22. Kính cha má,

Niệm Phật được mười điều lợi ích, trong đó cái lợi sau cùng là được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thế giới, một đời này thôi ta thoát khỏi sinh-tử luân-hồi. Đây là cái lợi ích chung cuộc. Không có cái lợi ích này thì tất cả những lợi ích kia chỉ là mộng-huyễn, vì có thu lợi nhiều đến mấy đi nữa nhưng rồi cũng chết, gắng gượng sống thêm một vài năm bệnh hoạn trong cái xã hội đầy sầu não, sau cùng chính thần-thức của mình bị đọa lạc, thì có gì đâu mà lợi?!… “Chuyển thân thọ thân, cải hình dị đạo”. Khó đoán được tương lai.

Hãy giác-ngộ cha má ơi! Cố gắng tu hành nhắm thẳng tới sự giải thoát viên mãn, đừng nên bám víu vào những điều lợi vụn vặt mà tự hại ngàn đời. Bây giờ, trí-huệ đang trói trong cái nhục thân phàm tục cho nên mình không thấy, chứ một khi đã thấy rồi thì sự việc này quan hệ lớn lắm. Bị đọa lạc kinh khủng lắm! Không thể lơ là bừa bãi được đâu. Nhiều lá thư rồi con nhắc đến chuyện này, mong cha má thức ngộ, làm gương cho gia đình, bà con cô bác, cùng tỉnh cơn mê, cùng nhìn ra sự thật, cố gắng tu hành tránh hiểm nạn.

Về quê, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng con thấy cũng khá nhiều điều, có dịp con lần lượt nói ra cho mọi người nghe. Tu hành coi vậy chứ có nhiều nẻo lắt léo, chú ý lắm may ra mới thấy vấn đề! Hòa-Thượng Tịnh-Không ít khi nói thẳng tên, sửa thẳng việc, nhưng một khi Ngài thấy cái sai lầm của người nào thì trong những buổi thăng tòa giảng kinh Ngài nói ra sự việc đó. Có nhiều lúc Ngài nghiêm sắc mặt chỉ thẳng vào máy thâu hình mà nói, “…Tôi nói đây là cho chính quý vị nghe, quý vị lại tưởng tôi nói đến người bên cạnh chứ không phải nói mình, cho nên tự mình cho là ngon lắm, đắc đạo rồi, thành ra không chịu tự sửa. Học Phật phải tự xét chính mình, đừng nhìn cái lỗi của thiên hạ thì quý vị mới mong có ngày khai ngộ…”.

Ngài nhìn thẳng vào máy là nhìn đến mình. Ngài chỉ thẳng vào máy là chỉ tới mình. Chính lúc đó, ai biết hồi tâm thì lo tự sửa lấy. Con học theo pháp của Ngài, trước lo sửa chữa và sau nói chuyện với mọi người. Mỗi lần viết thư, nếu không phải là em út ruột thịt, con không bao giờ dám lên mặt dạy đời đâu. Tuy nhiên, vì là người học Phật, phát tâm muốn giúp đỡ chúng sanh, cứu nạn cho người, lúc nào con cũng thầm mong những người thân thuộc, tất cả người nào đã đọc được thư con đều để tâm đến để được thoát nạn.

Đời mạt pháp này nghiệp chướng chúng sanh quá nặng nhưng lại hơi giống với nhau. Phật nói tất cả đều do ba cái độc tham, sân, si, mà ra cả. Người không tham thì sân giận, không sân giận thì lại bị ngu si. Vì ngu si cho nên cống cao ngã mạn. Điều này thấp kém lắm, vì người khôn ngoan không cống cao ngã mạn, người học cao hiểu rộng bao giờ lại ngạo nghễ với đời? Cho nên cha má cũng nên truyền bá những tư tưởng đạo đức này cho con cháu biết. Lỗi lầm của chúng sanh ngày nay không xa vấn đề này đâu! Hãy tự xét cái sơ suất của mình để ngày ngày sửa đổi, đó là tu hành vậy!…

Niệm Phật, pháp môn tối vi diệu, nhưng vì chúng sanh có cái bệnh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… lớn quá nên không được lợi ích. Có người, vì nghiệp chướng quá nặng nên không chịu nghe theo. Có người, có lòng tin nhưng lại tham đắc đạo nhanh, niệm một vài câu Phật hiệu thì đã vội cầu chứng đắc thành ra thất bại. Có người tự mãn vì quá khôn, kiến thức tốt, tự vạch lấy những cách tu trì riêng mà rước lấy bi thảm…. Chính vì vậy vẫn còn quá nhiều chúng sanh nối đuôi nhau chờ vào chỗ hiểm nạn. Ví dụ cụ thể nhất, trong lần về quê thăm này con phát hiện một số người niệm Phật thèm muốn được Phật xuất hiện, thấy được Bồ-tát hiện ra đêm đêm để an ủi, vỗ về. Có người còn nói với con, “…trước đây mỗi lần tụng kinh Phổ-Môn, tôi đều thấy Bồ-tát ứng hiện, độ rày tôi bận quá không tụng nữa cho nên không thấy nữa. Tiếc quá!…”.

Thưa cha má, tất cả những hiện tượng này thường là không tốt lắm! Hôm nay con nói thêm về điểm này để mong cảnh tỉnh thêm nhiều người hầu tránh những trở ngại thuộc về ma chướng về sau. Cha má đến tuổi cuối đời mới may mắn gặp được Phật đạo, thì chắc chắn công phu không thể cao dày được, tất cả đều phải nhờ vào Phật lực gia trì mới mong thoát hiểm. Muốn tránh được ma chướng, thì niệm Phật là hay nhứt, vì tất cả các pháp môn đều tự lực tu trì chứng đắc, chỉ có thành tâm niệm Phật mới được chư Thiên gia hộ, hai mươi lăm vị Bồ-tát bảo vệ, ác quỷ dạ-xoa, la-sát… không thể đến gần, mới tránh khỏi ma nghiệp. Sau cùng, được Phật A-di-đà tiếp dẫn vãng sanh, vĩnh viễn xuất ly tam giới, nhập vào cảnh giới của chư Bồ-tát, Phật. Tất cả mọi phép tu dù hay tới đâu mà không siêu việt tam giới, thì chắc chắn vẫn còn bị đọa lạc, nhiều lúc càng tu nhiều càng bị nặng vì hậu quả của “Tam-thế-oán”.

Thế thì tại sao niệm Phật mà có thể vẫn bị phá hoại? Vấn đề cần hiểu rõ ràng không nên lầm lẫn. Niệm Phật, thì được Phật Bồ-tát bảo vệ để cuối đời người đó vãng sanh. Nói như vậy không có nghĩa là cứ niệm Phật chơi chơi là được Phật tiếp dẫn đâu. Niệm Phật, là để mình được giải thoát chứ không phải niệm cho chư Phật. Nhiều người cứ nghĩ tu là tu cho chùa được đông người, tu cho vị Sư khỏi buồn… tu hành giống như kiểu đi bầu cử cho chùa được nhiều phiếu. Có lẽ vì vậy, thành ra mới niệm một vài câu là bắt đầu yêu cầu lung tung, như cầu gia đạo yên vui, thăng quan phát tài, đòi hỏi chùa phải làm thứ này thứ nọ… Cầu mong như vậy, nghĩ kỹ coi, là tu-hành hay tham-lam? Từ bi, hỷ xả hay tự tư ích kỷ?… Hễ đang học Phật thì Phật gia trì, còn đang tham lam ích kỷ thì ngoại lực gia trì. Cầu Phật có Phật, cầu Ma có Ma. Đạo lý là như vậy!

Phật – Ma, Ma – Phật ở tại tâm. Cha thường dạy, tâm chánh là Phật, tâm tà là Ma. Như vậy Phật là đâu? Phật là tâm. Ma là đâu? Ma cũng là tâm. Tâm là đâu? Tâm là ta đây chứ còn đâu nữa. Như vậy rõ ràng chính ta vừa là Phật, vừa là Ma. Giác thành Phật, mê thành Ma. Phật dạy, bất cứ lúc nào ta biết quay đầu thì thành Phật liền, đạo lý chính là ở chỗ này.

Ma có bốn loại ma: nội-ma, ngoại-ma, ngũ-ấm-ma, tử-ma. Con ma của chính ta là nội-ma hay là phiền-não-ma, ngoại cảnh là thiên-ma hay ngoại-ma, thân-thể-vô-thường là ngũ-ấm-ma, cái làm cho ta chết là tử-ma. Chúng ta đang mê nên đang sống trong sự kiểm soát của ma lực. Hễ nội-ma của ta mở cửa thì ngoại-ma nhập vào. Nếu ta ngoan ngoãn chấp nhận hiện tượng này, không phản ứng thì tạm yên, vì sau cùng ta đều phải tuân phục sự dẫn độ đến chỗ sai lầm.

Người ta thường cho rằng “sống làm người, chết làm ma”. Đó là tự họ muốn vậy, vì thế đám chết mới gọi là đám ma. Bây giờ biết tu hành thì ta có thể đổi lại là “sống làm người, vãng sanh thành Phật”, thì khi mãn báo thân này ta làm tiệc vãng sanh, kêu người ta tới hộ-niệm cho ta vãng sanh.

Bình thường con người vô tình hay cố ý đều làm những việc sai lầm, thường cứ cầu xin về những nẻo hiểm ác mà họ không hay. Ví dụ, như vì tình nghĩa vợ chồng quá thâm trọng, “…xây mồ bên cạnh nguyện xuống âm phủ gặp nhau…”. Có lần bác Ba Th. nói với con: “… Bác có chết thì bác xuống địa ngục một mình, bây giờ nhà bác bác ở, nhất thiết không đi đâu hết…”.

Thật là dễ sợ! Dựng tóc gáy! Nghĩ cho kỹ, nhà đó đâu phải là nhà của bác. Đó chỉ là cái thứ vô-thường dựng lên cho cái thân vô-thường tạm trú. Một vài năm nữa rồi vô-thường cũng trả về cho vô-thường, bác có ở lại giữ được đâu? Tại sao chúng ta không nhận ra thực giả mà tìm đường thoát nạn vậy? Ở trên đời này, con cái dù có bất hiếu tới đâu, nhiều lắm cũng chỉ nói một vài câu sai lầm mà ta đã chịu không nổi, lại thề xuống địa ngục cho thỏa giận.

Đơn giản như vậy sao! Ở đó, họ đâu có thèm nói nặng nhẹ, họ túm cổ ta liệng vào chảo dầu mà chiên, trói cổ vào trụ đồng mà đốt, cột đầu trên giường sắt mà nướng, cho hàng trăm đao ngàn kiếm phanh thây ta ra thành muôn mảnh… chứ đâu có hiền!

Địa-ngục có nhiều tầng cấp, có Vô-Gián địa ngục, A-Tỳ địa ngục, Căn-Bản địa ngục, Du-Tăng địa ngục, Biên-Địa địa ngục… một ngày ở đó, nhẹ nhứt cũng dài bằng hai ngàn bảy trăm năm trên thế gian. Trong kinh Phật nói, dưới địa ngục một ngày chúng sanh bị thọ hình chết đi sống lại cả ngàn, vạn lần. Tính ra, nếu tội nhẹ thì chết một ngàn lần trong ngày, một ngày dài hai ngàn bảy trăm năm, như vậy cứ hai hoặc ba năm bị hành hạ chết đi sống lại một lần. Nếu nặng thì bị hành hạ chết một vạn lần, nghĩa là cứ hai hoặc ba tháng thì bị cực hình đến chết một lần. Đâu phải tầm thường, mà cứ muốn xuống địa-ngục sống cho yên! Xin Cha má hãy sớm tới thăm bác và giúp cho bác Ba hiểu mà bỏ đi lời thề này. Khuyên bác tuổi già hãy mau mau biết buông xả, về ở với con cháu cho anh Hai Lý lo liệu phụng dưỡng, và chính bác phải gấp rút niệm Phật cầu vãng sanh Tây-phương mới mong thoát nạn được, còn không thì thê thảm lắm đó!

Trở lại chuyện tại sao người tu bị phá hoại? Trước đây con thường ví như người đang gia nhập đảng cướp, hễ tiếp tục tùng phục chúng thì tạm yên để làm ác, nếu tìm cách thoát thân thì coi chừng bị chúng ám hại. Nên nhớ, yên là yên tạm bợ rồi chờ ngày bị quốc gia chế tài chứ đâu phải yên lành luôn đâu. Quốc gia tượng trưng cho Phật, đảng cướp tượng trưng cho ngoại lực. Quốc gia vẫn hằng bảo vệ chúng ta, tại vì chúng ta tự theo kẻ cướp thì đành chịu pháp luật chế tài chứ làm sao được phước huệ của quốc gia. Sự lý là vậy. Phật đang ngày đêm cứu độ chúng sanh, chúng sanh không chịu nghe, lại làm điều sai lạc để sau cùng bị dẫn độ vào đường khổ nạn. Đây là tại ta tự nguyện chứ đâu phải tại Phật.

Cho nên, Tổ sư mới có câu, “Vô Thiền vô Tịnh-độ, thiết sàng tinh đồng trụ”, (người không tu Thiền mà cũng không tu Tịnh thì hãy chờ mà vào địa-ngục để nhận chịu hình phạt “giường-sắt” và “trụ-đồng” thiêu đốt). Người giác ngộ biết vậy, chi bằng tìm cách thoát nạn trước có hay hơn không? Những tiên triệu khổ nạn này thường có thể dễ thấy nhứt, là lúc báo thân sắp mãn. Ví dụ, như có người điên cuồng, mê muội, ngu si… (theo cảnh giới của súc­sanh); có người loạn óc, hung hiểm, đố kỵ, lúc chết bị khủng bố hãi hùng… (cảnh giới địa-ngục); có người tham lam, bỏn xẻn, gian xảo, lường lọc… (cảnh giới ngạ-quỷ); có người mê mê tỉnh tỉnh, như đang sống với một thế giới vô hình nào đó, (cảnh giới ma-quái), v.v… Người không hiểu đạo cứ tự nhiên coi sự việc bình thường, người hiểu đạo họ thấy suốt luôn cả sự thể tương lai, hiểu được cảnh tượng thê lương sau đó, cho nên mới lo toan tu hành thoát nạn.

Khi tìm cách thoát ly thì đôi lúc có thể bị tà lực tới phá hoại để tìm cách kéo chân mình lại. Chính vì không hiểu chuyện này mà có người cho rằng tu hành mới bị trở ngại, còn không tu thì yên thân, nên thà đừng tu thì sướng hơn! Đây là lý luận không đúng. Nhìn con mèo đang say sưa liếm mỡ trên lưỡi dao mà cảm thấy rợn người, cha má ạ!…

Trở lại vấn đề niệm Phật. Trước đây con thường nói phải thành tâm chí kính niệm Phật, biết buông xả thế tình thì tự nhiên thành công. Hôm nay con nói rõ hơn, dễ hiểu hơn :

1) Là thành thật niệm Phật: Niệm Phật là niệm cho mình vãng sanh, chứ không phải niệm cho người khác biết mình có tu hành. Tốt nhứt là cha má hãy âm thầm niệm Phật và âm thầm cầu nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc hàng ngày, thoát ly khỏi thế giới Ta-bà này, còn người khác có khen hay chê không cần thiết. Trần tục này quá khổ, quá điên loạn, là thế giới ngũ trược ác thế. Hãy chán bỏ nó đi mà thành tâm nguyện về với Phật cha má ơi, còn nếu chần chừ thì không còn cơ hội để thử lại nữa đâu. Người ngoài, con cháu, làng xóm… nên thành tâm khuyên họ tu hành, ai nghe theo thì tốt, không theo thì tùy theo duyên của họ. Riêng cha má cứ một lòng ngày đêm niệm Phật, ngày ngày lập lại lời nguyện vãng sanh. Nhứt thiết không được bỏ một ngày nào hết.

2) Là thực thà, hiền lành, giúp đời: Niệm Phật đã quyết một đường vãng sanh, thì xin cha má cố gắng mà làm phước làm lành nhiều hơn nữa. Tình thực mà nói, ông bà mình có danh vọng, có phước báu, ruộng “cò bay thẳng cánh, chó chạy ngay đuôi!” nhưng sau cùng cũng trụi lủi, không giữ được cho hậu thế qua một thế hệ, không giúp được đàn con cháu khỏi tha phương cầu thực… Người có phước mà biết làm phước, thì dù cho thế sự có xoay vần tới đâu phước lộc của họ cũng tự tìm cách chuyển đến cho họ dùng. Ví dụ, như ruộng vườn nó chuyển thành tiền bạc, danh phong chuyển thành phúc lộc cho con cháu đỗ đạt thăng quan… còn nếu không chuyển được thì đó là do đức mỏng. Đây là lời nói thành thực. Con dựa theo kinh Phật mà nói, muốn nêu lên để cảnh tỉnh mọi người. Chúng ta hãy mau mau sớm quay đầu tỉnh giấc “hoàng lương” mới mong tạo được phước đức.

Đời nhà Tống, có ông Phạm-Xuân-Yểm trọn đời lấy tâm từ thiện giúp đời. Lúc nghèo không đủ ăn ông cũng nhịn phần ăn của mình để giúp người khó hơn. Quả báo này đưa ông đến hàng tể-tướng. Làm tể-tướng nhưng ông vẫn giữ phận thanh bần, để dành tiền giúp đỡ dân lành. Con cháu của ông tuân theo giáo huấn này mà sống. Kết quả, gia tộc ông ta trải qua hàng ngàn năm, đến nay con cháu vẫn đời đời sung túc, quan lộc, phước đức hưởng không hết.

Phật dạy, phải tu cái nhân mới có cái quả. Nhân thiện quả thiện, nhân ác quả ác. Hôm nay mình muốn được quả thiện lành mà không chịu tu nhân thiện lành, thì chắc chắn không bao giờ được. Người tham làm giàu mà không thiện lành thì dầu có bạc tỉ đi nữa nó cũng tìm mọi cách để tan biến như bọt nước vậy! Có phước, giàu có thì thấy tốt trước mắt nhưng coi chừng bị nạn “Tam-thế-oán”. Nghĩa là khi có phước báu, danh vị, tiền bạc cứ lo tận hưởng, tạo nghiệp, không chịu tu hành tiếp, thành thử cái phước tiêu tán nhanh chóng. Chính vì vậy, họ khó bề thoát nạn, con cháu cũng lận đận long đong. Biết như vậy, tuổi già rồi, cúi mong cha má hãy mạnh dạn quay đầu, dũng mãnh làm phước thật nhiều để lót đường cho sự vãng sanh. Được vãng sanh Tây-phương là đại phúc đức, đại thiện căn, không những cho chính cha má mà còn cho Cửu-Huyền Thất-Tổ quá khứ, cho con cháu ở vị lai.

Muốn được vậy, già rồi thì sự nghiệp thế gian phải tức khắc xa lìa. Tiền bạc, danh lợi, nhơn nghĩa, thị phi… phải biết tức khắc chán chê. Em Hai Phú giúp đỡ cha má thường ngày thì hãy giúp cho em chút ít. Trong làng xóm có ai quá khổ thì mình tằn tiện chút tiền đem cho… Con xin bảo đảm với cha má, cha má cứ đi bố-thí đi, nếu có nghèo đói con xin nhận chịu tất cả cho. Nếu con không đủ lo thì anh chị em, con cháu thấy cha má có tâm từ bi như vậy, chắc chắn không ai nỡ vô tâm bất hiếu được đâu. Phật dạy bố-thí tài được giàu có, cụ thể cứ việc thành thật thương người trong làng, trong xóm, tìm cách giúp đỡ cho người khổ, cha má sẽ tức khắc thấy ngay kết quả.

Quyết lòng làm thiện, thiện căn sẽ vượt trội, phước thiện sẽ chuyển đổi hoàn cảnh trước mắt liền lập tức. Xin tin tưởng chắc chắn như vậy! Đừng nên so đo với lòng ích kỷ của những người giàu sụ, cái đó vô-thường như huyễn mộng, phiêu phỏng như số phận bóng nước dưới cơn mưa chứ không có gì đâu. Xin cha má nghe lời con, làm đi để thoát nạn.

4) Là dứt khoát xả bỏ ơn nghĩa, nợ đời. Nếu cha má không biết lo sợ cái cảnh hãi hùng của địa-ngục, cảnh đói khát của ngạ-quỷ, cảnh ngu si của hàng súc-sanh và những cảnh giới tăm tối khác mà tìm đường thoát nạn, thì không ai có thể cứu cha má được nữa rồi. Con xin nói thẳng, vì con người tình chấp quá thâm trọng, chưa liễu giải được chân tướng của vũ-trụ nhân-sinh, cho nên cứ nằng nặc bám lấy những cái tầm thường giả tạo của trần tục để sau cùng đành gia nhập ác thú khổ nạn!

Con xin hỏi rằng, có ai dám vì một vài tiếng khen tạm bợ để một vài năm nữa tự chấp nhận đi vào cảnh thương đau vạn kiếp không? Cha má có dám hứa là vào trong đó bị đau không thèm than khóc, bị khổ không thèm mong thoát nạn không? Như trong địa-ngục có cảnh đao kiếm phanh thây, nếu một người tham tiền cứ thích lường gạt, gian lận, không sợ địa-ngục thì hãy chỉ cảnh địa-ngục cho họ thấy. Cảnh địa-ngục ở đâu? … Bị chém một dao cho một triệu, chém nhát thứ hai cho hai triệu, chém nhát thứ ba cho bốn triệu… mỗi lần chém gấp đôi tiền lên. Tiếp tục chém mãi thôi. Như vậy, chỉ trong một ngày họ trở thành người giàu nhứt thế giới. Dám không? Nếu không dám thì hỏi rằng, cảnh địa-ngục còn ghê rợn hơn nữa tại sao không sợ?!

Con xin nhắc lại, một ngày trong cảnh địa-ngục dài bằng hai ngàn bảy trăm năm trên thế gian. Lịch sử dựng nước của Việt-Nam ta có bốn ngàn năm, một người bị rơi vào địa ngục từ đời Hồng-Bàng đến nay thọ cực hình chưa mãn hai ngày ở đó. Cha má và anh chị em có dám tham những thứ: tài, sắc, danh vọng, hân hoan nhận vài tiếng vỗ tay cho nở mày nở mặt một vài phút, rồi chịu hàng trăm đao, ngàn kiếm phanh thây vạn kiếp dưới địa-ngục chăng?

Rất nhiều nơi không hiểu được thực tướng của cảnh giới nên cứ nói đại, sống bừa, thác bãi… tự dựng nên những danh từ như là: thiên-cơ, định-mệnh, tử-vi, mạng-số,.. chứ thật ra những ý nghĩa này đã được Phật giải bày tường tận chi tiết, rõ ràng, trong định luật nhân-quả. “Nhân duyên quả báo tơ hào không sai” chính là định-mệnh, thiên cơ, mạng số… đó. Vì không hiểu thấu đạo lý đành phải nói đại là “bất-khả-lậu” đó thôi! Chứ thật ra tất cả những cái đó đều do chính ta tạo tác ra rồi chính ta thọ lãnh cả. Đó chỉ là định luật của nhân-quả. Ví dụ, như cha má đời kiếp trước chắc chắn có tu hành, có phước thiện nên đời này mới có người hướng dẫn đường vãng sanh.

Vãng sanh là con đường đại thiện, đại phước, nếu cha má chịu hưởng phước này thì cha má hoàn thành được tâm nguyện của vô lượng kiếp nay, còn cha má từ chối thì tự cha má tiếp tục rước lấy đau thương! Những đời kiếp sau nếu còn làm được con người, có may mắn lắm thì chẳng qua cũng gặp được người tới giảng vài câu Phật pháp rồi đi, tu hành được hay không tùy theo cha má định. Còn không may thì vĩnh viễn không bao giờ gặp lại đạo giải thoát nữa đâu.

Phật dạy, có ba hạng người niệm Phật không thể vãng sanh:

1) Là người còn tham đắm phước-báu nhân-thiên;

2) Là người học rộng, hiểu (chuyện thế gian) nhiều;

3) Là người phân-biệt chấp-trước.

Phước-báu nhân-thiên là tham ngũ-dục, lục-trần. Ngũ-dục là: tài, sắc, danh, thực, thùy; lục-trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người có kiến thức rộng thuộc về pháp trần, gọi là sở-tri-chướng. Phân-biệt chấp-trước là người ganh tị cố chấp. Những người này, nếu không bỏ, dù có niệm Phật cũng không thể vãng sanh. Phật dạy rõ ràng minh bạch, càng nghiên cứu kinh điển của Phật, ta càng giật mình tỉnh ngộ. Tất cả bí mật của nhân-sinh vũ-trụ đã được Phật khai bày chi tiết từ ba ngàn năm về trước mà ta không hay biết gì cả, cứ lầm lũi dắt nhau đi vào hầm lửa, tự thiêu đốt chính mình. Đáng thương thay!

Trở lại với sự sơ suất khi niệm Phật. Vì không hiểu cái tác dụng vi diệu của câu Phật hiệu, cho nên nhiều người móng tâm cầu xin đủ thứ để sau cùng không được gì cả. Trong mấy thư trước con đề cập đến chuyện thấy Phật, dùng câu Phật hiệu để phục vụ cho các pháp luyện khí, mở luân-xa, luyện thần-thông… Tất cả những việc làm này không tốt đâu. Xin cha má, anh chị, em đừng làm. Trong đó, chuyện mơ thấy Phật, Bồ-tát hiện thân rất phổ biến. Hầu hết người có thiện tâm tu hành nhưng không hiểu lý đạo thường dễ lầm lạc chuyện này. Chính con cũng phập phồng lo ngại cho cha má, vì nóng lòng cầu cảm ứng mà dễ bị rơi vào. Hôm nay con nói thêm về cảnh giới này cho rõ hơn. Xin cha má và anh chị em cố gắng hiểu thấu.

Thứ nhứt: Như đoạn trên và những thư trước con nói là ma-chướng, oan-gia trái-chủ phá hoại để lôi mình trở lại với chúng để bị đọa lạc. Nghĩa là, bảo mình đừng niệm Phật nữa và sống bình thường như trước giờ để chúng có dịp trả thù, đòi nợ. Cách phá của chúng là lợi dụng lúc ta chưa có công phu tốt, dựa theo sự dao động của tâm mà thừa cơ đột nhập để làm thân tâm ta bất an. Muốn tránh được chuyện này thì ta đừng mong cầu là được. Cứ một lòng thực thà, hiền lành niệm Phật, tin chắc chắn vào câu Phật hiệu, tin chắc vào sự bảo vệ của Bồ-tát, biết chắc rằng Phật A-di-đà gia trì cho mình để vãng sanh. Đừng mong cầu những thứ vị kỷ bất chính như tiền tài, danh vọng, dâm tà… Cũng đừng cầu thấy Phật, Tiên, Thánh… tất cả đều để tự nhiên. Một điều cần nhớ là trong nhiều đời nhiều kiếp rồi chắc chắn mình đã tạo nghiệp sát rất nhiều, người đi lính thì giết người hại mạng, còn không cũng giết hại chúng sanh để ăn. Cho nên ai cũng có nhiều oan gia trái chủ, có oan hồn rình rập báo thù. Vì thế, ta phải hằng ngày đem công đức tu hành hồi hướng cho họ, nguyện tu thành Phật về cứu độ họ. Có vậy ta mới an ổn tu hành.

Học Phật phải tuyệt đối tin lời Phật dạy, đừng hiếu kỳ. Vì ta chưa thông đạo lý nên cứ thấy hay hay lạ lạ thì nhào vô làm thử, vô tình rất dễ bị mê loạn, khó tự chủ về sau. Nếu để ý một chút ta thấy ngay rằng, hầu hết chỉ là những pháp tu lo thu đạt phước hữu lậu. Những lý pháp nửa vời này, gọi là “bất liễu giáo pháp”, thả lửng giữa đường mà ta không chịu chú ý. Chư Phật và chư Tổ sư dạy, nếu chúng sanh không chịu phân biệt chánh tà, cãi lời Phật dạy, chạy theo sự hão huyền thì bị đọa lạc, mất huệ-mạng. Vạn lần xin thức tỉnh.

Thứ hai: Trên thực tế, pháp niệm Phật dễ thành đạt đạo nghiệp, vãng sanh bất thối thành Phật. Nhiều người niệm Phật trong đời họ đã thấy Phật hiện thân an ủi hay thọ ký. Rất nhiều người biết trước ngày giờ ra đi, có nhiều người xin hẹn ngày ra đi cho thuận lợi việc sắp xếp hậu sự. Điều này là thực. Có hai vấn đề:

1) Là người thực sự chân thành niệm Phật. Thư này con gọi là người hiền lành niệm Phật, thực thà cầu sanh Cực-lạc, biết buông xả vạn chuyện thế gian. Chính vì sự thành tâm này mà họ đã đạt công phu thành thục, ngày đêm tiếng Phật hiệu không gián đoạn trong tâm, họ đã được cảm ứng đạo giao. Phật đã chính thức xuất hiện thọ ký. Bà cụ Triệu-Vinh-Phương là một ví dụ, bốn năm niệm Phật thì tự tại vãng sanh, hai lần thấy Phật xuất hiện thọ ký. Có nhiều vị thấy ba lần trong đời và họ được cho biết ngày nào, vào giờ nào Phật đến tiếp dẫn. Đây là thực, không phải giả.

2) Là người chưa có công phu niệm Phật tốt, tâm còn lao chao đủ thứ, lòng còn tham luyến thế gian, tham – sân – si còn đầy đủ… mà thường xuyên thấy Phật, thì đây là giả, không phải thực! Nên chấm dứt ngay, đó chỉ là vọng tưởng tạo nên mà thôi, không nên kéo dài thêm nữa vì càng lâu càng khó gỡ!

Hỏi rằng, làm sao phân biệt được giả-thật? Phật nào cũng giống như nhau, làm sao cả quyết?

Đúng vậy, khó lắm! Nhưng khó với người không tu hành, chứ còn người thành thực tu hành thì thấy rõ ràng thật hay giả. Tiêu chuẩn chính là công phu thành thục. Người tu hành chưa thành thục nhìn vào biết liền. Người lão thật niệm Phật, biết buông xả, muốn vãng sanh Tây-phương, dù họ chưa được nhất-tâm-bất-loạn, cũng thể hiện ra sắc tướng sự thanh-tịnh trong tâm. Một người được Phật thọ ký chắc chắn tiêu chuẩn tối thiểu là tâm đã có một mức thanh-tịnh nào đó. Một khi đã được Phật thọ ký, tự họ đã khai mở nhiều trí-huệ. Người biết tu hành thoáng nhìn là biết ngay, khỏi cần hỏi. Chính đây là tiêu chuẩn phân biệt phải trái.

Tuy nhiên, một khi tâm chưa thanh-tịnh, hễ nhắc thêm một chuyện thì tâm lại móng cầu thêm một chuyện làm cho khó giữ được thanh-tịnh hơn! Cho nên, chư Tổ dạy rằng có thấy được Phật thì tốt, mà không thấy được Phật thì còn tốt hơn nữa. Vì sao? Vì chắc ăn hơn! Nếu tâm đã thanh-tịnh thì đâu cần Phật đến an ủi, còn nếu tâm chưa thanh-tịnh thì không thể thấy Phật, chính thế mới biết công phu của mình vẫn còn quá kém mà ráng tinh tấn tu hành thêm lên, ráng niệm Phật, ráng buông xả nhiều hơn. Tổ Ấn-Quang dạy, luôn luôn phải nghĩ rằng công phu của mình còn kém thì mới thành đạt được, là lý do này.

Như vậy, thấy Phật giả hay thực tùy theo trường hợp. Tất cả anh chị em hoặc cha má mỗi khi thấy chuyện gì xảy ra nên cho con biết để góp ý kiến cho vững tâm. Hãy cho con biết liền, con có thể cố vấn được. Đừng âm thầm đắm vào đó mà nhiều khi mang họa!

Để rõ thêm vấn đề thấy Phật xuất hiện, chúng ta cũng nên hiểu thêm về pháp giới một chút. Phật có rất nhiều thân chứ không phải chỉ có một thân, quy tụ lại thành ba thân cho dễ nhớ, đó là Pháp-Thân Phật, Báo-Thân Phật và Ứng-Hóa-Thân Phật. Phật Tỳ-Lô-Giá-Na là Pháp-Thân Phật; Phật Lư-Xá-Na là Báo-Thân Phật, cảnh giới này quá cao không dám bàn tới hôm nay. Còn Ứng-Hóa-Thân Phật thì liên quan trực tiếp đến chuyện này. Đức Thích-ca Mâu-ni Phật là Ứng-Hóa-Thân của Phật. Có hai phần: Ứng-Thân và Hóa-Thân. Cõi Ta-bà này hiện giờ là quốc độ giáo hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, rộng đến tam thiên đại thiên thế giới, (một thế giới là một giải ngân hà, một giải ngân hà có hàng tỷ cái thái-dương-hệ). Một đại thiên thế giới có hàng tỉ dãy Ngân-hà, đó là khu giáo hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

Ở mỗi nơi Ngài thị hiện một Ứng-Thân chính (hay còn gọi là Liệt-Ứng-Thân) để cứu độ chúng sanh. Tại quả đất này Ứng-Thân của Ngài là Thái-Tử Tất-Đạt-Đa ở xứ Ấn-Độ. Như vậy đức Phật Thích-ca Mâu-ni không phải là Thái-tử Tất-Đạt-Đa, mà Thái-Tử chỉ là một Ứng-Thân của Phật thị hiện trên quả địa cầu này để khai đạo cứu độ chúng sanh mà thôi. Ứng-Thân này tùy thuận theo thân thể của chúng sanh tại nơi đó.

Còn Hóa-Thân Phật là sao? Ta thường nghe nói Phật có thiên bá ức Hóa-Thân. (Nghĩa là: 1.000 x 100 x 100.000 = 10.000.000.000 (10 tỉ Hóa-Thân)). Đó là con số tượng trưng chứ thật ra Phật có vô lượng vô số Hóa-Thân. (Mỗi người chúng ta khi vãng sanh về Tây-phương cũng có được thiên bá ức hóa-thân như Phật vậy). Hóa-Thân này Ngài ứng hiện khắp nơi tùy theo nhu cầu để cứu độ chúng sanh, có lúc thì hiện nguyên hình theo ý dục của chúng sanh. Ví dụ, cha má quán tượng Phật màu vàng kim thì Phật tiếp độ với Hóa-Thân Phật màu vàng kim giống như tượng thờ. Người thích tượng Phật màu trắng thì Hóa-Thân có màu trắng. Chính vì vậy mà ta nên thờ một tượng, niệm một câu Phật hiệu mà thôi, không nên thờ nhiều hình tượng để tránh khỏi bị tạp niệm hoặc bị phân tâm lúc lâm chung mà có thể dẫn tới mất phần vãng sanh.

Phật cũng thường âm thầm thị hiện xuống thế gian thành những vị cao tăng thuyết pháp độ sanh, thành Bồ-tát tại gia giúp đời hành đạo… Đây gọi là Hóa-Thân của Phật, Bồ-tát. Nên nhớ một điều, quý Ngài tái lai xuống trần, thì tuyệt đối không bao giờ thố lộ danh tánh. Hóa-Phật nhiều lúc cũng ứng hiện trong mộng, trong hào quang, giữa không trung trong một khoảnh khắc rồi biến… Ví dụï, như năm 1998 lúc bốn giờ sáng, cụ Triệu-Vinh-Phương ra giữa sân tự nhiên thấy trên hư không hào quang sáng rỡ, đức Phật A-di-đà hiện thân thọ ký. Mấy năm trước đây ở Mỹ, khi người ta làm lễ khánh thành tượng đài đức Quán-Thế-Âm, ngay lúc làm lễ tự nhiên trên không trung trong vắt xuất hiện hào quang chiếu xuống cả tiếng đồng hồ, lại xuất hiện tiếp một đám mây giống y hệt như tượng đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát ngồi giữa không trung. Những cảnh này người ta đều đã chụp và quay hình lại được. Tất cả hiện tượng này đều là Hóa-Thân. Cho nên, một người niệm Phật đắc lực, tâm thanh-tịnh, thấy được Phật thì đây chính là thấy Hóa-Thân của Phật vậy.

Thưa cha má, trong nhiều đời nhiều kiếp cha má có tu hành tích công lũy đức, quả báo kết lại trong đời này cha má mới hưởng được cái phước duyên đại thiện, là cuối đời cha má đã gặp được những người con có hiếu quyết lòng lo lắng cứu độ vãng sanh. Con thành tâm khuyên cha má hãy hạ quyết tâm niệm Phật, quyết chí cầu vãng sanh Tây-phương để về với Phật, hãy hoan hỷ đón nhận ân huệ của đức Phật A-di-đà và chư Phật mười phương đã ban riêng cho cha má. Quyết đi, thì chắc chắn đi được. Không đi, chắc chắn khó thoát sự đọa lạc. Tất cả đều tùy theo sự quyết định của chính cha má.

Niệm Phật thành Phật. Cha má niệm Phật thì nhân này là nhân Phật, chắc chắn sẽ thành Phật quả trong tương lai.

Nam-mô A-di-đà Phật. 
Con kính thư. 
(Viết xong, Australia ngày 11/9/02). 

Chết là một vọng tưởng.Thân hình,thể xác không phải là Ta. Nhiều người cứ lấy thân xác này là Ta cho nên sanh ra lo sợ.(Pháp Sư Tịnh‐Không).

23 -Lời khuyên song thân

Kính cha má,

Tất cả vạn sự sự vật không có gì thoát khỏi định luật nhân quả. Thiên cơ, định mệnh chỉ là một cách gọi khác của định luật nhân-quả mà thôi. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, chính vì vậy mà An nó tìm cách cho cha má có cơ hội bố thí làm phước để tạo thêm phước báu lót đường tương lai cho cha má. Trong những ngày về thăm, An nó tâm sự với con rằng, “…mình làm sao cho cha má an tâm không lo gì về tiền bạc, hơn nữa còn phải coi nhẹ tiền bạc. Mỗi tháng tiêu dùng nếu thiếu mình bồi đắp cho đủ, nếu dư cha má phải đem cho người ta hết, cho nhiều mình sẽ bù vào nhiều cho cha má, nếu còn dư mình trừ số tiền đó trong phần cấp dưỡng tháng sau…”. Nghĩ tới lời này mà con thương em nó, trong tất cả những người con của cha má không biết còn có ai thành tâm, thành ý hiếu thảo lo lắng cho cha má như An nữa không?

“Bổ bất túc, tổn hữu dư”, (bù chỗ thiếu, lấy phần dư) là đạo lý của Lão-học, là triết lý của dịch-học, không biết An nó học sách Thánh-Hiền từ hồi nào mà nói lên được đạo lý này. Cha má bố thí nhiều, mình nguyện cung ứng thêm cho cha má làm phước cứu giúp người. Cha má để dành lại thì coi như tiêu dùng còn dư mình phải lấy lại phần đó. An đề nghị như vậy là nó không muốn cha má tiếc tiền trong việc bố thí giúp người. Nghĩ tới ý tưởng này con mới giựt mình vì con vẫn còn có nhiều sơ sót, một đề nghị đơn giản như vậy mà chính con chưa nghĩ ra. Tư tưởng này người bình thường khó hiểu tới, nhưng người thông hiểu được đạo mới thấy chí lý, cao siêu. Có được tư tưởng thiện lương như vậy chứng tỏ được lòng hiếu thảo chân thực của một người con. Hòa-Thượng Tịnh-Không dạy, “Phật đạo dẫn cho đến cùng lý chỉ là tròn hiếu đạo mà thôi”. Người có tâm chí hiếu tự nhiên cảm ứng đạo giao, Phật Trời phù hộ, trí huệ phát sinh. Người sống mà thiếu hiếu hạnh thì như trong cửa Khổng thường nói là “Thiên Địa bất dung”, “Quỷ Thần bất phục”, đã bị như vậy rồi thì làm sao mà nên thân được.

“Bổ bất túc, tổn hữu dư”, là đạo sống trung hòa. Bù chỗ thiếu để giảm phiền não, ngăn trừ cái độc “Sân”; Lấy phần dư để phát tâm rộng rải, phá trừ cái độc “Tham”. Giảm giận dữ và tham lam là mở đường của trí huệ, có trí huệ thì phá được si mê. Đoạn trừ được ba chất độc tham, sân, si là phá được cái gốc của tam đồ lục đạo, mở đầu con đường để giải thoát. Một đề nghị tuy đơn giản nhưng hàm chứa trong đó cả một đạo lý làm người thiện lành. Cho nên, có trí huệ mới thấy giá trị, có hiếu thảo mới thấy chí lý, có thấu triệt đạo lý mới thấy cao siêu.

Thưa cha má, thông thường con người cứ khư khư bảo thủ, tằn tiện cất giữ tiền bạc để làm vốn liếng, tạo sự nghiệp. Việc làm này đối với tuổi trẻ có thể cho là chuyện thường tình, nhưng nghĩ cho kỹ cũng thấy buồn cười rồi. Còn đối với người già cả mà cất giữ tiền bạc thì thật là chuyện tiếu lâm của kiếp nhân sinh! Vì sao vậy? Vì, thân người chờ đợi từng ngày một để ra đi, thì còn ham chi nữa những thứ bất tịnh này cho ô nhiễm tâm hồn? Người ta cứ nghĩ rằng không tằn tiện thì tiền sẽ hết, không thủ giữ thì mai hậu làm sao sống. Thử hỏi người già rồi mà còn có mai hậu nữa sao? Khi nằm xuống rồi có moi tiền để sống được không? Còn về chuyện phước báu trên đời, thì thực tế mình thấy thường trái ngược lại, người càng bố thí càng giàu, người càng rộng rãi càng có nhiều tiền, người ưa giúp tha nhân thì hoàn cảnh sống càng ngày càng thoải mái hơn. Bên cạnh đó người càng keo kiệt càng cô đơn cùng khổ, càng ngày càng nghèo xác xơ…!

Đó là định luật của nhân-quả, người đời thường gọi là định-mệnh, tất cả đều đã an bài rồi. Thế thì sống trên đời cần gì phải lo lắng nhiều, cần gì phải chạy mánh mung bất chánh để kiếm tiền, bon chen thủ lợi, suốt đời quần quật để tranh giành làm chi những cái gì của chính mình đã sẵn có trong định-mệnh. Người giàu là vì trong mạng họ có tiền, nghèo là vì số họ bị nghèo. Danh vọng, quyền lợi, địa vị… mỗi thứ đều do cái nhân của chính họ đã trồng từ trước, thì tại sao không chịu an tâm tu nhân để được hưởng thêm quả mới, lại cứ lo tìm quả để gây thêm cái nhân xấu mới và rồi nhận lãnh cái vận mệnh xấu trong tương lai?

Ngày về quê con có nghe kể một câu chuyện, có người có tiền của rất nhiều, có đầy một lon hột xoàn, đầy một lon vàng, mà suốt một thời gian qua không dám tiêu dùng, con cái phải khổ sở làm kiếm từng đồng để sống, trong khi đó kim cương, hột xoàn, vàng, bạc lại âm thầm chôn giấu ở sau vườn. Sau cùng, hai lon của cải không cánh mà bay mất. Của thì mất rồi, còn người thì tiếc của đâm ra ngơ ngơ, ngẩn ngẩn. Cho nên, người già cả mà cất giữ tiền bạc quả thật là cái họa vào thân. Câu chuyện này là một chứng minh điển hình. Rõ ràng có tiền của chưa chắc là phước, ngược lại không biết sử dụng nhiều khi trở thành họa, cái họa trong đời này có thấm thía gì đâu, cái đọa lạc khổ đau vạn kiếp về sau mới là điều ghê sợ!

Cho nên con tha thiết khuyên cha má nên biết buông tất cả những thứ đó xuống,thì mới có cơ hội vãng sanh về với Phật, còn tham luyến cất giữ thì nó sẽ là cái gông, nó cùm chân mình lại trong bể khổ luân-hồi. Ví dụ, người mất hết hai lon vàng hột xoàn bây giờ tiếc ngẩn tiếc ngơ. Họa hay phước đây?! Người hiểu đạo thì biết đây chỉ là số mệnh, hễ mệnh có nó ở, mệnh không nó đi, thì cần gì phải buồn. Thế nhưng, vì không hiểu đạo cho nên việc này trở thành phiền não vô cùng, buồn rầu vô tận! Đó chính là nghiệp chướng, là cái gông nó trói đầu mình lôi vào tam ác đạo chứ còn gì nữa.

Trong cái phước có cái họa, có phước mà không biết làm phước thì cái phước nhanh chóng biến thành họa. Ví dụ như người mất của nếu cứ tiếp tục buồn mãi, thì chẳng phải là tự mình muốn mai đây trở thành con thằn lằn, hằng ngày ôm cột nhà, tiếc của mà tắc lưỡi suốt kiếp mới đành hay sao!

Thưa cha má, người không có phước đức không thể hưởng được phước báu, dù cho của tiền có đến tận tay. Người mà không lo làm thiện thì dù bạc tỉ trong tay cũng sẽ trở thành tay trắng. Chính như con đây, có thời tiền trong tay đếm không hết, nhưng rốt cuộc có lúc đói không có tiền mua được ổ bánh mì. Tại sao vậy? Vì con không có phước đức cho nên không thể hưởng phước lộc. Hiểu điều này rồi thì buồn làm chi khi tiền tài đã mất, có buồn chăng là tự trách mình sao không chịu tu hành sớm mà thôi. Phật dạy, có phước đừng nên tiêu hết phước. Phước tiêu thì họa đến, nếu không mất tiền thì tai họa vào thân. Người đó nên hiểu rằng, lỡ có “Tổn-tài” thì được “Tiêu-tai”, đây là điều may mắn quá rồi, không vui mà còn buồn nữa sao?!

Tiền bạc là “Thông-hóa”. Thông là lưu thông, hóa là biến hóa. Có thông mới có hóa, không thông thì thành thối. Giống như nước vậy, có chảy mới trong lành, không chảy thì ối đọng, trở thành nước độc. Có tiền mà bo bo cất giữ thì tiền đó thành tiền chết, thứ tiền độc hại. Cái tính chất của tiền là lưu thông để làm lợi cho mình, cho người, làm giàu xã hội, phục vụ quốc gia. Mình không cho nó làm tròn nghĩa vụ của nó, lại âm thầm cất kỹ là làm trái ngược đạo lý, đã tự gây nên nghiệp chướng. Nghiệp chướng tăng trưởng chưa bị hiểm họa là may, còn nói chi hưởng phước. Phước đức hao mòn đến một lúc nó hết sạch, thì tự nhiên tiền tích giữ nó cũng tự động tìm cách ra đi.

Chính vì thế mà cất giữ tiền bạc là điều không tốt mà lại còn làm tiêu hao âm đức của mình là vậy. Tuổi trẻ lưu giữ tiền bạc nó ít gây nghiệp chướng hơn, vì chúng nó còn có dịp tung tiền ra để đầu tư, lập cơ xưởng, tạo thêm công ăn việc làm cho người khác, nghĩa là đồng tiền được “thông-hóa”. Còn già mà cất giữ tiền bạc lại chỉ là món nợ, nợ cho đời này, nợ thêm đời sau, chứ không có chỗ giải quyết. Hơn nữa, giữ tiền thì tâm bị dính vào tiền, rất nguy cho huệ mạng. Phật dạy, người không chịu buông bỏ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) thì không tránh khỏi tam đồ ác đạo, chắc chắn hậu lai không tốt!

Đời trước có bố thí tiền, đời này được giàu có. Bố thí vui vẻ, thành thật thì tiền vào dễ dàng, tiêu xài thoải mái. Bố thí mà so đo, tính toán thì có tiền nhưng phải làm lụng vất vả. Người đã có phước đức thì dù vừa làm vừa chơi, tiền của vẫn vô như nước. Người thiếu phước đức thì có cố gắng làm quần quật suốt đời, sau cùng vẫn thành trắng tay. Cho nên, đạo hưởng phước báu chính là đạo tu nhân tích đức.

Vì vậy, tiền bạc vừa có đủ xoay xở thì nên lo bắt đầu tích công lũy đức liền, có thế mới nên sự nghiệp. Người không chịu tin định luật nhân-quả, cứ cưỡng cầu thâu đạt cái phước lợi chỉ là vọng tưởng, có của thì mất của, buôn bán thì lỗ vốn, có được gia tài coi chừng nếu không bị trộm thì cũng bệnh hoạn, không bệnh hoạn thì cũng gặp nhiều tai ương. Nghĩa là, bằng mọi cách để nó tiêu hao sản nghiệp. Nói chung lại, rốt cuộc cũng hoàn không mà thôi.

Làm chết xác để hoàn trắng tay mà còn thêm họa vào thân, thì dại gì cứ chạy theo con đường đoản hậu vậy?

Dục tri tiền thế nhân Kim sinh thụ giả thị. Dục tri lai thế quả Kim sinh tác giả thị.

Muốn biết cái nhân đời trước, hãy nhìn vào sự hưởng thụ trong đời này. Muốn biết cái quả sau này, hãy nhìn đời này ta đang làm gì đây. Đây là đạo lý của Nhân-Quả, không thể nào sai chạy được. Nếu biết rằng “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định”, một hớp nước, một miếng ăn cũng không ra khỏi định mệnh trước, thì mình sẽ an nhiên tự tại, tư thái thoát phàm, dù nghèo đến đâu ta vẫn sống an nhàn, thảnh thơi.

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”…

Tiên cảnh là đây chứ còn tìm đâu nữa, phải không thưa cha má?

Nhân đã có, thì quả ắt có. Nhân trong đời kiếp trước tạo ra quả trong đời này, thì quả báo này thuộc về hậu-báo. Con người sinh ra trên đời là tự nhiên đã thọ lấy cái quả báo của đời trước, đây gọi là định-mệnh. Nhân trong đời này tạo được quả cũng trong đời này, thì đây là quả báo hiện tiền, hay gọi là hiện-báo. Hiện-báo có thể thay đổi vận mệnh, thay đổi hoàn cảnh, đây gọi là “Tận Nhân-lực tri Thiên-mệnh”.

Như vậy, “định-mệnh” là nhân-quả, mà “đổi-định-mệnh” cũng là nhân-quả. Người xuôi theo định mệnh thì sống trọn vẹn trong cái quả báo của đời trước, người không xuôi theo định mệnh thì có thể tự cải tạo được định mệnh của mình bằng sự giúp người, làm thiện.

Ví dụ, đời nhà Minh có người tên là Hoàng-Khôn-Nghi ở tỉnh Giang-Tô, số ông khoa bảng không cao, không con, thọ mạng chỉ tới 53 tuổi. Khi gặp Vân-Cốc Thiền-Sư bày cho cách làm thiện để cải đổi vận mệnh. Ông Hoàng-Khôn-Nghi làm theo, ông phát nguyện làm hàng ngàn việc thiện, cả gia đình đều ủng hộ làm thiện. Kết quả định mệnh của ông đã chuyển hẳn, như được trường thọ, có khoa bảng, có quan nghiệp, con cái đầy đủ. Ông đổi tên thành Liễu-Phàm và bốn bài khuyến thiện của ông là “Liễu-Phàm-Tứ-Huấn” lưu lại đến ngày nay, trở thành sách gối đầu cho những ai muốn hiểu thấu về nhân-quả, cải-tạo-vận-mệnh.

Như vậy định-mệnh có thể cải tạo được. Định-mệnh chỉ là cách gọi khác của định luật nhân-quả mà thôi. Con người chỉ có thể thay đổi định-mệnh trong đạo lý nhân-quả. Nói rõ hơn, con đường chân chánh để thay đổi mệnh số là phải làm cái nhân tốt để có cái quả tốt, nhờ cái quả báo tốt mà cải đổi hoàn cảnh sinh hoạt của con người. Chính vì lý do này mới có sự khuyến khích tu hành để chuyển nghiệp, chứ không đổi được định-mệnh thì tu hành làm gì?

Thưa cha má, người thực sự hiếu thảo mới có những lời hiếu thảo. Người con hiếu thảo mà hiểu đạo nữa thì không những có lời hiếu thảo, mà còn có thêm những hành động hiếu thảo thực sự chu toàn cái đại hiếu. An nó đã hiểu được cái định luật của vũ-trụ nhân­sinh, nên mới đề nghị khuyên cha má cố gắng phát tâm bố thí, tích cực giúp người để có nhân lành, tu bồi âm đức để hưởng được quả báo an lành. Cụ thể, như hoàn cảnh của cha má ở quê thì nên giúp người trong làng xóm, có nhiều giúp nhiều, có ít giúp ít, những chuyện này tụi con sẽ cố gắng ủng hộ cho cha má.

Trong tất cả các pháp bố-thí, thì bố-thí-pháp như khuyên giải bà con tu hành, khuyên họ niệm Phật, giảng giải pháp Phật, tạo duyên cho người ta niệm Phật là thù thắng nhứt. Hãy cố gắng mở rộng tâm ra cầu mong tất cả mọi người đều niệm Phật để được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, thoát ly sanh-tử luân-hồi.

Cứ thành tâm làm thì tự nhiên Phật Trời sẽ gia hộ. Nếu chân thành thương người, gắng sức giúp ích tha nhân thì nghiệp lành sẽ lớn, nó bao phủ được nghiệp ác trong những đời kiếp trước, nhờ thế mà quả báo tốt sẽ hiện tiền giúp cha má cải tạo được định mệnh trong đời này.

Thành thật bố thí giúp người thì phá trừ được lòng tham, những thứ tiền tài, danh vọng, địa vị thế gian không còn có thể cám dỗ mình nữa. Buông xả được thì tự tại như Thánh nhân, một Thánh nhân niệm Phật thì tức khắc được về với Phật là lẽ đương nhiên. Nhiều người nhờ biết buông xả mà niệm Phật họ được vãng sanh dễ dàng, còn người không chịu buông xả thì dù có niệm Phật cũng khó mà được vãng sanh. Cho nên, phải nhìn cho thấu và buông cho trót cha má ạ. Dòng chữ bên trái trên tượng Phật là, “Khán-Phá, Phóng-Hạ, Tự-Tại, Tùy-Duyên, Niệm-Phật”. Khán-Phá là nhìn cho thấu sự thật của vũ trụ nhân sinh, hiểu rõ nhân quả; Phóng-Hạ là buông cho trót thế tục phàm tình, nhàm chán ngũ dục, lục trần, đoạn trừ tham sân si mạn, bố thí giúp người; Tự-Tại là tự do thoát tục, thư thái thanh nhàn, an nhiên vui sống; Tùy-Duyên là hòa trong hoàn cảnh sống nhưng không bị hoàn cảnh chuyển, không đắm nhiễm thế tục thường tình, không thèm can dự vào chuyện thế gian; Niệm-Phật để chuyển phàm thành Thánh, là giai đoạn chót viên thành Phật đạo. Đạo lý đang nằm trong tay, giải thoát đang có ngay trước mắt. Rõ ràng định mệnh là do tự ta chọn lấy.

Bố-thí là giúp đỡ người nghèo khó, nâng đỡ kẻ khốn cùng, giúp những nơi đáng giúp, chứ đừng cần đến cái tiếng khen tặng làm chi cho giảm cái đức của mình. Người được nhiều người bao vây khen tặng đâu thoải mái tự tại bằng kẻ nhàn cư. Người thường nhậu nhẹt say sưa, đem tiền lì xì cho nhà hàng đâu có phước thiện bằng người mua giùm vài tấm vé số của các em nhỏ lang thang ngoài đường.

Cho nên, phước-đức có âm-phước, có dương-phước. Âm-phước có âm-đức, có thiện-báo; dương-phước là dương-đức có ác-báo. Âm-phước là làm phước âm thầm không khoe khoang; dương-phước là làm phước mà thích khoe cho thiên hạ biết. Âm-phước là lòng chân thành, lương thiện. Dương-phước là lòng giả vọng, tham danh. Người âm thầm giúp đỡ người nghèo khó không cầu mong trả ơn… đó chính là lòng thương người chân thật, tâm tánh hiền hòa từ bi. Nhìn vào người đó tự nhiên thấy hiền lành, tướng hảo quang minh, thâu nhiếp sự cảm mến của thiên hạ. Đây thuộc âm-đức, chắc chắn có quả báo tốt hiện tiền, không cần cầu xin.

Ngược lại, người cứ làm một chút việc tốt thì muốn cho người ta hay, người khác khen tặng, cần nhiều tiếng vỗ tay… đây thì thiện lành ít, mà lòng cạnh tranh tham danh vọng thì nhiều, tiền bạc họ bỏ ra có khi rất nhiều nhưng âm-đức không có, không những không có đức mà còn bị tổn hại nữa là khác. Nhìn họ ta thấy nụ cười gượng gạo, tâm thái bất an… tất cả những cái đó nó phá cái sắc tướng của họ, khó có thể dấu được ai. Đây gọi là dương-phước. Dương-phước thì thiện quả đã mất mà ác báo lại hiện tiền, hậu quả thường bị người đời xem thường, tương lai quả báo không tốt.

Có lần má muốn góp tiền để xây cái nhà “Táng” hay may cái lá cờ… cho đám ma. Đóng góp vậy cũng được. Nhưng thực ra không tốt bằng má âm thầm đi giúp người nghèo khó, cho họ chén cơm, manh áo, an ủi lúc khổ, tặng họ chút tiền để mua thuốc lúc ốm đau, nhất là đi khuyên người niệm Phật… Làm cái nhà Táng để cho đám ma linh đình chỉ là cái tập quán của người Việt-Nam, trong đó nó ngụ ý đưa hồn về địa-phủ. Người tu hành hãy thành tâm khuyên người khi còn đang sống hãy niệm Phật cầu vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc để thành Phật thì hay hơn, công đức này lớn vô cùng vô tận, chứ khi chết rồi làm đám tang linh đình để đưa về địa-phủ thì tốt lành gì đâu mà làm! Sống trong làng xóm, mình cần hòa với mọi người, không trái nghịch với xã hội, nhưng đường ta ta đi, chứ không đồng lòng theo họ. Đây gọi là Tùy-Duyên, tức là “Hòa mà không Đồng” vậy má ạ.

Thưa cha má, đường đời đầy bạc bẽo phũ phàng! Sự tu hành cũng nhiều chông gai cạm bẫy! Mình phải sáng suốt để tìm đường thoát ly, thoát ly thế tục, thoát ly sanh-tử luân-hồi. Phật dạy, tu hành cần phải phúc huệ song tu. Tu phúc mà không tu huệ thì bị nạn tam-thế-oán. Tu huệ mà không tu phúc thì chướng ngại trùng trùng khó bề vượt qua. Tu phúc là làm lành, lánh dữ, tu huệ là để thoát ly sanh-tử luân-hồi, viên thành đạo quả.

Ví dụ, như câu “Một lòng niệm Phật, ăn chay, làm lành”, thì niệm Phật là tu huệ, ăn chay, làm lành là tu phúc, nghĩa là phúc huệ song tu, rất tốt. Nhưng nếu ta cứ đi cầu ơn trên cho được bổ báo phước lành, thì công đức bị mất hết, chỉ còn lại cái phước báu hữu lậu mà thôi. Tu như vậy là một sự sơ suất đáng tiếc! Cũng như mình niệm: “Sau dầu đến chốn Diêm đình, linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi”, không tốt lắm! Vì Diêm-đình thuộc về Diêm-Ma-La giới, tức là địa-ngục. Niệm địa-ngục thì dễ lạc vào địa-ngục, tới đó làm chi? Hãy niệm rằng: “Sau dầu mãn báo thân này, linh hồn trong sạch nhẹ nhàng thảnh thơi”, thì hay hơn nhiều chứ!

Cho nên, tu hành nên rất cẩn thận mới được. Phật dạy, “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”, tâm chánh là Phật, tâm tà là ma. Tà – Chánh tại tâm chứ không phải do bên ngoài. Tôn giáo chưa hẳn đâu là tà, đâu là chánh, chỉ có người sơ suất đã biến tôn giáo thành ra có tà, có chánh thì rất là nhiều. Ví dụ, như ngay trong Phật giáo, Phật dạy tu hành phải đoạn trừ lòng tham mà hầu hết người nào tới chùa cũng cầu xin phước báu, tiền tài, danh lợi… cầu tăng trưởng lòng tham. Cầu như vậy là sai lời Phật dạy không tốt chút nào cả!

Chuyện tu hành là vậy, chuyện thế sự nhân sinh còn nặng hơn nữa! Con người ai cũng thích thành hiền nhân quân tử, nhưng tư tưởng hành động lại thường đi ngược mà không hay, như ngay trong gia đình mình vẫn còn nhiều người vướng mắc vào chữ danh. Chữ danh có nhiều hình tướng lắm, có thực có hư, có thơm có thối, có thiện có ác, có chánh có tà… chứ đâu phải có danh là tốt đâu. Ấy vậy, mà nhiều người quá chú ý vào chữ danh nên mới bị nhiều phiền não. “Gẫm hay mà ngán ngao dường, có danh phải chịu trăm đường đắng cay!”. Người trước đã than như vậy mà người nay không biết tỉnh ngộ mà cứ tìm đường cay đắng mà theo.

Danh là quả báo của tài đức. Có tài thì có danh dự, có đức thì có tiếng lành. Không tài không đức mà tìm cái danh thì nhiều lắm cũng được cái hư danh, ác danh, tà danh… mà thôi chứ có hay ho gì đâu. Người biết tu hành thì cái tiếng tốt danh thơm kia cũng không động tới tâm họ, huống chi là cái danh vọng hão huyền. Trong lịch sử xưa nay có vị nào tham danh mà được thành danh đâu?!…

Cái danh nó xác định nhân phẩm của con người, nó đến một cách tự nhiên. Định luật nhân-quả xác định có tiền kiếp, có hậu lai, thì chắc chắn đời này chết đi không phải là hết. Cái thân này chết đi ta có cái thân khác để sống. Cái báo thân này tự nó đã là cái danh quả cho đời trước rồi. Nếu làm lành, làm tốt, thì mỗi lần thay đổi ta lại có cái thân tốt hơn, có hoàn cảnh sống tốt hơn, bây giờ là thân người sau này có thể là thân Đế-Vương, thân Trời, thân Phật… Nếu làm xấu, làm ác, thì mỗi lần đổi ta mang cái thân hình tồi tệ hơn, hoàn cảnh sống khổ cực hơn. Cái danh hiện tại nó xác định cái nhân phẩm của mình trong quá khứ. Vậy thì, cứ làm thiện làm lành, lo tu bồi tài đức thì dù có chạy trốn cái danh thơm nó cũng tìm tới, chứ đâu cần phải khổ nhọc đổ mồ hôi, sôi nước mắt để mua cái tiếng hão huyền hư vọng làm chi?

Ở Việt-Nam, người tham danh thường lấy câu, “vật chết để da, người ta chết để tiếng” làm châm ngôn sống. Họ cho đó là lý tưởng của người trượng phu đầu đội trời, chân đạp đất. “Không danh đành nát với cỏ cây”. Nhưng thương hại thay! Họ thèm tấm da làm chi mà coi chừng đời sau đành chịu thân mang lông, đầu đội sừng, đi bốn chân, suốt đời quần quật kéo cày cho thiên hạ, rồi đến khi thân tàn ma dại thì họ trói chân mình lại, quật mình ngã xuống, banh thây mình ra lấy thịt để ăn, rồi mới lóc tấm da đem đi thuộc để làm đồ hữu dụng!…

Còn “Người chết để tiếng”, tiếng gì đây? Tục ngữ có câu, “hữu xạ tự nhiên hương”, có mùi thơm thì tự nhiên có hương thơm. Không có nhân thì chắc chắn không có quả. Không có làm thiện lành, thì chắc chắn không có quả thiện lành. Người cứ lo chạy tìm tiếng thơm, thì giống như trong kinh Lăng-Nghiêm, đức Phật ví “Như người lấy phân khô mà khắc thành hình cây chiên đàn”. Chiên đàn là một loại cây đàn hương, tự nó tiết ra mùi hương thanh thoát. Người không có cây chiên đàn mà chạy làm điều bậy bạ để tìm mùi thơm của hương chiên đàn, có phải là dại lắm hay không?!

Làm thiện là lấy cái tâm thiện lành để làm chứ không nên vì cái danh, hay vì để được khen mà làm. Người chân thành làm thiện nên lo sợ mà tránh xa lời khen tặng, phải biết trốn tránh cái danh vọng hão huyền để bảo tồn cái âm-đức của mình. Ham danh thuộc về dương-đức, dương-đức thì giả-vọng, giả-vọng thì gặp ác-báo. Rất uổng cho cái phước báu mình khổ công vun trồng sẽ tiêu sạch, vì thèm mua một ít lời khen trong chốc lát. Nếu lý luận theo ngày nay, thì người vì tham cái danh nên bỏ tiền ra mua được cái danh, có danh rồi thì sống trong sự giả dối, tâm tánh thiếu thành thật, mà còn thường cống cao ngã mạn, khinh thị thiên hạ… Tất cả những hành vi này cấy vào tâm điền biết bao nhiêu tật xấu. “Tướng tùy tâm sanh”, trong tâm có tật xấu dấu sao cho được trước trực giác của mọi người. Có nhân chủng xấu làm sao tránh được ác báo tương lai?

Thưa cha má, con nói đến chữ danh là thực tâm muốn cầu mong cảnh tỉnh một vài người còn đang mập mờ theo đuổi. Ngày nào cha má còn tại tiền thì con cháu phải biết nghe lời răn dạy cái đạo đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín của cha má. Cái đạo đức làm người phải hiểu có “Nhân” có “Quả”, phải biết có “Xạ” thì mới có “Hương”. Muốn có cái “Tiếng-Thơm” phải có cái “Tâm-Thơm” trước, không lo cái tâm thiện lành mà chạy tìm cái tiếng thiện lành thì có khác gì người không có chiên-đàn mà cứ muốn ngửi mùi chiên-đàn đâu?

Con cái muốn có tiếng hiếu nghĩa thì phải lo cho tròn chữ hiếu, âm thầm từng phút, từng giây nghĩ cách sao báo đáp cho trọn ơn nghĩa sanh thành. Cụ thể, từng bữa đói no đã nấu giùm nồi cơm chưa? Từng ngày nóng lạnh đã đắp cái mền, đã thông chút gió chưa? Trong lúc cha má xỉu té có ai túc trực đỡ cha má dậy không? Đã có kế hoạch gì để phụng dưỡng chưa? Đã nghĩ cách cứu huệ-mạng của cha mẹ cho đời kiếp tương lai chưa? … Đó mới thực sự là “Hiếu dưỡng phụ mẫu” vậy.

Xin thành tâm khuyên anh chị em, con cháu trong gia đình đừng ham chi cái danh giả tạo bên ngoài mà tổn cái đức bên trong, không tốt chút nào cả! Trong lịch sử Trung-Quốc, người đại hiếu đại thuận là vua Thuấn. Xuất thân của ông là đứa con mồ côi mẹ, bà mẹ ghẻ ác nghiệt cùng người cha ngu muội suốt đời tìm cách hãm hại ông ta. Nhưng vì nghĩ đến công ơn sanh thành mà ông quyết một lòng hiếu thuận. Sự hiếu thuận đã cảm động đến đất trời, bay xa tới tai vua Nghiêu, được vua Nghiêu truyền cho ngôi báu. Đây chính là “hữu xạ tự nhiên hương”. Thử hỏi, nếu từ đầu ông Thuấn cứ đi rao khắp nơi, kêu nhiều người tới chứng kiến là mình có hiếu nghĩa, thì liệu cái quả báo sẽ như thế nào?

Hãy nhìn coi, chung quanh chúng ta, cũng đâu thiếu gì những cảnh vì tham chút danh mà cuộc đời lao đao lận đận, rồi cuối đời âm thầm khóc trong tủi cực buồn đau! Tham danh mới bị đời xoay, thích danh mới bị kẻ dày người chê. Rời bỏ danh vọng trở về cuộc đời hiếu hạnh chắc chắn phải hay nhiều hơn chứ!

Hiếu đạo là căn bản đạo đức của con người. Tất cả anh chị em, trong gia đình muốn báo hiếu với cha má thì phải nên tìm hiểu cho tường tận cái hiếu của thế gian và cái hiếu của xuất thế gian. Trả chữ hiếu thế gian là tiểu hiếu, tròn chữ hiếu xuất thế gian là đại hiếu. Hiếu xuất thế gian là đại hiếu, vì nó đã bao hàm cả tiểu hiếu trong đó rồi, vì người hiểu đạo rồi có bao giờ lại ganh tỵ, so đo từng đồng để phụng dưỡng cho cha mẹ đâu? Người chỉ lo việc thế gian thì nhiều lắm cũng chỉ trả được tiểu hiếu của thế gian, nếu tốt thì có thể đem về một số vật chất và một ít niềm vui nào đó, trong khoảng thời gian hạn hữu khi cha mẹ tại tiền. Nếu lỡ sai lầm, coi chừng vô tình trở thành tội phạm đày đọa song thân mình vào nơi hiểm ác! Cho nên hiếu thảo cần phải hiểu đạo lý xuất thế nữa, thì sự báo hiếu sẽ được toàn vẹn cả vật chất lẫn tinh thần, giải nghiệp được cho cha mẹ trong cả quá khứ, hiện tại, và vị lai.

Thưa cha má, trước đây con từng nói, người hiếu thảo nhưng thiếu trí tuệ thì rất dễ vô tình tạo ra những sự cố đau lòng, vô ý trở thành oan-gia trái-chủ đối với người sanh thành và trở thành kẻ đại nghịch bất hiếu, vì dìm đời kiếp sau của cha mẹ mình trong ngục tối mà mình không hay! Hầu hết chuyện này hoàn toàn chỉ là sự vô tình đáng tiếc mà thôi. Hậu quả, trách tội thì không trách được, vì chỉ là sự vô tâm không hay biết, nhưng đau thương vẫn phải bị thương đau, nước mắt rơi vẫn phải rơi nước mắt!… Xin cha má nhớ lấy những điểm này để có sự hành động thích đáng, có lời di chúc rõ ràng, đề phòng oan gia trái chủ phá mình mất phần vãng sanh. Di chúc này không hẳn là tiền bạc nhà cửa, mà chính là lời răn dạy cho con cái biết tu hành hiểu đạo, biết hộ niệm vãng sanh, biết thành tâm tin Phật. Và nhất là, chính cha má phải hạ quyết tâm dũng liệt niệm Phật cầu sanh về Tây-phương Cực-lạc thế giới. Cố gắng làm thêm việc thiện để hồi hướng công đức vãng sanh. Tâm chí thành, chí kính sẽ được Phật lực gia trì, phá vỡ ách nạn cho cha với má an lành thoát ly tam giới.

Riêng về anh chị em trong nhà chúng ta nên ủng hộ chương trình của An. Đây là một đề nghị hợp tình, hợp lý, có nghĩa, có khả năng thực hiện tốt nhứt. Con cái chúng mình đông như vậy chắc chắn dư sức làm việc này, hãy tự giác kẻ công, người của góp sức phụng dưỡng cha má cho thoải mái trong tuổi xế chiều này. Có thoải mái thì cha má mới yên tâm tu hành và cuối cùng cha má hưởng được cái đại phúc báu của sự thiện chung. Được như vậy, mình cứu cha má và chu toàn chữ đại hiếu làm người. Phụng dưỡng cha mẹ nhất thiết phải tùy tâm, đừng nên so đo nhiều ít. Hãy tự lấy gương soi lấy tâm hiếu của chính mình. Công đức vô lượng!

Thưa cha má, hãy buông xả để về với Phật. Cha má nghĩ coi, ông bác ở Long-Khánh biết buông xả nên chỉ cần niệm Phật một thời gian ngắn mà được vãng sanh. Còn ở đây con lo cho cha má đến như thế này mà còn sơ ý để mất phần thì đáng tiếc biết chừng nào?

Nhất định phải hưởng cho được cái đại phước báu vãng sanh. Buông xả, niệm Phật, hết báo thân này chắc chắn được về Tây-phương Cực-lạc Thế giới.

Nam-mô A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu 18/10/02).

Biển khổ đường mê nghĩ thoát thân,
Cách đây mười vạn cõi vi trần,
Hoa sen nơi ấy trăm ngàn ức,
Mỗi mỗi liên hoa hiện Phật thân!

(Lý‐Thương‐Ẩn, đời Đường).

Đô‐Nhiếp lục căn,Tịnh‐Niệm tương kế.

(Còn tiếp)