Tôi còn nhớ hôm đó, khi mặt trời đã lừ đừ lặn về hướng Tây xa xa có những rặng núi xanh rì, tôi ra khỏi tam quan của chùa để trở về nhà… Không khí trong lành, đường liên thôn im ắng giữa hai lũy tre xanh, khiến cho tôi có cảm giác thật dễ chịu, nên cho xe chạy tốc độ thật chậm để tận hưởng những giây phút êm đềm và an lạc.
Thật an lạc. Bữa cơm trưa mà tôi được thọ hưởng tại một ngôi chùa lặng thầm ở ngoại thành, vừa cho tôi một cảm xúc vô cùng huyền diệu, đến độ đã rời khỏi chùa một quãng xa rồi mà trong lòng vẫn còn râm ran niềm vui sướng, thích thú. Và, tôi đã bật miệng thốt lên từng câu chữ, từng ý tứ quyện đầy cảm xúc huyền diệu đó thành bài thơ lục bát.
Đâu phải là lần đầu tiên tôi được ăn com chùa.
Cơm chùa thì chắc tôi đã được thọ hưởng cả nghìn lần trong nửa đời người rồi.
Cơm chùa thì chắc là cơm chay, ăn chay, còn gọi là ăn lạc rồi, chứ không lẽ là ăn mặn với mắm thịt cá tôm?
Nhưng bữa cơm chùa lần này khác hẳn, rất đặc biệt nhưng lại rất tự nhiên, là bữa cơm tại một ngôi chùa lạ lẫm, lần đầu tiên tôi đặt chân vào một cách ngẫu nhiên, trong chuyến rong ruổi viết bài về những tự viện miền quê xa xôi, ít người biết đến.
Nhân duyên đưa đẩy. Thiện duyên sắp đặt. Tôi lạc bước vào chùa khi đã sắp đến giờ Ngọ, đường xa nắng rát khiến cổ đã khô khát, bụng cũng đang cồn cào nủng nịu đòi ăn. Một ngày bình thường, không có lễ lạc, không có lễ vía, nên từ trước ra sau, từ trái sang phải của chùa vô cùng im ắng, thanh tịnh. Thích thật. Tôi nhớ hoài cảm giác bình yên đó. Một cảnh giới hoàn toàn trái ngược với nội thành xô bồ hào nhoáng mà tôi đã bỏ lại sau lưng khi sáng sớm lên đường tác nghiệp. Tôi được hầu chuyện thầy trú trì, và vì đã trưa, đến giờ tịnh trai, nên thầy gác chuyện cung cấp tư liệu về chùa sau bữa cơm trưa. Vậy là, tôi được thầy “đãi” một bữa cơm chay thanh tịnh thường ngày của chốn thiền môn.
Quá ngon! Ngon có lẽ vì khung cảnh, vì không khí, vì hương vị của nhà chùa, vì sự đối đãi thân thiện cởi mở của thầy trú trì, và cũng vì tôi đang đói bụng. những cái “vì” đó hợp lại, đã cho tôi một bữa cơm chay ngon tuyệt trần, rồi sau đó là cho ra đời một thi phẩm:
Cơm chùa
Ta về thọ hưởng cơm chùa
A ha… ngon quá, bụng vừa hoan ca
Bồi hồi vị đắng khổ qua
Bát canh tưới đẫm gẫm ra ngọt bùi
Bao năm bưng chén cơm Đời
Loay hoay thắng bại tơi bời mưu sinh
Ngon chi đâu khẩu vị mình
No chi đâu cái bụng cành hả hê?
Cơm chùa một bữa no nê
Hốt nhiên quên cả đường về nhân gian
Hạt cơm thanh tịnh: Hạt Vàng
Pháp hây hây thổi, nhẹ nhàng tâm tư
Rau vườn hòa hợp đậu tương
Mang về phố thị vị hương cõi Thiền
Cơm ngon khoảnh khắc hiện tiền
Gọi kêu Phật Tánh thức liền giấc Mê
Nam mô… lạy tạ trở về
Ngày mai có đứa bỏ bê cơm Đời!
Bài thơ được hoàn thành sau khi tôi vừa về đến nhà, mở máy tính lên, ngồi gõ lại từng câu chữ mà suốt đoạn đường về tôi ghim giữ trong tâm trí. Sau đó, tôi gửi đến tòa soạn Tuần Báo Giác Ngộ qua email, rồi chỉ một tuần lễ sau nó được xuất hiện trên mặt báo giấy.
Thật kỳ diêụ! Không phải là một tuyệt tác thi ca, nhưng bài thơ dường như đã đi vào lòng người một cách nhanh nhất, “điểm trúng huyệt” của nhiều người đang ăn chay, thích ăn chay, và đã nói giùm họ nỗi niềm, cảm xúc mà họ chưa bày tỏ được,,, Rồi, bài thơ đã được các trang mạng (website) của Phật giáo trong và ngoài nước tuần tự giới thiệu lại:
… và một số trang mạng khác nữa, nếu có thời gian rỗi rảnh lang thang tìm kiếm qua Google. Ấn tượng nhất, làm tôi vui sướng nhất, là vào một ngày nọ, tôi được một bạn sinh viên ở tận thủ đô báo tin cho hay: Bài thơ “Cơm Chùa” của TKVH đã được viết bằng thư pháp, minh họa thêm hình chú tiểu, in màu, lồng trong khung kính treo trịnh trọng trên tường một quán Cơm Chay có tiếng ở phố Thái Hà, Hà Nội. Tôi không nhớ rõ là quán tên gì, chỉ nhớ vậy, và nghe nói không chỉ có một quán treo bài thơ đó. Bạn sinh viên đã lấy điện thoại chụp một kiểu làm chứng làm tin, gửi qua mạng cho tôi xem, lưu giữ để làm kỷ niệm, một kỷ niệm đẹp về …Cơm Chùa.
Nam mô Phật! Còn gì vui hơn?
Tâm Không Vĩnh Hữu