Mọi người luôn tìm cầu cái toàn thiện an vui và hòa hợp, bởi vì cuộc sống chúng ta vốn thiếu sự trọn vẹn như vậy. Thỉnh thoảng, ai cũng có những nỗi ưu phiền, bực tức, bất an và đau khổ; Khi đau khổ vì phiền muộn, chúng ta khó có thể kiềm chế chính mình và thường gây bất an cho người khác. Tần sóng buồn phiền này bao quanh môi trường người đang đau khổ, đến nổi bất cứ ai đến tiếp xúc với anh ta đều trở nên không vui và tức giận. Đây chắc chắn không phải là lối sống lành mạnh.
Ngược lại, một người sống an vui thường mang lại niềm vui tươi cho người khác. Đúng hơn, vì con người là một thành viên của xã hội, anh ta phải sống trong xã hội mình đang sống và giao tiếp với mọi người. Vậy, sống an vui bằng cách nào? Làm sao chính mình luôn sống hòa hợp và cách bảo tồn sự hòa hợp, an vui xung quanh để mọi người cùng sống an vui và hòa hợp?
Khi phiền muộn, muốn hết buồn phải biết rõ nguyên nhân chủ yếu của nó cũng chính là nguyên nhân đau khổ. Nếu quán xét vấn đề, tự mình sẽ hiểu rõ ràng rằng bất cứ lúc nào trong tâm sanh khởi niệm bất thiện hoặc không tốt thì chắc chắn sẽ có ưu phiền. Các tâm niệm xấu, không thanh tịnh hoặc ô nhiễm (bất thiện) không bao giờ có mặt chung với tâm an vui và hòa hợp.
Tâm tánh xấu phát sanh như thế nào? Chỉ có quán xét mới hiểu rõ được điều ấy. Tôi không vui, khi ai đó cư xử với tôi không như ý hoặc có việc đáng ghét xảy ra. Các vấn đề không mong muốn xảy ra khiến tôi cảm thấy căng thẳng; Mơ ước không thành tựu hoặc gặp chướng ngại trên đường đời cũng khiến tinh thần tôi căng thẳng. Cứ như thế, tôi bắt đầu cột gút (hay chất chứa ưu phiền) trong tâm chính mình! Xuyên suốt cuộc đời, điều không mong đợi cứ liên tục xảy ra, còn điều ao ước thì có thể hoặc không thể xảy ra, và chính quá trình phản ứng trái nghịch này, một tiến trình thắt nốt những gút mắc của cuộc đời (tức là trói buộc theo “ý muốn của tôi” [1]) khiến cho toàn bộ cơ cấu thân tâm tràn ngập ưu phiền và căng thẳng. Vì thế, cuộc sống trở nên đau khổ.
Bây giờ, tìm cách giải quyết vấn đề là suy tính sao cho cuộc đời của mình không gặp điều bất trắc và mọi việc phải luôn luôn diễn ra như ý muốn. Chúng ta phải tự mình phát triển một quyền lực hoặc người nào có khả năng này đến giúp chúng ta theo như yêu cầu, từ đó cuộc sống của mình sẽ không còn gặp điều nghịch ý và mọi vấn đề luôn diễn ra như mong đợi. Nhưng đây là điều không thể có được! Trên đời này, không có ai luôn luôn thành tựu ước nguyện cuộc sống sẽ trọn vẹn như ý và không bao giờ gặp nghịch cảnh. Cuộc sống vốn không như ý, vậy làm thế nào để không phản ứng mù quáng theo bản năng? Phương cách nào giúp tinh thần không bị căng thẳng? Và làm sao duy trì sự sống an vui và hòa hợp?
Từ thời xa xưa, các bậc thánh nhân ở Ấn Độ cũng như ở các quốc gia khác đã từng suy tầm về vấn đề này và cũng là vấn đề đau khổ của chúng sanh. Họ đã tìm ra giải pháp rằng, nếu có sự việc nào đó không vừa ý xảy ra, con người thường có phản ứng sân giận, sợ hãi, hoặc với tâm xung đột nào đó. Ngay tức khắc hãy chuyển tâm chú ý hướng về một đối tượng khác, chẳng hạn như đứng dậy, lấy một ly nước, bắt đầu uống; tâm giận dữ sẽ không tăng trưởng và chúng ta sẽ vượt qua cơn tức giận ấy. Hoặc bắt đầu niệm số đếm: một, hai, ba, bốn. Hoặc niệm một danh hiệu, một châm ngôn hay một câu thần chú nào đó. Sự thực hành này sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta niệm danh hiệu một vị thần linh hoặc một bậc thánh mà chúng ta tín ngưỡng, tâm sẽ được chuyển hướng và đến mức độ nào đó chúng ta sẽ thoát khỏi tâm bất thiện và giận dữ.
Giải pháp này có kết quả tốt, hữu ích và vẫn được hữu dụng. Thực hành phương pháp này, tâm chúng ta sẽ không còn phiền muộn. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp có hiệu quả trên bề mặt ý thức. Thật ra, với cách chuyển hướng tâm chú ý, chúng ta vô tình đè nén tâm xung đột đi sâu vào tầng vô thức và chính trong chiều sâu vô thức này, tâm niệm xấu tiếp tục tái tạo và tăng trưởng. Ngoài mặt ý thức, chúng ta đã tạo được sự an vui và hòa hợp, nhưng bên trong nội tâm vô thức ngọn núi lữa xung đột bị đè nén đang ngủ ngầm, nó liên tục hoạt động và thỉnh thoảng sẽ bùng nổ mãnh liệt hơn.
Có những khám phá về sự thật nội tâm uyên thâm hơn đối với giải pháp vừa nêu trên và bằng kinh nghiệm thực chứng bên trong thân tâm chính mình, họ đã nhận thức rằng chuyển hướng tâm chú ý chỉ là chạy trốn vấn đề. Tránh né không phải là giải pháp thiết thực mà chúng ta phải đối diện với sự thật vấn đề. Bất cứ khi nào phát sanh tâm niệm xấu, chúng ta chỉ việc quan sát và trực diện với nó. Ngay khi quan sát tâm bất thiện sanh khởi, nó bắt đầu mất đi khả năng phản ứng, dần dần bị chế phục và sẽ được đoạn trừ hoàn toàn.
Phương pháp lợi ích thiết thực là tránh xa cả hai cực đoan đè nén và buông thả. Kiềm chế tâm bất thiện bên trong vô thức sẽ không diệt trừ được nó mà còn cho phép nó biểu hiện qua các hành động bằng thân thể hoặc ngôn ngữ sẽ tạo nên nhiều phiền phức hơn. Nếu bình thản quan sát, tâm ô nhiễm này tự nhiên biến mất và như thế chúng ta sẽ đoạn trừ và giải thoát khỏi các tánh xấu ấy.
Phương pháp này có vẻ hay đấy, nhưng thực sự có thể hành trì được không? Khi giận dữ sanh khởi, nó chế ngự tâm mình quá nhanh đến nổi chúng ta không kịp nhận thức. Trong lúc mất tự chủ vì giận dữ, chúng ta chắc chắn hành động với lời nói hoặc chân tay làm tổn thương chính mình và người khác. Sau đó, khi cơn giận qua đi chúng ta chỉ biết than khóc và ân hận, đi xin lỗi người này, người kia hoặc than Trời, “Ôi! tôi đã lỡ phạm sai lầm, xin tha thứ cho tôi!” Nhưng rồi lần kế tiếp, trong một tình huống tương tự, chúng ta lại phản ứng sai lầm giống hệt như vậy. Tất cả điều đó, ăn năn sẽ không giúp ích gì được.
Điều khó khăn là chúng ta không tỉnh giác khi các tánh xấu sanh khởi. Nó trổi dậy từ bên trong sâu lắng của tâm vô thức và khi biểu hiện với ý thức, nó đã tăng trưởng quá mạnh hoàn toàn khống chế chính mình và chúng ta không thể quan sát nó.
Như vậy, chúng ta nên có một thư ký riêng để bất cứ lúc nào sân giận nổi lên thì anh ta liền nói: “Thưa Ngài, hãy xem kìa cơn giận đang bắt đầu!” Do chúng ta không biết giận dữ sẽ phát sanh lúc nào, nên phải có ít nhất ba thư ký riêng để thay đổi suốt ngày, hoặc tốt hơn là bốn người thay phiên nhau trong các ngày nghĩ phép.
Giả sử chúng ta theo cách có thư ký phục vụ và mỗi khi cơn thịnh nộ xảy ra, lập tức người thư ký sẽ báo cho chúng ta biết: “Ồ thưa Ngài, nhìn xem cơn giận đã bắt đầu!” Nhưng điều đầu tiên chúng ta hành động có thể là đánh anh ta một bạt tai và mắng rằng: “Đồ ngu! Anh nghĩ rằng tôi trả lương cho anh đến đây để dạy tôi à?” Đang lúc sôi gan vì tức giận thì không còn lời khuyên bổ ích nào có thể giúp chúng ta trong lúc ấy.
Giả sử khi đó, chúng ta vẫn còn minh mẫn và không bạt tai anh ta. Thay vì mắng anh, chúng ta sẽ nói: “Cám ơn anh rất nhiều, bây giờ tôi phải ngồi xuống và quan sát giận dữ.” Tuy nhiên, điều này có thể thực hành được không? Ngay khi nhắm mắt lại và cố gắng quan sát giận dữ, tức khắc trong tâm chúng ta hiện lên đối tượng của sự giận dữ có thể là một người hoặc biến cố nào đó khiến chúng ta nỗi cơn giận. Chúng ta không quan sát giận dữ mà đúng hơn là đang tìm hiểu những tác nhân xúc cảm bên ngoài. Điều này chỉ làm gia tăng cơn giận dữ và đây không thể là giải pháp ổn thỏa. Thật vô cùng khó khăn nếu phải quan sát tâm bất thiện vô hình, một xúc cảm trừu tượng được tách rời với đối tượng bên ngoài khuấy động nó.
Tuy nhiên, bậc toàn giác, người chứng ngộ về sự thật tuyệt đối đã tìm ra một phương pháp thiết thực. Ngài khám phá rằng bất cứ lúc nào trong tâm sanh khởi niệm bất thiện, sẽ có hai sự kiện tâm lý đồng thời xảy ra. Trước nhất là hơi thở chúng ta sẽ mất đi nhịp thở bình thường. Chúng ta sẽ thở mạnh hơn khi trong tâm bắt đầu có xung đột. Đây là một sự thật mà mọi người đều có thể nhận biết, cho dù chúng ta có thể nghĩ rằng hơi thở là sự kiện sinh lý hiển nhiên và thô thiển. Cũng vậy, ở mức độ vi tế hơn, có một sự phản ứng sinh hóa ‘duyên khởi’ bên trong thân thể, đó là các cảm thọ. Mỗi tâm bất thiện sẽ tạo nên một loại cảm thọ sai khác bên trong, ở bộ phận này hoặc thân phần khác của thân thể.
Đây là một phương pháp thực tiễn. Một người bình thường không thể quan sát các tâm sở bất thiện vô hình; vì sợ hãi, sân giận và tham muốn đều là các tâm lý trừu tượng. Nhưng với sự thực hành và tập luyện đúng phương pháp, thì rất dễ dàng quan sát cả hơi thở lẫn cảm thọ có liên quan trực tiếp đối với các tâm lý bất thiện.
Hơi thở và cảm thọ sẽ giúp chúng ta trên hai phương diện; trước nhất, chúng là những thư ký đắc lực của chính mình. Ngay khi trong tâm sanh khởi niệm bất thiện, hơi thở không điều hòa bình thường và sẽ lên tiếng báo động rằng: “chú ý, có điều gì đó bất ổn!” chúng ta không thể đánh vào hơi thở mà phải chấp nhận lời cảnh báo. Tương tự, các cảm thọ sẽ cấp báo: “có vấn đề không ổn.” Chúng ta phải chấp nhận hiệu báo và tỉnh giác quan sát hơi thở cùng các cảm tho. Không bao lâu chúng ta sẽ nhận thấy rằng tâm bất thiện bị tiêu diệt.
Hiện tượng tâm sinh lý này giống như một đồng tiền có hai mặt. Một mặt là các tư tưởng hoặc cảm xúc sanh khởi trong tâm, còn mặt kia là hơi thở và cảm thọ trong thân. Bất cứ tư tưởng hoặc cảm xúc, ý thức hoặc vô thức, hay là tâm bất thiện nào đều biểu hiện qua hơi thở và cảm thọ ngay lúc nó sanh khởi. Như vậy, với sự quan sát hơi thở và cảm thọ, chúng ta sẽ gián tiếp quan sát tâm bất thiện. Thay vì tránh né vấn đề, chúng ta hãy đối diện với bản chất thật ‘chính nó’, tâm bất thiện sẽ mất đi khả năng hiện khởi và không còn khống chế chúng ta như trước đây nữa. Nếu kiên trì thực hành, tâm bất thiện nhất định sẽ được đoạn trừ và chúng ta sẽ duy trì sự sống an vui và hạnh phúc.
Phương pháp tự mình quán chiếu sẽ giúp chúng ta nhận chân được bản chất thực tại trên hai phương diện bên trong và bên ngoài. Trước đây, chúng ta luôn luôn nhìn sự vật bằng nhãn quan thông thường bên ngoài nên không thể nhìn thấy được sự thật bên trong. Chúng ta chỉ tìm thấy các nguyên nhân đau khổ bên ngoài, đỗ lỗi tại chúng và cố gắng làm thay đổi cái nguyên nhân bên ngoài này. Do vô minh bao phủ bản chất thật bên trong, chúng ta không bao giờ nhận thức được nguyên nhân đau khổ bắt nguồn bên trong từ các phản ứng mù quáng của cá nhân.
Như đã biết, rất khó quan sát tâm bất thiện vô hình khi nó sanh khởi, nhưng bây giờ nhờ tập luyện, chúng ta có thể nhìn thấy mặt trái của đồng tiền. Chúng ta có thể tỉnh giác từng hơi thở và hiểu rõ mọi hoạt động đang diễn ra bên trong chính mình. Bất luận điều gì xảy ra, chúng ta chỉ việc chú tâm quan sát hơi thở hoặc các cảm thọ, không đánh mất trạng thái cân bằng của tâm. Chúng ta sẽ ngăn cản đau khổ phát sanh bằng cách, thay vì cho phép chúng hiện khởi, tâm bất thiện tự nó tiêu diệt.
Càng hành trì chúng ta càng nhanh chóng giải thoát khỏi các phiền não. Dần dần từng bước, tâm sẽ chuyển hóa thanh tịnh và giải thoát hoàn hoàn khỏi các lậu hoặc (tâm uế nhiễm). Đó là tâm thanh tịnh luôn dạt dào tình yêu thương muôn loài không phân biệt; tràn đầy lòng từ bi đối với kẻ đang đau khổ hay thất bại; chứa chan niềm hoan hỷ đối với người đang thành công và hạnh phúc; hoàn toàn buông xả khi phải đối diện với bất cứ hoàn cảnh nào.
Người thực hành đạt đến giai đoạn này thì toàn bộ lối sống của anh ta trở nên thay đổi hoàn thiện. Anh ta không thể còn các hành động chân tay hoặc ngôn ngữ làm tổn thương hạnh phúc và an vui của người khác. Thay vào đó, người có tâm quân bình không những tự mình sống an vui mà có thể giúp người khác cũng sống an vui. Môi trường xung quanh người ấy thấm nhuận niềm an vui, hòa hợp và ảnh hưởng đến mọi người cùng sống vui tươi như vậy.
Đây là những gì đức Phật đã dạy cho chúng ta: đó là ‘một nghệ thuật sống’! Ngài chưa bao giờ thiết lập hay giảng dạy bất kỳ tôn giáo hay giáo phái nào. Ngài cũng không hướng dẫn các đệ tử hành trì theo các nghi lễ hoặc nghi thức cúng tế mù quáng và trống rỗng. Thay vì như vậy, Ngài giảng dạy chỉ nên quan sát sự thật ‘duyên khởi’ trong tự tánh, tức là quán chiếu bản chất thật của nội tâm. Do vô minh (không tỉnh giác) chúng ta thường hành động phản ứng theo bản năng làm hại chính mình và người khác.
Khi trí tuệ sanh khởi – trí tuệ quán chiếu tự tánh như thị – chúng ta sẽ thoát khỏi thói quen phản ứng này. Một người không còn phản ứng mù quáng sẽ có khả năng hành động chính đáng, một hành động xuất phát từ tâm bình thản và buông xả, có hiểu biết và nhận chân được sự thật. Hành động như vậy, con người sẽ sống lành mạnh, sáng tạo, lợi ích cho bản thân và mọi người.
Điều cần thiết là phải tự mình hiểu biết, đó là lời khuyên của các bậc có trí. Người hiểu biết chính mình không phải dựa trên kiến thức tư tưởng và học thuyết. Điều này cũng không có nghĩa là sự hiểu biết mang tính cảm xúc hay tín ngưỡng, chỉ mù quáng chấp nhận theo những gì nghe nói hoặc đọc qua sách vở. Kiến thức hiểu biết như vậy quả thật chưa đủ.
Thật ra, muốn nhận biết bản chất sự thật phải có sự thực nghiệm. Chúng ta phải trực tiếp chứng nghiệm sự thật ấy qua hiện tượng tâm sinh lý của chính mình. Đây là điều duy nhất giúp chúng ta đoạn trừ các phiền não và giải thoát khỏi đau khổ.
Thực nghiệm tự tánh, một phương pháp quán chiếu chính mình được gọi là thiền ‘tuệ quán’ (vipassana). Vào thời đức phật, theo ngôn ngữ Ấn Độ ‘passana’ có nghĩa là nhìn thấy bằng nhãn quan thông thường, nhưng ‘vipassana’ là phương pháp quan sát vạn vật ‘duyên khởi’ như bản chất thật chính nó (tự tánh như thị), chứ không phải ‘được cho là’ (kiến tánh phân biệt). Một khi chúng ta chứng đạt sự thật tối thượng trên toàn bộ cơ cấu thân tâm, thì chân lý hiển nhiên sẽ được liễu ngộ. Chứng nghiệm được sự thật này, chúng ta sẽ không còn phản ứng mù quáng, ngừng tạo phiền não và tự nhiên các lậu hoặc trong quá khứ cũng dần dần được đoạn tận. Chúng ta sẽ giải thoát khỏi các đau khổ và chứng nghiệm hạnh phúc.
Trong khóa tu ‘thiền tuệ quán’ luôn có ba giai đoạn huấn luyện. Đầu tiên, thiền sinh phải ngăn chặn các hành động thân và khẩu khuấy nhiễu sự an vui và hòa hợp của người khác. Thiền sinh không thể tự mình giải thoát khỏi các phiền não trong tâm, nếu vẫn còn tạo tác các hành động làm gia tăng phiền não. Vì thế, giới luật là bước thực hành đầu tiên căn bản. Thiền sinh phải nghiêm trì các giới cấm không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không dùng các chất có men say. Nhờ hành trì phạm hạnh, thiền sinh có khả năng chuyển tâm hướng vào trạng thái tỉnh lặng.
Bước kế tiếp là phát triển khả năng chế ngự tâm hoang tưởng bằng cách tập luyện tâm chuyên nhất cố định vào đối tượng ‘hơi thở.’ Thiền sinh cố gắng duy trì sự chú tâm vào hơi thở bao lâu tùy theo khả năng. Đây không phải là sự tập luyện hơi thở. Thay vì điều hòa hơi thở, thiền sinh nên quan sát hơi thở tự nhiên như chính nó, ‘tự tánh hơi thở vào, tự tánh hơi thở ra’. Với phương pháp hành trì này, tâm thiền sinh không bao lâu sẽ trở nên an tỉnh cho đến khi thuần hóa các tâm xung đột bất thiện. Đồng thời, thiền sinh hướng tâm sâu hơn vào định tỉnh, nhạy bén và thuần hóa, có khả năng quán chiếu bản chất sự thật nội tâm.
Hai bước hành trì đầu tiên sống phạm hạnh và diều phục tâm vô cùng thiết yếu và lợi ích, nhưng chúng sẽ hướng tâm đi đến sự ức chế ‘tự ngã’, trừ phi thiền sinh thực hành bước thứ ba kế tiếp: thanh lọc tâm uế nhiễm bằng cách phát triển khả năng nhận thức bản chất ‘tự tánh’ chân thật của chính mình. Phương pháp nhận chân sự thật này là thiền tuệ quán “vipassana”, một tiến trình thể nghiệm bản chất thật tự tánh bằng cách quán chiếu có hệ thống và bình thản trước hiện tượng biến đổi không ngừng của thân tâm thể hiện qua các cảm thọ bên trong chính mình. Đây là điều tối thượng trong lời dạy của đức Phật, ‘chính mình thanh tịnh bằng cách tự quán chiếu’.
Mọi người ai cũng có thể thực hành phương pháp này. Bịnh ‘khổ’ không phân biệt giáo phái, vì thế phương thuốc trị liệu cũng không thể có giáo phái mà ắt hẳn là phương thuốc chung. Trên thế gian này, mọi người đều phải đối diện với vấn đề đau khổ. Khi người ta đau khổ vì sân hận, sẽ không có sự sân giận thuộc Phật giáo, sân giận thuộc Ấn giáo, sân giận thuộc Thiên Chúa giáo, sân hận là sân hận. Do sân hận, con người trở nên phiền muộn, không có sự phân biệt phiền muộn Thiên Chúa giáo, Ấn giáo hay Phật giáo. ‘Đau khổ là căn bịnh chung của chúng sanh thì phương pháp ‘thoát khổ’ sẽ được thực hành chung cho tất cả mọi người.
Như vậy, thiền tuệ quán ‘vipassana’ chính là phương pháp hành trì chung cho tất cả mọi người. Không có ai sẽ phản đối nguyên tắc sống tôn trọng sự an vui và hòa hợp của người khác. Cũng sẽ không có ai phản đối việc thực hành phát triển chế ngự tâm hay phát triển phương pháp thiền quán bên trong bản chất thật của tự tánh và nhờ đó tâm có thể giải thoát khỏi các điều xấu xa. Đây là lộ trình giải thoát chung không mang tính giáo điều và tín ngưỡng trong niềm tin mù quáng.
Quán chiếu bản chất thật ‘như thị’ là tiến trình tuệ quán thực tại bên trong nội tâm với tự thân nhận biết và chứng nghiệm như thật. Nhờ hành trì ‘thiền quán’ chúng ta sẽ giải thoát khỏi các phiền não và đau khổ. Từ sự thật hiển nhiên bên ngoài, cảm thọ thô; chúng ta sẽ ‘liễu ngộ’ thông suốt sự thật tối thượng bên trong thân tâm. Vượt xa hơn sự thật này, chúng ta sẽ chứng nghiệm sự thật siêu thoát vượt qua giới hạn của thân và tâm, thời gian và không gian, cũng như thế giới duyên sinh tương đối. Đây là chân lý giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả các lậu hoặc, tâm uế nhiễm và đau khổ. Chứng đạt như vậy, bất luận điều gì chúng ta cho là sự thật tối thượng không còn liên quan nữa, đó là mục đích cuối cùng của tất cả mọi người.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh chứng nghiệm được chân lý tối thượng!
Cầu nguyện cho tất cả mọi người đều giải thoát khỏi các phiền não và đau khổ!
Cầu nguyện cho nhân loại thực sự chung hưởng cảnh sống an vui, hòa bình và hạnh phúc!
Trích: D.C. Ahir (ed.), Vipassana: A Universal Buddhist Technique of Meditation, Sri Satguru Publications, India, 1999, pp. 21-28
[1] Theo danh từ Phật học gọi là “ngã sở hữu chấp”, có nghĩa luôn chấp thủ theo kiến giải phân biệt của tự ngã. Tùy theo chủng tử nghiệp, mỗi người có những ý thức phân biệt đúng sai, thương ghét, được mất, vui buồn theo cá nhân và khi tiếp xúc với đối tượng bên ngoài sẽ có các phản ứng tương phản do bản năng chấp thủ của tự ngã.
(Thiền Sư S.N. Goenka – Thích Nữ Hằng Liên dịch)