Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Tâm buồn chẳng nói lời nào,
Tâm vui lời nói ngọt ngào dễ thương.

Có thương yêu, bao nhiêu cũng được,
Hết thương rồi, nói ngược nói xuôi.

Lời nói dễ mích lòng nhau.
Lời nói chân thật ngọt ngào tình thương.

Có tình thương nói gì cũng dễ.
Hết thương rồi bất kể nói chi.

Nói nhiều tâm khởi sân si.
Bằng như không nói từ bi ai tường.

Ái ngữ - Lời nói

Trong cuộc sống hằng ngày, để có thể hiểu nhau biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến văn hóa, con người dùng ngôn ngữ, tức là: chữ viết và tiếng nói. Đôi khi, không cùng chữ viết, cũng không cùng tiếng nói, nhưng con người cũng có thể hiểu biết nhau qua dáng điệu, cử chỉ, nét mặt, thái độ, hay giọng nói. Một vấn đề lớn đối với các gia đình người Việt sống ở hải ngoại chính là: Vấn Đề Ngôn Ngữ. Đối với thế hệ trước, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, cho nên rành rẽ rõ ràng, còn tiếng địa phương thì không thông thạo.

Đối với thế hệ sau, tiếng địa phương thì thông thạo, tuy tiếng Việt cũng là tiếng mẹ đẻ, nhưng nói thì vấp váp, gượng gạo, ngọng nghịu. Tại sao như vậy? Bởi vì thế hệ sau hấp thụ văn hóa tây phương, tiếp xúc với xã hội bên ngoài nhiều hơn, còn trong gia đình, thế hệ trước muốn tập nói tiếng địa phương với thế hệ sau, cho nên thế hệ trước quên lửng chuyện dạy dỗ tiếng Việt cho thế hệ sau, dù người mẹ đẻ là người Việt. Hai thế hệ nói hai thứ tiếng khác nhau, tiếng Việt và tiếng địa phương, cho nên không thể thông cảm nhau dễ dàng. Chuyện không cảm thông nhau thường đưa tới việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình, tức nhiên cuộc sống phiền não khổ đau, không sao tránh khỏi được.

Hai người nói hai thứ tiếng khác nhau, thực khó cảm thông nhau như vậy. Còn hai người cùng nói một thứ tiếng thì sao, có dễ cảm thông nhau chăng, hoặc là ngược lại, có dễ đụng chạm nhau chăng? Tại sao như vậy? Bởi vì, tuy cùng nói một thứ tiếng, nhưng tùy theo lời nói, tùy theo giọng nói, hay tùy theo cách nói, hai người có thể cảm thông nhau, hoặc là đụng chạm nhau. Lời nói có ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt đời sống của mọi người trên thế gian này. Dù quen biết trước, hay chưa quen biết, khi gặp mặt nhau, con người thường hay: chào hỏi với nhau. Một lời chào hỏi, khéo léo lịch thiệp, vui vẻ cởi mở, có thể khởi đầu, một mối quan hệ, tốt đẹp lâu dài.

Có người mở miệng nói, dù chỉ một lời, người nào cũng ưa, cũng thương cũng mến, cũng có cảm tình, cũng tin tưởng được, cũng đều nghe theo. Cũng có người mở miệng nói, dù có nói nhiều, cũng không ai tin, cũng không ai nghe, cũng không ai ưa, cũng không ai thích. Có những lời nói đem lại sự mát dịu trong tâm hồn người nghe. Người nghe có cảm giác như vừa uống được một ngụm nước cam lồ tươi mát. Cũng có những lời nói khiến người nghe phải đi xức dầu cù là, hoặc là, phải uống thuốc nhức đầu, có khi ngất xỉu, hay là, nghỉ thở luôn!

Như vậy, chúng ta đồng ý với nhau rằng: lời nói rất là quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn lao, trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người chúng ta. Nếu người nào cảm thấy cuộc đời nhiều đau khổ, lắm thương đau, không vui vẻ, chẳng bình yên, tức là chính người đó cần phải điều chỉnh lại lời nói, cho vừa dễ nghe, cho vừa dễ thương. Tại sao như vậy? Bởi vì, chính người đó cũng muốn nghe những lời nói dễ nghe dễ thương như vậy. Hoặc là, người đó cần phải điều chỉnh lại âm thanh, cho vừa đủ nghe, để khỏi làm phiền lòng người khác, đang cần sự yên tĩnh, để tâm hồn được thanh tịnh, hay để nghỉ ngơi được thoải mái.

Theo các sách vở chỉ dạy cách xử thế của người đời, có rất nhiều phương pháp để thu phục nhân tâm, bằng lời nói. Chẳng hạn như: Làm sao khuyên bảo người khác, khi biết họ làm sai, nói sai, hay nghĩ sai? Chẳng hạn như: Nói cách nào cho khỏi phiền lòng người nghe? Chẳng hạn như: Có nên nói cho gia đình người khác biết, khi một người trong gia đình đó đang làm một việc sai trái? Có hàng bao nhiêu nguyên tắc, bao nhiêu phương pháp, bao nhiêu kỷ thuật, bao nhiêu sách vở, bao nhiêu tác giả, đã đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, trong đạo Phật, vấn đề này được giải quyết một cách đơn giản hơn:

Nếu muốn nói với tâm Phật, tức là tâm từ bi hỷ xả, hay tâm thanh tịnh, thì chúng ta nên nói. Nếu muốn nói với tâm ma, tức là vọng tâm hay ác tâm, thì chúng ta không nên nói. Tại sao như vậy? Bởi vì, khi chúng ta bị tâm ma điều khiển để nói năng, tức là chúng ta đang tạo khẩu nghiệp, để rồi mãi mãi, chính chúng ta bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi, khổ đau nhiều kiếp. Mình còn chưa giúp gì được cho mình, làm sao giúp gì được cho ai đây? Sách có câu: “Chuyện ai nấy lo. Đèn nhà ai nấy sáng” chính là nghĩa đó vậy.

Trong phạm vi bài này, chúng ta xét vấn đề lời nói, qua giáo pháp của nhà Phật mà thôi. Trong giáo lý của đạo Phật, vấn đề lời nói được đề cập đến nhiều nơi: Một là trong Tứ Nhiếp Pháp, đó là: “Ái Ngữ”. Hai là trong Bát Chánh Đạo, đó là: “Chánh Ngữ”. Ba là trong Pháp Tứ Y, đó là: “Y Nghĩa Bất Y Ngữ”.

*1) Trước hết, chúng ta tìm hiểu lời nói qua Tứ Nhiếp Pháp. Tứ Nhiếp Pháp là pháp môn có công năng nhiếp phục nhân tâm, gồm có bốn điều: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Chúng ta hãy xét qua: Thế nào là “Ái Ngữ”? — Ái ngữ chính là: lời nói dịu dàng, êm ái ngọt ngào, dễ nghe dễ thương, phát xuất từ lòng từ bi hỷ xả, phát xuất từ tâm thanh tịnh, phát xuất từ tấm lòng thương người như thể thương thân. Ái ngữ không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, không phải là lời nói hoa mỹ, không phải là lời nói tâng bốc khách sáo, cốt sao cho đẹp lòng người nghe, một cách không thực, đôi khi hàm chứa dụng ý bên trong. Ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên thanh thản cho người nghe. Ái ngữ có tác dụng an ủi vỗ về những tâm hồn nhiệt não, âu lo sợ sệt.

Bởi vậy, chúng ta biết lời nói, cũng như tiếng cười, có khi gây được cảm tình tốt đẹp, cũng có khi gây nên ác cảm, oán thù giữa con người với nhau. Chỉ cần lỡ một lời nói, có khi hư hỏng việc lớn. Chỉ cần lỡ một lời nói, có khi bị vạ lây, bị thưa kiện, thậm chí, bị tù tội, chỉ vì người nghe không vừa tai, cho nên đặt điều đi cáo gian! Điều này cũng tùy người, tùy lúc, tùy tâm trạng, hay tùy cảm giác của người nghe nữa.

Trong sách có câu: “Bệnh tòng khẩu nhập. Họa tòng khẩu xuất”. Nghĩa là các bệnh, thường từ cửa miệng, nhập vào cơ thể, gây nên tác hại. Tai họa xảy đến, thường do lời nói, từ cửa miệng ra, gây nên tác hại.Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói. Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không nhượng bộ nhau, chắc chắn đưa tới, tranh chấp cãi vã.Người có trí tuệ là người thực hiện được điều sau đây:

Lời nói chẳng động tâm ta.
Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.

Người có trí tuệ là người không bị lầm lẫn, không bị mê hoặc, vì những lời nói ngọt ngào, đầu môi chót lưỡi, không bị bực bội vì những lời nói trực ngôn thẳng thắn. Những lời nói đường mật ngọt ngào, chót lưỡi đầu môi, đôi khi dẫn dắt chúng ta đến cạm bẩy không ngờ, đến chỗ tan nát hạnh phúc gia đình, đến chỗ thân tàn ma dại, đến chỗ thân bại danh liệt, đến chỗ tán gia bại sản, đến chỗ tiêu tan sự nghiệp, có khi chết chẳng kịp ngáp, chẳng kịp hiểu tại sao! Những lời nói trực ngôn ngay thẳng, tuy không khéo léo, nhưng thường giúp đỡ chúng ta tỉnh ngộ, thoát khỏi những cơn mê lầm, không còn vướng vòng tà đạo! Khi tâm bình tĩnh thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, chúng ta mới có thể làm chủ được lời nói, kiểm soát được hành động và chế ngự được tư tưởng của mình. Còn khi tâm loạn động, chúng ta càng nói càng tức giận thêm, càng làm càng sai trái thêm, càng suy nghĩ càng rối trí thêm. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu:

Muốn nói bớt bảy còn ba
Bớt hai còn một, mới là an vui.

Chư Tổ có dạy:

Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức.

Nghĩa là bên trong, chúng ta luôn luôn, chế ngự khắc phục, thúc liễm tâm niệm, lăng xăng lộn xộn. Mỗi khi những niệm, lăng xăng lộn xộn, khởi lên trong tâm, chúng ta liền biết, bỏ đi không theo. Mọi chuyện sẽ yên, an vui lợi lạc. Lúc đó gọi là: “Bản tâm thanh tịnh”. Còn thế nào là: Tâm niệm lăng xăng? Đó là tâm niệm: phân biệt kỳ thị, tranh chấp hơn thua, tự cao tự đại, tự đắc tự ái, tự phong tự mãn. Nói chung, những niệm do tâm: chấp ngã và chấp pháp, đều là vọng niệm, lăng xăng lộn xộn. Hiểu biết như vậy, chính là công phu, tu tập thực sự, của người Phật Tử, tại gia xuất gia. Đối với bên ngoài, chúng ta luôn luôn, giữ hạnh nhẫn nhịn, luôn luôn thực hành, hạnh nguyện lắng nghe, không lời phê phán, không hề tranh cãi, dù là chuyện lớn, chuyện nhỏ cũng vậy.
Hiểu biết như vậy, chính là đức độ, tu tập thực sự, của người Phật Tử, tại gia xuất gia. Người nào muốn có, công đức thực sự, phải nên triệt để, thực hành lời dạy, của chư Tổ Sư, chứ không phải là: đi chùa thiệt nhiều, cúng kiến thiệt nhiều, lễ lạy thiệt nhiều, làm phước thiệt nhiều, tưởng rằng như vậy, được nhiều công đức, phước đức hàng đầu. Thực chẳng phải đâu! Trong sách có câu:

Lời nói đổi trắng thay đen
Thiên đàng địa ngục bon chen lối nào?
Trực ngôn tâm chẳng lao xao.
Giữ tâm thiền định, biết bao an lành.

Người đời gọi mình: là Ngài là Thầy, Cụ Ông Cụ Bà, Cô Bác Cậu Mợ, Chú Thím Dì Dượng, gì gì chăng nữa, thậm chí là “Thằng”, thực cũng chẳng sao, người có lòng nào, tự họ biết lấy, mình chẳng bận tâm, an nhiên tự tại, dại gì lại giận, người dửng người dưng, không thân không thích, cũng chẳng mích lòng, lòng vòng thêm mệt!

Người đời thường nói: “Cái lưỡi không xương, nhiều đường lắc léo”. Nghĩa là: cái lưỡi của con người không có xương, cho nên con người muốn nói kiểu nào, muốn nói cách nào, muốn nói thế nào, tùy theo trường hợp, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nhân cách của mỗi người. Những người thường hay, nói ngược nói xuôi, không giữ uy tín, không giữ tư cách, không giữ lời hứa, người ta mỉa mai: đó là hạng người, trở mặt nuốt lời, như người đời trở bánh tráng!

Trong sách có câu: “Một người nói ngang, ba làng không cãi lại”. Nghĩa là: khi có một người, nói năng ngang tàng, bất kể lẽ phải, bướng bỉnh cố chấp, đi khắp ba làng, chẳng ai đếm xỉa, chẳng ai thèm cãi, chẳng ai ngu dại, phí công phí sức, phí cả thời gian, hơn thua với họ. Chứ không phải: ba làng cãi không lại!

Ngày xưa có chuyện: Một người vô minh, chưa hiểu Chánh Pháp, cho nên luôn luôn, buông lời chỉ trích, gièm pha mạ lỵ, phỉ báng đủ điều. Cho đến ngày kia, nhờ đủ nhân duyên, bỗng dưng hiểu biết, người đó ăn năn, hối hận vô cùng. Người đó nghĩ rằng: chỉ còn có cách, cắt đứt vứt đi, cái lưỡi của mình, mới mong có thể, chuộc lại lỗi lầm, quá sức to lớn, đã làm trước đây. May mắn lắm thay, khi sắp thực hiện, ý định cắt lưỡi, người đó gặp lại, anh ruột của mình, vốn là một vị, thiền sư đắc đạo. Người anh khuyên rằng: Ngày ngày trước kia, vì không hiểu biết, đã dùng cái lưỡi, phỉ báng Chánh Pháp, tạo tội tạo nghiệp. Giờ đây hiểu được, mọi sự mọi việc, hãy dùng cái lưỡi, xiển dương Chánh Pháp, đem lại ích lợi, cho thực nhiều người. Cũng một cái lưỡi, giúp người hại người, tùy theo tâm tánh, của mỗi cá nhân: Con người thực ra, sống với tâm ma, hay là tâm Phật? Trong sách có câu:

Tại mình thường nói đâm hơi
Làm sao tìm được người chơi với mình?

Hoặc:

Tại mình kênh kiệu điêu ngoa.
Thì đừng trách móc người ta chơi mình!

Nghĩa là: Bởi vì lời nói của mình khó nghe, người đời thường gọi là nói đâm hơi, nói móc họng, cho nên không có ai muốn kết bạn với mình, không có ai dám làm thân với mình, không có ai dám tâm sự với mình. Tại sao như vậy? Bởi vì, sống ở trên đời, đâu có ai thích, bị người khác chơi, bới móc đời tư, bươi móc dòng họ, tổ tiên của mình, khai ra lý lịch, đưa lên mặt báo, bàng dân thiên hạ, mọi người đều biết. Cũng vậy, nếu mình kênh kiệu điêu ngoa, đốp chát thẳng thừng, chẳng ngưng chửi bới, lên mặt thầy đời, khuyên người lương thiện, hiền lành dễ thương, còn mình thì không, chơi người không ngừng, tưng bừng đăng báo, làm thơ lếu láo, nhắn gửi chửi người, chắc chắn có ngày, người ta chơi lại, chết chẳng kịp ngáp, chẳng kịp niệm thầm: Mô Phật, cứu con!

Lời nói đôi khi có những tác dụng không thể lường trước được. Có những lời nói có thể đem lại an vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể đem lại sự ly tán, tan nát hạnh phúc của người khác, đôi khi đổ vỡ hạnh phúc của chính người nói nữa. Có những lời nói, làm cho người nghe, mỉm cười tươi tắn, vui vẻ khỏe khoắn. Có những lời nói, khiến cho người nghe, nhăn mặt nhíu mày, đau đầu nhức óc, lộn gan lộn ruột, nhói tim mất ngủ! Có những lời nói có thể cứu người, cũng có những lời nói có thể hại người, một cách dễ dàng. Thí dụ như là: Lời nói của vị, luật sư lương tâm, khó kiếm khó tầm, chức nghiệp cao quí, có thể cứu người, thoát khỏi tội oan, còn như mưu toan, khai gian lời nói, của một nhân chứng, làm cho người khác, phải bị tù tội. Một vị bác sĩ, khéo lựa lời nói, khuyến khích khuyên lơn, an ủi động viên, làm dịu tinh thần, giúp được bệnh nhân, yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua hiểm nghèo, sớm được bình phục. Bằng như ngược lại, lời nói vô ý, có thể làm cho, bệnh nhân kích động, bệnh tình trầm trọng, tắt thở tức thì.

Cũng như lời nói, của nhà ngoại giao, hay các sứ thần, hoặc các sứ giả, có thể đem lại, hòa bình hai nước, hoặc gây chiến tranh, binh lửa lan tràn, khắp cả mọi nơi. Nhiều khi lời nói, của một con người, sức mạnh lớn hơn, cả một đoàn quân. Có người thường nói năng ngọt ngào với người dưng bên ngoài, nhưng đối với những người thân thích, bên trong gia đình, không bao giờ lời nói được ngọt ngào như vậy. Con người thường thường, không ưa thích nhau, làm mích lòng nhau, chỉ vì lời nói, ngay cả bạn thân, hay giữa vợ chồng, cha mẹ con cái. Tuy nhiên đến khi, một người bất hạnh, chẳng may qua đời, người khác kể lể, dài dòng văn tự, khóc lóc thảm thiết, nói lời tha thiết, nhớ nhung da diết, dù có hối hận, cũng quá muộn màng!

Có chuyện lạ đời, trên thế gian này, chuyện đó chính là: con người thường chỉ, có thể nói chuyện, ngọt ngào dễ thương, với người nằm xuống, chỉ còn nằm yên, bất động để nghe, không còn đối đáp, cãi cọ được nữa, hoặc là nói chuyện, hằng ngày hằng giờ, với tấm mộ bia, ở ngoài nghĩa địa. Nhưng khi người đó, còn sống hiện tiền, con người chẳng thể, mở miệng nói ra, nói được lời nào, cho thiệt dễ nghe, cho thiệt dễ thương! Tại sao như vậy? Có lẽ bởi vì, con người thường không, sợ người còn sống, nhưng hay sợ người, đã chết trở về, bóp cổ mình chăng?

Con người có thể, thương yêu súc vật, chó mèo chim chuột, cho đến côn trùng, nhưng có lắm khi, không thể chịu đựng, không thể nhịn được, những người chung quanh, cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, bạn bè gần xa, hàng xóm láng giềng, chỉ vì một điều: Lời Nói Của Họ. Tại sao như vậy? Bởi vì súc vật, không hề biết nghe, không nói tiếng người, cho nên không bị, con người mích lòng! Người đời thường nói: Hai gà ghét nhau, chỉ vì tiếng gáy. Hai chó ghét nhau, chỉ vì tiếng sủa. Hai cô ca sĩ, bao giờ thương nhau!

Có câu chuyện của hai con chim như sau: Một hôm, con chim cú vọ, sửa soạn dọn tổ, dời sang nơi khác. Con chim bồ câu, thấy vậy hỏi thăm: Chẳng hay chị định, dọn tổ đi đâu? Cú vọ đáp rằng: Con người ở đây, ác ôn quá xá, cứ hễ thấy tôi, đậu ở nơi đâu, họ liền ném đá, hoặc lấy cây đập. Tôi không chịu nổi, định dọn tổ đi, qua ở phương tây, hy vọng bên đó, dân chúng hiền lành, không như ở đây. Bồ câu bèn nói: Ở chỗ hàng xóm, thân tình lâu nay, nói thiệt chị nghe, đừng giận tôi nhé. Nếu chị không sửa, tiếng kêu ghê rợn, đinh tai nhức óc, thực là khó nghe, dù chị đến đâu, cũng bị bạc đãi!

Ở những xứ có nhiều sắc dân khác nhau cùng chung sống. Người ta có thể không hiểu người khác nói gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có thể đoán được người khác muốn nói gì, qua sắc mặt, cách nói và giọng nói. Cho nên sắc mặt, cách nói và giọng nói của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng, trong các cuộc giao thiệp, hay tiếp xúc hằng ngày. Giọng nói êm ái, lễ độ tế nhị, ngọt ngào từ tốn, sắc mặt hiền hòa, dễ thương dễ mến, nhiếp phục lòng người, hơn là giọng nói, ồn ồn ào ào, ồm ồm rào rào, chanh chua khế chát, the thé khó nghe, mặt mày đỏ ké, khoa tay múa chân. Lời nói hiền từ, hòa nhã thanh tao, thân thiết thành thật, ngay thẳng rõ ràng, sáng suốt khôn khéo, cởi mở vui vẻ, rất là dễ dàng, cảm hóa lòng người, có thể hướng dẫn, người vào chánh đạo. Trong sách có câu:

Chim khôn hót tiếng thanh nhàn.
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

Khi thực hành hạnh bố thí, đồng thời, chúng ta nên thực hành ái ngữ. Nghĩa là: Khi cho vật gì, giúp đỡ việc gì, chúng ta nên làm, với cả tấm lòng, từ bi bình đẳng, và dùng lời nói, êm ái dịu dàng, khuyên nhủ an ủi, khuyến khích động viên. Chúng ta hiểu rằng: người cho nên cám ơn người nhận, chứ không mong cầu người nhận nhớ ơn. Tại sao như vậy? Bởi vì, nhờ có người nhận, người cho mới có cơ hội làm phước. Hiểu được như vậy, chúng ta đã thực hành hạnh bố thí một cách thanh tịnh, bất cần vụ lợi, bất cầu báo đáp, bất kể ơn nghĩa, trong kinh sách gọi là “bố thí ba-la-mật”. Trong sách có câu:

Miếng khi đói gói khi no.
Của tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng.

Ơn nghĩa ngàn trùng đó, chẳng qua do lời nói ái ngữ, khi đem cho một miếng vậy. Nói một cách khác, ơn nghĩa tạo được từ cách đem cho, và, lời nói khi cho, chứ không phải hoàn toàn do của đem cho. Sách cũng có câu: “Cách cho hơn của cho”, chính là nghĩa đó vậy.

Bằng như ngược lại, người nào bố thí với tâm mong cầu sự đền đáp, hay trông đợi việc báo ơn, hoặc luôn miệng kể lể chuyện ơn nghĩa đã làm, với nhiều người khác, người đó chắc chắn sẽ nhận sự phủ phàng từ kẻ thọ ơn. Và việc làm phước như vậy mất đi ý nghĩa cao đẹp. Phước báo nếu có, cũng rất hạn hẹp, như tâm nhỏ hẹp, của người làm ơn. Người đời mỉa mai, như vậy gọi là: Bố thí ba la làng, hay: Bố thí la ba làng. Nghĩa là: người đó bố thí tiền bạc, hay đem của cải cho người khác, rồi la to lên cho cả ba làng, làng trên hay xóm dưới, xóm giữa, đều biết. Nhiều khi không khéo dùng lời nói, trong khi bố thí, thay vì được nhớ ơn, trái lại, người cho bị thù oán, mà chẳng hề hay biết! Trong nhiều trường hợp, việc đó xảy ra, ngay trong gia đình, giữa những người thân, ngay cả vợ chồng, cha mẹ con cái, hay anh chị em!

Trong các gia đình, nếu không thông cảm, vợ chồng xung khắc, chỉ vì lời nói, không ai nhịn ai, nên kiếm người ngoài, mời về đãi tiệc, tiệc lớn tiệc nhỏ, có dịp chuyện trò, nhỏ to đủ chuyện, trên trời dưới biển, thực phí thời gian, đáng lẽ dành cho, tu tâm dưỡng tánh. Có những lời nói, trong các bửa tiệc, trà dư tửu hậu, tác hại vô cùng, nguy hại khôn lường!

Sách có câu: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Nghĩa là một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa lông hồng, có những lời nói nặng tựa núi non. Có những lời nói như vậy, nhưng thực không phải vậy. Sửa đổi được lời nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách nói, tức là chúng ta đã sửa đổi được tâm tánh, giảm bớt được khẩu nghiệp.

Thực hành được “ái ngữ” tức là tăng trưởng tâm Phật, tức là tâm từ bi hỷ xả. Thực hành được “ái ngữ” tức là dẹp được tâm ma, như là: tâm tham lam, tâm sân hận, tâm ganh ghét, tâm đố kỵ, tâm ganh tị, tâm hiềm khích, tâm tật đố, tâm hơn thua, tâm ngã mạn, tâm khinh người, tâm khen mình.

Thực hành được “ái ngữ” tức là tu tập theo hạnh nguyện đại từ đại bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh thường đau khổ vì những lời nói của nhau. Cho nên thực hành được “ái ngữ” tức là đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước cam lồ trong bình thanh tịnh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới vào những tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai những âm thanh êm ái dịu dàng, có công năng chuyển hóa những con người đang phiền muộn, những tâm hồn đang phiền não khổ đau, thành những con người vui tươi, những tâm hồn an lạc hạnh phúc.

Tất cả những thứ hạnh phúc trên đời đều bắt đầu từ lời nói của chính chúng ta. Chúng ta khởi đầu tất cả mọi sự mọi việc. Chúng ta sinh sự thì sự sẽ sinh. Chúng ta hòa bình thì cuộc sống bình yên tự tại. Đừng mong người khác nói lời dễ nghe, trong khi chính mình chưa làm được như vậy.Tây phương có câu: “Nothing will change if we do not change anything”.

Các bậc cha mẹ, thường dùng ái ngữ, tử tế dịu dàng, ngọt ngào dễ thương, để dễ cảm thông, cùng với con cái. Nhưng cũng đôi khi, cha mẹ phải dùng, những lời cứng rắn, nghiêm cấm khắt khe, không có bao che, để mà khuyên dạy, cho con nên người. Như vậy đó cũng là một dạng khác của ái ngữ, thực hiện với tâm từ bi của bậc Bồ Tát. Nói một cách khác, người không có lòng từ bi bác ái, không thể nào có “ái ngữ” được. Thực hành được “ái ngữ” tức là dùng lời nói để an ủi, trấn an những tâm hồn âu lo sợ sệt. Đó là hạnh vô úy thí của Bồ Tát Quán Thế Âm. Muốn được Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ, trước tiên chúng ta phải thực hiện theo hạnh nguyện của Ngài. Chứ không phải chỉ van xin cầu khẩn mà được toại nguyện đâu! Chúng ta thích nghe, lời nói thế nào, thì hãy nói ra, lời nói thế ấy, cho người khác nghe.

*2) Bây giờ, chúng ta tìm hiểu lời nói qua Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là con đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm tám điều chân chánh, đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Chúng ta hãy xét qua: Thế nào là chánh ngữ? Chánh ngữ là lời nói chân chánh, hợp với Chánh Pháp, có lợi ích thiết thực, đem lại yên vui cho mọi người, hòa bình cho mọi nơi. Chánh ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt, ngay thẳng và bình đẳng, hợp tình và hợp lý, hòa nhã và rõ ràng, chơn chất và giản dị, khuyến tấn và nhứt như.

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: Tâm Khẩu Nhứt Như. Nghĩa là: Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Tâm khẩu không khác. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, mới được an lạc, mới đúng là người tu đạo. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, dù có hình tướng nào, cũng chỉ là người xạo.Hoặc tệ hơn nữa, đó chỉ là người:

Miệng thì nói tiếng nam mô.
Trong lòng chứa cả một bồ dao găm.

Hoặc nguy hiểm hơn, đó là hạng người:

Bề ngoài đon đả nói cười.
Bề trong nham hiểm giết người không dao.

Trong sách có câu: “Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói”. Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi nói luôn. Lúc đó gọi là “ngộ đạo”. Bởi vì: “Đạo Bổn Vô Ngôn Thuyết”. Hoặc: “Ngữ Ngôn Đạo Đoạn”. Nghĩa là: Đạo lý cao siêu, vốn không thể nói, không có lời nào, diễn đạt được cả. Khi còn nói được, chỉ là phương tiện, hướng dẫn mà thôi. Cho nên những ai, muốn được kiến đạo, đừng chấp lời nói, đừng chấp văn tự. Thí dụ như có, người dùng ngón tay, để chỉ mặt trăng, cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là: phương tiện mà thôi. Mặt trăng mới là: mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng, gọi là thấy đạo, hay là kiến đạo. Cho nên những ai, muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay, thế này thế nọ, thế kia thế khác. Trong sách có câu:

Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri.
Người biết không nói. Người nói không biết.

Tức là: Người đã biết đạo, trong kinh sách gọi là “người ngộ đạo”, thường khi ít nói, hoặc là không nói. Người không biết đạo, thường hay nói nhiều, nhiều khi nói bậy, như vậy mích lòng, dễ gây tai họa, dễ gặp phiền não, dễ tạo khổ đau!Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người nghe được an tịnh.

Ai thực hành được, “ái ngữ” như vậy, tức là người đó, đang tiến trên đường, giác ngộ giải thoát. Giải thoát ra khỏi, sanh tử luân hồi, và giải thoát khỏi, phiền não khổ đau. Có vị thiền sư, chơn tu đắc đạo, uy tín rất cao, được rất nhiều người, ở gần ở xa, kính trọng nể vì. Những lời tán thán, truyền tụng đến tai, Ngài nói: Vậy sao? Có người ganh ghét, đặt điều nói xấu, gặp phải tai nạn, bởi vì có kẻ, vu khống cáo gian, Ngài vẫn tự tại, bình tĩnh thản nhiên, có người hỏi Ngài, chỉ nghe đáp lại, hai tiếng: Vậy sao? Trong sách có câu:

Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Trong cuộc sống trên thế gian này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng và luôn luôn thực hành câu trên đây, cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, cuộc đời tươi đẹp biết là bao nhiêu. Dầu cù là và thuốc nhức đầu chỉ còn được dùng khi trái gió trở trời mà thôi! Làm được như vậy, trong các gia đình, vợ chồng con cái, trên thuận dưới hòa, an vui hạnh phúc, không có tranh cãi, không có xào xáo. Làm được như vậy, trong các xã hội, trật tự an ninh, luôn luôn bảo đảm, những cuộc cãi vã, đưa đến ấu đả, án mạng rùng rợn, không thể xảy ra. Làm được như vậy, trong các quốc gia, hòa bình chắc chắn, bền vững lâu dài. Một lời nói ra, người nghe hoan hỷ, mỉm cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó là Chánh ngữ.

Bằng như ngược lại, lời nói bất chánh, hay là tà ngữ, đó là lời nói, không được chánh đáng, ngược ngạo phi lý, tổn hại đời sống, cùng danh dự người. Một lời nói ra, khiến cho người nghe, nhức óc nhói tim, tâm trí quay cuồng, hồn phi phách tán, có khi ngất xỉu, đó là lời nói: sâu độc hiểm ác, đay nghiến nguyền rủa, nhiếc mắng thô tục. Có nhiều trường hợp, ngay trong gia đình, hay ngoài xã hội, ở khắp mọi nơi, lời nói đơn giản, rất dễ hiểu lầm, người nào hay giận, chỉ khổ tâm thôi, chẳng ích lợi gì!Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:

Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói.
Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người.

Tuy nhiên trên đời, có rất nhiều người, chỉ biết chửi nhau, đem gieo thương đau, cho bao người khác, nói bóng nói gió, nói xiên nói xỏ, nói cho ghét bỏ, nói lời khiêu khích, lăng nhục mạ lỵ, suốt đời không biết, không bao giờ nói, bất cứ lúc nào, chẳng kể đúng sai, chẳng hề mở miệng: nói lời xin lỗi, nói tiếng cám ơn! Lời nói phát xuất từ tâm ý con người. Tâm ý con người, thay đổi đổi thay, tùy theo hoàn cảnh. Cho nên lời nói, cũng thay đổi theo. Tâm thiện lời hiền. Tâm ác lời thô. Trong sách có câu:

Tâm buồn cảnh được vui sao.
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.

Trong năm giới của người Phật Tử tại gia gồm có: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Giới thứ tư là giới về lời nói. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, không nên dùng lời nói để lợi mình hại người, gọi là vọng ngữ hay tà ngữ, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, nên dùng lời nói để lợi mình lợi người, gọi là chánh ngữ, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Tại sao như vậy? Bởi vì trước hết, khi dùng lời nói, để hại người khác, tâm của chính mình, chắc chắn biến động, làm cho công phu, tu tâm dưỡng tánh, từ bao lâu nay, trở nên vô ích. Kinh sách gọi đó: chính là Khẩu nghiệp!

Một lời nói ra, làm cho tan vỡ, hạnh phúc gia đình, của những người khác, làm cho mọi người, nghi ngờ lẫn nhau, đó là lời nói: mập mờ không rõ, đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen, nước lã khuấy hồ, lộng giả thành chơn, có lại nói không, không lại nói có, đều do tâm tưởng. Nhiều khi nói lời, cố ý hại người, người chưa bị hại, mình đã lảnh đủ, hậu quả tức thì. Trong sách có câu:

Gậy ông lại đập lưng ông
Gậy bà chưa trúng thẳng xông lại bà.

Nhiều ông nhiều bà, tuổi tác đã già, gần đất xa trời, sống nay chết mai, vẫn tạo khẩu nghiệp, ngậm máu phun người, bươi chuyện cộng đồng, khích động bên đông, kiếm chuyện bên tây, chuyên đâm bị thóc, khoái thọc bị gạo, chọc ghẹo mọi người, không nhớ có lời: “Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”. Có rất nhiều người, nói lời khích tướng, hướng tâm bất thiện, cho người kiện nhau, ghét nhau thù nhau, phiền não khổ đau, người ngu mắc bẩy.Sách có câu: “Lời nói thốt ra, người ta ghim trong bụng”. Nghĩa là: Lời nói lỡ phun ra rồi, không thể nào lấy lại được. Có nhiều người, nghe một lời, sống để dạ, chết mang theo! Thực khủng khiếp! Tuy nhiên, ai ai cũng biết rằng:

Ghim nhiều chỉ nặng trong lòng
Ngày ăn đêm ngủ đừng hòng được yên.

Như vậy chính là pháp môn tu theo “hạnh Xả”, một trong tứ vô lượng tâm của đạo Phật, gồm có: từ, bi, hỷ, xả. Người giữ gìn chánh ngữ là người nói lời thật thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng. Người giữ gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực, không nói lời thiên vị, không nói lời xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa, không đổi trắng thay đen, không thêu dệt thêm bớt. Người giữ gìn chánh ngữ là người không nói láo, không nói xấu người khác, không thích nghe nói láo nói xấu, và không tin những lời nói láo nói xấu. Người nào hay nói láo, nói xấu người khác, hậu quả sẽ là không ai tin cậy, không ai thèm nghe nữa. Trong sách có câu:

Lời nào nghe được thì im
Bằng nghe không được, đừng ghim trong lòng.

Làm được như vậy, cuộc sống khỏe re. Bằng không như vậy, nhọc nhằn phiền lụy, phiền não khổ đau, bảo sao chẳng mệt, hít thở phì phò, như bò kéo xe, chẳng ích lợi gì!
Chánh ngữ chính là: lời nói sao cho, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, không hại một ai, tất cả bình yên, an vui tự tại. Còn như tà ngữ, cùng là ác ngữ, là các lời nói, bé xé ra to, đem chứa đầy kho, oán thù sân hận, tức giận bực mình, khổ thân khổ não, khổ mình khổ người! Một lời nói ra, khiến cho người khác, mang họa vào thân, đó là lời nói: vu khống cáo gian, vu oan giá họa, không biết tiếc thương, hại người hiền lương, kiếm tiền bồi thường, vài ba triệu bạc. Thực là thất đức, ác nhân vô cùng! Một lời nói ra, khiến cho người khác, mê muội lầm lẫn, đó là lời nói: không đúng sự thực, không có ngay thẳng, thiên vị dua nịnh, xuyên tạc ngụy biện, trau chuốt bóng bẩy, mục đích thủ lợi. Một lời nói ra, khiến cho người khác, xung đột oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó là lời nói: dối trá điêu ngoa, gây ra chia rẽ, thích đâm bị thóc, khoái thọc bị gạo, di hại nhiều người, và cả muôn vật. Những người tự ái, khó lòng nhịn được, khi nghe những lời, trái ý nghịch tai, không thuận theo mình, thường hay tranh cãi, bằng bút bằng mồm, hoặc bằng thư rơi, gửi khắp mọi nơi, cho mọi người biết.

Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:

Không nên quan tâm chuyện thế gian.
Không nên loan truyền các tin đồn.

Tây phương dịch như sau: “You should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumours”. Tại sao như vậy? Bởi vì, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhơn ngã thị phi, phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua. Các loại tin đồn, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, chỉ nhằm làm hại, thanh danh người khác. Những chuyện thế gian, các loại tin đồn, thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an dao động, có hại mà thôi, chẳng ích lợi gì, đem đi rao truyền! Chúng ta không cần, phung phí thì giờ, một cách vô ích, để đi đính chính, những lời đồn đãi, sai lạc hoàn toàn, nếu như hoàn cảnh, không bị bắt buộc, phải làm sáng tỏ. Những kẻ xấu mồm, những người xấu miệng, lấy làm thích thú, khi thấy chúng ta, bực bội bất an, vì những lời nói, cố ý của họ. Đó chính là điều, mà họ mong muốn. Nếu như chúng ta, bình tĩnh thản nhiên, như không có chuyện, gì xảy ra cả, những lời vu oan, sẽ tan biến dần, đi vào quên lãng. Chúng ta chỉ nên, dành hết thì giờ, tập trung lo chuyện, tu tâm dưỡng tánh, cho đến khi được: giác ngộ giải thoát.

Trên cuộc đời này, có những chuyện không có giải đáp nào thích hợp, không có giải pháp nào thỏa đáng, không có lời khuyên nào chính xác, một cách tuyệt đối. Lúc đó, im lặng lắng nghe, tâm không phán xét, không hề tranh cãi, đúng là thượng sách, nên coi như vàng. Bởi vậy có câu: “Lời nói là bạc. Im lặng là vàng”. Lời nói đúng lúc, thực có ích lợi, đã là chuyện khó. Nhịn được nín được, giữ được im lặng, tạo nên hòa khí, lại càng khó hơn. Khi một người thốt lời nói lên, người khác có thể đoán hiểu được, trong tâm người đó muốn gì nghĩ gì. Nhờ yếu tố này, các ông thầy bói, các bà xủ quẻ, tiên đoán tương lai, vận may hay rủi, số hên số xui, dù thầy bói đui, dựa theo kinh nghiệm, dựa theo tâm lý, xuyên qua lời nói, của người khách hàng, đang có tâm sự. Trong sách có câu:

Chẳng ai vui vẻ trong lòng
Đi xem xủ quẻ đục trong làm gì.

Trong các gia đình, có rất nhiều khi, lời nói cần thiết, để hai vợ chồng, thông cảm với nhau, cha mẹ con cái, hiểu biết lẫn nhau, để anh chị em, hòa thuận chung sống. Nhưng có nhiều người, già trẻ lớn bé, tự ái quá cao, quan trọng bản ngã, lại không chịu nói, giữ sự im lặng, một cách lạnh lùng, làm cho cuộc sống, ở trong gia đình, nặng nề khó thở, bực bội bất an. Phiền não khổ đau, bắt đầu từ đó. Thực ra nhiều lúc, chính sự im lặng, rất là cần thiết. Nhưng cũng có nhiều lúc, lời nói cần thiết hơn. Nói ra một lời, thông cảm cảm thông, không còn phiền não, chấm dứt khổ đau, tại sao không nói? Người nào cũng vậy, chẳng ai toàn thiện, luôn luôn nói đúng, chẳng có lỡ lời, tại sao lại chấp, lời nói người khác? Bởi vậy cho nên, kinh sách có câu:

Nói năng đúng Chánh Pháp
Im lặng đúng Chánh Pháp.

Chúng ta nên biết: Người nào đạt được: “Trạng Thái Vô Tâm”, nghĩa là trong tâm, không một niệm khởi, tức là bên trong, không tâm nghĩ ngợi, lăng xăng lộn xộn, bên ngoài không nói, im lặng từ bi. Không ai có thể, có đủ khả năng, đoán được trong tâm, người đó muốn gì, hay đang nghĩ gì! Tại sao như vậy? Bởi vì: Người Đó Vô Tâm! Thực là đơn giản! Trong sách có câu:

Người nào đạt được vô tâm.
Cuộc đời an lạc không tâm lụy phiền.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa. Nghĩa là: Những chuyện, thương thương ghét ghét, không làm bận lòng, chẳng có bận tâm, chúng ta sẽ nằm, duỗi thẳng hai chân, mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc, lăn qua lộn lại, trăn trở trở trăn, thấu suốt năm canh, nằm đếm suốt đêm, từ một đến ngàn! Khỏe re, khỏe ru! Cũng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

Nhược ngôn hạ tương ứng. Tức cộng luận Phật nghĩa.
Nhược thực bất tương ứng. Hiệp chưởng linh hoan hỷ.

Nghĩa là:

Nếu lời nói hòa hợp. Cùng nhau bàn nghĩa Phật.
Nếu như chẳng hòa hợp. Chấp hai tay hoan hỷ.

Lời nói thường có ngụ ý, ẩn ý, thâm ý, diệu ý, có khi chánh ngữ, có khi tà ngữ. Nếu thực sự, lời nói không hòa hợp được, ý kiến bất đồng, chúng ta không nên tranh cãi. Tại sao như vậy? Bởi vì, cũng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

Thử tông bổn vô tránh. Tránh tức thất đạo ý.
Tông này vốn không tranh. Tranh cãi mất ý đạo.

Con người muốn thấy được đạo, tức là muốn cuộc sống được an lạc hạnh phúc, hãy bớt quan tâm chuyện tranh cãi, hãy bớt bàn chuyện chuyện thị phi! Bớt được bao nhiêu, an lạc bấy nhiêu! Cổ nhơn có dạy:

Nghe lời nói phê bình chê bai mà tức giận, tức là châm ngòi cho người khác gièm pha.
Nghe lời nói khen ngợi tán dương mà mừng rỡ, tức là làm mồi cho người ta nịnh hót.

Người biết cách nói là người đi gieo tư tưởng, kinh nghiệm. Còn người biết cách nghe là người đi thu lượm kho tàng. Có những lời nói, hết sức cao quý, hết sức tác dụng, ý nghĩa thâm trầm, người đời ghi lại, ở trong sách vở, gọi là “Danh Ngôn”, hay Tư Tưởng Đẹp, Lời Hay Ý Đẹp, Hoa Thơm Cỏ Lạ. Ngược lại cũng có, những lời nói ra, người đời gièm pha, gọi là Ranh Ngôn. Trong sách có câu:

Trăm năm bia đá cũng mòn.
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Hoặc là: “Cọp chết để da. Người ta chết để tiếng”. Điều này chứng tỏ, lời nói con người, thực có hậu quả, khó thể đo lường! Trí tuệ con người, phát triển thiền định, ở trong tĩnh lặng. Còn như nhân cách, tư cách con người, phát triển ở trong, phong ba bão táp, nghịch cảnh thử thách, những bước thăng trầm, vinh nhục được mất, trong sức chịu đựng, lời khen tiếng chê. Trong kinh sách gọi đó là “bát phong”. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

Như ngọn núi vững vàng.
Trong phong ba bão táp.
Người trí cũng như vậy.
Bình thản trước khen chê.

* * **3) Trong Pháp Tứ Y, Đức Phật có dạy: “Y Nghĩa Bất Y Ngữ”. Nghĩa là chúng ta chỉ nên quan tâm đến ý nghĩa, không nên chấp ngôn ngữ, không nên chấp lời nói hay bài viết, không có ý nghĩa gì. Làm được như vậy, chúng ta bớt nhiều, phiền não khổ đau, trên thế gian này. Có những lời nói thực ra vô nghĩa, nhưng cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức giận, bất an. Chẳng hạn như có người nói mình ngu như con bò mà bày đặt dạy đời. Chẳng hạn như có người nói mình chép bài của người khác, rồi để tên mình là tác giả. Nếu thu nhận các câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Các loại câu nói như vậy không có căn cứ vào đâu cả, chúng ta để tâm giận tức làm gì cho mệt. Thực ra, lời nói đó vô nghĩa, bởi vì mình không ngu, bởi vì mình không phải là con bò, bởi vì mình không chép bài của ai hết, cho nên không cần phải quan tâm đến những lời nói như vậy.

Thí dụ có người, hỏi chúng ta rằng: Tại sao dạo này, anh hay là chị, bị mất uy tín, quá xá như vậy? Câu hỏi thế đó, không có ý nghĩa, chỉ nhằm mục đích, chọc tức mà thôi. Chúng ta nghe rồi, thì thôi đừng nhớ, có thể lờ đi, như không nghe thấy, bởi vì nếu hiểu, một cách tường tận: thế nào là “vô ngã”, không có “bản ngã”, nên không thu nhận, những lời như vậy, vào trong tâm trí. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta không còn, cảm thấy bực bội, phiền não khổ đau. Hoặc khiêm nhường hơn, từ tốn đáp rằng: Chúng tôi đâu có, uy tín hồi nào, để mất cơ chứ! Hoặc là có người, phê bình chúng ta, thường hay nóng tánh, chúng ta lập tức, phản ứng tức thì, lên tiếng cãi chánh, quả thực người ta, nói chẳng có sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí có người, viết bài phê phán, miệt thị chỉ trích, mạ lỵ chưởi bới, vu khống sỉ vả, khiêu khích lăng nhục, bôi lọ chụp mũ, đặt điều bịa chuyện, nhưng chúng ta chỉ: “y nghĩa bất y ngữ”, họ không thể nào, xúc phạm đụng chạm, gây ra phiền não, tạo thêm khổ đau, cho chúng ta được.

Người ta cố ý, đưa lửa tới đốt, mình không đáp ứng, không đưa thân tâm, ra để lãnh đủ, thì họ chỉ đốt, “hư không” mà thôi, chẳng nhằm nhò gì, đến chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy, về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi, phí công tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu ngược lại, chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, nói gần nói xa, biện bạch phải quấy, cho rõ đúng sai, cũng giống như là, thổi hơi vào lửa, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây thêm cảm hứng, tạo thêm duyên cớ, cho họ làm tới, chuốc thêm phiền não, khổ đau mà thôi. Lúc Phật tại thế, gặp người ngoại đạo, đi theo quấy rầy, nhưng vẫn thản nhiên, cất bước khoan thai, như không có chuyện, xảy ra gì cả. Người đó thấy Phật, tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Đàm, có chịu thua chưa? Lúc đó Đức Phật, từ tốn nói kệ:

Người hơn thì thêm oán.
Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đều xả hết.
Giấc ngủ được an lành.

Lại còn thêm nữa, tâm của chúng ta, luôn luôn tưởng tượng, cho nên gây ra, phiền não khổ đau. Một lời nói ra, diễn giải kiểu nào, tùy tâm người nghe. Có người nói ra, một câu thực là: vô-thưởng-vô-phạt, vô-ý-vô-tứ, chẳng ngụ ý gì, chúng ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi chuốc lấy, giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra, trong mọi cuộc sống, của các gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là thường xuyên. Trong cuộc nói chuyện, bàn cãi thảo luận, thường dễ mích lòng, chỉ vì câu nói, của một con người, cộng thêm tâm trí, tưởng tượng phong phú, của các người khác.

Nếu như trong gia đình, người vợ hay người chồng, nói ra một lời nào, đều được hiểu theo khía cạnh tốt, đừng tưởng tượng khía cạnh xấu, cuộc sống của gia đình đó chắc chắn hạnh phúc. Dễ chịu một chút, cảm thông một chút, tha thứ một chút, cuộc sống chắc chắn, vui vẻ khỏe khoắn, nhiều hơn một chút! Khi chúng ta nói tốt cho người nào, người đó sẽ ráng giữ gìn được tốt như vậy. Người đó sẽ phát huy khía cạnh tốt, bỏ đi khía cạnh không tốt. Chẳng hạn như là: cha mẹ rầy la, nhiếc mắng con cái, nhưng không bao giờ, mở lời khen thưởng, cũng không bao giờ, nói tốt con cái, thậm chí nhiều khi, đem các tật xấu, của con cái mình, nói với người ngoài, trước mặt con cái. Tác dụng giáo dục, sẽ rất tiêu cực!

Có câu chuyện đáng cho các bậc phụ huynh nghiền ngẫm sau đây: Có một chú tiểu, sống trong tu viện, đợi khi trời tối, thường hay leo tường, đi ra ngoài chơi. Vị sư trụ trì, biết được việc ấy, nhưng chẳng nói gì. Hôm nọ sau khi, đi chơi trở về, chú tiểu leo tường, trở vào bên trong, bởi vì trời tối, không có đèn dầu, đặt chân ngay đầu, của vị sư phụ, thay vì chiếc ghế, dùng để trèo tường, ra chơi bên ngoài. Vị thiền sư đó, chẳng nói nửa lời, quở phạt trách móc, còn ân cần khuyên: Con đi ngủ đi, đã khuya rồi đó! Từ đó về sau, chú tiểu quyết tâm, hết lòng hết sức, tận tâm tận tình, tận lực tận sức, tu học tinh tấn. Về sau trở thành, một vị thiền sư, nổi tiếng khắp nơi, giúp ích đạo đời, nhiều người lợi ích. Bởi vậy, sách có câu:

Tha thứ thì thư thái. Thư thái thì thành tựu.
Thành tựu thì thanh thản. Thanh thản thì thảnh thơi.

Có rất nhiều khi, người ta nói xong, lời nói khó nghe, làm mình khó chịu, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác, trong khi người nói, quên mất lâu rồi, còn mình thì sao, lúc nào cũng nhớ, ôn đi lập lại, làm khổ lỗ tai, vợ chồng con cái. Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn bài viết, xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị đố kỵ, ghen ghét hơn thua, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói tim, khỏi cần uống thuốc, chẳng cần xức dầu, nghĩa là chúng ta không phiền não và khổ đau. Chẳng hạn như khi: chúng ta đi dự, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà, đem ra biếu tặng, chúng ta không nhận, tức nhiên chủ nhà, giữ quà đó lại. Cũng y như vậy, người đời thường tặng, lời khen tiếng chê, đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận, tức nhiên sẽ được: ăn ngon ngủ yên, an lạc hạnh phúc. Trong sách có câu:

Thần khẩu nó hại xác phàm.
Người nào nói quá họa làm khổ thân.

Hoặc:

Lỡ chân gượng được đứng lên.
Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi.

Hoặc:

Nước đổ còn khó hốt thay.
Nói rồi hối hận chẳng hay chút nào.

Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, ít ai hối hận vì ít nói. Nhưng nhiều người hối hận vì nói nhiều, và nói quá lời. Trong gia đình nào, vợ chồng đồng lòng, tu tâm dưỡng tánh, nếu vợ hay chồng, nói lời khó nghe, người kia vui vẻ: Nói bớt chút đi, giảm 50% nhe, sao mắc quá vậy? Người vợ hay chồng, nghe qua liền tỉnh, nở nụ cười tươi. Thế là mọi sự, mọi việc bình yên, vui vẻ khỏe khoắn, gia đình hạnh phúc, chắc chắn không nghi! Gia đình như vậy, khỏi coi thầy bói, khỏi tới luật sư, khỏi thăm bác sĩ, mặt không như khỉ, tâm hồn phơi phới, thanh thản thảnh thơi, vui tươi suốt ngày!

Trong lòng chất chứa, quá nhiều lời nói, thường là khó nghe, nên khó tiêu hóa, tâm của chúng ta, sẽ bị bất an, ngày ăn không ngon, đêm ngủ không yên, thành tiên mắc đọa, thực là tai họa, cuộc đời kém vui. Nếu chúng ta hiểu, lời nói người khác, khía cạnh tốt đẹp, chắc chắn cuộc đời, sẽ vui vẻ hơn. Như trong gia đình, vợ chồng con cái, nói lên lời nào, đều được mọi người, hiểu theo ý tốt, vui vẻ đón nhận, chắc chắn gia đình, luôn luôn hạnh phúc, không có tranh cãi, khỏi phải cầu nguyện, khỏi cần van xin, thần linh phù hộ. Người nào đang mang, mắt kiếng màu hồng, sẽ thấy cuộc đời, hồng hồng vui tươi, sáng sáng trong trong. Bằng như ngược lại, người nào đang mang, mắt kiếng màu đen, sẽ thấy cuộc đời, u ám tối thui, nhìn thấy người nào, cũng tưởng là ma, đen thủi đen thùi! Hạnh phúc thối lui, phiền não khổ đau, khởi đầu như vậy!

Trong kinh sách có, câu chuyện như sau: Chú tiểu theo sau, hầu vị hòa thượng, cả hai đang đi, trên con đường làng. Nhìn thấy cảnh tượng, các người nông dân, làm lụng vất vả, các con trâu cày, cực nhọc vô cùng, nhiều con côn trùng, bị lưỡi cày cắt, đau đớn oằn oại, khắp nơi trên ruộng, chú tiểu phát tâm, đại từ đại bi, thương xót chúng sanh, bèn thốt lên rằng: Con quyết tâm tu hành, cho đến thành chánh quả, để độ tận chúng sanh. Vị hòa thượng tán thán: Con vừa phát tâm Bồ Tát, vậy hãy đi trước, để thầy đi sau, con chớ đi mau, thầy không theo kịp. Đi thêm một đoạn, cảm thấy mệt quá, chú tiểu bèn than: Tu hành quả thiệt là khổ! Không tu có lẽ sướng hơn! Vị hòa thượng phán: Con thối thất tâm Bồ Tát, hãy đi theo sau, để thầy đi trước! Nghĩa là: Nói lên nhiều chừng nào, thố lộ tâm mình động nhiều chừng ấy! Đơn giản như vậy!

Trong kinh sách các từ ngữ như “vô học”, “hư thân”, có ý nghĩa rất thâm sâu. Người muốn tu tâm dưỡng tánh phải tìm học kinh điển và đem áp dụng vào đời sống hằng ngày. Cho đến lúc không chứng đắc, không còn phải học nữa, được gọi là bậc vô học, tức là bồ tát đó vậy. Còn từ ngữ hư thân có nghĩa là thân tứ đại của tất cả chúng ta đều giả tạm, hư dối, không thực, tạm bợ, biến đổi theo thời gian cho đến lúc bị hư hoại và mất đi, trở về với cát bụi. Ở ngoài thế gian, cũng những chữ đó, nhưng có nghĩa khác, có ý xấu và tiêu cực, thường dùng để miệt thị người khác.
Trên đời có rất nhiều người thích thần thông phép lạ, chứ không thích tu tâm dưỡng tánh. Chẳng hạn như họ thích được thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Tức là mắt thấy được xa ngàn dặm, tai nghe được xuyên sơn cách vách. Những người như vậy, nếu đạt được thần thông, chắc chắn sẽ đau khổ vô cùng vô tận. Tại sao như vậy? Bởi vì, những lời nói sau lưng, những lời nói sau vách tường, những lời nói ở nơi xa, thường là những lời nói khó nghe, nặng như bò kéo xe, không dám nói trước mặt, những lời nói phát xuất từ tâm ma, không phải tâm Phật, chẳng hạn như: tâm ganh tị đố kỵ, tâm hơn thua phải quấy, tâm tham lam sân hận si mê. Sách có câu: “Tiếng lành đồn gần. Tiếng dữ đồn xa”. Khi nghe được những lời nói như vậy, bởi vì không biết tu tâm dưỡng tánh, chắc chắn con người sẽ khởi tâm tức giận, cuộc sống bất an, bắt đầu cho những phiền não khổ đau, xảy ra sau đó, do tâm ma của chính mình, sai khiến mình phản ứng, đối chọi lại những điều nghe được, do thiên nhĩ thông!

Do đó cho nên, đạo Phật chủ trương: tu tâm và dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chuyển hóa cuộc đời, biến phiền não khổ đau, thành an lạc hạnh phúc. Trong đạo Phật, không quan trọng chuyện thần thông phép lạ, không cần biết tượng đá khóc, thiệt hay không, không cần biết bức tranh chảy nước mắt, thiệt hay không, không cần biết thần thánh hiện trên vách tường, trên đám mây, trên ngọn cây, trên nóc nhà, trên cánh đồng, trong giáo đường, trong chùa miễu, thiệt hay không. Tại sao như vậy? Bởi vì, những chuyện thần thông không tưởng đó, chẳng đem lại ích lợi gì, cho việc tu tâm dưỡng tánh, chẳng đem lại an vui lợi lạc nào, cho bất cứ ai.

Người nào chỉ biết, quan tâm đến chuyện, thần thông phép lạ, linh thiêng huyền bí, mơ mơ hồ hồ, cầu nguyện van xin, tức là người đó, lạc vào tà giáo, hành theo ngoại đạo, không phải Chánh Pháp, đúng của đạo Phật, dù người đó là: tu sĩ tại chùa, Phật Tử tại gia! Hơn nữa chúng ta, cần lưu ý rằng: chính con người thường, làm việc cứu xét, phong thánh phong thần, cho nhiều người khác, qua đời trước kia, vì không giữ được, mạng sống của họ, nên phải hy sinh. Để rồi sau đó, cũng chính con người, cầu nguyện thần thánh, trở lại giúp đỡ, phù hộ độ trì, bảo vệ gìn giữ, chính thân mạng mình, và linh hồn mình! Thực là lẩn quẩn! Thực là loanh quanh! Thực là ngây thơ! Như người đang mơ, chưa chịu tỉnh thức!

Thích Chân Tuệ

(Cư Trần Lạc Đạo Tập 3)