hâm nóng, luôn được làm mới và luôn được chở che. Thiền tình yêu mang tình yêu đến bản thân, cho người thương và tất cả mọi người. Tình yêu là sự vắng bóng của khổ đau và hận thù, nó chỉ lấp lánh những vì sao hạnh phúc, nụ cười dễ thương và lời nói như đóa hoa đang nở. Thiền giúp ta giải phóng những ích kỷ, gò bó và đòi hỏi, đưa ta trở về với hiện tại nhiệm mầu, lúc này và bây giờ, tình yêu đang thực sự hiện tiền và lên ngôi. Nắm giữ hiện tại là nắm giữ tình yêu không chỉ bằng hai đôi tay mà bằng cả trái tim. Bí ẩn của tình yêu không nằm ở tương lai xa vời, ở lời hứa hẹn viễn vông hay đưa ra những điều kiện, mà nó nằm ngay ở hiện tại, bởi vì hiện tại không mang tính vướng mắc, không phán xét và không ghét bỏ. Thương một người nên muốn người đó có hạnh phúc và muốn người đó có hạnh phúc ta suy nghĩ, hành động, lời nói mang hạnh phúc đến cho người đó. Điều này thực hiện ngay trong hiện tại, không có đợi ngày mai, một năm, năm năm hay mười năm.

            Thiền tình yêu không yêu cầu thiền giả phải chạy vòng quanh mà phải trực diện, đối mặt, bắt tay, và hòa tan với tình yêu. Tình yêu phải được gọi, kêu hay hát lên. Người đang yêu biết mình đang yêu và biết rằng bản thân phải thực tập để có được tình yêu đích thực rồi gìn giữ điều đó. Tình yêu không nằm ở đôi mắt, đôi tai hay năm giác quan mà tình yêu có được từ trái tim. Trái tim nhắn nhủ thiền giả đây là người mình yêu, mình phải sống làm sao cho có trách nhiệm với người này. Người này có nhiều khuyết điểm nhưng vì thương người, mình chấp nhận tất cả. Người mình thương nên đáng được mình thương, đáng được mình lắng nghe, đáng được mình nói lời ái ngữ và đáng được mình cư xử đích thực là người mình thương. Vì thương, mình cho người đó nhiều tự do, nhiều không gian và nhiều hạnh phúc. Trước đây mình hay phớt lờ người thương, bây giờ thiền tình yêu giúp mình quay lại với tình yêu. Và trước đây mình cũng để tình yêu trong tủ lạnh, bây giờ mình quyết bỏ vào lò vi ba hâm nóng lại. Thiền tình yêu là một thứ lò vi ba công hiệu nhất không cần tốn điện gì cả nhưng tạo ra năng lượng ghê gớm. Mình có quyền hiểu người thương và ngược lại, khi đã hiểu mình sẽ thương được người đó và không gây đau khổ cho người. Chính tình yêu khiến người trong cuộc có trách nhiệm với nhau và ràng buộc bằng tình yêu. Nếu đem trách nhiệm để ràng buộc nhau thì cần xem lại, có thể tình yêu đang giãy chết. Tình yêu chỉ để tình yêu, không nhằm mục đích gì khác. Tình yêu mà có mục đích thì đâu phải là yêu. Tình yêu không thể sản xuất ở nhà máy, đem vào kho, chất lên kệ và bán ở siêu thị. Tình yêu có trong tim và tình yêu mang hạnh phúc đến cho con người, sở dĩ con người làm nên điều vĩ đại là nhờ có tình yêu. Tình yêu phải có hạnh phúc, nếu không phải xem lại cách yêu.

Thiền Cho Thiếu Nhi – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Cho Thiếu Nhi 

Thiền bạn bè

            – Thở, người ngồi bên phải tôi là bạn tôi.

            – Thở, người ngồi bên trái tôi là bạn tôi.

            – Thở, người ngồi đối diện tôi là bạn tôi.

            – Thở, người ngồi phía sau tôi là bạn tôi.

            – Thở, tôi trân quý sự có mặt của bạn tôi.

            – Thở, được làm bạn với bạn tôi hạnh phúc quá đi.

            – Thở, tôi tiếp xúc với tình bạn trong giây phút này.

            – Thở, tôi muốn nói tôi rất thương các bạn.

            – Thở, tôi muốn nói mình mãi là bạn bè bên nhau.

– Thở, tôi muốn nói nhờ có bạn cuộc sống này thật tuyệt vời.

– Thiền trong tình huynh đệ

            Ngồi thiền với tăng thân hay bạn bè nuôi dưỡng tình huynh đệ rất lớn. Sự có mặt của người bạn hay sư đệ tiếp cho mình thêm năng lượng tu tập. Năng lượng này rất quý báu và đó chính là tình huynh đệ. Hạnh phúc không có mặt ở việc đi tìm kiếm tiền tài, danh vọng, địa vị và những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng. Chỉ cần ngồi lại với nhau, cùng thở, cùng thiền, cùng uống tách trà và cùng đàm đạo là hạnh phúc ngập tràn, đâu cần tìm kiếm hạnh phúc ở đâu nữa. Thiền giả tìm kiếm hạnh phúc bằng con đường hoàn toàn khác. Ý thức sự có mặt của bạn bè, của tăng thân, ý thức tình thương giữa người với người có mặt cho nhau, năng lượng hạnh phúc ngay lập tức đầy dẫy trong tự thân. Thiền giả không đi về hướng chật chội của những tham muốn không bao giờ dứt mà lại đi về hướng của không gian thênh thang, của những người bình dị, luôn mỉm cười và tìm kiếm hạnh phúc chân thật trong hiện tại. Người bạn thuở hàn vi đang có mặt cho ta, sư đệ đang có mặt cho ta và cùng với họ, các yếu tố thiên nhiên cũng đang có mặt. Đó là những tài sản quý giá nhất không gì có thể mua nổi và chỉ ta ý thức về chúng, ta trở nên giàu có hơn bao giờ hết. Mục đích của người tu là để tu, đâu phải là chức vụ hay danh phẩm. Một số người thường hay hỏi tôi là đại đức, thượng tọa hay hòa thượng. Tu đâu phải để đạt những giáo phẩm như vậy. Làm hòa thượng mà không có hạnh phúc trong hiện tại thì làm hòa thượng làm gì. Các cư sĩ quá dính mắc vào giáo phẩm của người tu sĩ đã đành, bản thân tu sĩ còn dính mắc không kém. Buông bỏ những chức danh đó đi, người tu sĩ sẽ hạnh phúc vô cùng và đi tu để cố gắng leo lên các chức danh thì đi tu làm gì. Đó đâu phải là mục đích của người tu. Thà làm một chú tiểu suốt ngày rong chơi giữa bạt ngàn hiện tại nhưng thành công hơn nhiều so với người có hàng ngàn đệ tử nhưng sống lo lắng, âu sầu và sợ hãi. Nhìn một tu sĩ ăn nói nhẹ nhàng, đi đứng khoan thai, ta được nuôi dưỡng rất nhiều. Ngồi trò chuyện và lắng nghe họ chia sẻ các pháp môn tu tập, ta thật sự rất may mắn. Giữa thành phố đông đúc, ồn ào, náo nhiệt với cái thở hầm hập của xe cộ, của bươn chãi, của thở than, nhìn thấy một tu sĩ đi thong dong, ta cảm thấy được an ủi và có thêm niềm tin. Thiền trong tình huynh đệ để tháo gỡ cho nhau những khó khăn còn vướng mắc trong cuộc sống và tu tập. Những gì ta chưa biết cách thực tập và giải quyết, nương tựa tăng thân để được giúp đỡ. Ở ngoài đời có chuyện gì ta thường chia sẻ với bạn bè, và tiếp nhận những lời khuyên chân thành. Khi bản thân giải quyết được, ta lại đi chia sẻ với người, giúp đời chính là giúp mình. Hạnh phúc của người khác là hạnh phúc của mình. Người khác buông bỏ được khổ đau, mình buông bỏ được khổ đau. Đứa con đi học về huyên thuyên kể cho mẹ nó nghe những gì trải qua trong lớp với niềm hân hoan và vui sướng, người mẹ hạnh phúc với hạnh phúc của đứa con. Huynh đệ cũng vậy, huynh nghe đệ chia sẻ những hạnh phúc có được từ sự thực tập, huynh được nuôi dưỡng rất nhiều từ hạnh phúc của đệ. Tình huynh đệ là một loại chất dinh dưỡng, nuôi lớn con người, bạn bè, người thân. Con người không còn cảm thấy cô đơn mà có nhiều sức sống, sống vì mình và vì người.

Thiền cho thiếu nhi

            – Thở, vui

            – Thở, cười

            – Thở, nghe

            – Thở, nhìn

            – Thở, im lặng

            – Thở, khỏe khoắn

            – Thở, vỗ tay

            – Thở, làm một bông hoa

            – Thở, làm một chú thỏ

            – Thở, chắp tay xá chào

(Tiếp tục với các hành động giúp cho các thiếu nhi vừa thở vừa chơi)

– Trẻ thơ tươi đẹp như một bông hoa

            Trẻ em là đối tượng Phật giáo cần hướng tới trong việc giáo dục và hướng dẫn các bài thiền tập, đạo đức Phật giáo cũng như cách sống hạnh phúc khi còn là một đứa trẻ. Thế giới trẻ em đầy thơ mộng và đáng yêu, gìn giữ và bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của người lớn, toàn xã hội. Khóa tu không chỉ tổ chức cho người trẻ, người già mà còn cho trẻ em, theo đó các em đến với nhau cùng chung sống, vui chơi và sinh hoạt cộng đồng.

            Khi còn nhỏ, em bé tươi đẹp như một bông hoa. Lớn lên các em là những bông hoa tươi mát. Nhìn ánh mắt, nụ cười, giọng nói hồn nhiên của trẻ thơ, thế giới người lớn thấy ấm lòng và hy vọng tương lai rạng rỡ cho các em. Cuộc sống được xây đắp từ ngày hôm nay, tập cho các em sống vui tươi trong hiện tại và tạo thành thói quen lúc nào cũng biết hạnh phúc trong hiện tại. Trẻ em khi chưa có định hướng rõ ràng thường bắt chước người lớn. Trẻ phát triển lành mạnh hay không do tác động của cha mẹ, người lớn, người xung quanh, môi trường và hoàn cảnh. Muốn giáo dục trẻ em, người lớn trước hết phải biết cách giáo dục chính mình, làm gương cho trẻ thơ, tạo môi trường trong sáng và đặt các em vào các hoàn cảnh thuận lợi cho việc tu tập. Trẻ em hay người trẻ hư hỏng hoàn toàn là do trách nhiệm của người lớn hơn là trách cứ chúng, chúng đáng được yêu thương hơn là trừng phạt. Từ khi đứa bé đang hình thành dưới dạng thai nhi, cha mẹ đã lo giáo dục chúng. Cha mẹ biết tu tập tức là đứa con cũng được tu tập. Mối liên hệ rất mật thiết này chứng minh sợi dây liên kết giữa đứa trẻ và cha mẹ chúng. Theo bác sĩ Bùi Quốc Châu, chuyên gia hàng đầu về chữa bệnh bằng bấm huyệt, khi đứa con bị bệnh, bấm huyệt người mẹ vẫn có tác dụng trên đứa trẻ vài tháng hay vài năm tuổi. Tại Việt Nam, ông bà thường cho rằng phước đức của tổ tiên, ông bà và cha mẹ ảnh hưởng lớn đến con cháu, cho nên muốn con cháu có nhiều hạnh phúc, cha mẹ chúng phải biết tạo phước.

            Khi còn mang thai, người mẹ biết ngồi thiền và đọc kinh cho đứa con. Đứa con trong bụng nhiều khi chưa hình thành đầy đủ nhưng cảm nhận được tình thương từ mẹ của nó. Khi sinh ra, đứa trẻ nhỏ xíu nhìn thấy mẹ nó ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật và đối xử với mọi người xung quanh, cụ thể là bản thân nó thật dễ thương, đứa trẻ có khuynh hướng muốn khám phá thế giới bởi vì với nó đó là thế giới tràn ngập yêu thương. Khi lớn hơn nữa, được vài năm tuổi, bé tập đi, tập nói, tập ăn cơm, tập nghe lời… và dĩ nhiên tập bắt chước. Cha mẹ hành xử đúng đắn và thực sự yêu thương nhau, đứa trẻ thừa hưởng điều đó và nó sống trong thế giới tình thương rồi đến lượt bản thân, đứa trẻ thực tập tình thương, ban phát tình thương giống như cha mẹ chúng. Muốn đứa trẻ là một bông hoa, phải tưới nước, nước ở đây là nước cam lộ, sự bừng cháy của tình thương.

Thiền trái cây

            – Cầm lên một trái cam.

            – Tên trái cam rất đẹp, tựa như cam lộ.

            – Trái cam xanh và tròn, đẹp như trái đất này.

            – Gọt cam ra từng miếng.

            – Miếng này xin mời mẹ.

            – Miếng này xin mời cha.

            – Miếng này xin mời chị.

            – Miếng này xin mời em.

            – Miếng này dành cho ta.

            – Ăn một miếng cam, ngọt lịm cả thân tâm.

            – Ăn một miếng cam, dòng sông và con suối.

            – Ăn một miếng cam, mặt trời và đại địa.

            – Ăn một miếng cam, vườn cây và trái cam.

– Ăn một miếng cam, bác nông dân và mồ hôi trải dài trên má…

(Tiếp tục quán chiếu như thế cho đến khi nào bạn không thể quán chiếu được nữa. Có thể thay thế loại trái cây hoặc sử dụng bánh ngọt)

– Thực tập quán chiếu

            Nhìn sâu vào bản thân và đối tượng để hiểu rõ thực tại của bản thân và đối tượng, đây gọi là quán chiếu. Thực tập này đòi hỏi thiền giả lắng lòng nghe sâu và nhìn sâu để biết được thực tướng của các pháp. Chúng biến chuyển, thay đổi không ngừng và không có gì sinh ra cũng không có gì mất đi, có chăng chỉ là sự thay hình đổi dạng. Thiền giả thực tập quán thân trong thân tức là quay trở về hòa nhập với đối tượng quán chiếu. Chẳng hạn, muốn hiểu mẹ, phải đặt mình vào vị trí của mẹ, muốn hiểu người bạn đặt mình vào vị trí của bạn, muốn hiểu hoa sen phải đặt mình vào vị trí của hoa sen. Bản thân trở thành mẹ, bạn và hoa sen mới hiểu được. Còn nếu không ta chỉ đứng bên ngoài dòm ngó và bắt đầu suy diễn. Đã gọi là suy diễn thì chẳng bao giờ đúng, có khi mang trong mình đủ thứ tri giác sai lầm. Thiền giả và đối tượng quán chiếu trở thành một, đối tượng đó choáng ngợp khắp thân tâm thiền giả và lúc này thiền giả mới quán chiếu được. Giống như một đạo diễn điện ảnh sản xuất và cưu mang tác phẩm của mình nên đi đứng nằm ngồi làm bất cứ điều gì cũng chỉ vì tác phẩm mà thôi. An trú trong chánh niệm là điều kiện thực tập quán chiếu dễ dàng. Chánh niệm dẫn đến định và định làm phát khởi tuệ. Thực chất ba yếu tố này đều tương tức cho nhau. Vì vậy khi niệm định tuệ thực sự có mặt, thiền giả thấy và biết đối tượng rõ như ban ngày.

            Thiền giả hoàn toàn trở thành con người tự do không bị bất cứ điều gì lôi kéo. Nguyên nhân là do thấy các đối tượng theo đuổi đều không cố định, biến đổi thường xuyên và khoảng thời gian thay đổi nhanh, ngắn đến nỗi đồng hồ đo tốc độ có thể bị quá tải và nổ tung ngay tức khắc. Quán chiếu đúng đắn đưa thiền giả đến giác ngộ, nhìn thấy Phật và đạt được giải thoát khỏi đối tượng đó. Quán chiếu về sinh tử thấy sinh tử là vô thường được kết hợp bởi vô số điều kiện đang sinh và diệt. Thấy rõ bản chất của sinh tử, ta thoát ngay ra khỏi sinh tử, mầu nhiệm đến như vậy. Đối tượng quán chiếu có thể là sợ hãi, căm giận, khen chê, được mất, hơn thua, ngạo mạn… Ta thấy chúng không thể kéo dài mãi và đến lúc nào đó được chuyển hóa, người biết cách chuyển hóa thì chúng sẽ trở nên êm dịu và tươi mát, người không biết cách chuyển hóa làm cho chúng thêm sâu nặng và trở thành nô lệ của chúng. Thực tập quán chiếu thấy các tâm hành bất thiện này đều vô thường, do tác động của ngoại cảnh và sự tôn vinh của cái tôi. Biết chúng là vô thường, nên chúng sẽ vuột mất, biết chúng là ngoại cảnh, nên chúng chẳng ăn nhập gì với mình, biết chúng là cái tôi, mà cái tôi thì không thực có. Dính vào chúng là dính vào cái ảo, mà ảo thì không đáng tham cầu. Quán chiếu để thấy ta và đối tượng không khác gì nhau. Nếu đối tượng là một người thì càng không thể khác. Ta được cấu tạo bởi năm uẩn và người kia cũng được cấu tạo bởi năm uẩn. Nếu hai người chết được hỏa thiêu và đem tro trộn lẫn với nhau, sức mấy có người ngồi phân loại ra đây là tro của người này và đây là tro của người kia. Chánh niệm làm cho thực tập quán chiếu mỹ mãn, lúc này thiền giả có khả năng buông bỏ mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Thiền Nụ Cười – Hơi Thở Tinh Khôi

Thiền Nụ Cười

Thiền cười

            – Thở, cười nụ.

            – Thở, mỉm cười.

            – Thở, cười đàm tiếu.

            – Thở, cười nhẹ.

            – Thở, cười sảng khoái.

            – Thở, cười hạnh phúc.

            – Thở, cười sung sướng.

            – Thở, cười mãn nguyện.

            – Thở, cười thênh thang.

            – Thở, cười dễ thương.

(Cứ việc thực tập các kiểu cười lành mạnh mà mình thích)

– Cười chánh niệm

            Không có gì hạnh phúc bằng mỉm cười. Nhìn một người đang mỉm cười, dù là trẻ nhỏ hay người lớn, ta biết người đang có niềm vui và thực sự biết sống trong hiện tại. Nụ cười đó không chỉ người cười được hưởng mà mọi người đều được hưởng. Cười là hưởng thụ. Không cười thì uổng lắm. Những chú chim chuyền cành ngoài vườn không ngừng ca hát líu lo. Chúng chào đón một ngày mới bằng niềm vui hân hoan. Ta cũng vậy, ta chào đón ngày mới bình yên bằng nụ cười thánh thiện, thật nhẹ, thật hồn nhiên. Nụ cười đánh dấu nỗi niềm sung sướng, hứa với lòng cả ngày sẽ vui tươi như vậy. Cười chánh niệm là mục tiêu dễ chịu của sự sống. Ai cũng vui cười, cuộc sống đẹp biết bao nhiêu. Cười thật để thấy sự sống đang hiện tiền, hoa đang nở và mặt trời đang chiếu rạng. Nụ cười đức Phật là sự an lạc, thanh tịnh và giải thoát. Nụ cười của mẹ ấm áp, gần gũi, thân thương. Nụ cười đứa trẻ thật trong thật sạch. Mọi thứ đều có thể mỉm cười được, thành công hay thất bại vẫn cười, giàu hay nghèo vẫn cười, được hay mất vẫn cười. Nụ cười không có biên giới, không phân biệt chúng sanh.

            Nụ cười là khẩu hiệu, biểu tượng hay thứ ngôn ngữ khó mà diễn tả nổi bằng lời. Bất cứ ai nở một nụ cười chánh niệm, ngay lập tức khu vườn nở ra đóa hoa trăm sắc, bầu trời trở nên xanh trong và làn gió thổi vi vu. Nụ cười tượng trưng cho hòa bình, cuộc đời đã thôi dữ dội, bình yên đã quay về. Cha mẹ cho ta nụ cười thì dại gì mà không cười. Mỗi khi cười ta đẹp như một thiên thần. Môi trường làm việc hay sinh hoạt được tô điểm bằng những nụ cười, môi trường đó hay lắm. Có người thèm được cười, thèm được thấy nụ cười, thèm được nghe nụ cười. Một ngày không cười là một ngày giãy chết, thành phố không cười là thành phố chết.

            Người biết cười là người cực kỳ thông minh. Dù kiếm bạc tỉ nhưng chẳng bao giờ cười, có chăng chỉ là cười gượng, người này tội nghiệp lắm. Cười biểu hiện sáng tạo nghệ thuật của con người. Họa sĩ vẽ nụ cười nhưng làm sao bằng nụ cười thật. Con người có thể tạo ra hằng hà sa số nụ cười như vậy và làm đẹp cho đời biết bao. Đa số những người thành công trong sự nghiệp đều biết cười, thậm chí cười rất đẹp. Người tối ngày cau có, nóng nảy và mặt mũi như chợ chiều khó mà thành công. “Trăm cay ngàn đắng vẫn vui cười” (Kinh Từ Bi) không có nghĩa thờ ơ với thực tại khổ đau mà nở nụ cười vì những khổ đau đó chỉ là giả tạo, đến rồi sẽ đi, cười vì thấy được tính vô thường của nó, khổ đau đó không làm hại được mình. Nhìn khổ đau một cách an nhiên, như trò đùa của cuộc đời, vậy thì tại sao lại không cười. Cười có công năng trị liệu vì nó giúp thư giãn không chỉ gương mặt mà còn tâm của người đó. Những lo âu phiền muộn giảm và tan biến rất nhanh. Con người sống được, đi tiếp được nhờ vào những nụ cười như vậy. Trường học nên dạy cười hơn dạy các mớ lý thuyết khoa học ngày càng trở nên dài dằng dặc hơn.

Trích “Hơi thở tinh khôi” của Thiền giả Minh Thạnh

Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ Thiền giả Minh Thạnh đã cho phép chúng tôi sử dụng bài viết để trích đăng trên Website. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.

http://sachminhthanh.wordpress.com

Theo Phật Pháp Ứng Dụng