Phật Dạy Rahùla Giữ Chánh Niệm Khi Đi Khất Thực

Thực Tập Tỉnh Thức

Giác Ngộ Không Phải Là Vấn Đề Của Năm Tháng

Phật Dạy Rahùla Giữ Chánh Niệm Khi Đi Khất Thực

Cuối mùa thu sau mùa an cư thứ 11, đức Phật tới Sàvatthi. Rahùla trong một lần đi khất thực với Phật đã đánh mất chánh niệm do đang nghĩ vẫn vơ đến những chuyện khác. Chú bắt đầu tưởng tượng về việc nếu Phật không đi xuất gia thì bây giờ Phật sẽ làm gì và chú sẽ làm gì. Chú nghe mẹ kể về chuyện có nhà tiên tri cho rằng nếu Phật không đi xuất gia, chắc chắn ngài sẽ trở thành chuyển luân thánh vương và không biết một vị chuyển luân thánh vương là làm những chuyện gì, chắc là không đi khất thực như bây giờ, chú không phải đi khất thực như bây giờ. Quan sát 32 tướng tốt vả 80 vẻ đẹp của Phật, chú nghĩ mình là con của ngài, chắc hẳn cũng có tướng tốt và vẻ đẹp như vậy. Suy nghĩ chuyện này chuyện kia nên dáng đi của chú không còn uy nghi. Phật biết chú đánh mất chánh niệm và đang suy nghĩ lung tung nên dừng bước, quay lại và bắt đầu chỉ dạy Rahùla.

Này Rahùla, muốn an trú trong chánh niệm, con phải theo dõi bước chân và duy trì hơi thở, đồng thời theo dõi tâm ý của mình. Trong khi đi khất thực, mình đi vào thế gian thì không nên đánh mất chánh niệm, mà cần duy trì việc thiền đi. Chúng sinh được tạo nên năm uẩn, bao gồm sắc, thọ, tường, hành và thức và chúng mang tính cách vô thường và vô ngã. Thân thể này không phải là ta, không phải của ta và không phải tự ngã. Cái gì đẹp đẽ nhất cũng phải già nua, tàn lụi và hủy hoại. Biết được như vậy, mình không bị kẹt vào năm uẩn, không bị thất niệm vì năm uẩn. Một người biểu diễn xiếc trên dây, người này rất cẩn trọng từng động tác, từng bước đi để giữ cho thân được cân bằng không bị ngã. Thực tập chánh niệm giống như người diễn xiếc đi trên dây, chú ý về thân và tâm để không bị xao động, không bị nghiêng ngã trong lúc bước đi.

Nghe Phật rầy, Rahùla quyết chí thực tập chánh niệm, chú rời khỏi đoàn khất thực, quay lại cụm rừng thực tập thiền quán, thành tâm giữ chánh niệm.

Chánh niệm là nhận diện đơn thuần, biết điều gì đang xảy ra, về bên trong lẫn bên ngoài. Nói đến chánh niệm thì chành niệm về cái gì, tức là phải có đối tượng của chánh niệm. Chánh niệm về thân, hay nhận diện thân và biết thân. Khi đi biết đang đi, khi ngồi biết đang ngồi, khi nằm biết đang nằm, khi thân đang làm gì thì biết thân đang làm việc đó. Thân chứa đầy những thứ bất tịnh hay một đại gia hôi thúi. Nhận diện sự bất tịnh của thân để không chiều chuộng thân, không chiều chuộng thân bằng các tham đắm của sáu căn. Nhận diện sự thanh tịnh của thân để biết nuôi dưỡng và chăm sóc thân, sử dụng thân như đền thờ tâm linh, như con thuyền vượt biển, nhờ đó mà biết giữ giới, biết lợi dụng thân để hành trì chánh pháp. Chánh niệm về tâm, hay nhận diện tâm và biết tâm. Tâm đôi lúc giãi đãi, dễ duôi và lười biếng, nhận biết điều này để quay về sự tinh tấn. Tâm thường hay lạc lõng trong những cuộc phiêu lưu của quá khứ, hiện tại và tương lai nên tâm thường thất niệm, đánh mất uy nghi của thân. Biết đang thất niệm là bắt đầu có chánh niệm và chánh niệm làm cho thất niệm, là những ưu phiền, những lo toan, những sợ hãi tan như mây khói. Chánh niệm về thọ, hay nhận diện thọ và biết thọ. Thọ này là khổ nhưng khi biết thọ, cái khổ giảm đi và có khả năng chuyển hóa. Chánh niệm như vị trụ trì của một ngôi chùa, biết các đệ tử đang hạnh phúc hay khổ đau, biết nhu cầu của từng đệ tử, từ đó có thể giúp từng đệ tử thực tập, chuyển hóa và thành tựu. Khi thọ khổ phát sinh, biết có thọ khổ đang phát sinh, đang diễn ra và đang kết thúc, cũng vậy đối với thọ lạc và thọ xả. Tìm kiếm thọ như tìm kiếm khổ mà biểu hiện của khổ chỉ đi ngang qua các cảm thọ như thế nên thọ hết sức vô thường và vô ngã. Như một nụ cười, có thể vô tư, cò thể đẹp đẽ, có thể nhẹ nhàng, có thể đàm tiếu, nhưng nụ cười đó đến rồi đi, xuất hiện như cơn gió thoảng qua. Mình tập trồng những nụ cười và có cảm giác lạc thú hay bình yên nhưng không kẹt vào nụ cười đó. Cười chỉ để cười thôi. Cười có mục đích thì phẩm chất của cười đã giảm đi ít nhiều.

Chánh niệm về các pháp, hay nhận diện pháp và biết pháp. Các pháp biểu hiện do kết hợp của các nhân duyên mà mọi thứ đều trùng trùng duyên khởi nên các pháp hết sức vô ngã. Tạo ra động lực mang tính chất ép buộc để các pháp thuận theo mình rất khó. Chánh niệm như một cách nhận diện trong điều kiện của chấp nhận, như thay đổi thái độ để thay đổi thế giới, như tâm an cảnh sẽ an, như tâm bình thế giới bình. Một người xin vào tập đoàn Intel làm việc, bản thân tập đoàn này đã có sẵn nền văn hóa doanh nghiệp, có những chuẩn mực văn hóa, có sứ mệnh, có tầm nhìn. Bây giờ người này vừa vào làm việc và yêu cầu tất cả mọi thành viên trong tổ chức đó, tất cả chuẩn mực văn hóa doanh nghiệp, tất cả giá trị cốt lõi của sứ mệnh phải thay đổi vì người này thì e là vọng tưởng. Người mới vào phải học cách hòa nhập môi trường mới, văn hóa mới, thay đổi để thích nghi với cái mới, bằng không sẽ bị đào thải. Hòa nhập chứ không hòa tan, hòa nhập mang yếu tố chấp nhận, còn hòa tan mang yếu tố buông lung. Nhận diện đơn thuần các pháp để không chạy trốn các pháp, không làm ngơ, không quay lưng, mà cùng trở về với các pháp. Các pháp đang diễn ra là các pháp đang trở về, mình đang đồng hành với các pháp tức là mình cũng đang trở về.

Mọi người thường chúc nhau câu nói, Chúc bạn thân tâm thường an lạc. Vậy điều gì có thể dẫn tới thường an lạc? Chánh niệm về năm uẩn là giúp cho bên trong lẫn bên ngoài thường an lạc. Năm uẩn không hẳn là bên trong cũng không hẳn là bên ngoài bởi vì năm uẩn được làm bằng những yếu tố không phải là tôi, không phải riêng biệt của tôi. Sắc thân này được hình thành từ các yếu tố của ba mẹ, ông bà, tổ tiên, thầy cô, bạn bè, từ anh chị, từ đất đai, cây cỏ, không khí, hơi ấm… Chăm sóc cho sắc thân là chăm sóc cho tất cả yếu tố kia, chánh niệm về sắc thân là làm cho tất cả các yếu tố kia hiện tiền và trân quý sự có mặt của tất cả các yếu tố kia. Vì thế mới nói khi đi thiền hay ngồi thiền thì tất cả các yếu tố làm nên sắc thân đều đang đi thiền và ngồi thiền nên nếu mình có an lạc trong thiền tập tức là ba mẹ, thầy cô, đất đai, cây cỏ … đều có an lạc. Đây chính là sự mầu nhiệm của chánh niệm.

Tưởng là tri giác và tri giác về một đối tượng nào đó. Tri giác có thể đúng đắn hoặc sai lầm. Khi thông tin hay các điều kiện đầy đủ, tri giác đúng đắn hơn và khi chưa đủ thông tin hay các điều kiện chưa đầy đủ, tri giác có thể sai lầm. Khi nhìn cách hành xử của một người, mình có tri giác về người đó, tuy nhiên tri giác này chỉ mang tính tương đối, có thể đúng hoặc có thể sai. Cách hành xử ban đầu chưa thể nói lên tính cách vì có thể đó chỉ là phản ứng nhất thời trong hoàn cảnh nhất thời. Tri giác đúng có thể mang đến hiểu biết và thương yêu. Do có tri giác đúng đắn, người kia được hiểu, được thông cảm và dễ dàng được chia sẻ. Tri giác không đúng đắn, sự hiểu lầm diễn ra và người kia không được hiểu, không được thông cảm, không được chia sẻ và việc phán xét bắt đầu diễn ra. Chánh niệm về tưởng để biết lắng nghe, không thấy đối tượng kia nằm ngoài mình và cũng biết thương mình. Thương mình vì vẫn còn hời hợt, không chịu nhìn sâu, không thấy được nỗi khổ niềm đau của người kia.

Hành là những hiện tượng tâm ý sau khi có tưởng như chú ý, đánh giá, phê bình, phán xét, yêu thương, ghét bỏ, hờn giận, quyết tâm, chú tâm… Nếu vọng tưởng thì hành sẽ xa rời vì các biểu hiện của tâm lý không như những gì đang diễn ra. Vọng tưởng càng điên đảo thì tâm ý càng điên đảo và cách hành xử vì thế trở nên điên đảo. Con người tạo nghiệp do không chánh niệm rõ ràng về hành, không theo dõi được hành và để cho hành dẫn đi. Muốn quản trị nghiệp, cần thực tập chánh niệm về hành, nhận diện mình đang suy nghĩ điều gì và hành động điều gì.

Tiếp theo, thức phát sinh khi căn tiếp xúc với trần. Sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo ra sáu thức, là ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có chánh niệm thì sáu thức tạo nên phân biệt với các đối tượng hình sắc, âm thanh, vị nếm, mùi hương, xúc chạm và suy nghĩ. Do có phân biệt nên có thích hay không thích, thương hoặc ghét, tầm cầu hay không tầm cầu, thấy có cao thấp, thành bại, đẹp xấu và đủ thứ phân biệt khác. Chánh niệm về thức để thấy tất cả các trần đều bình đẳng, tùy theo nhân duyên mà biểu hiện. Cái thấy về bình đẳng đem tới quả vị không của các pháp. Do không phân biệt nên không chấp trước, mình thực tập được bình an. Bình an là hoa trái của thực tập chánh niệm.

Năm uẩn là lãnh thổ, có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ. Chúng dính với nhau không thể tách rời. Uẩn này liên quan đến uẩn kia và uẩn kia liên quan đến uẩn nọ. Chánh niệm về lãnh thổ như đức vua đang cầm cương, lèo lái đất nước một cách an lạc và thái bình. Thân là lãnh thổ, tâm là lãnh thổ. Bảo vệ thân tâm là bảo vệ lãnh thổ. Bảo vệ lãnh thổ là sự nghiệp của đức vua thì bảo vệ năm uẩn là sự nghiệp của người tu. Đã làm một người tu thì phải thu thúc sáu căn như đức vua trị vì lãnh thổ, xây dựng quốc phòng, sắp xếp kỉ cương và phòng ngừa kẻ địch. Chánh niệm để phòng ngừa những tên trộm, thản nhiên với kẻ địch và xây dựng hòa bình cho thân tâm. Chánh niệm là trở về với thực tại, sống chung với vô thường, vô ngã và niết bàn. Trong giây phút chánh niệm ở đỉnh cao, mình như dạo chơi giữa vô thường, nhận diện vô thường nhưng không miệt mài trong vô thường. Thực tại rất vô ngã, do chịu sự tác động của nhân duyên, nên mình dạo chơi giữa khu vườn vô ngã, không còn hả hê trong những ý niệm về ngã. Niết bàn là bây giờ và ở đây, giờ khắc có chánh niệm là giờ khắc mọi ý niệm vắng bặt, phẩm chất niết bàn bắt đầu lên ngôi, biến cõi ta bà thành cõi niết bàn.

Chánh niệm giúp hành giả tiếp xúc với thực tại mầu nhiệm hay sự sống mầu nhiệm. Thân thể này là một thực tại mầu nhiệm. Mình biết mình còn sống và thực tập sống sâu sắc trong thực tại. Tất cả đều có mặt trong thân thể này và thân thể này cũng đang biểu hiện trong muôn hình vạn trạng thân thể. Chúng sinh đang trao đổi chất cho nhau và chúng sinh đang nương tựa vào nhau để sống. Thân Phật thanh tịnh như lưu ly nhưng cái tính lưu ly có sẵn trong mỗi chúng sinh, chỉ cần mỗi ngày lau đi chút thất niệm, gia tăng chút chánh niệm, đến khi chánh niệm đầy dẫy trong thân, thân chúng sinh sẽ trở nên thanh tịnh như lưu ly. Tâm Phật sáng ngời như trăng tỏ nhưng tính trăng tỏ có sẵn trong mỗi chúng sinh, chỉ cần mỗi ngày giảm bớt mấy tên trộm trong tâm, bớt đi hoang, gia tăng chút chú tâm, đến khi chánh niệm tròn đầy, tâm chúng sinh bỗng chốc sáng ngời như trăng tỏ.

Thực tập chánh niệm là hiến tặng cuộc đời từ ái. Có bài kệ đi đường, Khoan thai bước trên đường – Lòng dạt dào tình thương – Hồn nhiên như thơ trẻ – Tâm bồ đề ngát hương. Đường phố tất bật đầy ô nhiễm, có người đi khoan thai thảnh thơi thì đúng là của hiếm. Người này đang hiến tặng đời từ ái, vì khoan thai thảnh thơi là chất liệu của từ ái. Vì thảnh thơi nên có đủ thì giờ quán chiếu tình thương và phát khởi tình thương. Tình thương xuất hiện trong từng bước chân chánh niệm, nó không đi vào phiền não, hối hả, lo toan và kì thị, mà đi vào từ ái, đi vào bình an, đi vào không tất bật, nhờ thế mà buông bỏ. Bước chân chánh niệm là bước chân của thực tập buông bỏ, buông bỏ những lớp bùn nhơ là náo nhiệt và cằn cỗi sự sống, bước chân như vậy là bước chân làm nở hoa sen, bước chân đi trong bùn nhơ nhưng không lấm lem bùn nhơ. Trẻ thơ chỉ biết rong chơi và vui cười. Nhiều khi người lớn cần học cách hồn nhiên của trẻ thơ, nhưng cái tính trẻ thơ không mang tính chất thờ ơ với thực tại mà đi trong thực tại, ngắm nhìn thực tại nhưng không vòi vĩnh thực tại. Biết thảnh thơi, biết yêu thương, biết an nhiên, biết tỉnh thức, mình làm cho tâm bồ đề được nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là tâm giác ngộ, tâm biết tỉnh thức. Mỗi ngày giác ngộ một chút, mỗi bước chân tỉnh thức một chút, sự sống sẽ trở nên từ ái, không đến nỗi khổ đau như người ta tưởng, không đến nổi điên đảo như người ta tưởng. Chánh niệm giúp hành giả trở nên vô cầu vì đã thỏa mãn trong thực tại. Thực tại đã đầy đủ các điều kiện để thỏa mãn nên không còn tầm cầu gì nữa. Đây gọi là cầu cái vô cầu. Khi chánh niệm trở thành thói quen, mọi thứ đã trở nên có chánh niệm, thì còn niệm gì nữa, chánh niệm cũng như không niệm, nên gọi là chánh niệm vậy. Tâm không vòn vọng động thì niệm gì nữa, đây gọi là niệm cái vô niệm.

Chánh niệm đập tan và phá bỏ mọi lằn ranh giới do phân biệt gây nên. Mình bắt đầu biết hóa thân như vị bồ tát đem tình thương khắp chốn nhân gian. Chánh niệm về sự có mặt của ba mẹ, ba mẹ bên ngoài và ba mẹ bên trong, mình tiếp xúc với ba mẹ trong tất cả chúng sinh và trong phút chốc, mình không phải là trẻ mồ côi vì tất cả chúng sinh đều là ba mẹ mình. Bồ tát Địa tạng thực tập hạnh nguyện báo hiếu chúng sinh, theo đó xem tất cả người nam đều là ba mình và tất cả người nữ đều là mẹ mình. Tất cả thì không còn phân biệt, thực tập chánh niệm có thể làm cái chuyện như vậy. Khi khổ đau hay tai nạn xảy đến người khác, mình không thờ ơ với khổ đau. Nếu cứ cho khổ đau chỉ xảy ra cho người kia thôi và không bao giờ xảy ra với mình, mình đang phân biệt trong đối tượng hứng chịu khổ đau. Đã sinh ra làm người thì phải biết thân này ắt sẽ già, thân này ắt sẽ bệnh, thân này ắt sẽ chết, thân này ắt sẽ hoại. Người kia cũng thế, mình cũng thế. Cái sinh, lão, bệnh, tử nối tiếp trùng điệp có chúng sinh nào mà không phải trải qua. Biết vậy nên sống sâu sắc trong thực tại, không thờ ơ với thực tại và không dẫm đạp thực tại mà đi. Mẹ đang còn sống đó là một thực tại, trân quý sự có mặt của mẹ là trân quý thực tại nên sống trọn vẹn với sự có mặt của mẹ. Dù mai đây mẹ có xa lìa thế giới, có chuyển sang thực tại khác, mình không tiếc nuối, không hối hận, vì mình đang là tiếp nối của mẹ, thực tại mẹ đang được nuôi dưỡng trong mình, hãy hạnh phúc với người mẹ ở trong mình đó. Mình và mẹ có sự thống nhất mầu nhiệm, vì mẹ đi vào mình và mình đi vào mẹ, không hề có lằn ranh giới nào. Tính mẹ có sẵn trong mình và tính mẹ cũng đầy dẫy trong tất cả các đối tượng. Có thể nói ai cũng có thiên hướng làm ba mẹ và ai cũng có thiên hướng làm đứa con, khi ba mẹ và con cái đi vào nhau, thì không còn phân biệt gì nữa, tùy theo nhân duyên mà tính này hay tính kia biểu hiện. Chánh niệm miên mật có công năng chặt đứt sự phân biệt để tiếp xúc với thống nhất nhiệm mầu.

Thực tập chánh niệm khi uống trà gọi là thiền trà. Khi uống, hãy thử đọc bài kệ, Hai tay nâng chén trà – Theo dõi thở vào ra – Bây giờ hãy tiếp xúc – Vạn vật đang hòa ca. Uống trà là chỉ để uống trà thôi. Nếu có chánh niệm, chén trà đang có mặt cho mình nên mình cũng nên có mặt cho chén trà. Chú tâm vào việc pha trà, rót trà, mời khách, nâng chén trà và uống trà. Uống trà mà nói chuyện phiếm, bực mình vì chuyện đời, lo lắng về tương lai hay sợ hãi về chuyện quá khứ, mình đánh mất mình trong việc uống trà. Trong giây phút buông thả, mình không thực sự uống trà, mà uống cái chuyện phiếm, uống cái bực mình, uống cái lo lắng hay uống cái sợ hãi, hạnh phúc trong việc uống trà bị đánh cắp. Thực tập quán chiếu khi uống trà mà trân quý chén trà. Vạn vật đang góp mặt trong chén trà, nào là đất, nước, mưa, ánh mặt trời, nào là công phu chăm sóc lá trà, hái lá trà, phơi khô hay sấy khô. Rất nhiều yếu tố của đất trời và sức người nằm trong từng giọt trà. Uống trà là uống cả đất trời, uống cả vũ trụ. Vạn vật đang hòa ca mà tạo nên chén trà đó. Nên chén trà là cả một bài pháp thoại, uống trà là cả một bài thiền tập và người uống trà là một hành giả. Chánh niệm khi uống trà không đơn thuần là có mặt cho chén trà, mà còn có mặt cho cả đất trời, cho cả vũ trụ. Người hành thiền trà muốn thông báo rằng, con đang có mặt cho đất trời đây, con đang có mặt cho vũ trụ đây. Sự có mặt đích thực là báo hiếu đích thực. Thiền trà vì thế là bài thực tập mầu nhiệm.

Thực tập chánh niệm về lời nói gọi là thiền nói hay thiền ái ngữ. Hiến tặng lời từ ái là lời ái ngữ có chánh niệm. Lời nói có thể tưởi tẩm những hạt giống lành khiến người nghe có niềm tin, có niềm vui, có hạnh phúc, bỗng chốc chuyển hóa được khổ đau trong tâm. Lời ái ngữ có chất liệu của sự thật nên nói sự thật là tôn trọng người nghe và xây dựng trung tín trong xã hội. Vì biết mình nói lời sự thật nên người nói hiến tặng bình an, tức là có chánh niệm, có tu trong khi nói. Nói lời hòa giải, cảm thông, lời nói bao dung, tha thứ lúc nào cũng đẹp và thật không hay khi nói lời chia rẽ, kích động bạo lực và hận thù. Phim ảnh và âm nhạc đôi khi có nhiều lời lẽ rất bạo động và ủy mị nên làm phim cũng cần chánh niệm, người viết kịch bản cũng cần chánh niệm.  Một bộ phim làm ra sẽ có hàng ngàn thậm chí hàng triệu người xem, nếu thông điệp, lời thoại, hình ảnh không có chánh niệm thì nó sẽ gieo rắc cho khán giả những đau thương và thèm khát mạnh mẽ đến nỗi nó gây tán nát chẳng khác gì cơn sóng thần. Một bộ phim có giáo dục, tưới tẩm các hạt giống đạo đức, bộ phim đó đáng xem và từ người làm phim, người viết kịch bản, đạo diễn đến ê kíp làm phim và các diễn viên có phước nhiều hơn, có tu hơn. Chánh niệm như người ta mang đến một bao đậu gồm nhiều loại đậu khác nhau, người lặt đậu ngồi xuống phân loại hạt đậu ra, đây là đậu đen, đây là đậu xanh, đây là đậu đỏ, đây là đậu trắng… Phân loại chứ không phân biệt, biết các loại đậu nhưng không phân biệt đậu.

Thực tập chánh niệm mọi lúc mọi nơi là thiền mọi lúc mọi nơi, gọi là thiền công việc hay thiền sinh hoạt. Chánh niệm torng lúc nấu cơm, lặt rau, đánh máy vi tính, sử dụng Internet, kí hợp đồng… Nếu tất cả công việc có chất liệu của chánh niệm, mình sẽ chú tâm trong công việc, mình tiếp xúc với phẩm chất hạnh phúc của công việc. Chánh niệm là trái tim của thiền tập nên chánh niệm mọi lúc mọi nơi là thiền trong mọi hoàn cảnh. Một kế toán viên khi định khoản, biết con số này nên đưa vào tài khoản tiền mặt, con số kia đưa vào tài khoản phải thu, con số này đưa vào tài khoản phải trả. Chánh niệm như người làm kế toán nhận diện được tài khoản nào phải đưa đúng con số thì khi chuẩn bị bảng cân đối kế toán, con số bên có và con số bên nợ mới cân bằng. Trong việc thực tập chánh niệm, nhận diện hạnh phúc và khổ đau, và gọi tên cho được đây là hạnh phúc, đây là khổ đau, mình ở trạng thái cân bằng, không hạnh phúc quá và không khổ đau quá, giữ được tính quân bình trong đời sống hàng ngày. Buổi sáng thức dậy, bước chân xuống đất, hãy dặn lòng thực tập chánh niệm, rồi đến làm vệ sinh, đánh răng, súc miệng, ăn cơm, chạy xe, làm việc, đi bộ… đều cần thực tập chánh niệm. Làm việc ở Kent hay bất cứ chỗ nào khác, tôi đều thực tập chánh niệm, từ việc dẫn xe, đội nón bảo hiểm, lên xuống cầu thang, uống nước, trò chuyện với học trò, tôi đều luôn nhắc nhở bản thân phải giữ chánh niệm. Phật là tỉnh thức và chánh niệm là phương tiện giúp mình tỉnh thức nên chánh niệm có mặt tức là làm cho Phật luôn có mặt.

Phật Dạy Cách Tập Sống Một Mình Nơi Thanh Vắng

Phật Dạy Cách Tập Sống Một Mình Nơi Thanh Vắng

Khi đức Phật nhập hạ lần thứ 13 tại thành phố Càlika thuộc xứ Koliya, đại đức Meghiya làm thị giả cho Phật. Trong một lần đi thiền hành, thầy Meghiya thấy có khu vườn xoài rất đẹp thuận tiện cho việc hành thiền nên xin phép Phật đến đó để thiền tập một mình. Phật khuyên thầy nên đợi một thời gian cho đến khi có thị giả khác thay thế nhưng thầy vẫn cứ xin ba lần nên cuối cùng Phật cũng chấp thuận. Chọn được một nơi thanh vắng, thầy Meghiya bắt đầu thực tập thiền một mình nhưng càng thực tập, những tư tưởng tham dục và sân hận cứ nổi lên, làm tâm thầy trở nên tán loạn, không thể nhiếp tâm được. Điều này trở thành chướng ngại đối với thầy và thấy không tiến triển gì, thầy trở về gặp Phật nhờ được chỉ dạy.

Phật dạy, Này thầy Meghiya, sống một mình nơi thanh vắng để tu tập là điều tốt đẹp tuy nhiên không phải muốn là được. Nếu muốn sống một mình nơi thanh vắng, thầy phải có tinh thần tự lực tự cường, bởi vì lúc này thầy không có ai ở bên cạnh, thầy không thể nương tựa vào bất cứ ai, thầy phải có đủ căn bản giáo lý, nguyện lực và định lực. Nếu thầy chưa có những điều này, thầy cần nương vào các điều sau đây để thực tập. Thứ nhất, thầy nên ở gần các bậc thiện tri thức, những bạn đồng tu có trí tuệ và đạo hạnh, những người có thể hướng dẫn và chia sẻ các pháp môn tu tập. Thứ hai, thầy thường xuyên tụng giới và sử dụng giới luật để giúp mình an trú trong chánh niệm. Thứ ba, thầy nên tìm kiếm các cơ hội nghe pháp thoại, tham gia pháp đàm hay các cơ hội có thể để học hỏi giáo pháp nhằm củng cố con đường thực tập của mình. Thứ tư, thầy nên tinh tấn thực tập thiền quán nhằm giảm bớt và ngăn ngừa những chướng ngại phát sinh và ngủ ngầm trong tâm. Thứ năm, thầy nên thực tập buông bỏ những chấp ngã, thành kiến, tri giác sai lầm, đồng thời phát huy trí tuệ bằng con đường hành trì đúng đắn.

Phật dạy tiếp, Lại nữa, này thầy Meghiya, muốn thành tựu trong việc điều phục tâm ái dục, tâm sân hận và tâm si mê, thầy phải tinh tấn trong việc hành bốn phép quán. Thứ nhất, quán cửu tưởng hay chín phép quán thân bất tịnh, theo đó thầy quán thân thể này từ khi chấm dứt hơi thở cho đến khi tàn hoại thành tro bụi, thầy hãy điều phục tâm ái dục bằng cách này. Thứ hai, quán từ bi, theo đó thầy quan sát cuộc đời ham thích cái vui và sợ hãi khổ đau mà hãy thực tập ban phát niềm vui cho cuộc đời và làm giảm thiểu khổ đau của cuộc đời, thầy hãy điều phục tâm sân hận bằng cách này. Thứ ba, quán vô thường, theo đó thầy quán sát về sự sống vô thường chứa chấp nhiều đau khổ theo từng giai đoạn thành, trụ, hoại và không để đối trị với ham muốn, sự sống này trôi đi như một giấc chiêm bao, như một thế giới ảo, như giọt sương đêm tan đi trong ánh bình minh, không thể gìn giữ, không thể nắm bắt được, thầy hãy điều phục tâm ham muốn và tâm ngã mạn bằng cách này. Thứ tư, quán tùy tức, theo đó thầy theo dõi hơi thở, thở vào thầy biết mình đang thở vào, thở ra thầy biết mình đang thở ra, thầy hãy điều phục tâm tán loạn và nuôi dưỡng chánh niệm bằng cách này.

Này thầy Meghiya, thầy hãy thường xuyên hành trì bốn phép quán này để tâm thầy sớm được vững chãi và thuần thục trước khi sống một mình nơi thanh vắng. (18)

Việc thực tập cần có bạn đồng tu nên đi vào một tăng thân hay thiền thân để gần gũi bậc thiện tri thức, đây là tạo cơ hội để lắng nghe các điều thiện và các lời chánh pháp. Xa rời thiện tri thức đồng nghĩa với gần gũi ác tri thức. Ác tri thức sẽ gieo vào những thức ăn bất tịnh như hữu ái, vô minh, năm triền cái… Thiện tri thức sẽ gieo vào những thức ăn thanh tịnh như bảy giác chi, bốn niệm xứ, chánh niệm chánh trí… Xa thiện tri thức quá lâu, mình trở thành con nai, trông có vẻ đẹp đẽ và ngây ngô giữa rừng vắng, nhưng lại là con mồi ngon cho hổ báo. Như thức ăn của biển cả là mưa và các con sông. Có lúc mưa lớn. Mưa lớn rồi thì suối, nằm trong các sườn núi cứ chảy cho đến tràn đầy. Suối tràn ra những con lạch nhỏ cho đến tràn đầy và đến các con lạch lớn cũng tràn đầy. Lạch lớn tràn ra các sông nhỏ. Sông nhỏ tràn đầy thì sông lớn tràn đầy. Sông lớn chảy ra biển cho đến khi biển tràn đầy. Biển tràn đầy thì biển trọn vẹn, hạnh phúc đong đầy. Gần gũi thiện tri thức như mưa dầm thấm lâu, từ hạt mưa mà làm đầy biển cả. Thiện tri thức giúp mình nuôi dưỡng tâm bồ đề, thấm nhuần mưa diệu pháp cho đến khi hoa giác ngộ nở ra. Mình giải thoát được là bản thân hành trì và hành trì đúng đắn là do sự khuyến tấn và hướng dẫn của thiện tri thức.

Tụng giới là bài thực tập mầu nhiệm. Đây là cơ hội tự thân soi sáng, nhắc nhở bản thân đi theo nẻo thiện và lánh xa nẻo không thiện. Mình thường gieo rắc cho bản thân những yếu tố bất thiện do hoàn cảnh, do ái dục trong tâm, do thiếu sự nhắc nhở và trở nên không còn đẹp nữa. Tụng giới không phải lên đoạn đầu đài, có một cái gươm chặt thân thể ra thành từng khúc. Sợ hãi khiến nhút nhát chiếm cứ và không muốn tụng giới nữa, cho nên tụng giới cũng là cách chuyển hóa sợ hãi. Một khi biết đối diện với sợ hãi, mình không mềm lòng trước sự tấn công của nhu cầu phạm giới. Con người có xu hướng phạm giới và cũng có xu hướng giữ giới. Do không được bao bọc bởi tăng thân hay thiền thân, mình phạm giới như ri, như nắng mùa hè và mưa mùa thu. Nếu sống xa thiện tri thức, hành giả nên tụng giới liên tục, xem giới như tăng thân bảo hộ, như thiện tri thức bảo hộ. Làm việc gì đều suy xét xem, hành động này có phạm giới hay không. Sư suy đồi của người tu hay cái gọi là mạt pháp là do không biết ly tham dục, cho nên cứ phạm giới và phạm giới là con đường đưa người tu đến đọa lạc nhanh nhất. Giữ giới là biết tỉnh thức, biết chánh niệm, làm cho tỉnh thức thành tựu và chánh niệm thành tựu. Vẻ đẹp đầu tiên của người tỉnh thức không phải là trí tuệ mà là người biết giữ giới và dĩ nhiên người biết giữ giới là người biết trí tuệ. Người biết giữ giới là người biết hoằng pháp.

Thầy Ananda ngày xưa có trí nhớ tốt và có thể nói lại những lời thuyết giảng của đức Phật. Thầy là một loại máy DVD recording, thâu lại mọi lời nói của Phật. Ngày nay có thể nghe được những bài kinh, bài kinh dịch hay kinh điển được biên soạn, cũng là do rất nhiều vị thầy ngày xưa, trong đó có thầy Ananda ghi nhớ lời dạy của Phật và học thuộc lòng. Pháp thoại là lời chia sẻ thực tập như đang gần gũi thiện tri thức. Không có cợ hội gặp gỡ thiện tri thức thì sử dụng băng đĩa pháp thoại, sách kinh, sách hướng dẫn thực tập, như là những phương tiện để nhắc nhở và thực tập. Băng đĩa pháp thoại và sách kinh hướng dẫn vì thế cũng là một kiểu thiện tri thức. Công việc bận rộn khiến không thể đến chùa, không thể tiếp xúc với thiện tri thức, sử dụng các phương tiện này cũng là cách để tu học. Nghe pháp thoại là cả một nghệ thuật, nghe chỉ để nghe thôi, ngồi xếp bằng mà nghe, nghe trong sự im lặng tuyệt đối, không phán xét, không di chuyển, tĩnh lặng như tọa thiền, đây gọi là có tu có thực tập trong khi nghe pháp thoại. Nghe pháp thoại không có nghĩa tìm kiếm sự hoa mỹ trong lời, sự ngọt ngào trong câu chữ hay sự hả hê trong lời thoại mà nghe để quán chiếu đến bản thân, mình học tập được gì, hành trì được gì từ điều đó. Học hỏi những kinh nghiệm tu tập, các pháp môn đã được thực chứng để làm phương tiện cho việc hành trì của mình, cho nên kẹt vào tâm lí đám đông, kẹt vào ngôn từ, kẹt vào hình dáng bề ngoài của lời nói thì bài pháp thoại đó chỉ là sự trình diễn, việc nghe pháp thoại cũng là sự trình diễn, nghe cho có. Do sự phát triển công nghệ, các bài pháp thoại mang hơi hướm công nghệ và bị dính vào sự trình diễn. Xem thử trên facebook và các trang mạng Phật giáo, sự trình diễn rất lớn, chẳng hạn người ta kẹt vào cái đẹp của ngôn từ và lời kệ hơn là nhìn thấy được tuệ giác và sự khuyến tấn tu hành trong đó. Nghe pháp thoại trong chánh niệm là nghe bằng tâm muốn hiểu biết và yêu thương. Cái thấy của người nghe có thể khác với cái thấy của người nói nên sự phán xét dễ xảy ra. Hãy sử dụng Kinh Nền Tảng Đức Tin mà đức Phật đã thuyết giảng để xem có nên tin những gì vị thầy ấy nói hay không. Lời pháp, lời kinh hay thậm chí cả lời Phật tuyên thuyết đều cần phải được thực chứng, tức là cần có sự hành trì, có chiêm nghiệm, có kinh qua. Nếu những lời dạy được hành trì mà đem lại hạnh phúc đích thực trong giây phút hiện tại, thì có thể đặt niềm tin và đi theo, còn nếu không thì nghe chỉ để nghe, còn có đi theo không lại là chuyện khác. Cái này gọi là có chánh niệm khi nghe pháp thoại.

Buổi sáng mình có thể ngồi thiền và đi thiền hành. Thiền tập buổi sáng không chỉ giúp cho sức khỏe mà con duy trì năng lượng chánh niệm cho cả một ngày. Buổi trưa, trước khi nằm nghỉ hãy niệm giới, năm giới cư sĩ chẳng hạn. Niệm giới quan trọng lắm, đừng có lười biếng mà quên, nó có công năng nhắc nhở mình giữ giới trong hai mươi bốn giờ tiếp theo. Buổi tối, tụng kinh và ngồi thiền, nghe pháp thoại hoặc đọc một cuốn hướng dẫn thực tập, mình gần như được bảo vệ trong hơi thở của chánh pháp. Thực tập chánh niệm suốt ngày nhằm bảo vệ thân và tâm. Bị kẹt chỗ nào thì hỏi, gửi thư, gửi email, gọi điện thoại, đi gặp bậc thiện tri thức, đặt những câu hỏi liên quan đến việc thực tập, đừng hỏi những câu hỏi lý thuyết.

Năm 2011 là năm đánh dấu sự xuống của thị trường bất động sản ở Việt Nam. Nhiều nguyên nhân cho hiện tượng này, nhưng nguyên nhân lớn nhất là sự đầu cơ và việc mua đi bán lại kiếm lời, không phản ánh nhu cầu thực của người mua, vì thế giá nhà đất cứ tăng trong khi nhu cầu thực là nhu cầu nhà giá rẻ thì không đáp ứng được. Người ta xây nhà cao cấp rồi bán lại với giá cao. Người khác lại mua nhà giá cao rồi bán lại nữa với giá cao hơn, nên giá nhà vượt xa giá trị thực của nó. Giá này gọi là giá bong bóng. Mục đích của ngôi nhà là để ở, xây nhà chỉ để mua đi bán lại mà không ở thì chỉ ảo thôi. Giá bong bóng và các giao dịch ảo, đến lúc bong bóng nổ và cái ảo bị phanh phui, thị trường sẽ bị từ chối và người ta không muốn mua nhà nữa hoặc chờ đợi đến khi giá cả quay về giá trị thực của nó. Cũng vậy, mục đích của người tu là hành trì, đi vào giá trị thực của hành trì, chứ không đầu cơ giáo lý hay chất chứa kiến thức. Người ta thường hay đặt những câu hỏi đại loại như thiền là cái gì, niết bàn là cái gì, cảnh giới là cái gì, mà không chịu biết rằng nói ra chỉ trình diễn mớ lí thuyết suông, không thể đạt tới giải thoát bằng lí thuyết, người nghe không hành trì thì làm sao hiểu được, nếu có nghe thì cũng giống ông mù sờ voi. Ôm đồm lí thuyết như đầu cơ nhà đất, hiểu biết rất rộng, như tiến sĩ, nhưng chỉ là tiến sĩ giấy, không có giá trị thực gì cả. Nếu hiểu biết rất giỏi mà không hành trì, chỉ làm đậm bản ngã, mà bản ngã như bong bóng, đến lúc nào đó sẽ nổ cái bùm, và giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy pháp càng thêm mạt và tăng thượng mạn thì đầy dẫy. Như vậy tội nghiệp lắm, việc tu tập phải đi song hành với giáo lý, giáo lí cần có sự trải nghiệm, bằng không người tu đi tu nhưng lại như đầu cơ nhà đất, đất đai nhiều, nhà cửa nhiều, nhưng không bán được, kinh điển có đầy, vô cùng dồi dào, pháp môn có thừa, hết sức phong phú, nhưng cũng chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, không biết bao giờ mới đi đến bến bờ, không biết bao giờ mới giải thoát.

Phật Thuyết Kinh Người Biết Sống Một Mình

Phật Thuyết Kinh Người Biết Sống Một Mình

Sau đây là những điều tôi được nghe lúc đức Thế Tôn còn lưu trú ở tịnh xá Kỳ Viên trong vườn Kỳ Đà trong thành Xá Vệ; Ngài gọi các vị khất sĩ và bảo: “Này quý thầy”. Các vị khất sĩ đáp: “Có chúng con đây”. Đức Thế Tôn dạy: “Tôi sẽ nói cho quý thầy nghe thế nào là người biết sống một mình. Trước hết tôi nói đại cương, sau đó tôi sẽ giải thích. Quý thầy hãy lắng nghe.” “Thưa Thế Tôn, chúng con đang lắng nghe đây”. Đức Thế Tôn dạy:

            “ Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả.
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người Biết Sống Một Mình.”

”Này quý thầy, sao gọi là tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tri giác ta từng như thế, tâm tư ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế mà khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người đó đang tìm về quá khứ.”

“Này quý thầy, sao gọi là không tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tri giác ta từng như thế, tâm tư ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế mà không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người đó đang không tìm về quá khứ.”

“Này quý thầy, sao gọi là tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ như thế kia, cảm thọ ta sẽ như thế kia, tri giác ta sẽ như thế kia, tâm tư ta sẽ như thế kia, nhận thức ta sẽ như thế kia. Nghĩ như thế mà khởi tâm ràng buộc, lo lắng hay mơ tưởng về những gì thuộc về tương lai ấy, thì người đó đang tưởng tới tương lai.”

“Này quý thầy, sao gọi là không tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ như thế kia, cảm thọ ta sẽ như thế kia, tri giác ta sẽ như thế kia, tâm tư ta sẽ như thế kia, nhận thức ta sẽ như thế kia. Nghĩ như thế mà không khởi tâm ràng buộc, lo lắng hay mơ tưởng về những gì thuộc về tương lai ấy, thì người đó đang không tưởng tới tương lai.”

“Này quý thầy, thế nào gọi là lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người không học, không biết gì về Phật, Pháp, Tăng, không biết gì về các bậc hiền nhân và giáo pháp của các bậc này, không tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tri giác này là mình, mình là tri giác này, tâm tư này là mình, mình là tâm tư này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này… thì người đó đang bị lôi cuốn theo hiện tại.”

“Này quý thầy, thế nào gọi là không bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người có học, có biết về Phật, Pháp, Tăng, có biết về các bậc hiền nhân và giáo pháp của các bậc này, có tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân; không cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tri giác này là mình, mình là tri giác này, tâm tư này là mình, mình là tâm tư này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này…, thì người đó đang không bị lôi kéo theo hiện tại.”

“Đó, tôi đã chỉ cho quý thầy biết về đại cương và giải thích cho quý thầy nghe về thế nào là người biết sống một mình.”

Phật nói xong, các vị khất sĩ đồng hoan hỷ phụng hành.

Đây là những điều tôi nghe hồi Phật còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá. Lúc đó có một vị khất sĩ tên là Thượng Toạ (Thera) chỉ ưa ở một mình một chỗ, vị này thường ca ngợi hạnh sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong đi về một mình và ngồi thiền một mình. Bấy giờ có một số các vị khất sĩ tới nơi Phật ở, làm lễ dưới chân Phật, lui về một bên ngồi, và bạch với Người:

– Thế Tôn, có một vị tôn giả tên Thượng Toạ, vị này ưa ở một mình, ưa ca ngợi hạnh sống một mình, một mình vào xóm làng khất thực, một mình từ xóm làng đi về trú xứ, một mình toạ thiền.
Đức Thế Tôn liền bảo vị khất sĩ:

– Thầy hãy tới chỗ mà khất sĩ Thượng Toạ cư trú và bảo với thầy ấy là tôi muốn gặp.

Vị khất sĩ vâng mệnh. Lúc ấy vị khất sĩ Thượng Toạ liền đến chỗ Phật ở, làm lễ dưới chân Phật, lui về một bên mà ngồi. Lúc ấy đức Thế Tôn hỏi khất sĩ Thượng Toạ:

– Có phải là thầy ưa ở một mình, ca ngợi hạnh sống một mình, một mình đi khất thực, một mình ra khỏi xóm làng, một mình ngồi thiền phải không?

Khất sĩ Thượng Toạ đáp:

– Thưa Thế Tôn đúng vậy.

Phật bảo khất sĩ Thượng Toạ:

– Thầy sống một mình như thế nào?

Khất sĩ Thượng Toạ đáp:

– Bạch Thế Tôn con chỉ sống một mình một nơi, ca ngợi hạnh sống một mình, một mình đi khất thực, một mình ra khỏi xóm làng, một mình ngồi thiền, thế thôi.

Phật dạy:
– Thầy đúng là người ưa sống một mình, tôi không nói là không phải. Nhưng tôi biết có một cách sống một mình thật sự nhiệm mầu. Đó là quán chiếu để thấy rằng quá khứ thì không còn mà tương lai thì chưa tới, an nhiên sống trong hiện tại mà không bị vướng mắc vào tham dục. Kẻ thức giả sống như thế, tâm không do dự, bỏ hết mọi lo âu, mọi hối hận, xa lìa hết mọi tham dục ở đời, cắt đứt tất cả những sợi dây ràng buộc và sai sử mình. Đó gọi là thật sự sống một mình. Không có cách nào sống một mình mà mầu nhiệm hơn thế.

Rồi đức Thế Tôn đọc bài kệ sau đây:
Quán chiếu vào cuộc đời
Thấy rõ được vạn pháp
Không kẹt vào pháp nào
Lìa xa mọi ái nhiễm
Sống an lạc như thế
Tức là sống một mình.

Phật nói xong, tôn giả Thượng Toạ lấy làm vui mừng sung sướng, cung kính làm lễ Phật và rút lui. (19)

An trú trong chánh niệm là an trú trong việc mình đang làm và làm cho việc đang làm đó có yếu tố của niệm, định và tuệ. Khi bước một bước trên mặt đất, biết là đang bước đi trên mặt đất. Trong lúc này mình buông bỏ những cái chạy, chạy về quá khứ và chạy về tương lai. Quá khứ có thể làm mình tiếc nuối và tương lai làm cho mình lo lắng. An trú trong bước chân ở hiện tại, mình làm cho tiếc nuối và lo lắng không còn nữa. Sở dĩ mình bị vấp té vì vội vàng trong khi bước đi. Nếu mọi thứ đều vội vàng như ăn cơm vội vàng, thì bị mắc nghẹn, uống nước vội vàng thì bị sặc nước, làm việc vội vàng thì mọi thứ hời hợt, yêu thương vội vàng thì tình sẽ mau chóng bay xa. Cuộc đời vội vàng thì cuộc đời vấp té và tu vội vàng thì tu cũng vấp té luôn.

Mọi thứ có chánh niệm thì không bị vấp té. Như khi ăn cơm, ăn một cách từ tốn, có mặt cho bữa cơm và an trú trong bữa cơm. Dù đang ăn một mình, nhưng do có mặt cho bữa cơm, mình thấy mọi thứ đang có mặt cho mình như chén cơm, thức ăn, các yếu tố đóng góp vào bữa cơm, mình biết sống một mình khi đang ăn cơm, mình không cô đơn trong trôi lăn của quá khứ và tương lai. Như khi uống nước, uống từ tốn, từng ngụm nước trở nên ngọt ngào và bao cay đắng từ thân tâm vuột mất, trôi theo dòng nước mát trong. Nước có mặt và mình có mặt cho nước. Khi hai bên có mặt cho nhau, làn môi hôn vào dòng nước như đã kết hôn từ lâu và chính nhân duyên đem mình đến với nước và nước đến với mình, mình biết sống một mình khi đang uống nước, mình không bị cô đơn nhấn chìm trong sự thèm khát do đang an trú, an trú uống nước, không an trú cái gì khác.

Như khi đang làm việc, lau nhà, hái rau, tưới vườn hoa, chăm sóc cho mẹ, mọi thứ đều có sự an trú thì mình không cô đơn. Sở dĩ mình cô đơn vì không chịu an trú, mình an trú chỗ khác, như khi đang lau nhà thì không chịu an trú trong việc lau nhà, mình tưởng tới việc đi nằm nghỉ nên làm qua loa cho xong, tâm phóng tới nhu cầu muốn đi nghỉ nên mình đã an trú trong tương lai và đánh mất sự an trú trong hiện tại là việc lau nhà, mình không còn sống một mình nữa và cô đơn bủa vây. Hoặc lúc chăm sóc mẹ, mình không hoàn toàn có mặt cho mẹ, mình nghĩ tới hình bóng của một cô gái nào đó nên mẹ có mặt đó nhưng mình đã “delete” mẹ rồi, mình phút chốc bỗng mồ côi.

An trú là sự có mặt, an trú trong hiện tại là có mặt trong hiện tại, an trú trong chánh niệm là làm cho chánh niệm có mặt, có mặt 100%. Khi có mặt mình không bao giờ biết cô đơn vì xung quanh đây, những mầu nhiệm đang vẫy tay gọi, bên trong, những mầu nhiệm đang vẫy tay gọi. Điều kiện mầu nhiệm đầy dẫy thì sống một mình dễ ợt, mình không cần lập gia đình với cái gì nữa. Cả cuộc đời này mà có chánh niệm thì cuộc đời rất an lạc và thảnh thơi, vì mình biết từ tốn đời mình, và giã từ mọi điều kiện làm cho cuộc đời bị vấp té.

Người già có xu hướng nhớ về quá khứ và người trẻ có xu hướng mơ về tương lai. Hạnh phúc bị cho là nằm ở tương lai nên hi sinh một số yếu tố của hiện tại cộng thêm một số tưởng tượng trong tương lai thì mới có hạnh phúc. Hạnh phúc này rất ảo vì không thực có. Tu tập cũng vậy, không phải tu để đạt giải thoát trong tương lai mà giải thoát ngay trong hiện tại, an lạc ngay trong hiện tại. Quá khứ có thể đẹp đấy, có thể khổ đau đấy nhưng quá khứ đã qua rồi, ngồi ôm ấp quá khứ như ôm ấp xác chết. Có một người đàn ông thương vợ đến nỗi vợ chết rồi mà vẫn còn ôm cái xác khư khư, không chịu đem chôn. Thời Ai Cập cổ đại, người ta cũng đem xác đi ướp và ngày nay người ta khai quật được, nhưng nhìn kỹ thì cũng không đẹp đẽ gì và nhiều khi không biết cái xác đó là ai. Ôm ấp quá khứ như ôm cái xác vì con người đang cô đơn, không biết làm bạn với ai nên làm bạn với cái xác quá khứ. Trong quá khứ có những kinh nghiệm cần học hỏi và kinh nghiệm này được áp dụng để xây đắp hiện tại. Quá khứ không phải là thứ đem phê bình, lên án hay bỏ tù. Quá khứ đẹp hay không đẹp, lãng mạn hay không lãng mạn đều mang tới những bài học. Nghiên cứu quá khứ nhưng không sợ hãi và tiếc nuối quá khứ. Buông bỏ quá khứ là buông bỏ sự tiếc nuối và chìm đắm trong quá khứ, để có thể sống một mình trong hiện tại. Do cô đơn nên mình muốn làm bạn với quá khứ, trong khi quá khứ chỉ là bóng ma.

Người trẻ tuy không phải ai cũng mê tín nhưng thường vẽ ra trong đầu những viễn cảnh về tương lai xa vời, bỗng chốc thành những ông bói bà bói trẻ, tưởng tượng trong tương lai mình có địa vị thế này, ngôi nhà thế này, người chồng người vợ thế này, những đứa con thế này, mình sẽ đặt tên cho chúng thế này, mình sẽ trồng những khu vườn như thế này, và mình ngồi mỉm cười trong cái gọi là thế này ấy. Mình cho mình cái quyền mơ ước nhưng kèm theo đó là gì, là những mục tiêu và tiêu chuẩn phải đạt được. Nếu đạt được thì sự ngã mạn gia tăng, và không đạt được, thì sự mặc cảm hay tự ti gia tăng. Cả hai kết quả thành bại đều mang tới phiền não. Có người kinh doanh rất vẻ vang nhưng rồi cũng thất bại, cũng trắng tay, cũng làm lại từ đầu, nên cái tương lai kia không biết trước được. Có người cả đời nghèo khó, tự nhiên cuối đời trúng số, cuộc sống thanh nhàn hơn, của ăn của để, có dư cho con cháu nữa, nên cái tương lai này sao biết trước được. Mơ tưởng tương lai như người đi rong, do bỏ bê hiện tại và trở nên thẫn thờ về tương lai, lo lắng xuất hiện, bồn chồn xuất hiện, chờ đợi xuất hiện và kèm theo đó bao nhiêu phiền não xuất hiện. Mình đi vào cái thế giới ảo của tương lai, một thứ tương lai không bao giờ đến, một nơi mà chưa chắc có hoa hồng, chưa chắc có chocolate, chưa chắc có kim cương hay chưa chắc có ánh hào quang. Mình đang rất cô đơn, nên muốn làm bạn với tương lai, vì mình có ý niệm trong tương lai mình có nhiều người bạn khi có những điều kiện của cuộc sống. Mình không thể sống một mình trong hiện tại vì đang đi hoang trong tương lai, đang vẽ một màu hồng trong tương lai và đang chán chường trong hiện tại bị cho là xám xịt.

Đành rằng đừng tiếc nuối quá khứ, đừng lo lắng tương lai và hãy an trú trong hiện tại, nhưng hiện tại cũng có những thứ không thể an trú. Hiện tại có những điều mầu nhiệm như người thân thương đang có mặt, trời xanh mây trắng đang có mặt, hoa cỏ chim chóc đang có mặt. Tận hưởng những điều này một cách tự nhiên, như sự có mặt tự nhiên của đất trời, của muôn thú, của người thương. Nếu có sự mong mỏi trong hiện tại, tức là, người thương lúc nào cũng phải bên cạnh mình, trời lúc nào cũng phải xanh, mây lúc nào cũng phải trắng, hoa cỏ phải đẹp, chim chóc phải hót hay thì hiện tại cũng bị kẹt. Hiện tại có những thứ ái dục mà nếu không tỉnh giác, kiểu lạc kiểu an của hiện tại sẽ bị đẩy vào dục nhiều hơn. An trú trong hiện tại nhưng phải buông bỏ ái dục trong hiện tại, buông bỏ ham muốn trong hiện tại. Hiện tại như một ngăn tủ có nhiều ngăn kéo, mỗi ngăn kéo là một sự vướng bận và hiện tại bị trì triết đến nỗi không còn đủ ngăn kéo để lấp đầy, và mình sắm cái tủ mới, cho đến khi căn nhà đầy ắp những cái tủ và mình không còn không gian để sống nữa. Nói buông bỏ quá khứ và tương lai, thực ra là buông bỏ hiện tại. Trong hiện tại cái dục được chế tác bởi hình ảnh của quá khứ và cái dục được chế tác bởi tơ tưởng tương lai, cho nên hiện tại thành bóng mờ, sự thật của hiện tại bị tan như mây khói. Chánh niệm về hiện tại để biết hiện tại đang có mặt đó, hãy cắt tỉa những nhánh cây của quá khứ, nhánh cây của tương lai và nhánh cây của ái dục trong hiện tại. Biết hiện tại thì hiện tại sẽ hiện tiền, không biết hiện tại thị hiện tại bị biến chất, mình sống trong hiện tại nhưng đang quay cuồng trong những nhánh cây, chưa bao giờ đi vào được thân cây.

 Cắt đứt mọi sợi dây ràng buộc và sai sử mình là biết sống một mình. Còn nhỏ, đứa trẻ không biết hút thuốc nên bé rất có tự do, không phải đối trị với cơn nghiện, không tốn tiền mua thuốc lá. Lớn lên, chàng trai tập hút thuốc theo bạn bè và bắt đầu ghiền, dù có thuốc lá điện tử nhưng vẫn khó có thể buông xuôi trước áo ảnh của khói thuốc. Cơn thiền trở thành sợi dây ràng buộc và sai sử chàng trai, bắt chàng phải làm việc, phải tiêu tiền, phải ra tiệm thuốc lá, phải hút cho được cái hương vị được cho là ngon ngọt của nó. Chàng trai không thể sống một mình, mà phải sống chung với thuốc lá, dẫu biết rằng hút thuốc sẽ gây ung thư phổi, gây hư răng và gần đây còn có ung thư vòm miệng. Chàng trở thành miếng mồi cho thần chết, mà thần chết đã biến tướng thành thần chết thuốc lá.

Đời sống sẽ thảnh thơi khi buông bỏ những vướng bận, để thân tâm này bớt lo toan. Người biết thương mình là buông bỏ những vướng bận. Người tu là phải có thời gian và cống hiến cho sự sống năng lượng thảnh thơi. Những thứ mình sở hữu, mình tưởng nó là của mình, trong khi nó đang sai sử mình, bắt mình phải lo lắng đủ điều, phải suy nghĩ đủ điều, để rồi sau đó mình phải chăm sóc cho nó, quên cả thân mình. Có người chăm sóc chiếc xe hay chiếc điện thoại hay cái đồng hồ còn hơn cả người đó, họ quên mình vì cho các món đồ vật. Buông hết thì có cái gì sai sử mình. Ngày xưa các thầy tu tập ở trong rừng, gia đình không có, tài sản không có, sự nghiệp cũng không, không có gì vướng bận, nên các thầy tu tập mau thành tựu. Bây giờ mình cũng tu đấy, nhưng mình lo đủ thứ, lo thuyết pháp, lo ấn tống kinh sách, lo đệ tử, lo cho cái chùa, cho nên có vẻ tu nhiều lắm nhưng mình chưa giải thoát được vì mình bị sai sử, mình kẹt vào số lượng hơn là chất lượng. Phẩm chất tu học không cao vì mình kẹt vào sự trình diễn. Cho nên tu là biết buông bỏ, buông bỏ những thứ khiến cho mình không thể thảnh thơi, không thể sống một mình. Mình cứ thuyết pháp nhưng đừng kẹt vào sự thuyết pháp, cứ ấn tống kinh sách nhưng đừng kẹt vào ấn tống kinh sách, cứ lo cho chùa cho đệ tử nhưng đừng kẹt vào gì hết. Không kẹt thì biết tu, tu trong lúc tu, biết vậy sẽ sống một mình, sống giữa bận rộn nhưng không biết bận rộn, tức là sống một mình.

An trú trong thực tại nhưng không đồng lõa trong thực tại. Thực tại có tính vô thường, có đó rồi mất đó, trôi đi rất nhanh. An trú trong vô thường nhưng không sầu khổ vì vô thường. An trú có tính chất chủ động, biết thực tại đang diễn ra như thế nào nhưng không cần thiết làm thay đổi thực tại vì thực tại vô ngã. Cái gì vô thường thì tất nhiên cũng sẽ vô ngã, không thể tác động và không thể thay đổi theo như ý muốn. Mình không phải cái máy, nên không ăn như cái máy, không đi như cái máy, không làm việc như cái máy và không sống như cái máy. Mình là con người và con người cần sự sống, không cần sự điều khiển, nên sống phải ra sống, và sự sống chỉ có mặt trong hiện tại, hiện tại có thể cho là tổng hợp của các thực tại đang có mặt. Sống như cái máy, mình bị điều khiển bởi những thứ mà cái máy cần và mang tính cách của một cái máy. Sống nhanh hay chậm không quan trọng, quan trọng là biết dừng lại “tính máy móc” trong quá trình sống ấy. Máy móc cũng cần nghỉ ngơi và bảo dưỡng, tức là có lúc phải dừng lại. Mình không chịu dừng lại, có phải mình tệ hơn cái máy không. Máy móc không có ý thức gì, nó cần sự điều khiển của người khác, còn mình ý thức được mình đang còn sống, mình đang thở, mình đang cười, mình đang đi, mình đang có mặt đây. Ý thức được những điều này là mình đang tận hưởng sự sống, bằng không mình đang hờ hững với sự sống và dù đang thở đó, nhưng mình đang không thực sự sống nữa. Không đồng lõa thì không kẹt vào điều đồng lõa, mình có thể sống một mình. Ngay cả điều thiện lẫn không thiện, chánh hay tà, Phật hay ma, cao hay thấp, gần hay xa, tội hay phước, không còn gì đồng lõa nữa thì mình sống một mình. Sống một mình là sống một cách không đồng lõa, không kết bè phái, không xây dựng những đối tác gây khổ đau.

Không kẹt vào pháp nào là biết sống một mình. Con người hay dính mắc vào hoàn cảnh, muốn thuận theo ý kiến riêng nên buồn vì hoàn cảnh hay vui quá mức cũng vì hoàn cảnh. Pháp có tính vô ngã, vì vô ngã nên vô thường. Chánh niệm về pháp hay chánh niệm về hoàn cảnh, biết về hoàn cảnh nhưng không kẹt vào hoàn cảnh. Hoàn cảnh vui không kẹt, vui thì biết vui, hoàn cảnh buồn không kẹt, buồn thì biết buồn, vậy thôi. Sống trong hoàn cảnh nhưng không a dua với hoàn cảnh, lúc này mới sống một mình được. Đi vào hoàn cảnh vui, biết đang vui nhưng không bị lây cái vui, vì cái vui vô thường, có thể hàm chứa cái dục trong đó. Sống một mình giữa cái vui, biết vui, nhưng không cầu thị và níu kéo, mình sống được một mình giữa ngút ngàn cái vui đang chực chờ vụt bay. Sống một mình giữa cái buồn, biết buồn, nhưng không xua đuổi và ghê sợ nỗi buồn, mình sống được một mình giữa ngút ngàn nỗi buồn đang xô đẩy.

Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp ma giết ma là cách nói của thiền tông. Cách nói này là để diệt trừ vọng tưởng và giúp mình sống được một mình. Người tu thiền đôi lúc vẽ ra những viễn cảnh, nếu viễn cảnh tà thì cho là ma và viễn cảnh thiện thì cho là Phật, nên cứ tự đinh ninh mình đạt cảnh giới nào đó. Tất cả viễn cảnh nếu phát sinh trong tâm đều phải niệm, tức là biết về nó, niệm cho đến khi nó kết thúc, không kẹt vào tà và thiện, ma và Phật, tổ và trò. Giết ở đây là nhận biết, khi nhận biết thì đối tượng biết đó tự nhiên sẽ diệt, diệt là giết vọng tưởng đang bay nhảy. Vọng tưởng xuất hiện nên niệm vọng tưởng để chấm dứt vọng tưởng đó. Vọng tưởng về ma thì diệt ma, vọng tưởng về Phật thì diệt Phật. Có câu, nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sinh, hay vạn pháp đều do tâm mình hiển hiện ra, nên pháp ma hay pháp Phật cũng do tâm hiển hiện ra, nếu không kiểm soát được thì vọng tưởng làm chủ, mình không sống một mình vì các pháp làm chủ, mình bị mất chủ quyền. Để sống một mình, phải nắm chủ quyền của thân, của tâm, của pháp, của thọ.

Ngày nay, người ta làm việc để sắm xe máy, xe hơi, máy bay, nhà cửa và các tiện nghi khác. Con người phụ thuộc vào công nghệ và khó có thể sống một mình. Xe máy cần xăng, nếu xăng tăng giá hay lòng đất hết xăng thì con người đau khổ lắm. Đau khổ này là do thiếu thốn, kẹt vào cái có nên sợ hãi cái không. Kẹt vào tiện nghi nên không thể sống một mình. Ngày xưa Phật và tăng đoàn sống trong rừng, rồi về tinh xá, rồi đi vào làng, rồi đến các thành phố giáo hóa chúng sinh, ngoài tứ vật dụng ra, không có cái gì, ngoài lí tưởng tu tập, lí tưởng độ đời và lí tưởng giải thoát. Ngài sống một mình vì không kẹt vào tiện nghi, không kẹt vào sự cúng dường, không kẹt vào những lời tán thán. Ngày xưa giá xăng rẻ, nhà nhà mua xe chạy, không quen với phương tiện công cộng, bây giờ giá cả tăng lên, họ khổ vì kẹt vào cái xe. Người thích ăn ngon và kẹt vào món ngon, người thích thời trang kẹt vào quần áo, người thích phim ảnh kẹt vào các bộ phim, người thích âm nhạc thì kẹt vào các âm thanh, người thích công nghệ thì kẹt vào các sản phẩm công nghệ, người thích rượu bia thì kẹt vào say sưa… Những thứ này khiến mình không sống một mình được mà phải sống chung với các đối tượng kẹt vào trong sự cô đơn, cô đơn tột cùng, vì thiếu chúng, mình cô đơn như ai tước đi người thân thương nhất. Không kẹt vào cái có thì không bao giờ sợ hãi cái không. Sống một mình là sống thảnh thơi, sống trong tự do, buông bỏ những thứ làm mình mắc kẹt thì sự sống được khai thông, không bị tắc nghẽn. Hãy làm cho mình thảnh thơi và tự do.

Phật Không Từ Đâu Tới Và Cũng Không Đi Về Đâu

Phật Không Từ Đâu Tới Và Cũng Không Đi Về Đâu  

Trong một lần, thượng tọa Anuruddha cư ngụ trong một am ở Mahàvana tại Vesàlì thì một nhóm du sĩ ngoại đạo đến gặp. Sau khi chào hỏi xã giao, họ bắt đầu chất vấn, Nghe nói sa môn Gotama là bậc giác ngộ đầy đủ, những lời dạy của người rất cao siêu và mầu nhiệm. Thầy là đệ tử của sa môn Gotama, vậy thầy cho chúng tôi biết nếu sau này sa môn Gotama chết đi thì sa môn có còn hiện hữu hay không.

Các du sĩ ngoại đạo đưa ra bốn lựa chọn và buộc thầy Anuruddha trả lời, Một là sau khi chết, sa môn Gotama còn. Hai là sau khi chết, sa môn Gotama không còn. Ba là sau khi chết, sa môn Gotama vừa còn vừa không còn. Bốn là sau khi chết, sa môn Gotama vừa không còn cũng vừa không không còn.

Thầy Anuruddha biết rõ bốn lựa chọn này không có lựa chọn nào phù hợp với lời dạy của đức Phật nên thầy không nói gì và giữ im lặng. Tuy nhiên các du sĩ không hài lòng với sự im lặng này và cứ yêu cầu thầy phải chọn cái gì đó hoặc nói cái gì đó. Thầy trả lời, Này các vị, trong bốn lựa chọn mà các vị đưa ra, không có lựa chọn nào nói được sự thật về sa môn Gotama cả. Các du sĩ cười lớn, Chắc là thầy mới tu hoặc không được thông minh nên không trả lời câu hỏi của chúng ta, chúng ta rời khỏi đây thôi.

Các du sĩ bỏ đi và thầy Anuruddha đem chuyện này lên thưa với Phật, Bạch Thế Tôn, xin người hãy soi sáng cho chúng con, để chúng con có thể trả lời những câu hỏi tương tự có thể xảy ra. Phật hỏi, Này thầy Anuruddha, có thể tìm Như Lai nơi thân sắc này không? Thầy Anuruddha trả lời, Bạch Thế Tôn, không. Có thể tìm Như Lai nơi cảm thọ không? Bạch Thế Tôn, không. Có thể tìm Như Lai nơi tư tưởng, hành động, lời nói và tri thức không? Bạch Thế Tôn, không. Lại nữa, thầy Anuruddha, có thể tìm Như Lai ngoài sắc thân này không? Bạch Thế Tôn, không. Có thể tìm Như Lai ngoài cảm thọ không? Bạch Thế Tôn, không. Có thể tìm Như Lai ngoài tư tưởng, ngoài hành động, ngoài lời nói, ngoài tri thức không? Bạch Thế Tôn, không.

Phật dạy, Đúng như vậy, này thầy Anuruddha, không thể tìm thấy Như Lai ở năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, và cũng không thể tìm Như Lai ngoài năm uẩn. Không thể tìm thấy Như Lai ở đất, nước, lửa, gió, kiến và thức và cũng không thể tìm Như Lai ngoài bảy yếu tố này. Thầy Anuruddha ơi, từ trước cho tới nay, Như Lai chỉ tuyên bố về khổ, nguyên nhân của khổ, có thể chấm dứt khổ và con đường để chấm dứt khổ, đạt hạnh phúc đích thực trong hiện tại, chỉ có vậy mà thôi. Như Lai đang sống đây mà còn không tìm ra thì làm sao tìm thấy Như Lai sau khi ta đã chết. Vậy khi ta nhập diệt, làm sao thầy có thể nói ta còn hay mất.

Phật dạy tiếp, Này thầy Anuruddha, sau khi ngọn lửa tắt, ngọn lửa đi về đâu? Nếu nhân duyên đủ, ngọn lửa sẽ biểu hiện và khi nhân duyên chưa đủ, ngọn lửa chưa biểu hiện. Thầy hãy quán chiếu tự thân, tự tính của các pháp là chân như, là không sinh không diệt, trong tổng thể đó, vạn vật luân chuyển, thay đổi trong vô thường, không thể nói có hay không, còn hay mất, hiện hữu hay không hiện hữu. Cho nên Như Lai không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. (20)

Giá trị của đức Phật không nằm ở 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Trong kinh Kim Cương, Phật dạy, Tìm ta qua hình sắc – Cầu ta qua âm thanh – Là kẻ hành tà đạo – Không thể thấy Như Lai. Phật không thể tìm thấy ở năm uẩn, ở những vẻ đẹp hay uy nghi. Phật còn dạy, Ai thấy Pháp người ấy thấy Phật, ai thấy Phật người ấy thấy Pháp. Tướng tốt cách mấy, vẻ bề ngoài hào nhoáng cách mấy cũng phải tàn lụi theo vô thường. Những ý niệm về có, không, còn, mất, tồn tại hay không tồn tại khiến con người tranh cãi, dính mắc vào tranh cãi và sa đà vào sự tranh cãi. Những tranh cãi này khiến con người hiềm giận, gây hận thù, đánh giết nhau và sự thật vẫn không thấy được. Thân Phật được ca ngợi thanh tịnh như lưu ly vì không còn phạm giới, không còn sa vào sự bất tịnh của thế gian, nhưng thân Phật cũng hôi tanh, cũng dơ bẩn, cũng nhờm gớm vì thân Phật cũng là thân chúng sinh, nên không thể tránh khỏi sự tàn hoại và thối nát. Kẹt vào năm uẩn hay năm yếu tố của con người này thì làm sao thấy được Như Lai. Nếu mai này 32 tướng tốt không còn, vẻ đẹp không còn, uy nghi không còn vì tuổi già sức yếu, vậy lấy cái gì làm Như Lai nữa.

Tự tính Như Lai đang biểu hiện đầy dẫy trong phút giây hiện tại, trong giây phút có tỉnh thức thực thụ. Tính chất của thực tập đạo Phật là tự thắp đuốc lên mà đi, tự đến mà nhìn thấy, tự chiêm nghiệm mà chứng ngộ. Chúng sinh được gọi là chúng sinh vì chúng sinh không chịu thực tập tỉnh thức, không chịu phát khởi trí tuệ nên vô minh bao bọc lấy tự tính Như Lai, làm cho tự tính bị che mờ bởi những lớp dày đặc của vỏ trứng mau chóng trở thánh áo giáp của vô minh. Nhưng khi chúng sinh thực tập tỉnh thức, áo giáp vô minh từ từ rơi rụng xuống, vỏ trứng vô minh từ từ rơi rụng xuống, tự tính Như Lai đủ thuận duyên mà biểu hiện. Các vẻ đẹp và tướng tốt của Như Lai cũng nhờ do tu tập nhiều kiếp mà biểu hiện, nhưng khi đã biểu hiện thì đến lúc nào đó cũng sẽ không biểu hiện. Biểu hiện không có nghĩa là có và không biểu hiện không có nghĩa là không vì biểu hiện không mang tính chất sinh diệt, mà ngược lại mang tính chất không sinh không diệt. Khi tự tính Như Lai biểu hiện từ chúng sinh thì có thể nói chúng sinh có Như Lai tính, Như Lai và chúng sinh không thể tách biệt, trong Như Lai có chúng sinh và trong chúng sinh có Như Lai. Nói cách khác, Như Lai và chúng sinh có trong nhau. Giây phút hiện tại có tỉnh thức, có thanh tịnh, có bình đẳng, giây phút đó chúng sinh có tính Như Lai hơn.

Mình không từ đâu tới và cũng không đi về đâu vì thọ mạng là vô lượng, các kiếp sống cứ trôi đi cho đến khi vượt thoát sinh tử. Không còn kẹt vào quá khứ, tương lai và các dục ái trong hiện tại, mình buông bỏ những vướng bận khiến mình không thể an trú đích thực trong hiện tại. Không tìm về quá khứ thì đâu cần vướng bận từ đâu tới, không mơ tưởng tương lai thì đâu cần vướng bận đi về đâu. Nếu mình không là con người thì là một bông hoa, một ngọn cỏ, một trái núi, một dòng sông, một người tu hay một cơn gió thoảng.Mình có mặt trong muôn hình vạn trạng chúng sinh, mình trong tất cả nên dù ở hình thức nào, mình cũng tận hưởng sự sống. Là hoa, mình cống hiến sự tươi mát và đẹp đẽ. Là ngọn cỏ, mình đón nhận hạt sương long lanh, làm thức ăn ngon cho đàn bò. Là trái núi, mình tô điểm cho sự vững chãi và bền bỉ. Là dòng sông, mình cống hiến làn nước trong. Là cơn gió, mình đến rồi đi ung dung tự tại. Là người tu, mình cống hiến sự bình an, đi vào cuộc đời an lạc và thảnh thơi. Dù là gì, mình cũng đẹp và cống hiến hết mình cho sự sống, làm công việc của một chúng sinh phụng sự. Vậy còn gì phải quan tâm kiếp trước mình làm gì, kiếp sau mình làm gì. Kinh Nhân Quả dạy rõ, Muốn biết nhân đời trước – Hãy xem quả đời này – Muốn biết quả tương lai – Xét nhân gieo hiện tại. Vậy là chỉ cần nhìn vào hiện tại là biết quá khứ và tương lai thế nào, nhưng nhiều khi cũng không cần biết tới, biết tới rồi sầu khổ và thất vọng thì cái biết này không đáng. Mình có tính vô khứ vô lai, quá khứ dài thế nhưng vẫn như trong một hơi thở, như trong cái búng tay, tương lai dài thế nhưng vẫn như trong cái chớp mắt, như trong một cái nhảy mũi. Ngay trong lúc này, mình đang sống cũng là đang chết, sinh và diệt diễn ra tất bật đến nỗi khó cảm nhận được sự vi tế của sinh diệt. Cái vừa mới sinh đó đã diệt và cái vừa diệt không phải là mất đi mà chuyển sang một dạng khác, tức là đã sinh ra cái mới từ cái vừa bị diệt. Nên nói sinh cũng không đúng và nói diệt cũng không đúng, mà nên nói biến chuyển liên tục, không cố định. Sống tỉnh thức thì biết chuyện sinh và chuyện diệt, nhưng không kẹt vào sinh và không kẹt vào diệt. Không kẹt thì có thấy gì sinh và có thấy gì diệt đâu.

Mình có hạt giống của Phật hay còn gọi là Phật tính. Phật tính là khả năng tự giác ngộ, tự giải thoát. Khi lạy một vị Phật, mình và vị Phật đó không khác. Đơn giản mình không lạy một hình tướng Phật, mà lạy Phật tính trong vị Phật đó, một Phật tính đã hoàn toàn viên mãn. Người lạy và người được lạy không phải là hai thực thể riêng biệt. Đây là cái nhìn bình đẳng, không phân biệt giữa Phật và chúng sinh. Phật là tỉnh thức và chúng sinh cũng có khả năng tỉnh thức. Chúng sinh sắp tỉnh thức thôi chứ không phải không bao giờ, không biết hay không thể nào tỉnh thức. Nếu có người hướng dẫn và bản thân hành trì đúng đắn, chúng sinh và Phật kia có nào khác. Thực tập như vậy để diệt trừ ý niệm về cái ta riêng biệt, làm phát khởi tuệ giác bất nhị. Tôi và bạn đồng tu An Long Minh không phải là hai thực thể riêng biệt. Bạn Long Minh chỉ vừa mới tu, mới tập tành niệm giới, định, tuệ và bạn ấy đã, đang và tiếp tục có Phật tính. Việc thực tập của bạn ấy là tạo thuận duyên cho Phật tính kia phát khởi. Phật tính cũng chỉ là một cách nói vì có gì gọi là Phật tính đâu. Chẳng qua chỉ là làm cho thanh tịnh, làm cho tỉnh thức, làm cho giác ngộ, và đặt cho nó cái tên là Phật tính. Cho nên tu cái vô tu là vậy. Không có gì để tu cả, vì không có gì sở đắc, chỉ là tìm về bản tâm thanh tịnh, bằng buông bỏ những chấp trước, buông bỏ những phân biệt.

Khi tỉnh thức, mình làm cho Phật thị hiện trong mình. Niệm Phật không phải là một ông Phật ở đâu đó đến cứu độ mà làm phát khởi tính Phật, tính thanh tịnh, tính tỉnh thức, tính giác ngộ bấy lâu nằm im, bấy lâu ở đây là hằng hà sa số kiếp rồi đấy. Khi ngồi thiền, mình làm cho Phật thị hiện trong mình, khi đi thiền, mình làm cho Phật thị hiện trong mình, khi làm việc có tỉnh thức, mình làm cho Phật thị hiện trong mình. Niệm Phật là niệm chính mình. Thay vì nói Nam Mô Phật Thích Ca Mâu Ní thì có thể nói Nam Mô Phật Tính Trong An Long Minh. Mình kêu Phật trong bạn đồng tu Long Minh lên, cung cấp điều kiện cho ông Phật biểu hiện. Ông Phật nhiều khi cũng bị động, phải tác động thì mới biểu hiện. Xá chào bạn đồng tu không phải xá chào năm uẩn của bạn ấy mà xá chào Phật tính, ông Phật đang thị hiện trong bạn ấy. Khi tỉnh thức trong từng phút giây, hay chánh niệm trong mọi hoàn cảnh, mình đang sống chung với Phật và mời Phật sống chung với mình. Khi đánh răng có tỉnh thức, Phật cũng đang đánh răng. Khi ăn cơm có tỉnh thức, Phật cũng đang ăn cơm. Khi đánh máy có tỉnh thức, Phật cũng đang đánh máy. Làm việc một cách tỉnh thức là làm việc một cách rất Phật. Làm việc không có tỉnh thức là làm việc một cách rất chúng sinh. Hãy để Phật chăm sóc cho mình, hãy để tỉnh thức chăm sóc cho mình, hãy để chánh niệm chăm sóc cho mình. Chánh niệm như luồng điện, nó nuôi dưỡng sự sống đích thực. Khi luồng điện “on”, mình đang tỉnh thức, khi luồng điện”off”, mình đang quên tỉnh thức, đang thất niệm. Hãy biết tự chăm sóc mình.

Khi gieo một hạt giống xuống đất, vài ngày sau nó nẩy mầm. Hạt giống không còn biểu hiện, nhưng lại biểu hiện dưới dạng cây mầm. Có thể nói hạt mầm bị diệt nhưng không thực sự bị diệt, nó đã dọn sang nhà mới, nó không năm trong căn nhà nhỏ của vỏ hạt mầm nữa. Nhà mới là cây mầm và vài năm sau, cây mầm lớn lên thành cây cứng cáp. Có thể nói cây mầm bị diệt nhưng không thực sự bị diệt, nó lại tiếp tục dọn sang nhà mới nữa, nhà mới là một cây cao to và vững chãi có cành lá xum xuê. Một cơn gió thoảng qua, chiếc lá rơi xuống đất, chiếc lá rời thân cây nhưng không hẳn bị diệt, chiếc lá dọn sang nhà mới, là mảnh đất phía dưới cây. Đời sống của chúng sinh là một chuỗi những sự kiện dọn nhà như vậy, mỗi lần dọn nhà, mình xem là chết đi rồi sống lại, thực ra mình có chết đâu, mình chỉ dọn nhà thôi mà. Mình thay hình đổi dạng nên mình không sinh không diệt, cái gọi là sinh diệt kia chẳng qua chỉ là thay hình đổi dạng, như xây lại cái nhà, mua cái nhà mới và dọn sang nhà mới. Vấn đề ở đây là mình tỉnh thức trong cái mình đang là. Khi là hạt giống thì biết mình là hạt giống, mình không giận hờn vì sao bản thân lại là hạt giống và không chạy chọt đủ thứ để mau chóng trở thành cây mầm. Cũng vậy, khi đang là cây mầm, mình cứ sống đi, hãy vui với sự kiện mình đang là cây mầm đi, đâu cần phải trở thành cây cao to mình mới vui được. Đây gọi là biết sống trong cái đang là, tỉnh thức là biết trân quý cái đang là, không tiếc nuối quá khứ, không bươn chãi về tương lai và không chán chường vì hiện tại. Tỉnh thức không có sự phán xét nên cái đang là không bị biến tướng, nhìn cái đang là như cái đang là vậy. Ý thức chuyện đang xảy ra, vào lúc này, tại chỗ này, chú tâm vào cái đang là và biết “cái đang là đó à”, vậy thôi. Mình khỏe là vì biết cái đang là.

Nếu mua một chiếc ti vi về nhà, mình cung cấp cho nó cái ăng ten để bắt sóng và đặt ở đâu trong phòng, nó đều có thể bắt sóng được. Điều này chứng minh là sóng đã có mặt choáng ngợp cả căn phòng, nhưng vì chưa có đủ điều kiện nên không thể biểu hiện. Nếu cho sóng cái ti vi, cái ăng ten, cộng thêm nguồn điện, mình xem được các kênh truyền hình. Như vậy, có phải coi được ti vi thì sóng truyền hình có và khi tắt ti vi thì sóng truyền hình trở nên không, trở nên biến mất không? Sóng truyền hình vẫn có mặt đó, chỉ có điều nó chưa đủ điều kiện để biểu hiện mà thôi. Khi xem được ti vi, tức là sóng truyền hình biểu hiện, đơn giản vì nó đã đủ điều kiện. Cũng vậy, Phật tính có sẵn trong mỗi chúng sinh, do chưa đủ điều kiện nên chúng sinh cứ mãi là chúng sinh, dù Phật tính nằm chình ình ra đó. Nếu biết tu tập, biết bốn sự thật, biết thực tập tám con đường chân chính, biết chánh niệm trong từng phút giây, biết nhân quả, biết quán duyên khởi… và từ những cái biết này mình hành trì đúng đắn, tỉnh thức sẽ rất viên mãn, mình đang mời Phật lên ở chung, mình đang dọn nhà, và về nhà Phật ở, mình xây nhà Phật để ở. Hãy dọn về nhà Phật, nhà Như Lai mà ở.

Phật Dạy Cách Xây Dựng Hạnh Phúc: Kinh Phước Đức

Phật Dạy Cách Xây Dựng Hạnh Phúc: Kinh Phước Đức

1. Đây là những điều tôi được nghe, một thời đức Thế Tôn còn cư trú tại tư viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà, lúc này trời đã khuya. Một vị chư thiên đến thăm viếng và tham vấn đức Thế Tôn. Vị chư thiên này rất đẹp, hào quang sáng ngời, lung linh cả khu vườn. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị thiên giả hỏi, Cõi trời và cõi người luôn thao thức muốn biết như thế nào là sống đời phước đức, xin đức Thế Tôn hãy chỉ dạy cho chúng con. Lúc này đức Thế Tôn chỉ dạy phương pháp sống đời phước đức, có thể mang lại hạnh phúc viên mãn.

2. Nên lánh xa kẻ ngu xấu ác, nên thân cận người hiền tri túc, nên tôn kính người tu người trí. Đây là phước đức lớn nhất.

3. Nên sống trong môi trường an lành, nên tạo tác nhân từ phước báo. Đây là phước đức lớn nhất.

4. Nên theo học nghề hay nghề tốt, nên hành trì giới luật nghiêm minh. Đây là phước đức lớn nhất.

5. Nên cung phụng ông bà ba mẹ, nên yêu thương gia đình tổ tiên, nên theo đuổi nghề nghiệp thích hợp. Đây là phước đức lớn nhất.

6. Nên tu tập hạnh bố thí và hạnh buông bỏ, nên giúp đỡ họ hàng quyến thuộc, nên có thái độ hành vi ngay thẳng. Đây là phước đức lớn nhất.

7. Nên luôn tránh điều ác tai ương, nên luôn từ bỏ nghiện ngập say sưa, nên luôn tinh cần làm việc lành và việc tốt. Đây là phước đức lớn nhất.

8. Nên khiêm cung với bạn và với người, nên ơn nghĩa với thầy và với tổ, nên theo học thiền và học đạo. Đây là phước đức lớn nhất.

9. Nên kiên trì phục thiện lìa khổ, nên thân cận các bậc xuất gia giới hạnh, nên học hỏi, pháp đàm và vấn đạo với các bạn đồng tu. Đây là phước đức lớn nhất.

10. Nên tinh cần thực tập chánh niệm tỉnh giác và sống đời tỉnh thức, nên luôn học chân lý giải thoát nhiệm mầu, nên thực chứng Niết Bàn ngay trong kiếp sống hiện tại. Đây là phước đức lớn nhất.

11. Nên bất động trong việc hành xử nơi thế gian, nên an nhiên trong mọi hoàn cảnh không vướng vào tâm tư phiền não. Đây là phước đức lớn nhất.

12. Đức Phật vì đại chúng nói bài pháp ngắn gọn nhưng rất sâu xa, khuyến khích thực tập phước đức vô biên của tự thân. Nếu ai sống ai làm được như thế thì đi đâu tới tới đâu cũng an toàn, làm gì nghĩ gì cũng vững mạnh.

13. Sau khi lắng nghe thật đầy đủ lời đức Phật ca ngợi cách tạo phước, toàn thể đại chúng đều vui mừng. Đây quả thật là bài dạy tuyệt vời chưa từng có, ai nấy đều phát nguyện xin làm theo.

Không nên kết bạn với người xấu ác để tránh những điều không hay có thể xảy ra, trong đó có việc bản thân có thể bị hại và giúp bản thân kẻ xấu đó không tạo thêm nghiệp xấu. Kẻ xấu có thể là người không có lý tưởng tu tập, không đi trên con đường tu tập, kẻ chuyên chống đối và lôi kéo mình ra khỏi sự tu tập, kẻ không còn nhân tính và kẻ xây dựng hay hùa theo những hành vi tiểu nhân. Ngược lại, hãy làm bạn và gần gũi người hiền tri túc, người có lý tưởng tu tập, đang đi trên con đường tu tập và cổ xúy những hành vi quân tử. Người tu người trí là người hành xử có tuệ giác, có tình thương, có đạo hạnh, tôn kính những người này là bắt tay với việc tu tập, ca ngợi hạnh tu tập và đồng lòng với đoàn thể tu học, đem lại lợi ích cho thế gian. Làm được vậy thì có phước lớn, do biết yểm trợ đạo đức và yểm trợ ứng dụng đạo đức vào đời sống hàng ngày. Kiếp sống này ngắn ngủi, quay đi ngoảnh lại, thân thể đã già nua, nên bây giờ còn trẻ, hãy tận dụng mọi cơ hội để tu tập, hãy tu cho đã, tu cho hết lòng ngay trong ngày hôm nay. Nếu mai này mình đi xa mình không hối tiếc. Đi chùa gặp các nhà sư, đi vào những nơi có người tu mà học kinh nghiệm,  thỉnh kinh sách và các phương tiện hướng dẫn việc tu tập, mỗi ngày chế tác sự tinh khôi cho hai mươi bốn giờ đồng hồ, đừng bao giờ để giây phút nào trôi đi một cách oan uổng.

Môi trường xã hội ngày càng trở nên phức tạp, không thể lường trước được nên việc chế tác an lành khó khăn, hoặc là không biết cách, hoặc là lười biếng, hoặc là do các yếu tố bất an quá nhiều và bị đánh đồng là an lành. Con người thiếu phước nên sinh ra đời không có Phật, gặp Pháp nhưng không chịu hành, gặp Tăng nhưng không chịu nương tựa. Môi trường bê bối sẽ sinh ra những con người bê bối, nếu không vững, tính bê bối lây lan nhanh chóng. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Khi chưa vững vàng, đừng đi vào mực, khoan vội đi vào vùng đen tối, tạm thời đừng thử thách bằng cách dẫm chân vào bùn nhơ. Hãy chọn cho mình môi trường an lành mà sống chung, nơi có thiền thân, có tăng thân, có đoàn thể tu học, có người hiền tri túc. Không thể đi vào trường thì hãy tự xây dựng ngôi trường cho mình. Trường học bây giờ rất bạo động, cái gọi là bạo lực học đường khiến người trẻ sợ hãi, không dám đi học. Vậy đừng chần chừ mà xây cái trường cho mình, tạo môi trường tu học cho chính mình. Giữa những bê bối tràn lan mà xây dựng được môi trường như thế là phước đức rất lớn, giữa những cạm bẫy bủa giăng mà mình không như con cá đi vào cái rọ, không như con tằm tự xây kén giam hãm mình, mình vẫn an nhiên, đem sự thực tập an lành mà lan tỏa, làm cho môi trường trở nên an lành, có phước đức nào bằng phước đức này không.

Các nghiệp lành cần phải tạo, như suy nghĩ lành, lời nói lành và hành động lành. Suy nghĩ về chánh pháp, tìm cách hiểu làm thế nào để hành chánh pháp một cách đúng đắn, khi tuệ giác phát triển, sử dụng nó mà hành xử thật an lành trong nhân gian. Suy nghĩ lành thì lời nói mới lành, lời nói vi diệu có thể chuyển hóa khổ đau, hàn gắn sự rạn nứt và vực dậy những tâm hồn đang chết khô. Mình chưa làm gì hết, chỉ mới nói lời lành thôi, những người đang khổ đau kia đã vơi bớt phần nào khổ đau trong họ. Hành động lành thì không tạo sa đọa, không làm cho thân sa đọa và không làm cho tâm sa đọa. Trẻ em có tính bắt chước người lớn, do chưa chín chắn trong suy nghĩ nên chúng thường bắt chước những việc người lớn hay làm. Đã là người lớn thì phải biết làm gương, phải là một tấm gương sáng trong. Nên những chuyện người lớn làm có sự tiếp nối, có ảnh hưởng đến thế hệ tiếp nối. Người lớn biết sống nhân từ, biết tạo phước báo cho con cháu, họ sẽ được tiếp nối an lành. Đây là phước đức to lớn, là biết tỉnh thức và biết truyền thừa kho tàng tỉnh thức. Nếu các tổ không tu tập, không chịu tỉnh thức, thì ngày nay chúng ta không thể kế thừa những thành tựu đó. Phước báo có tính kế thừa hay tính thừa kế. Ngay bây giờ mà mình sống bệ rạc, tạo ra môi trường bệ rạc, con cháu sẽ bị mất gốc và bản thân cũng bị mất gốc luôn, bởi vì mình đang bứng gốc hay chặt bỏ cái gốc bằng lối sống bê tha của mình.

Mặt trời đang ở trên cao nhưng mặt trời cũng ở dưới đất. Những tia nắng chiếu xuống mặt đất làm cho địa cầu ấm lên, sự sống sinh ra, chúng sinh sinh ra. Nói đất là mẹ thì mặt trời là cha. Mẹ rất an lành và cha cũng rất an lành. Không có mặt trời, mặt đất không thể là mặt đất, nên trời cũng có ở trong đất. Cha trời mẹ đất cho mình môi trường rất an lành để sống, không ô nhiễm, không kỳ thị. Bao nhiêu chúng sinh, trời đất đều ôm lấy, đều nuôi dưỡng hết. Không cần phải tu cái gì cho xa xôi, tu hạnh đất mẹ và tu hạnh trời cha, bấy nhiêu đó cũng đủ biết yêu thương muôn loài. Chúng sinh có phước lắm mới sinh ra địa cầu này, nơi sự sống đang biểu hiện. Đất mẹ đang làm phước nhưng người mẹ to lớn này chưa bao giờ kể lể, cha trời đang làm phước nhưng người cha sáng chói này chưa bao giờ kể lể. Nên phước đức mình làm ra không nghĩa lý gì với những phước đức mà mẹ cha đã làm, mà chẳng có gì gọi là phước đức cả, chẳng qua mình chỉ sống trong môi trường an lành một chút, làm những hành động an lành một chút. Mẹ cha cho mình môi trường an lành thì hãy gìn giữ nó, đừng để nó tan biến như hạt bụi trong vũ trụ.

Tôi có một người bạn học chung tiếng Pháp tại IDÉCAF hồi xưa, cũng đã lâu rồi. Có một lần người bạn này hỏi tôi, Con có hai công việc mà không biết chọn công việc nào, một việc làm ở Vissan và một chỗ làm ở Vietnam Airlines, thầy giúp con nên chọn công việc ở chỗ nào. Tôi trả lời, Bây giờ thất nghiệp rất nhiều, con có đến hai nơi mời làm việc như vậy thật là may mắn, tuy nhiên con nên chọn nơi làm việc nào có thể giúp mình giữ gìn năm giới cư sĩ. Một tuần lễ sau bạn ấy cho tôi biết là bạn ấy chọn làm việc tại Vietnam Airlines. Bạn ấy cho biết, Vissan là nơi bán thịt phẩm, bạn ấy không trực tiếp giết mổ nhưng có thể đồng lõa với sự giết mổ, nên chọn làm an ninh sân bay, giữ gìn an ninh cho người khác thì sẽ tốt hơn. Nhưng khi vào đây làm việc, bạn ấy gặp cái khổ khác, nào là áp lực công việc, nào là sự hiềm tỵ nhau, nào là nhậu nhẹt, nào là phân chia phe phái. Được cái này thì mất cái kia, nhưng bạn ấy có thực tập nên bạn ấy nhẫn được và tập sống an lạc trong công việc, bỏ ngoài tai những lời tranh chấp.

Thế nào là một nghề hay, nghề tốt. Đó là những nghề có thể giúp mình sinh sống một cách có đạo đức, không giết hại sinh mạng, không tàn hại môi trường, tôn trọng quyền tư hữu của người khác, bảo vệ được tiết hạnh, tôn trọng sự thật và góp phần bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm. Nói ngắn gọn, làm nghề nghiệp mà khi làm, khi đi vào môi trường công việc, mình giữ được năm giới cư sĩ hay chí ít giữ được những chi phần cơ bản của năm giới cư sĩ. Người biết giữ năm giới là biết quy y tam bảo, nhiều khi chưa quy y tam bảo nhưng đã biết giữ năm giới, người này được xem như đã quy y tam bảo rồi, cho nên nói tam quy là ngũ giới hay ngũ giới là tam quy. Hành trì giới luật trong mọi hoàn cảnh, dù trong đời sống xã hội, gia đình hay công sở, người này có phước lớn, vì đang hun đúc cho mình vẻ đẹp cao thượng, đang đi về hướng thượng, chỉ có đi lên chứ không có đi xuống.

Có khi nào bạn ngồi yên, lắng nghe lời Từ Phụ gọi, không phải ngày hôm qua, ngày hôm nay hay ngày mai, mà từ nguyên thủy. Từ Phụ là cha lành, là Phật, vì chăm lo cho đàn con, hi sinh cho đàn con, không một lời than vãn nào, nên gọi là cha lành, là người mang điều lành. Điều lành được xây dựng từ tự thân. Nếu biết hành xử trong giới hạn của giới luật thì điều lành xuất phát từ tự thân. Từ Phụ cũng là tự thân, mình làm chủ chính mình, làm cha của chính mình, mình tự đẻ ra điều lành. Không ai có thể mang điều lành tới bằng chính bản thân. Người có phước là người biết cách tạo phước. Phước người khác mang tới rất mong manh, phước của tự thân là vô biên. Biết tạo phước là biết sống một mình, là từ phụ của chính mình. Tôi bắt gặp một cái nick trên facebook là Phật Ơi Con Tu. Cái nick dễ thương đấy chứ. Tự nhắc bản thân tu, hứa với ông Phật là con đang tu đây và con sẽ tiếp tục tu. Tu chính là phước đức và không có phước đức nào to lớn bằng việc tu cả. Thực tập tỉnh thức là người biết phước đức, được phước đức dòm ngó và xây ngôi nhà phước đức cho mình. Người này khôn đáo để. Bất cứ ai mà biết lo tu như vậy là người khôn ngoan, biết đầu tư cho phước đức và biết thu hoạch phước đức.

Tại sao phải phụng dưỡng tổ tiên, ông bà, ba mẹ? Vì đây là người thương, là gốc rễ, là cội nguồn. Người thương mà không thương được thì làm sao thương người không thương, làm sao thương chúng sinh. Người Á Đông may mắn hơn người Tây phương, vì con cháu có cơ hội sống với ba mẹ, chăm sóc ba mẹ và trò chuyện với ba mẹ. Ý tưởng sống tự lập bên Tây phương cũng hay, nhưng lại xa rời ba mẹ, không có nhiều cơ hội ở bên ba mẹ. Nhiều ba mẹ già rất cần con cái nhưng phải sống trong viện dưỡng lão, làm bạn với những người già khác. Ba mẹ già như trở về thời kì trẻ thơ, rất cần người thân ở bên cạnh. Phụng dưỡng ba mẹ là chăm sóc nguồn cội, uống nước thì phải nhớ nguồn, phải hiểu vì đâu mà có mình. Gìn giữ nguồn cội là phước đức lớn, bằng không là mất gốc, mất gốc thì sao có phước được. Một số gia đình sống chung nhiều thế hệ, chăm sóc nhau, nương tựa nhau, rất là hay. Người đi tu rồi, không ở bên cạnh ba mẹ huyết thống nữa, nhưng lại có ba mẹ tâm linh, có sư phụ, có bạn đồng tu, có chúng sinh, tất cả đều là ba mẹ. Người tu giàu có vô vùng, hiếu thảo với tất cả là phước đức lớn. Hiếu thảo với sư phụ, hiếu thảo với bạn đồng tu, hiếu thảo với chúng sinh, ai cũng phụng dưỡng, thì tình thương thừa hưởng không hết. Thực tập quán chiếu để thấy tất cả chúng sinh đều là ba mẹ mình, người đi tu hãy vì chúng sinh mà tu, vì chúng sinh mà độ đời, vì chúng sinh mà phụng sự. Trái tim của người tu ôm hết chúng sinh, phước đức bao nhiêu xin nhường cho chúng sinh, xin hồi hướng cho chúng sinh cả thảy.

Mình có đôi mắt ba mẹ trao truyền nên ba mẹ đặt niềm tin nơi mình rất lớn. Mình thừa hưởng tình thương của ba mẹ và mình mang tình thương đó đi vào cuộc đời. Tình thương là từ bi nên hãy đem con mắt từ bi mà nhìn cuộc đời. Dẫu đời không như ý muốn, dẫu đời còn lắm bụi trần, dẫu đời còn đầy dẫy khổ đau, đem con mắt từ bi mà xoa dịu cuộc đời. Mình thương cuộc đời nên những mong mỏi không cần đến nữa, những bụi trần quyết chí lau sạch và những khổ đau phải được chuyển hóa. Mình giận đời vì mình nhìn bằng con mắt của ham muốn, của ghét bỏ, của hờn giận. Vậy thì đâu phải đời mang khổ đau đến cho mình, tại mình nhuốm đời bằng đôi mắt không từ bi. Hãy làm cho tâm rộng như hoa, như ban mai buổi sáng, như cơn mưa buổi chiều và như vầng trăng mát lúc ban đêm. Người phước lớn có tâm rộng như hoa, nên chỉ muốn cho đi chứ không muốn lấp đầy, dù cuộc đời ngắn ngủi như hoa, vẫn cứ cho đi. Người phước lớn có gương mặt hiền hòa như ban mai buổi sáng, nhìn vào gương mặt người này, mình thấy trời xanh, thấy mây trắng, thấy chim hót líu lo. Người phước lớn có hành động như cơn mưa buổi chiều sau một ngày nắng gắt, đem tới nhân gian mát mẻ, thoái mái và dễ chịu. Người phước lớn hành xử như vầng trăng mát, chỉ biết làm vơi nỗi đau của thế gian, ai cũng muốn ngắm nhìn, ai cũng muốn nương tựa. Như công ty lớn có hàng ngàn công nhân nương tựa để kiếm miếng sinh nhai thì người có phước có hàng ngàn chúng sinh nương tựa để kiếm an lạc, để kiếm thảnh thơi.

Bố thí ba la mật là cho đi không mệt mỏi, đến tận cùng chưa thôi. Cho đi đến tận cùng là còn hơi thở cuối cùng cũng cho. Cho đi vì ngày mai không còn đủ sức để cho nữa, hôm nay còn sức nên cho, mà có gì để cho đâu, chẳng qua đất mẹ cho, trời cha cho mà thôi. Đi mượn của người khác để cho người khác, như của thiên trả địa. Mình ăn chay, ăn đậu que, đậu phụ, cơm lứt, chè hạt sen…. Mấy thức ăn này rất hay, là thức ăn chay tịnh mà lại sinh ra máu và mình đi hiến máu, thực ra mình có hiến đâu, chẳng qua là đậu que, đậu phụ, cơm lứt, chè hạt sen hiến máu đấy thôi. Mình đi vay thức ăn nên giờ dùng thức ăn mà trả, chẳng qua thức ăn đang ở dạng máu. Vậy là chẳng có gì bố thí cả, mình chẳng mất đi cái gì mà còn được nhiều. Cho đi là nhận lấy, mình chỉ làm dùm công việc của thức ăn. Vạn vật đang hiến máu và mình là chiếc cầu nối giúp cho vạn vật làm từ thiện. Thực tập như vậy là có phước, phước này là phước vô lậu, cái vô lậu này giúp mình đi tới bờ bên kia, đạt tới ba la mật. Bố thí là điều rất tự nhiên, như có vay thì phải trả, vay hoài mà không trả là hết phước, không còn cái để vay nữa. Nhiều người làm lụng vất vả vẫn không đủ ăn vì đã ăn quá nhiều rồi mà không chịu nhả ra, một tí cũng không nhả, nên giờ phải cật lực nhả cho hết, không nhả hết thì nợ tiếp, mà nợ thì phải có lãi, lãi chồng lãi, trả muôn kiếp cũng chưa xong. Tự mình đi vay thì tự mình trả lãi, biết vay và biết trả là biết tạo phước, như hạnh phúc là biết cho đi, muốn có hạnh phúc thì cho đi hạnh phúc. Hạnh phúc sẽ quay về với người.

Người đời thường cho rằng càng lấp đầy thì càng hạnh phúc, nhưng khi nghĩ đến phước đức, lấp đầy càng nhiều thì phước đức càng giảm. Muốn gia tăng phước đức phải cho ra, phải buông bỏ. Ly sinh hỷ lạc, hỷ lạc đến từ việc buông đi điều khiến mình lo lắng, điều khiến mình cầu thị, điều khiến mình hoa tai lóa mắt, điều khiến mình không còn thảnh thơi nữa. Thảnh thơi đơn giản là buông bỏ, muốn thảnh thơi thì buông bỏ. Cho đi thì phước đức tăng trở lại. Người Việt Nam có câu, Có đức mặc sức mà ăn. Người có đức của ăn của để, dư dả thì đem cho người khác, không keo kiệt trong cuộc sống, đã có phước lại còn có phước thêm nữa. Có nhiều thứ trói chặt mình, mình không buông bỏ được, mình dính vào đó như hình với bóng, nào những khổ đau, nào những ganh tỵ, nào những tranh đua, nào những mệt mỏi. Mình như vậy là không có phước, vì không tiếp xúc được với an lạc và thảnh thơi. Người biết sống hạnh phúc trong hiện tại thì có phước, vì buông bỏ việc chìm đắm trong quá khứ và không còn chạy theo tương lai, người sống giàu có trong hiện tại, vì hiện tại có đầy đủ những yếu tố mầu nhiệm mang lại hạnh phúc có thật. Mình đang có một gia đình, có người thân, có họ hàng quyến thuộc, hãy có mặt cho họ, hãy giúp đỡ họ. Người không phước có gia đình như không, có họ hàng như không, trở nên bơ vơ và lạc lõng trong đám đông. Một gia đình hạnh phúc thì xã hội và quốc gia mới hạnh phúc, nên xây dựng hạnh phúc không từ đâu xa xôi, mà chính từ gia đình của mình. Tổng thống có gia đình không hạnh phúc, vị tổng thống này có thể gây hại cho dân, không thể mang hạnh phúc lại cho dân.

Người có thái độ ngay thẳng là người phước lớn vì đang đi về hướng thượng, đang biết nẻo thiện mà đi. Bằng không người sẽ rơi vào ác đạo, như chiếc xe đường ngay không đi, mà lại rơi vào hố sâu, xăng tràn ra, bốc cháy. Người không ngay thẳng bị bốc cháy như chiếc xe. Phật có dạy chúng ta về Kinh Lửa Cháy, theo đó tất cả mọi thứ đều đang bốc cháy, bạo động và sợ hãi khắp nơi, sáu căn bốc cháy, năm uẩn bốc cháy, ba nghiệp bốc cháy, chúng sinh không còn lại gì vì chúng sinh đang đi về nẻo của sự bốc cháy. Tưới những dòng nước cam lộ để lửa dục, lửa tham , lửa sân, lửa si tắt ngúm. Mẹ là một thứ cam lộ mầu nhiệm, có công năng làm những đốm lửa thôi không cháy nữa. Chỉ cần ngồi bên mẹ, chưa nói gì, chưa làm gì, mình đã bình an, vì mẹ là bình an, và bình an của mẹ có sức ảnh hưởng, có sức lan tỏa. Mẹ rất ngay thẳng, mẹ không đi những con đường lắc léo để biến mình thành tội đồ. Điều mẹ mong mỏi là mẹ muốn đứa con của mẹ bình an và mẹ chấp nhận hy sinh để đứa con bình an. Mẹ có những mầu nhiệm, nên mẹ là phước đức. Đứa con đầu hai thứ tóc mà vẫn còn mẹ thì đánh đổi cả thế gian cũng không chịu nhường mẹ. Đứa con này phước lớn vì người mẹ già vẫn còn sống. Mẹ là bốn mùa, là tình thương quanh năm, nên có mẹ, mình thừa hưởng tình thương đó qua năm tháng, mình đang hưởng phước đấy chứ. Tu hạnh của mẹ thì phước đức biết là bao nhiêu. Có đứa con nào đẹp bằng đứa con có hiếu đâu, mà cách có hiếu hay nhất là tu hạnh mẹ, vì mẹ là từ bi, là bao dung, là phụng sự, vì mẹ là đẹp đẽ, là nước trong nguồn, là hoa tươi mát. Làm được vậy, cả núi vàng không bằng phước đức từ việc tu hạnh mẹ.

Thế giới này ngày càng đen tối, ánh sáng thưa dần và chỉ cần sơ hở trong giây lát, chút xíu ánh sáng sẽ tắt lịm. Điều ác và những tai ương đầy dẫy khắp mọi nơi, những bạo động, những sợ hãi, những khủng bố, những bế tắc đang dàn trận và con người bị kẹt trong hầm hố của khổ đau chất ngất. Do thiếu phước, do không học cách tạo phước, học xong rồi không chịu hành. Hãy hành mười nghiệp lành và lánh xa mười nghiệp ác. Đã sinh làm người thì biết phước đức lớn lắm, biết vậy thì đừng để mất thân người mà hãy tu đi, tu cho đến khi nào thân người trở thành thân bồ tát, thân Phật, thân lưu ly, thì những sợ hãi và bạo động không đả động được tới mình. Giữ năm giới rất quan trọng, nó giúp mình phần nào chuyển hóa bạo động và sợ hãi. Trong năm giới cư sĩ, giới thứ năm là bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm, theo đó người cư sĩ nên thực tập từ bỏ việc nghiện ngập say sưa, không uống các chất say, không sử dụng các phương tiện có thể tưới tẩm các hạt giống thèm khát, bạo động và hận thù. Làm được vậy thì phước lớn vì không còn dính mắc vào các sản phẩm độc hại, không làm thân tâm bệ rạc bởi ham thích tiêu thụ và khi tiêu thụ thì lại tiêu thụ không lành mạnh. Mình hay nung nấu ham thích tiêu thụ và lập kế hoạch để tiêu thụ, nên mình ít phước đi. Tiêu thụ là hưởng phước nên tiêu thụ càng nhiều mà không biết tiết kiệm, phước cạn kiệt như tài nguyên cạn kiệt. Đúng thế, phước đức là một thứ tài nguyên, xài hết mà không cải tạo thì mất phước, như dầu xài hết thì hết dầu, không còn dầu để xài. Phải biết tiết kiệm phước mà hãy vun bồi thêm phước đức, làm cho nó trở nên tràn đầy. Không còn phước thì coi như chết, làm việc gì cũng rất khó khăn. Còn biết sống đời phước đức, làm gì cũng thuận lợi. Chỉ cần không uống rượu bia và tránh xa các chất say là biết tạo phước dù chưa làm hành động cụ thể gì cả. Không say sưa thì thân tâm khỏe mạnh, giã từ chất độc, chấm dứt việc đưa chất độc vào cơ thể, cái này là tạo phước đức cho thân tâm, đem phước đức trở về với thân tâm.

Thường mình phân chia hạnh phúc và khổ đau ra làm hai thế giới riêng biệt và có lằn ranh giới giữa hạnh phúc và khổ đau. Thực ra hạnh phúc và khổ đau nằm trong nhau, hạnh phúc có thể được làm từ chất liệu của khổ đau. Một người bị trúng gió, thân thể nhức mỏi, nên khổ lắm, từ đó suy nghĩ, nếu biết tập thể dục, ăn uống lành mạnh, làm việc cẩn thận thì chắc đâu bị trúng gió, cho nên nhờ cái bệnh mà có ý thức phải giữ gìn sức khỏe và cũng ý thức rằng sức khỏe chính là hạnh phúc. Cho nên hạnh phúc được sinh ra từ khổ đau, ý thức giữ gìn sức khỏe vì những căn bệnh dày vò. Nhờ khổ vì bệnh mà vui sướng vì khỏe mạnh. Khi đang khỏe mạnh không có nghĩa là không bệnh, căn bệnh vẫn có đó, mầm bệnh vẫn có đó, nếu không cẩn thận thì vẫn nhuốm bệnh như thường. Người có phước là nhận ra được bệnh là khổ, nguyên nhân gây ra khổ của bệnh, tìm ra con đường chấm dứt bệnh và đạt được sức khỏe. Người không phước có bệnh nhưng không biết là bệnh, không tìm được nguyên nhân của bệnh và cứ cho đó là “bệnh lạ”, là “bệnh hiểm nghèo” và vô phương cứu chữa. Người thiếu phước luôn mắc bệnh hiểm nghèo và chết trong căn bệnh hiểm nghèo, có khi có phương cách chữa trị nhưng không đủ điều kiện để tiếp cận, hoặc có đủ điều kiện để tiếp cận nhưng không tìm ra phương cách chữa trị. Người tu phải tìm ra căn bệnh của mình, phải nhận diện cho được nỗi khổ niềm đau và chuyển hóa chúng, vẫn cứ bệnh, bệnh tâm, mà bệnh tâm là bệnh trầm kha, chỉ có tu mới trị được.

Được sinh ra trên cõi đời, được nuôi dưỡng, được dạy dỗ, được rèn luyện, mình bắt đầu thành công. Dù thành công lớn hay nhỏ, nó không có xá gì so với sự cống hiến của vạn vật, của chúng sinh. Hãy nghĩ xem ai cho mình thân thể này, ai cho mình thức ăn, ai cho mình áo mặc, ai cho mình kiến thức, ai cho mình hoàn cảnh, môi trường sống… Bấy nhiêu thôi mình đã thấy nhỏ bé trước sự cống hiến vĩ đại của chúng sinh, nên thành công của mình không là cái thá gì. Nghĩ vậy mà biết hạ mình, biết khiêm nhường. Thành công thì chia sẻ, công nhận sự góp mặt của vạn vật trong thành công của mình. Khiêm nhường sẽ có cơ hội học hỏi, thành công sẽ lớn hơn nữa, bằng không tiếp nối từ thành công đầu tiên là những chuỗi ngày dài thất bại. Cho nên phải biết ơn nghĩa, ơn ba mẹ, ơn thầy tổ, ơn đồng nghiệp, ơn chúng sinh, ơn vạn vật. Vạn vật nương nhau mà sống nên mình không đơn độc, mình có phước vì vạn vật giang tay, góp mặt nuôi dưỡng mình. Thành công của mình là thành công của vạn vật.

Thiền tập và hành trì đạo pháp mang lại phước đức rất lớn, nếu không nói là phước đức vô lượng.  Việc điều phục thân tâm cho trở nên thanh tịnh là làm phát triển phước đức. Điều phục được sân hận thì tâm từ phát triển, tâm từ là phước đức. Điều phục được khổ đau thì tâm bi phát triển, tâm bi là phước đức. Điều phục được ganh tỵ thì tâm hỷ phát triển, tâm hỷ là phước đức. Điều phục được chấp trước và mọi phân biệt thì tâm xả phát triển, tâm xả là phước đức. Lúc hành thiền, tâm thiện khởi lên biết là thiện, tâm không thiện khởi lên biết là không thiện. Mình không kẹt vào thiện lẫn bất thiện là mình có phước. Tại sao như vậy? Người tu còn chấp vào thiện và không thiện thì cái chấp này chắc chắn dẫn đến khổ đau, nếu không nói là cuồng tín. Điều không thiện cần giúp đỡ để trở nên thiện hơn. Điều thiện thì không nên quá tự hào mà rơi vào tăng thượng mạn. Nên thiện thì cứ làm nhưng không ôm ấp, không thiện thì nên tránh nhưng không xua đuổi, đây là phước đức, phước đức này nằm ở chỗ biết công nhận cái thiện và chuyển hóa cái chưa thiện. Cho dù nằm trong hoàn cảnh nào, thiện hay không thiện, xin hãy tiếp tục vững tay chèo. Bầu trời có thể xám xịt, mây giăng tứ phía, mặt đất có thể rung chuyển, chôn vùi tất cả, bão tố có thể tràn lan, bụi bay ngập đường, thì vẫn cứ nắm chặt tay chèo, đừng có rời con thuyền của mình, cứ nương theo con thuyền mà hướng tới. Thuyền này là thuyền Bát Nhã, thuyền của trí tuệ đưa chúng sinh vượt thoát khỏi biển khổ ải trầm luân. Người có phước thì dù tay chèo có mất, con thuyền có tan nát, vẫn đường mình mình đi, mặc cho sóng cả, mặc cho bão giông, vẫn nguyện giữ tấm lòng son. Nếu không làm được vậy, mình sẽ bị chìm dưới biển sâu, làm mồi cho cá dữ, bao nhiêu phước đức bị mất hết, đường về nhà sẽ rất xa vời, trong khi lời Từ Phụ đang gọi, nhưng mình không đủ sức để nghe nữa.

Bấy lâu nay mình đi theo con đường không thiện, nên phước mỏng dần rồi tan đi như mây khói, mình trở thành một cục đầy bất thiện, rất khó ưa, rất khó gần. Giờ đây có chánh pháp rồi, mình quyết chí làm lại từ đầu, quyết chí phục thiện lìa khổ, tạo phước đức cho mình. Rảnh rỗi thì vô chùa thỉnh pháp, các nhà sư có mặt yểm trợ cho mình tu học. Gặp gỡ các bạn đồng tu, trao đổi kinh nghiệm tu tập. Không có gì đẹp như một người biết tu, biết tìm tòi, biết học hỏi, biết tự giải thoát. Tôi mà có học trò nào thực tập đến quả vị giải thoát chắc là mừng dữ lắm. Lúc nào tôi cũng nhắc nhở học trò của mình, làm việc gì đi chăng nữa cũng phải lo tu. Mình có thể đi theo con đường công danh, con đường học vấn, con đường gia đình, con đường xã hội, con đường kinh tế, con đường chính trị… nhưng không có con đường nào đẹp như con đường tu. Đường tu là con đường của tự do thênh thang, của hạnh phúc thênh thang, của giàu có thênh thang, của từ bi thênh thang. Phước đức lớn nhất là do phẩm chất thênh thang lên ngôi, trái tim mình nhỏ bé nằm trong giới hạn của lồng ngực, nhưng nó rất thênh thang. Mình biết tu rồi nên mình không còn sợ hãi, mình có chánh pháp là ngọn đèn, là nơi nương tựa cho mình, nương tựa chính mình.

Trái tim của thiền tập là chánh niệm. Thực tập chánh niệm cho đến khi thực sự tỉnh giác, tiếp xúc thực tại cùng tột, mọi dính mắc sẽ rơi rụng rất mau. Dính mắc làm mình mất phước, không còn dính mắc thì phước ngập tràn. Đời sống tỉnh thức là đời sống của Phật, của đoàn thể nguyện đi theo con đường của Phật, là tăng. Hôm nay là ngày Phật đản, là sinh nhật của Phật, hãy nguyện sống một đời tỉnh thức, dẫm vào cuộc đời bằng sự tỉnh thức. Có câu kệ, Búp sen xin tặng bạn, một vị Phật tương lai. Một người tỉnh thức có đầy dẫy năng lượng Phật trong thân tâm nên Phật hiện tiền ngay thời khắc tỉnh thức viên mãn. Mình không cần làm Phật trong tương lai vì có khả năng làm Phật thị hiện ngay trong thực tại này, nếu thực tại có chất liệu của chánh niệm, chất liệu của tỉnh thức, chất liệu của giác ngộ. Đức Phật ngày xưa sử dụng nhiều phương tiện và ngôn từ để diễn bày chân lý giải thoát. Muốn nếm được hương vị giải thoát thì phải dấn thân, dấn thân giữ giới, dấn thân thiền định, dấn thân phát khởi trí tuệ. Làm như vậy là làm phước đức, cho phép phước đức ăn ở với mình, bằng không thì mình đã nói lời chia tay với phước đức rồi, không biết bao giờ nghe được lời Từ Phụ dạy nữa. Giờ đây mình may mắn vẫn còn chánh pháp, vẫn còn con đường, nên hãy vì mình mà thực tập, mà giải thoát, mà thực chứng Niết Bàn ngay lập tức. Mình tập sống đời thảnh thơi nhưng đừng tu thảnh thơi. Đức Phật chưa bao giờ dạy đệ tử tu thảnh thơi cả, đã gặp Phật rồi thì hãy tu mau đi thôi. Tôi thích câu, Tu mau kẻo trễ. Các thầy ngày xưa đi khất thực về và thọ trai trước giờ ngọ. Từ sau giờ ngọ tới tối là các thầy chỉ lo thực tập thiền, nghe pháp thoại, học giáo lý và làm các công việc chấp tác. Phật thường xuyên nhắc nhở các thầy hãy lo tu mà đạt quả vị cứu cánh. Còn bây giờ mình dạy đệ tử tu thảnh thơi hay tu gieo duyên thì hết sức lạ, sống đời thảnh thơi thì có lý hơn. Do dạy theo kiểu thảnh thơi như vậy nên người tu rất đông nhưng đạt quả vị giải thoát thì không bao nhiêu. Mình phải xem lại cách tu thôi.

Hành thiền là phương pháp lắng nghe chính mình hữu hiệu. Mình có khuynh hướng lắng nghe bên ngoài nhiều hơn lắng nghe bên trong. Vì lắng nghe bên ngoài nhiều nên tâm phán xét phát sinh, tâm đòi hỏi phát sinh. Muốn dừng lại tâm phán xét thì hãy lắng nghe bên trong. Mình tìm kiếm những bài nhạc hay để nghe, tìm kiếm những người diễn thuyết giỏi để nghe, nhưng có bao giờ mình ngồi thật yên để lắng nghe chính mình, nhìn sâu vào bản thân. Tu là điều phục tâm, nếu không quán tâm thì sao biết tâm. Ngồi yên mà lắng nghe tâm lên tiếng. Bấy lâu nay tâm nhảy như vượn chuyền cành, không biết dừng lại nên tâm không có phước, không tiếp xúc được với bình yên. Đây không phải là tự kỉ ám thị, mà nhìn tâm để biết tâm cần gì, tại sao tâm lại cần điều đó. Tâm mình có thể đang có nhiều nỗi buồn, nhiều hờn giận, nhiều si mê nên tâm cần chăm sóc. Nếu cứ chạy theo những thứ bên ngoài, tâm bị bỏ rơi và trở nên cô đơn. Ngày nào đó tâm rất yếu đuối và không chịu nổi những biến cố trong cuộc đời. Lắng nghe chính mình là cơ hội cho mình bình yên. Người lúc nào cũng bình yên là người phước lớn vì tâm bình yên giúp cho thân bình yên, cách hành xử bình yên sẽ giúp cho thế giới bình yên. Tôi có làm bài thơ Tôi Và Bạn như sau, Cho tôi nắm tay bạn – Dù cuộc đời còn lắm gian nan – Cho tôi lắng nghe bạn – Để tim tôi thấy tình thương chứa chan – Cho tôi nụ cười hồn nhiên – Như chốn thần tiên tôi dạo bước – Cho tôi tiếng chuông chùa tha thiết – Từng giọt sương tan dưới ánh bình mình – Cho tôi phút giây nhìn lại chính mình – Những lặng thinh tôi tìm thấy chính tôi – Những ưu tư phiền não xóa tan rồi – Từ bi đến từng hồi trong tim tôi và bạn.” Đúng như vậy, chỉ có lặng thinh tôi mới tìm thấy chính tôi. Mình lăng xăng, mình bận rộn thì sao mình thấy chính mình. Mình đi theo cái ngã, đi theo tiếng gọi của danh vọng, đi theo sự ca tụng và sự cung kính, nên mình đánh mất mình. Mình ngày càng xa mình. Muốn mình là mình thì phải lặng thinh, lặng thinh không có nghĩa là im lặng, mà làm cho cái ngã lặng thinh, làm cho danh vọng lặng thinh, làm cho sự cung kính lặng thinh. Mình không là trẻ thơ dù mình đã đi qua thời trẻ thơ, mình đang cần tình thương, cho nên chỉ lặng thinh thôi, mọi thứ ồn ào đều tan biến, tình thương lên tiếng ngay tức khắc. Người biết thương mình là người có phước , vì là người biết cưu mang, biết chăm sóc thân tâm này, giúp cho nó được bình yên, bằng không mình hết sức vô phước vì không biết thương mình, lúc nào cũng làm tình làm tội thân tâm này, làm cho nó héo hon, làm cho nó gầy gò và nó chết trong sự tất tả.

Thế gian này ngày càng bạo động vì không biết thương mình, nên hành xử bạo động với chính mình. Sự bế tắc nên họ tìm đến cái chết bằng cách tự tử, bằng cách gây tổn thương, họ thiếu thốn phước đức. Là người tu là biết chuyển hóa bạo động thành bất bạo động hay bất động. Bất động không có nghĩa là vô cảm, mà bất động có nghĩa là không làm gì cả, không làm những việc gây chia rẽ, gây hờn oán, gây căm thù. Bất động để có thì giờ lắng nghe và nhìn sâu, lắng nghe dòng đời và nhìn sâu vào khổ đau của dòng đời, từ đó có những thực tập yêu thương, chấm dứt đòi hỏi bạo động trong tâm. Phật Di Lạc là Phật của thương yêu, là Phật sẽ ra đời trong tương lai. Đã nói thương yêu thì không bạo động, đây là ông Phật bất động trong hành xử nơi thế gian. Thế gian chỉ trích, ngài bất động, thế gian phê phán, ngài bất động, thế gian cào cấu, ngài vẫn bất động. Bất động để có thì giờ thương yêu. Tất cả hoàn cảnh đều vô ngã, không thể tác động như ý muốn, nên đừng sầu khổ. Hoàn cảnh như thế nào, mình cũng không vướng bận. Đã nói thế nào thì hoàn cảnh thuận duyên hay nghịch duyên cũng vậy mà thôi. Một người phụ nữ mua một ngôi nhà. Trong nhà này trước đây có người treo cổ và oan hồn vẫn còn trong nhà đó. Thấy bà đến ở nên đêm nào cũng hiện ra nhát bà. Sợ quá, bà ngồi yên niệm Phật A Di Đà, hồi sau bà chuyển sang niệm Bồ tát Quan Thế Âm. Mở mắt ra bà không thấy con ma nữa. Thấy bà niệm Phật nên con ma bỏ đi. Sáng hôm sau, bà kể cho hàng xóm nghe, ai cũng khuyên bà nên bán nhà, mua nhà khác mà ở. Bà nói, Thật ra tôi phải cám ơn con ma, nhờ nó mà tôi niệm Phật, nó nhắc tôi niệm Phật đấy chứ. Bạn thấy hay không, con ma nhắc mình niệm Phật, nó trở thành hoàn cảnh thuận duyên. Thuận hay nghịch là do suy nghĩ của mình, như thái độ tích cực hay tiêu cực, cũng do cách nhìn nhận. Người có phước thì bình tĩnh trước hoàn cảnh, không bị hoàn cảnh làm tâm tư phiền não. An nhiên được thì phước đức cầu toàn, chiến thắng được sự sợ hãi. Bao nhiêu bạo động đều dội ra như hàng ngàn mũi tên rơi xuống khi chạm phải bức tường thành bằng đá. Tâm an nhiên là tâm như phiến đá.

Người có phước sẽ tiếp xúc với thiên đường ngay trong cõi đời này. Mình cầu nguyện để sinh về thiên đường hay niệm Phật để được rước về Tây phương, nhưng cái phước này là để hưởng trong tương lai. Tại sao mình không hưởng cái phước của thiên đường hay cái phước của cõi Cực Lạc ngay trong kiếp sống này, tại chỗ này, vào lúc này? Khổ đau quá sâu dày nên mình liên tưởng đến một cảnh không còn khổ đau, không còn con người chém giết nhau, không còn hoàn cảnh dày xéo nhau. Mình tạo ra một cõi không có khổ đau, một cõi rất cực lạc, tức là chỉ có niềm vui mà thôi. Con người là thiên đường của con người, địa cầu là cực lạc của chúng sinh. Thực tập phước báu thì không rời xa con người. Chính con người tạo điều kiện cho mình thực tập phước báu. Con người là phước của nhau. Robinson lạc vào đảo hoang mà lúc nào cũng mong muốn trở về đất liền, gặp lại người thân, gặp lại bạn bè. Bây giờ mình còn gặp nhau đây, người thương của mình đây, bạn bè của mình đây, mình đang hưởng phước đấy. Còn nhìn thấy loài người là biết địa cầu này còn phước đức. Nếu phước đức không còn, động đất sẽ tràn lan, sóng thần sẽ tràn lan, bệnh dịch sẽ tràn lan và một trận đại hồng thủy nhấn chìm tất cả. Địa cầu chứa đựng những điều mầu nhiệm mà không phải địa cầu nào khác cũng có. Mặt trăng là mầu nhiệm nhưng làm gì mầu nhiệm như địa cầu. Sao hỏa, sao mộc là mầu nhiệm nhưng làm gì mầu nhiệm như địa cầu. Mình đang đứng ở nơi mầu nhiệm nhất trong tất cả những điều mầu nhiệm, thì hà cớ gì phải vẽ ra một thiên đường, vẽ ra một cõi cực lạc. Thiên đường là đây và cực lạc cũng là đây. Mình thờ ơ với điều mầu nhiệm trong thực tại để tìm kiếm cái mầu nhiệm hơn. Mầu nhiệm của thực tại không nhận biết được thì làm sao tiếp xúc với mầu nhiệm trong tương lai. Có phải mình đang thiếu phước? Do thiếu phước nên mình không thấy được tại chỗ này là thiên đường và ngay lúc này là cực lạc. Nên mình chạy tìm kiếm một thứ mầu nhiệm trong tương lai, chạy mãi đến xa tít chân trời.

Bên Hoa Kỳ có một nhà tỷ phú. Mỗi lần xếp hạng bậc tỷ phú thì lúc nào ông cũng thuộc hàng top ten, nếu không phải đứng thứ nhất thì cũng đứng thứ nhì. Ông có cách làm từ thiện rất hay. Lợi nhuận kiếm ra được trích một phần để giúp đỡ các tổ chức nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, chăm sóc cho người già, nghiên cứu các chương trình bảo vệ môi trường, bảo vệ các loài động vật, nghiên cứu thuốc chữa bệnh và các phương pháp phòng chữa bệnh. Việc làm này rất hay, nó không chỉ góp phần vào việc phát triển trách nhiệm xã hội, mà còn làm nhẹ bớt trách nhiệm của chính phủ trong giai đoạn ngân sách thắt lưng buộc bụng. Tất cả mọi hành động từ thiện đều đáng khen ngợi và được cổ xúy, nhưng có một cách làm từ thiện còn hay hơn nữa, đó là làm từ thiện với chính mình. Tâm mình còn những khổ đau, hãy làm cho những khổ đau này được chuyển hóa, thân mình còn những điều uế nhiễm, hãy làm cho những uế nhiễm này trở nên thanh tịnh. Làm từ thiện với chính mình để chấm dứt những đòi hỏi về tham lam, về sân hận, về si mê, về ngã mạn, về hoài nghi, về kiến chấp, cho phép mình đủ phước báu để chuyển hóa khổ đau và chấm dứt phiền não. Đây gọi là làm từ thiện đích thực hay phước đức đích thực. Dù mình cho đi cả năm châu bốn biển, cho đi của cải vật chất lấp đầy cả thế gian, mà nếu mình không tu, mình vẫn chưa thể an lạc, vẫn chưa thể hạnh phúc, vẫn chưa thể biết sống đích thực.

Kệ Tỉnh Thức

Ke tinh thuc

Kệ Tỉnh Thức

Tử sinh là chuyện thường
Biệt ly là muôn thuở
Con người hay đảo điên
Thiện trí không hệ lụy.

Trầm luân từ vô thủy
Nước mắt như đại dương
Cuộc đời đầy tang thương
Xương trắng khắp đại địa.

Một kiếp không trọn vẹn
Cuộc đời lắm đổi thay
Tuổi thanh xuân bao ngày
Già chết khó tránh khỏi.

Bao thăng trầm danh lợi
Vinh nhục nối liền nhau
Thương buồn vui huyễn mộng
Tình nhân nghĩa phu thê.

Thương ghét luôn gần kề
Cuộc đời luôn ngang trái
Sự nghiệp và của cải
Bằng nước mắt mồ hôi.

Vật nay dời mai đổi
Tà kiến chấp của ta
Phải buông bỏ tất cả
Khi hơi thở tàn đi.

Người trí luôn thấu hiểu
Nguyên nhân của khổ đau
Tìm hướng đi giải thoát
Vượt qua mọi sinh tử.

Nương nhờ nơi Đức Phật
Nương nhờ nơi Pháp mầu
Nương nhờ nơi Tăng chúng
Nguyện hạnh phúc bền lâu.

Có một sự thật mà ai cũng biết là đã có sinh thì phải có tử, đã có hợp thì phải có tan, gặp nhau đây thì mai phải xa lìa. Tôi dạy một lớp học nhưng không thể dạy hoài, dù học trò có đông cách mấy, đến lúc nào đó thì đường ai nấy đi. Những người học trò tâm linh cũng vậy, ngồi bên nhau cùng thở cùng cười, nhưng rồi cũng nói lời chia tay. Kinh Niết Bàn nói, Tất cả các thế gian, vật sống đều phải chết, thọ mạng tuy rất nhiều, rốt cuộc quyết phải hết, lúc thịnh dần đến suy, hội họp quyết biệt ly, hoa niên được bao lâu, thinh sắc quyết bịnh cướp, các khổ chạy vòng tròn, trôi lăn không chút nghỉ, ba cõi đều vô thường, các cõi có gì vui đâu. Nghe có vẻ rất đau khổ nhưng sự thật là vậy. Tuy nhiên đây chỉ là một khía cạnh của sự thật. Nếu biết tỉnh thức thì những điều được cho là khổ đau kia sẽ có cái nhìn khác. Đã biết sinh là có tử, cho nên lúc còn đang sống đây, hãy sống thật đàng hoàng, sống cho ra sống, đây là biết tỉnh thức. Đã biết hợp rồi sẽ tan nên giây phút này, trân quý sự có mặt của người kia, yêu thương hết lòng thì dù có xa lìa thế giới, điều đó có xá gì, đây là biết tỉnh thức. Tỉnh thức là biết mình, biết sống sâu sắc trong hiện tại, không khóc lóc, không than van sao số kiếp trôi qua quá nhanh, thậm chí số kiếp chưa tới mà đã vội nói lời chia tay. Có bài kệ, Gặp nhau xin gửi lời chào – Nụ cười hãy tặng cho nhau – Hẹn ngày xôn xao tái ngộ – Chia tay lòng cứ nao nao. Khi còn gặp nhau thì trao tặng nụ cười, trao tặng niềm vui, chế tác hạnh phúc cho nhau thì dù không còn gặp nhau nữa nhưng mình đã ở trong nhau rồi. Mình cười rôm rả cho sự tái hợp và buồn thương cho sự chia lìa. Nhưng có chia lìa thì mới có tái hợp và ngược lại, là tất yếu của sự sống, như chiếc lá rời cành để cành đón chào chiếc lá mới.

Phật là tỉnh thức, là biết cái đang là, biết chuyện đang diễn ra bên trong và bên ngoài. Khi gặp nhau, mình biết là mình đang gặp nhau nên mình cống hiến phẩm chất của sự có mặt cho nhau, mình đang tỉnh thức, đang làm cho Phật mỉm cười trong mình. Khi chia tay, mình biết là mình đang chia tay nên mình không còn níu kéo gì nữa, hãy để buổi chia tay được tự nhiên, để còn niềm vui còn có cơ hội nở nụ cười, mình đang tỉnh thức, đang làm cho Phật mìm cười trong mình. Ngược lại, lúc gặp nhau, mình không dành thời gian cho nhau, mình lấp đầy những buổi gặp mặt bằng lo lắng, bằng than thở, bằng trách móc, bằng hờn ghen. Hạnh phúc không được xây đắp, mà trong đó những ích kỷ nhen nhóm, mình không biết tỉnh thức, đức Phật trong mình bật khóc. Đến lúc chia tay, mình níu kéo, bao nhiêu giận dỗi lại tuôn ra, những bất an chất chồng và mình chưa bao giờ biết hương vị của bình an, đơn giản vì mình không chịu tỉnh thức, đức Phật trong mình chảy nước mắt rồi.

Người không trì chánh pháp
Bỏ bê việc tu hành
Dù cầu cạnh bên Phật
Nhưng tâm vẫn lận đận.

Rồi chính vào lúc này
Đức Phật đã bật khóc
Chảy hai hàng nước mắt
Thương chúng sinh long đong.

Người hành trì chánh pháp
Miên mật không đổi dời
Xa Phật muôn trùng khơi
Nhưng biết Phật thấy Phật.

Chính vào lúc này đây
Đức Phật nở nụ cười
Khen ngợi người đệ tử
Biết cần mẫn tâm tu.

Bậc thiện tri thức sống đời tỉnh thức, không còn kẹt vào sinh tử và biệt li. Thiện tri thức còn gọi là thiện hữu, đạo hữu hay nói dễ hiểu là người bạn đạo, là người nắm vững giáo lí và tinh thông thiền định, có thể giúp đỡ người khác trên con đường tu học. Cả một cuộc đời người này tầm cầu học đạo, hành đạo và phát triển đạo. Đạo ở đây là con đường tỉnh thức, là con đường làm cho Phật hiện tiền. Do vậy, năng lượng Phật có mặt ở khắp mọi nơi, trong mỗi bước chân, mỗi lời nói hay mỗi dòng suy nghĩ của người này. Người như vậy là đang gần Phật, đang ở chung với Phật và đang được Phật chăm sóc. Người này rất hiếu thảo, không bao giờ làm Phật bật khóc nên chuyên tâm hành trì chánh pháp. Người tu chính là bậc thiện tri thức và lúc nào cũng có sức hút mãnh liệt, không phải vì người này đẹp hay uy nghi mà từ tự thân của người này tràn ngập năng lượng tỉnh thức, năng lượng của sự buông bỏ và biết dừng lại.

Cuộc đời này nếu không tỉnh thức, nước mắt sẽ lấp đầy, lấy đầy từ kiếp này sang kiếp khác, mênh mông như bể biển. Thương yêu mà phải xa nhau thì nước mắt rơi. Thù ghét mà phải gặp nhau thì nước mắt rơi. Mong cầu mà không toại nguyện thì nước mắt rơi. Cơ thể con người nhỏ bé nhưng nước mắt có thể lấp đầy cả bốn bể. Rồi biết bao tang thương chồng chất. Cha mẹ sống đời cách mấy cũng phải ra đi, người thương trẻ cách mấy cũng già rồi chết, bạn bè tụ họp đông đảo cách mấy đến lúc mỗi đứa đi mỗi ngả, đỉnh cao cách mấy của danh vọng cũng phải nộp đơn phá sản. Mảnh đất này, đại địa này, giang đôi tay nuôi nấng mình và đón nhận mình trở về với tứ đại. Đất này là xương, là máu, là thịt, là tim, gan, ruột, mật. Tất cả đều đi vào đất, vào nước, vào gió, vào không khí, vào cát bụi, vào mọi thứ xung quanh.

Đời sống không tỉnh thức thì chỉ có khổ thôi, mà khổ thì có gì vui đâu. Ý thức được khổ đau của thế gian, mình nguyện thực tập tỉnh thức, mang lại cho khổ đau sự chuyển hóa, cho nó thẩm thấu niềm vui và hạnh phúc. Mọi thứ mình làm đều phục vụ cho hạnh phúc đích thực mà hạnh phúc đích thực là hoa trái của thực tập tỉnh thức. Từ khổ đau, thực tập tỉnh thức bằng cách không đi vào những nguyên nhân có thể gây khổ đau, có thể tạo hành trì cho khổ đau. Con người bị khổ đau vây bủa và khổ đau như quân địch tấn công tứ phía, nhưng khổ đau không phải là để xua đuổi mà để ôm lấy, bắt tay và làm bạn, vì kẻ địch vẫn có thể hòa giải, làm đối tác hay làm huynh đệ. Sở dĩ gọi đó là khổ đau vì nó không biết cách hạnh phúc, cũng như gọi người đó là kẻ thù vì chẳng qua chưa biết cách làm bạn. Bắt tay với khổ đau không phải là cổ xúy cho khổ đau mà tạo cho mình cơ hội tìm hiểu khổ đau, từ khổ đau mà thực tập hạnh phúc. Bắt tay với kẻ thù không phải là đồng lõa với kẻ thù mà tạo cho mình điều kiện để nói chuyện, chia sẻ, tâm sự, bày tỏ với kẻ thù, để hiểu kẻ thù và từ đó xây dựng phương án làm bạn. Đã là bạn thì không còn gì gọi là khổ đau hay kẻ thù nữa, mình thương khổ đau và thương luôn kẻ thù của mình, vì khổ đau đó là biểu hiện của mình và kẻ thủ đó cũng là biểu hiện của mình. Do mình không tỉnh thức, mình để khổ đau và kẻ thù xuất hiện. Nếu biết tỉnh thức, thấy khổ đau không thực có và kẻ thù không thực có, tất cả đều do biểu hiện của ý niệm, của cách suy nghĩ. Cho nên nói trong phiền não có chất liệu của bồ đề, trong kẻ thù có chất liệu của người bạn. Bồ đề đấy nhưng mình tưởng là phiền não, người bạn đấy nhưng mình tưởng là kẻ thù. Tất cả khổ đau và kẻ thù đều do vọng tưởng mà ra và trên 90% năng lượng mình có được đều bị dồn vào vọng tưởng. Nói vậy để thấy mình khổ đau và đầy dẫy kẻ thù như thế nào. Chấm dứt vọng tưởng thì khổ đau và kẻ thù không có điều kiện để biểu hiện.

Ở trên tôi có kể câu chuyện về con ma nhắc mình niệm Phật. Con ma này có thể do vọng tưởng mà ra, như nhìn thấy cái bóng của lá chuối hắt vào tường tưởng là con ma, nhìn sợi dây lằng ngoằng mà tưởng là con rắn, nhìn người kia nói chuyện chỉ trỏ mà tưởng là đang nói xấu mình. Cái vọng tưởng làm cho mình sợ và mình niệm Phật, thậm chí niệm Phật miên mật hơn nữa. Cho nên phiền não của vọng tưởng có tính chất bồ đề, nó nhắc nhở mình khổ đau đang có mặt đó và niệm Phật trong thời khắc này là phương pháp cứu cánh. Niệm Phật không phải là kêu ông Phật tới cứu mà kêu năng lượng Phật bình an vốn có trong tự thân, và khi năng lượng này phát triển mạnh mẽ, những vọng tưởng về mấy con ma tự nhiên tan biến, rồi mình đón nhận sự không sợ hãi, bình an quay trở lại. Niệm Phật để có bình an cũng có thể là một vọng tưởng. Niệm Phật chỉ để niệm Phật thôi, đây mới gọi là tỉnh thức. Niệm Phật để mong cầu thì vọng tưởng trong sự niệm Phật sinh khởi, vẫn còn thất niệm, chưa tỉnh thức đích thực. Thật ra cũng không cần niệm Phật để đánh đuổi ma vọng tưởng, đã nói là vọng tưởng thì không thực sự có thì có cái gì để đánh đuổi đâu. Nếu gặp ma thì chỉ cần nói, con ma đó à, “say hello” với nó, nhận diện con ma đó thì con ma đó sẽ tự nhiên biến mất, bằng không con ma vẫn còn ở đó, ở đó là ở trong tâm của mình, cái tâm bị hừng hẫy bởi ma chướng.

Cuộc đời luôn thay đổi, biến chuyển một cách không thể lường trước được. Mới thấy đó đã mất đó, mới vui đó đã buồn đó, mới tay bắt mặt mừng thì đã vội quay lưng với nhau. Người có sắc đẹp thì tưổi thanh xuân cũng mau chóng qua đi, rồi già, rồi chết, rất chóng vánh. Có bài hát Sáu Mươi Năm Cuộc Đời nói rằng, đời người có bao nhiêu, hai mươi năm đầu, sung sướng có bao lâu, hai mươi năm sau tình yêu thì cao vời vợi và hai mươi năm cuối thì có là bao. Người nào sống qua được sáu mươi tuổi được xem là sống thọ, nhưng có mấy ai may mắn đi qua hết kiếp người. Nhìn vào nghĩa trang, nhiều nấm mộ khắc ghi tên tuổi những người còn rất trẻ, mái đầu hãy còn xanh, thậm chí tuổi thanh xuân còn chưa chạm tới. Điều này cho thấy cái chết không chừa một ai, dù có đi vào rừng sâu hay lặn xuống biển để trốn cái chết, cái chết cũng lần mò đến, đơn giản vì cái chết không từ bên ngoài ban phát vào mà cái chết đi từ tự thân mà ra. Sinh ra thì phải chết, là qui luật của vô thường, nhưng qui luật vô thường còn nói đến sự tiếp nối. Đời sống này chỉ là một sự kiện trong chuỗi những sự kiện của sự sống, và mình được tiếp nối bằng một đời sống khác. Thọ mạng này là vô lượng, nó không bị giới hạn trong một kiếp sống. Thấy được điều này nên không sợ hãi cái chết, nhìn cái chết nhẹ tựa lông hồng. Ngày xưa các chiến sĩ ra trận, đem cái chết đặt ở đầu lưỡi kiếm hay đầu nòng súng, với họ thì cái chết có xá gì. Có thể có sự sợ hãi, nhưng đã ra chiến trận là 50-50, một là chết hai là sống. Nếu còn sống thì cũng 50-50, một là còn nguyên vẹn, hai là bị thương tật. Người tỉnh thức không bị kẹt vào đời sống này, sống đàng hoàng trong đời sống này để được tiếp nối đàng hoàng trong đời sống tiếp theo, đồng thời tu tập để chấm dứt sinh tử. Bạn Đăng Khoa hay hỏi tôi nguồn gốc sinh tử là gì, tôi không trả lời vì bạn này hay hỏi lý thuyết và ít khi chịu thực tập để nhìn ra cho được nguồn gốc của sinh tử. Thực ra trong Kinh Duyên Khởi, nguồn gốc sinh tử chính là vô minh, và cũng có người nói nguồn gốc sinh tử là sáu căn vì không được thu thúc nên sinh ra ái nhiễm và đủ thứ vô minh làm lây lất chúng sinh.

Tuệ giác của người tu là biết dừng lại. Dừng lại không phải là đang đi rồi đứng lại, mà dừng lại những vô minh, những tham đắm, những sân hận, những ngạo mạn, những hoài nghi, những kiến chấp, những lo toan, những sợ hãi, nói chung là dừng lại những thứ khiến cho mình bất an, cho nên đang đi vẫn có thể dừng lại. Phương pháp thực tập ngồi yên rất hay, nó giúp mình dừng lại những rong ruổi, những cuộc hành trình đi hoang, những biến chứng thẫn thờ trong tâm. Làm cho tâm dừng lại thì tự nhiên thân cũng dừng lại. Thầy của học trò tôi, bạn An Long Minh, thường khuyên học trò tôi nên lập gia đình đi, rồi có con cái, sau này còn lo giữ tài sản cho ba mẹ, giữ nhà cửa cho ba mẹ, nhưng người học trò này quyết chí tu hành nên muốn buông bỏ tất cả để có thể rảnh rang trên con đường tu tập của mình. Buông bỏ không phải là cho hết đi tài sản mà buông bỏ ý niệm ham muốn chất chứa trong tâm, ý niệm cho rằng phải có mấy thứ tài sản đó thì mới có hạnh phúc. Đành rằng có đủ tài sản chi tiêu hàng ngày thì sẽ bớt lo toan, bớt phiền não, sẽ có hạnh phúc hơn, nhưng hạnh phúc này mong manh, nó mang hơi hướm của sự tiêu thụ, nên không đích thực và không vĩnh cửu, điều mà người tu hướng tới và đang chế tác hàng ngày là hạnh phúc đích thực, mà đích thực thì không có hơi hướm của sự tiêu thụ, mà ngược lại nó mang hơi hướm của sự ban tặng, của phụng sự, của hi sinh, của buông bỏ, của cho đi. Vì thế tôi khuyên người học trò này, giữa sự bất an và bình an, bạn hãy chọn đi, bạn ấy đã chọn bình an.

Mình có rất nhiều thăng trầm, như đồ thị hình sin vậy, lúc lên lúc xuống, không có quân bình. Điều gì làm mình thăng trầm mãi vậy? Phải chăng mình đang kẹt vào danh lợi, vào buồn vui, vào vinh nhục, vào quan hệ vợ chồng? Tôi còn nhớ thầy tôi dạy, Này con, danh lợi như giọt nước đầu ghềnh, nó mang dáng vẻ của tiên nữ nhưng bên trong thì rất trống rỗng, con đừng để cho nó dụ khị. Cách đây vài ngày, một cô học trò nhắn tin hỏi tôi là hàng của cô ấy nhập về bị giữ ở hải quan không lấy được, nên bây giờ cô ấy lo lắm, không biết làm sao để lấy hàng ra để kịp buổi triển lãm. Chỉ có một chuyến hàng nhưng cô ấy đứng ngồi không yên, vì bao nhiêu tiền của đổ vào đấy, bao nhiêu người trông chờ vào lợi nhuận của chuyến hàng. Câu chuyện không khác gì bác nông dân bị mất bò, chỉ có khác chút đỉnh là câu chuyện kia rất thời xưa và câu chuyện của cô học trò thì rất thời nay, nhưng bản chất của nó thì không khác gì mấy. Tôi chia sẻ vài phương pháp lấy hàng cho cô nhưng mà cô vẫn cứ lo. Cô nói, không làm kinh doanh thì không thể phát triển được nên phải làm thôi, vì cô có ý niệm là muốn phát triển thì phải làm kinh doanh. Mình làm kinh doanh thì cứ làm nhưng làm thì phải có hạnh phúc, phải biết chuyển hóa những khổ đau trong kinh doanh, bằng không phải xem lại cách làm. Làm cái gì cũng phải lo hết, chứ không chỉ làm kinh doanh, người nội trợ lo công việc trong nhà cũng phải lo nữa, nhưng đừng để những cái lo đó dìm mình chết, những việc làm này chỉ là phương tiện để duy trì sự sống, đừng biến nó thành những phương tiện giết chết sự sống.

Tâm thường kéo mình đi vạn lối. Ngồi một chỗ nhưng tâm đi du lịch nên ngồi không yên, như có ngọn lửa đốt cháy, cái này gọi là ngồi trên đống lửa. Người đi làm có rất nhiều dự án phải lo toan, rồi lập gia đình, dự án sinh con đẻ cái cũng cuốn người theo. Người tu cũng thế, cũng có những dự án, dự án viết sách, dự án hoằng pháp và nhiều dự án khác nữa. Các dự án này kéo mình đi, xa hun hút, khiến mình thoát khỏi vòng tay của gia đình. Bên Mỹ, đứa con lớn lên khoảng 18 tuổi thì xem như ba mẹ hết trách nhiệm, đứa con phải tự lập, phải rời xa gia đình. Cách dạy con như vậy cũng tốt, giúp cho đứa nhỏ tinh thần tự lập, nhưng còn gia đình thì sao, đứa con đi xa thì ai sẽ chăm sóc cho gia đình, ba mẹ đến lúc nào đó cũng phải già. Tâm mình cũng vậy, thích rời xa gia đình, thích đi chu du thiên hạ. Gia đình là cái thân này, vì không chịu đoàn tụ với gia đình, nên mình đang có mặt đó, cái tâm bỗng chốc mồ côi. Gia đình không được chăm sóc thì gia đình buồn bã, thân không được chăm sóc thì thân héo hon. Đôi khi mình bỏ quên cái tâm, nên nó đi lạc đường, nó không chịu trở về nữa. Có  một người nghiện game online, và cái tâm nằm trong những trò chơi game đó, ai mà đem máy tính đi hay cắt đường truyền Internet thì chịu không nổi, vò đầu bứt tai, tinh thần bấn loạn, ghê gớm lắm. Trò chơi ăn mất tâm của người nên người kiệt quệ. Thậm chí mất mạng vì chơi game hàng giờ liền. Tâm mình mà không thương, không chăm sóc thì mình còn thương được cái gì nữa. Tâm đi lang thang và thân cũng đi lang thang. Thân tâm không ở cùng một chỗ nên thân đi hoang và tâm cũng đi hoang luôn. Thử nhìn một em bé nhảy lò cò, bé nhảy từ ô này sang ô khác. Tâm cũng nhảy lò cò, nhày từ chỗ này sang chỗ khác. Tâm lang thang tội nghiệp như vậy đó.

Chúng ta đi qua thời đại bằng thương ghét, bằng sự nghiệp, bằng chất chứa của cải và không có con đường nào vừa kể mà không lấp đầy nước mắt của khổ đau. Mình kẹt vào tâm lý đám đông nên đám đông đi đâu, mình đi đó, mình kiệt quệ tuệ giác, không thấy được đâu là con đường. Năm 1997, Việt Nam thành lập thị trường chứng khoán, lúc đó chưa có trường lớp nào giảng dạy bài bản về việc đầu tư chứng khoán nên người dân thấy người thành công đầu tư vào công ty nào thì chạy theo đầu tư công ty đó, mà không biết phân tích tài chính, không biết phân tích thông tin. Nên nếu đại gia đó thất bại thì kéo theo một chuỗi thất bạt. Rồi đến phiên đầu tư bất động sản, do không chịu phân tích thị trường, các nhà đầu tự chạy theo nhà ở cao cấp, biệt thự hạng sang, nhà phố thời thượng, với suy nghĩ đầu tư thì sẽ có người mua, và đầu tư nhà cao cấp cho nó sang, và kết quả là gì, nhà cao cấp tồn kho chất cao như núi, bán không ai mua, giảm giá cũng không ai thèm. Đại gia bất động sản rơi rụng như nấm. Thời hoàng kim thì ai cũng cười, qua thời đó rồi thì kẻ cười người khóc. Sự nghiệp có đó rồi mất đó, bay đi như cơn gió thoảng, bốc hơi như hạt sương dưới ánh nắng.Mình chạy theo cơn gió thoảng hay những thứ có nguy cơ bốc hơi thì mình khổ thôi, cái khổ không giải quyết được thì mình ngồi khóc, giọt nước mắt này mà không có giải quyết thì làm sao chuyển hóa được cái khổ kia.

Người tu cũng vậy, cũng chạy theo đám đông, cũng bị kẹt đủ thứ. Buồn thương thay cho đạo pháp ngày nay. Chưa bao giờ đạo pháp được hoằng bá rộng rãi và dày đặc như bây giờ, nhưng kết quả thì chẳng là bao, vì học thì nhiều mà hành thì ít. Tôi đã từng ở một tu viện lên đến hàng trăm tu sĩ, nhưng phẩm chất tu học thì không đáng là bao. Có đi vô mới biết người ta tu tập thế nào, nhưng biết làm sao được, họ bị kẹt vào pháp môn, bị kẹt vào ngôn từ, bị kẹt vào sự trình diễn. Thôi thì đành quay về qui ẩn mà tu thôi. Con đường này không thể tiến xa được thì tìm con đường khác. Pháp môn dù được ca ngợi cách mấy nhưng sáu tâm độc vẫn còn đó thì cần phải xem lại pháp môn. Mình có quyền đổi mới phương pháp thực tập, nhưng thay đổi thế nào, đừng để xa rời cái gốc của sự tu tập. Thực tập không thể diễn bày bằng ngôn từ mà bằng sự hành trì chân chính, thiếu sự hành trì chân chính thì tuổi tu tập càng cao nhưng chưa có thành tựu gì mấy. Đức Phật mà sống lại chắc cũng sẽ bật khóc thôi.

Mình thương người vì người hòa đồng với cách suy nghĩ của mình, và không ưa người vì người không đồng thuận với cách suy nghĩ của mình. Thương ghét rất mong manh và cái lằn ranh giới đó mỏng hơn cả làn khói. Một cô gái thương chàng trai, chuyện gì cũng đáp ứng cho chàng ấy và khi chàng trai không đáp lại, sự thù hận trong cô to như trái núi, không gì có thể khỏa lấp được. Cô lên kế hoạch giết chết chàng trai vì không thể chịu nổi chàng trai không thương mình và không đành đoạn nhường chàng trai cho kẻ khác. Yêu thương không đúng cách nên làm mồi cho thù hận. Trong yêu thương có sự thù hận vì yêu thương mang tính chất chiếm hữu. Cái gì không chiếm được thì quyết bôi cho xấu. Nàng Võ My Nương khi được hỏi, Nếu một con ngựa không được thuần phục thì nàng làm gì. Nàng My Nương trả lời, Thì giết nó chết đi. Con ngựa không được thuần phục không có nghĩa là chẳng bao giờ thuần phục được, chẳng qua là người thuần ngựa chưa tìm được phương cách để thuần phục nó, giết chết con ngựa là sự bế tắc của con người, là kiệt quệ tình thương và sự ác độc ngủ ngầm trong tâm. Võ My Nương là tên thời trẻ của Võ Tắc Thiên, và sự nghiệp ác độc của người đàn bà này chắc là ai cũng biết. Người này từng bị đày vào trong chùa, sống trong chùa nhưng vẫn không thể thấm thấu được chất chùa. Bài kệ nói thương ghét luôn gần kề là vậy. Thương đó rồi ghét đó, âu cũng là tính không ổn định của mình. Tình thương trong mình không bền vững nên lúc mình ghét rồi lúc mình thương. Mình tội nghiệp quá đi.

Giá trị của con người không đo lường bằng của cải vật chất vì chúng không làm cho con người trở nên dễ thương hơn, có đạo đức hơn và đến gần giải thoát hơn. Đức Phật bỏ cả một kho tàng của cải của một vị thái tử để đi tìm kiếm một kho tàng tuệ giác khác vì ngài thấy của cải dù chất cao như núi cũng không mua được sự giác ngộ. Mình thích làm việc thiện với mong mỏi giàu sang của cải, nhưng của cải này có thể mang lại khổ đau, những tranh chấp, lo toan và phiền muộn. Mình có quyền tích lũy của cài, đảm bảo đời sống bản thân, nuôi được nhiều người, làm từ thiện và phụng sự xã hội, nhưng hãy tích lũy bằng con đường chân chính. Việc đổi đời bằng con đường bất chính, bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác và bằng bất công xã hội chỉ làm mình tàn phai phước đức và nghèo đói sẽ đến.

Trong Kinh Kim Cang có dạy, Nếu có người con trai hiền lành hay người con gái hiền lành, đem châu báu chất đầy cả tam thiên đại thiên mà đi bố thí cũng không bằng phước báu của một người dù chỉ hành trì bốn câu trong kinh. Điều này minh chứng cho phước báu của người tu to lớn không thể nghĩ bàn. Bố thí của cải thì tốt nhưng bố thí tâm tu vẫn là cao thượng hơn cả. Của cải chỉ là phương tiện, có trong tay này sẽ đi qua tay khác. Đừng xem của cải như bánh xe bò, hay bánh xe ủi, nó nghiền nát tất cả trên con đường đi của nó. Giàu hay nghèo cũng phải chết và cũng phải trả nghiệp. Nghèo có rủi ro của nghèo và giàu cũng có rủi ro của giàu. Nghèo mà biết tu thì đáng quý, giàu mà không lo tu thì cũng nghèo. Phẩm chất của hạnh phúc không đo bằng giá trị của của cải mà giá trị đạo đức, giá trị tình thương. Kinh Tương Ưng Bộ có dẫn lời đức Phật nói với hoàng đế Pasenadi của Kosala như sau, Đại Vương! Những người giàu có tài sản mà không bị chúng làm say đắm, không bị dẫn dắt đến sự vô tâm và sự hưởng thụ vô ý thức gây tai hại cho kẻ khác, trên đời này thật rất hiếm hoi. Giàu mà không kiêu, nghèo mà không nản thì mình tạm thời chưa đánh mất mình trong rừng của cải hay tham vọng trồng khu rừng này. Rừng của cải có đầy thú dữ, các loài rắn độc và côn trùng độc, nếu có tâm không tham đắm, không dính mắc thì thú dữ không làm hại, bằng không, uống kháng sinh nhiều cách mấy, mình vẫn bị tiêm nhiễm khổ đau.

Hội chứng đám đông hay hội chứng tập thể có thể mang tác dụng tích cực hay tiêu cực. Khi sống trong tăng thân và tăng thân này có phẩm chất tu học cao, mình được thừa hưởng rất nhiều, người thực tập chưa tiến bộ có thể nương tựa tập thể để chuyển hóa. Nhưng đi vào một đám đông không có sự tu học, thường xuyên khuyến khích người khác xa rời sự tu học, mình nhanh chóng đánh mất mình trong đám đông. Người làm việc sai thường hay ngụy biện cho hành động của mình, Ai cũng làm thế, hay, Mọi người làm sao thì tôi làm vậy, không có suy nghĩ gì cả. Khi bất lực, không đủ tự tin, mình dựa vào năng lượng của đám đông nhưng đám đông không phải lúc nào cũng đúng. Trong thế chiến thứ hai, trong khi nhiều người đi theo đám đông các nước đồng minh để giải phóng thế giới, mang lại hòa bình cho thế giới, thì cũng có nhiều người đi theo đám đông phát xít, gieo rắc chết chóc và khổ đau không biết bao nhiêu người. Người tu cũng vậy, cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông và chính tâm lý này khiến mình ngơ ngác, không biết đám đông nào tu đúng và đám đông nào tu chưa đúng. Đã học Kinh Nền Tảng Đức Tin và Kinh Người Biết Sống Một Mình thì đi vào đám đông, dù chánh hay tà cũng đừng có bị kẹt. Kinh Người Biết Sống Một Mình không chỉ dạy cho người tu cách sống trong hiện tại hay sống trong chánh niệm, mà thâm thúy hơn là dạy làm thế nào sống trong đám đông. Có thể đặt tên kinh là Kinh Người Biết Sống Trong Đám Đông. Kinh Duy Lâu Lặc Vương hay còn gọi là Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi có đoạn, Nên buông bỏ sự tự hào, đừng ham ngủ, đừng để chìm vào sự hôn trầm, biết sống và làm việc cho có chừng mực, đừng đánh mất mình trong đám đông, đừng vướng vào những cái bề ngoài hào nhoáng, phải biết từ khước chúng, phải biết quán tự tính không của vạn pháp để đạt tới Niết Bàn tĩnh lặng. Một người đã có sự thay đổi như chong chóng, nói chi một đám đông, nếu đám đông này quá lớn sẽ tạo cộng nghiệp không thể tưởng tượng nổi.

Ý kiến của đa số lúc nào cũng thắng ý kiến của thiểu số, nhưng nhiều khi thiểu số lại hợp lí hơn là đa số. Đa số mà sai đường thì nguyên con tàu chìm xuống biển. Ví như kéo năm người ngu si lại mà hỏi thì câu trả lời cũng mang tính ngu si thôi. Câu một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao chưa chắc đúng trong hoàn cảnh này. Cho nên đừng bị ảnh hưởng một chiều, đừng trở nên yếm thế trong đám đông. Dù ở đám đông nào, xin hãy ngồi yên bất động, con đường mình mình vẫn cứ đi.  Có hai đứa nhỏ đang đánh nhau và đám bạn đứng hùa theo, cổ vũ cho trận đánh. Lớn hơn, đám đông reo hò nhìn hai con gà đá nhau, hai con trâu húc nhau hay hai võ sĩ đấu trên võ đài. Cái này nói về bạo lực. Không bạo lực cũng có đám đông, như người ta cổ xúy cho đấu tranh bất bạo động, nhưng lại sử dụng lời nói không ái ngữ để đấu tranh, vậy thì có gì khác đâu. Bây giờ, đám đông cổ xúy cho thần tượng, cho làm giàu, cho phát triển sự nghiệp. Thấy người ta ủng hộ một ca sĩ được cho là thần tượng và mình chạy theo ủng hộ, dù chẳng biết rõ người đó như thế nào. Hoặc đứa nhỏ mới năm hay sáu tuổi, tiếng mẹ đẻ chưa rõ ràng, ba mẹ đã cho đi học ngoại ngữ. Hay là thấy người ta làm ăn, mở công ty, mình cũng ráng làm sao cho có cơ ngơi riêng. Nhiều phong trào ra đời và mình đi theo đám đông, đám đông chết thì mình cũng chết theo.

Tà kiến là những kiến thức sai lầm, niềm tin sai lầm, con đường sai lầm khiến mình xa rời chánh pháp, chồng chất bảo thủ và thúc đẩy phiền não. Có người tin rằng ra ngoài đường đầu năm hay đầu tháng, gặp người phụ nữ mang thai là xem như năm đó hay tháng đó xui xẻo. Không biết lấy gì chứng minh cho điều này mà trong lòng đã có phiền não dù chưa có chuyện gì xảy ra. Người tỉnh thức buông bỏ tà kiến, từ chối những lời mời đi vào con đường tà kiến. Mấy chuyện như xem bói, coi ngày tốt xấu, coi tuổi hay thậm chí là bái sám và cúng tế cũng khiến mình xa rời chánh kiến. Chuyện gì tới sẽ tới, biết trước cũng không ích lợi gì. Mọi thứ đều thay đổi trong mỗi sát na, tâm thay đổi thì đời sống cũng sẽ thay đổi. Có người số mạng rất tốt nhưng chỉ cần làm bậy thì cái gọi là mạng tốt kia cũng chìm theo. Đề Bà Đạt Đa đáng lẽ là một tu sĩ giỏi nhưng tâm độc vẫn còn ngủ ngầm nên cuộc đời cũng độc theo. Đức Phật đáng lẽ là một vị Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng tâm ngài không đi theo hướng làm bá chủ thiên hạ mà đi theo hướng giải thoát nên ngài giải thoát thôi. Muốn biết quả tương lai, hãy xem những gì mình đang làm trong hiện tại. Lúc này khỏi coi bói, mìnhlàm thầy bói cho mình luôn.

Mọi thứ đều đổi dời. Bản thân đổi dời, dòng sông đổi dời, bầu trời đổi dời, đất nước đổi dời, ngay cả trái núi đang đứng chỗ đó nhưng nó cũng đổi dời. Mình bắt mọi thứ đừng thay đổi nữa, chắc là mình sẽ thấy bất lực lắm. Gặp lại người bạn cũ, chắc chắn là người này không giống như ngày xưa, và nói chi ngày xưa, ngày hôm qua đây thôi, người bạn đã khác rồi, thậm chí, bây giờ buổi chiều, người bạn đã khác so với buổi sáng. Nên trông mong bạn không thay đổi là khó lắm. Có người nói với tôi. Sao tao thấy mày không giống như ngày xưa nữa. Làm sao giống được, tôi của ngày hôm nay không còn là tôi của ngày hôm qua. Mọi thứ thay đổi thì tôi cũng đổi thay, cho dù không muốn cũng phải chịu thôi. Buổi sáng trời nắng chang chang, buổi chiều trời mưa mát mẻ. Thời tiết thay đổi như vậy thì con người cũng thế. Có điều là thay đổi theo chiều hướng nào, dễ thương hơn hay ít dễ thương hơn. Cậu của tôi xa quê hương cả chục năm, về Việt Nam thấy mọi thứ đều khác, không thể giống như trước được. Vấn đề là chấp nhận hiện tại để có thể đi tiếp và tận hưởng niềm vui mà hiện tại đang có, còn nếu cứ rầu rĩ, thương tiếc quá khứ, thương tiếc cái thời được gọi là vàng son thì hiện tại bị đánh mất. Tôi cũng có một cậu khác cứ ngồi chê bai hiện tại và hiện tại trở nên bị xóa nhòa trong những lời chê bai ấy. Mình đừng kẹt vào gì hết vì sự thay đổi của vạn vật. Có thịnh thì phải có suy, có hay thì phải có dở, có đổi thì phải có dời, không thể bắt thịnh hoài hay suy hoài, giỏi hoài hay dở hoài. Mình làm ăn thế nào mà để cho nó suy, làm ăn thế nào mà cái gì cũng dở. Thay vì ngồi than vãn hay chê bai, hãy tận dụng giây phút hiện tại để thay đổi bản thân, làm cho bản thân được chấp nhận hơn với hoàn cảnh. Biết đổi dời đang có mặt đó thì thịnh không kiêu, suy không nản, mà lúc nào cũng cố gắng soi rọi bản thân, mình nên làm gì khi thịnh và nên làm gì khi suy. An nhiên với thịnh suy thì mình không khổ vì nó, không làm cho tâm có những vết nhơ của phiền não, lúc này thịnh suy có xá gì.

Có một lần, đức Phật hỏi một vị Tỳ kheo, Mạng sống con người kéo dài bao lâu? Vị Tỳ kheo đáp, khoảng vài ngày. Phật nói, Thầy chưa hiểu đạo. Phật hỏi vị khác, Mạng sống con người kéo dài bao lâu? Vị này trả lời, Trong một bữa ăn. Phật nói, Thầy vẫn chưa hiểu đạo. Phật hỏi thêm vị khác nữa, Mạng sống con người kéo dài bao lâu? Vị này thưa, Trong một hơi thở. Phật khen, Hay lắm, thầy đã hiểu đạo.

Câu chuyện tuy ngắn nhưng đó là cả một bài pháp thoại. Hơi thở vào thì hơi thở phải ra. Nếu hơi thở vào mà không ra nữa, hay hơi thở ra mà không vào nữa thì sự sống không còn, đời sống kết thúc. Làm việc gì đi nữa thì hơi thở cũng tàn đi. Người may mắn thì đời sống dài hơn, người kém may mắn thì đời sống ngắn ngủi. Người thực tập thiền thường theo dõi hơi thở và sử dụng hơi thở để đưa tâm trở về với thân. Theo dõi hơi thở như theo dõi sự sống vậy. Thở vào, con biết mình đang còn sống, thở ra con mỉm cười với sự sống trong con. Thỉnh thoảng học trò hay hỏi tôi, Thầy khỏe không? Tôi trả lời, Thầy vẫn còn sống. Có thể lúc đó tôi không khỏe lắm nhưng biết mình vẫn còn thở, vẫn còn sống nên cũng thấy mừng vui. Hơi thở mang tính vô thường như thân, không có lõi như cây chuối, không nắm bắt như ánh nắng, vỡ tan nhanh chóng như bọt nước, phóng nhanh như làn chớp, và tan biến như sóng biển. Đời sống này ngắn ngủi nên không đi vào sự thực tập, để ngày tháng trôi qua thì uống lắm. Như giữa trận đồ sa mạc, nắng nóng bức đốt cháy cơ thể, bỗng một trận mưa rào rơi xuống, người hành khất như bắt được vàng, người chắc chắn dừng lại những tìm kiếm để tận hưởng cơn mưa đó. Cơn mưa không phải lúc nào cũng có. Kiếp người không phải dễ dàng đạt được, nên đã làm người thì hãy tận dụng nó mà tu tập, đừng để nó trôi đi như cơn mưa rào.

Người đang tu chuyển sang không tu rất đông. Số người rơi rụng như lá mùa thu. Trong số những người tu, người thành đạo rất ít, đếm trên đầu ngón tay. Người đồng hành thì ít mà hàng hóa chuyên chở thì nhiều. Giả sử mình đứng giữa đám đông và gào thét lên, Có ai muốn đi tu với tôi không, cánh tay giơ lên ít lắm, và trong số cánh tay giơ lên ấy, biết bao cánh tay rụt rè. Và cũng như thế đứng giữa đám đông, Có ai đi chơi, đi giải trí với tôi không, hàng trăm cánh tay sẽ giơ lên và giơ lên rất mau, không chút chần chừ. Người đồng hành với mình vô cùng ít ỏi và ngày càng ít dần, nên đôi khi mình độc hành ra đi. Hàng hóa chuyên chở ở đây là những phiền não, những chất chứa của cải, những gánh vác tình cảm. Độc hành đi trong thế gian nhưng vì chưa biết vững chãi, chưa biết thảnh thơi, người đời chất lên đôi vai gầy gò biết bao nhiêu hàng hóa, mà hàng hóa này bán không ai mua, cho không ai lấy, bỏ thì thương, vương thì tội, nên mình cứ gánh lấy. Đi qua một con đường, mình lại chồng thêm một món hàng và các món hàng này chất cao như núi. Mình gánh trái núi qua các thời đại, có bao giờ mình mỏi gói chồn chân, dừng lại mà nghe một tiếng chuông, một câu kinh hay theo dõi một hơi thở. Hơi thở hay lắm, nó giúp mình dừng lại và buông bỏ. Dừng lại con đường xây trái núi và đồng hành với hơi thở. Buông bỏ những hàng hóa trong trái núi đó để trái núi tan thành những hạt bụi theo hơi thở mà bay đi. Hơi thở có công dụng phá núi. Phá núi được rồi thì con đường thảnh thơi thênh thang rộng mở.

Người trí luôn thấu hiểu bốn sự thật vi diệu để vượt thoát sinh tử. Cuộc đời này là khổ, là cả một bể khổ, nhưng cái khổ này không phải là sự bế tắc hay yếm thế mà nó có chất liệu của lạc, của niềm vui hay hạnh phúc. Thấm thía được khổ đau đời, người trí quyết tâm chuyển hóa khổ đau và chế tác hạnh phúc. Khổ luôn có nguyên nhân của nó, tức là điều gì dẫn đến khổ. Không ai tự nhiên mà khổ. Một đứa nhỏ nhức răng vì ăn kẹo nhiều mà không đánh răng. Người lớn khổ vì người kia không thương hay sự nghiệp gặp trắc trở. Người tu cũng có thể khổ vì sự thực tập không như mong muốn. Đủ thứ nguyên nhân khác dẫn đến khổ đau. Đã khổ thì phải đau, chẳng ai đánh mà vẫn đau, đau nhói trong lòng. Khổ đau có thể chấm dứt bằng cách ngăn ngừa các nguyên nhân gây ra khổ đau. Không có nhân khổ đau thì làm gì có quả khổ đau. Đứa nhỏ biết rằng ăn kẹo nhiều mà không đánh răng thì răng sẽ sâu, sẽ nhức răng, sẽ khổ nên nó ăn cái gì xong là đánh răng cho sạch sẽ, cái gọi là sâu răng kia không có điều kiện phát khởi. Có con đường chấm dứt khổ và khi khổ chấm dứt, lạc biểu hiện, niềm vui nở ra và hạnh phúc hiện tiền. Nói cuộc đời này là khổ, chưa đủ, mà cần nói thêm, cuộc đời này là hạnh phúc. Khổ đau hay hạnh phúc là tùy thuộc vào cách suy nghĩ, cách mình tạo nhân, hay nói theo người đời là cách ăn ở của mình. Một người trồng hoa đúng cách, đến lúc nào đó cây nở ra hoa và mình tận hưởng vẻ đẹp của hoa. Hôm qua đi chùa Phổ Quang, tôi thấy có cây sala đẹp lắm, những nhánh cây tỏa xuống, nở ra nhiều bông hoa tươi thắm. Nếu không ai đem nó từ Ấn Độ về Việt Nam, không ai chăm sóc, tưới cây, ướm phân, cắt tỉa, chắc nó không đẹp như thế. Cũng vậy, mình không có hạnh phúc vì mình không chịu đầu tư và chăm sóc cho hạnh phúc, mình chỉ châm mẫm đầu tư và chăm sóc cho khổ đau, nên mình khổ thôi. Hãy nhớ rằng bốn sự thật vi diệu không chỉ nói đến khổ đế mà còn nói đến lạc đế nên biết chấm dứt khổ là biến tận hưởng lạc.

Bốn sự thật vi diệu một khi đã nhìn thấy thì nó như mũi tên bát nhã bắn vào vô minh của mình và xé tan bức màn vô minh đó. Mình bị trói chặt bởi những ý niệm và các ý niệm này xây dựng các hành trì khổ đau. Bên trong hành trì đó là địa ngục hắc ám, nó tra tấn con người bằng khổ đau. Mũi tên bát nhã có công năng ghê gớm, đập tan xiềng xích của khổ đau, đem ánh sáng trí tuệ vào tận địa ngục mà soi. Địa ngục ở đây là khổ đau chứ không phải là gì khác, không phải đầu trâu mặt ngựa hay các công cụ tra tấn. Địa ngục ở trong tâm do khổ đau ở trong tâm. Cái tâm này xây địa ngục và cũng xây khổ đau. Hai vợ chồng ăn ở với nhau có ba mặt con, tự nhiên người chồng thay đổi, có những cuộc tình bên ngoài. Người vợ như sống trong địa ngục vì đau khổ cùng cực. Còn người chồng thì phạm giới tà dâm, tự xây hành trì địa ngục cho mình. Cả hai người đều không có hạnh phúc, tức là đang có khổ đau, đang nếm mùi địa ngục. Người chồng ra đi, người vợ ở nhà lo nuôi dạy các con và các con trở thành niềm hạnh phúc đối với bà. Lớn lên, mấy đứa con gắn bó với người mẹ nhiều hơn. Người mẹ tìm được nguồn hạnh phúc mới trong đời sống, đó là các con của bà. Bà bắt đầu tìm đến Phật Pháp và cảm thấy bình yên, địa ngục đau khổ ngày nào không còn nữa. Khổ đau cũng có thể là mũi tên bát nhã, có thấm thía khổ đau, bà mới có mong mỏi hạnh phúc từ những đứa con và bà dừng lại hạnh phúc của riêng mình để đầu tư cho hạnh phúc của các con.

Hạnh phúc với các con cũng tốt nhưng nó vẫn vô thường. Người mẹ không thể ở với các con mãi mãi, đến lúc nào đó, các con cũng sẽ rời khỏi bà và bản thân bà cũng phải ra đi. Chỉ có nương tựa Tam Bảo mới giúp mình hạnh phúc vĩnh viễn và sâu lắng. Nương nhờ nơi Phật để Phật chỉ dạy. Không biết làm gì để chuyển hóa khổ đau thì hãy bắt chước Phật, người có rất nhiều kinh nghiệm chuyển hóa khổ đau không chỉ một kiếp mà muôn lượng kiếp. Nương nhờ nơi Pháp mầu để nhận ra sự thật, bước đi trên con đường tỉnh thức, trí tuệ và giác ngộ. Giác ngộ thật ra chính là giác ngộ khổ đau, nhìn rõ chân tướng của khổ đau mà tìm về bến bình yên. Nương nhờ nơi Tăng để được hướng dẫn và học tập cách tỉnh thức mà thế hệ tiếp nối của Phật đang đi theo. Mình ngủ qua biết bao đêm dài sinh tử, đi qua biết bao lần trẻ thơ, luân hồi xoay như cái chong chóng. Tu tập không phải là để thỏa mãn khao khát giải thoát mà để chấm dứt khổ đau, thực tập tình thương vô bờ bến. Tam Bảo cũng không là nơi chỗ dựa tinh thần theo kiểu trốn chạy. Khổ quá chịu không nổi nên chạy vào chùa trốn theo kiểu chuyện tình Lan và Điệp, mà Tam bảo như ngọn đuốc soi đường, là đầu tàu giải thoát, gióng một tiếng chuông cảnh tỉnh vào sự mê muội của chúng sinh, mê muội ở đây là ham thích khổ đau của chúng sinh.

Qui y Tam bảo là quy y với giải thoát, cam kết tu tập cho đến ngày giải thoát. Tỉnh thức có hiệu ứng domino nên giải thoát cũng có hiệu ứng domino. Cũng vậy không tỉnh thức có hiệu ứng domino thì luân hồi cũng có hiệu ứng domino. Như nói vì vô minh nên có vọng đọng, vì vọng đọng nên có vọng thức, vì vọng thức nên có phân biệt chủ thể và đối tượng, vì phân biệt chủ thể và đối tượng nên có phân biệt sáu căn và sáu trần, vì phân biệt sáu căn và sáu trần nên có xúc chạm, vì có xúc chạm nên có cảm thọ, vì có cảm thọ nên có tham ái, vì có tham ái nên có vướng mắc, vì có vướng mắc nên có hiện hữu, sinh tử và phiền não không thể nào kể xiết. Đây gọi là hiệu ứng domino, từ vô minh mà nó kéo tới sinh tử và phiền não. Cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra năm 2007-2008 tại Hoa Kỳ kéo theo hàng loại khủng hoảng tài chính ở khắp thế giới do sự phụ thuộc ngày càng khắng khít của các nền kinh tế. Hạnh phúc và khổ đau của mình có liên hệ với hạnh phúc và khổ đau của người khác, như thiên tai xảy ra tại Nhật Bản, cả thế giới xót thương. Trong Kinh Thức Ăn Của Người Tu có đoạn, thức ăn của minh giải thoát là bảy yếu tố giác ngộ: trạch pháp, tinh tấn, hỷ lạc, khinh an, niệm, định, xả, thức ăn của bảy yếu tố giác ngộ là bốn lĩnh vực quán niệm: thân, thọ, tâm, pháp, thức ăn của bốn lĩnh vực quán niệm là ba diệu hạnh, thức ăn của ba diệu hạnh là thu thúc sáu căn, thức ăn của thu thúc sáu căn là chánh niệm tỉnh giác, thức ăn của chánh niệm tỉnh giác là chánh tư duy, thức ăn của chánh tư duy là tín, thức ăn của tín là nghe điều thiện,  thức ăn của nghe điều thiện là gần gũi thiện tri thức, thức ăn của gần gũi thiện tri thức là người thiện. Khi một nguyên nhân bất thiện xuất hiện, nó kéo theo hàng loạt các điều kiện bất thiện khác phát sinh và khi một nguyên nhân thiện xuất hiện, nó kéo theo hàng loại các điều kiện thiện khác phát sinh. Trong gia đình, một đứa con tu giỏi sẽ có sức ảnh hưởng lớn vì năng lượng bình an của đứa con này lan tỏa và khiến cho các thành viên muốn tu tập theo. Hiệu ứng domino mang hơi hướm của tâm lý đám đông. Vấn đề là tỉnh táo để lựa chọn đám đông mà đi vào. Ba mẹ hay dạy đứa con, Con phải biết chọn bạn mà chơi. Rồi ba mẹ đưa ra một danh sách tiêu chuẩn thế nào là một người bạn tốt. Ngược lại với tiêu chuẩn này là một người bạn không nên chơi. Trong trận chung kết AFF Cup, Việt Nam thắng Thái Lan và giành ngôi vô địch. Chiến thắng này dẫn đến niềm vui của nhiều người và họ “đi bão”, tức là xuống đường ăn mừng. Hồi xưa làm gì có chuyện này. Việc đi bão bắt đầu từ một nhóm người và những nhóm người khác bắt chướctheo.

Khi tôi thực tập chánh niệm, thường bắt đầu từ việc đi thiền. Khi đi thiền thuần thục, tôi lại tập ngồi thiền rồi nằm thiền. Sau đó tôi đem việc thực tập chánh niệm vào trong mọi sinh hoạt của đời sống như thiền ăn cơm, thiền uống nước, thiền lau nhà, thiền viết sách, thiền chạy xe… Không có công việc nào mà không có chất liệu của chánh niệm. Thiền tập vì thế mà mọi lúc mọi nơi, tỉnh thức vì thế mà mọi lúc mọi nơi. Tỉnh thức thì mỗi giây phút của sự sống đều có phẩm chất niệm, định và tuệ. Niệm giới cũng là chánh niệm, là bức tường lửa ngăn chặn những rủi ro và giúp tạo nhân lành ngay từ đầu. Thực tập thiền thì phát triển định, định giúp mình an nhiên, không còn sợ hãi nào nữa. Tuệ giác giúp phát triển tình thương, làm việc và sinh sống mà có chất liệu của tình thương thì hạt giống chán chường và mệt mỏi không còn.

Hình ảnh của một vị mâu ni ngồi thiền rất đẹp, không chỉ vì sự uy nghi mà năng lượng tĩnh lặng đang tỏa ra từ chất thiền của vị ấy. Sau khi thành đạo đức Phật vẫn ngồi thiền và đi thiền, trước hết ngài muốn làm gương cho các đệ tử, sau đó ngài muốn duy trì năng lượng tĩnh lặng của mình. Khi ngồi thiền, mình tiếp xúc với chất Phật ngay từ tự thân, mình cũng đang duy trì hình ảnh của một vị mâu ni trong thế gian. Vị mâu ni thành đạt không còn dính mắc các pháp thế gian, tuy mang thân tứ đại nhưng không kẹt vào sự vận hành của tứ đại. Thành tựu của vị mâu ni không phải chỉ là kiếp này mà vị ấy thành tựu là do sự tổng hợp tu tập của hằng hà sa số kiếp khác nhau. Hình ảnh ngồi thiền là tư thế đẹp nhất của người tu và không có hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa. Ngày xưa Phật ngồi thiền có một mình trong rừng, sau khi nhận đệ tử, ngài ngồi thiền trong tăng thân, sau này bốn chúng cùng ngồi thiền với nhau, rất hùng vĩ. Giai đoạn người tu có tỉnh thức là giai đoạn hùng vĩ. Tăng thân của đức Phật đông như vậy mà im phăng phắc, không một tiếng động nào, một chiếc lá rơi cũng có thể nghe thấy. Đây gọi là ngồi thiền tập thể hay tỉnh thức tập thể. Năng lượng tập thể hùng hậu có thể giúp chuyển hóa những năng lượng cá nhân bất thiện. Mình muốn nương tựa thì mình nên đi vào tăng thân có năng lượng tu tập hùng hậu như vậy, mình sẽ được tiếp sức và việc tu tập sẽ khấm khá hơn. Mình còn rất non trẻ khi thực tập chánh pháp, nên đừng ngần ngại tìm kiếm những vị mâu ni, những bậc minh sư, những thiện tri thức mà được hướng dẫn. Người biết phụng sự đức Phật là người biết tu, là biết cách làm thị giả cho Phật.

Phật Dạy Nương Tựa Tự Tính Tam Bảo

Phật Dạy Nương Tựa Tự Tính Tam Bảo

Khi đức Phật bệnh nặng tại Beluva gần Vesàli, thầy Ananda đến ngồi bên cạnh đức Phật và chia sẻ với người, Bạch đức Thế Tôn, con phụng sự Thế Tôn trong gần bốn mươi năm qua, chưa bao giờ con thấy người bệnh nặng như lần này. Có hôm con thấy người nằm im không động đậy, không di chuyển gì cả, con cảm thấy lo lắng, thậm chí tay chân con bủn rủn hết. Những lúc như vậy, tinh thần của con không được minh mẫn, con cứ cho rằng Thế Tôn sẽ không lành bệnh. Tuy nhiên, con nghĩ Thế Tôn nếu có viên tịch, chắc chắn sẽ để lại di chúc cho tăng thân, đằng này Thế Tôn chưa làm như vậy, nên con cảm thấy yên tâm được phần nào.

Lúc này Phật bắt đầu dạy thầy Ananda về nương tựa tự tính Tam Bảo, Này thầy Ananda, tăng thân còn chờ đợi gì ở Như Lai nữa, bốn mươi năm qua chẳng phải Như Lai đã để lại di chúc hay sao. Những gì thuộc về chánh pháp, ta đã chỉ bày rất đầy đủ, không thiếu sót gì, có còn gì mà ta chưa chỉ dạy các vị đâu.

Này thầy Ananda, chỗ nương tựa của người tu là chánh pháp, không phải một vị giáo chủ nào khác và không có gì phải nương tựa ngoài chánh pháp, vì chánh pháp chính là nơi nương tựa. Hãy sống và hành xử theo chánh pháp, theo tự tâm thanh tịnh của bản thân.

Thầy Ananda, Tam Bảo đã có sẵn trong mỗi người tu, khả năng giác ngộ và tỉnh thức là Phật, phương pháp hành trì chánh pháp là Pháp và chuyên tâm thực tập là Tăng. Không thể mang ba tự tính này ra khỏi người tu.Dù trời đất nghiêng ngả, hay mặt trời mặt trăng sập xuống, ba tự tính này vẫn nguyên vẹn không sứt mẻ. Đây là nơi nương tựa bình an và vi diệu nhất. Người tu hãy thực tập chánh niệm, thực tập bốn lĩnh vực quán niệm là phương pháp nương tựa đúng đắn nhất. Một vị giáo chủ, hòa thượng, vị truyền giới, thượng thủ hay bổn sư của mình cũng chưa phải là nơi nương tựa đúng đắn, cũng không thể sánh được ba tự tính sẵn có trong mỗi chúng ta.

Thầy Ananda, điều gì ta cần dạy thì ta đã dạy rồi, ngọn đuốc mình cần đi theo là ngọn đuốc chánh pháp, ta đã trình bày sẵn ra rồi, các thầy hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Không nhất thiết phải có người lãnh đạo tăng thân hay bắt buộc người tu phải phụ thuộc vào bất cứ người nào. Đâu cần lí do gì để Như Lai để lại di chúc nữa.

Thầy Ananda, giờ đây Như Lai sức đã tàn, lực đã kiệt, tuổi thanh xuân đã qua từ lâu và đến lúc cũng phải để tứ đại tan rã. Ta đã tám mươi tuổi, không khác gì một cỗ xe cũ kỹ, nhiều lúc phải cần những sợi dây thừng để cỗ xe có thể đứng vững, giữ cho các linh kiện của nó không bị văng ra. Thân của ta cũng như vậy, cần những sợi dây thừng để rào cột lại. Chỉ khi nào Như Lai không còn nghĩ đến chuyện gì nữa, mọi cảm thọ không còn, tâm hoàn toàn bất động, thì thầy nên biết rằng lúc đó thân Như Lai mới thật sự thoải mái. (25)

Tam Bảo là ba viên ngọc quý và ba viên ngọc này có sẵn ở trong mình, vấn đề là mình có mài giũa làm cho ba viên ngọc này sáng trong hay cứ mãi đục ngầu. Không nương tựa tự tính Tam Bảo thì uổng lắm, làm phung phí cả gia tài ngàn đời, nếu không muốn nói là gia tài của muôn muôn kiếp. Mình có khả năng giác ngộ và tự tính giác ngộ này không phải ai có thể ban phát được. Nếu biết quay về với sự thực tập đúng đắn, hoa giác ngộ sẽ nở ra và điều cần biết là cái hoa này không bao giờ tàn, khi đã giác ngộ rồi thì cứ thế mà tiến bước. Tất cả chúng sinh đến lúc nào đó cũng phải giác ngộ dù nhanh hay chậm và giác ngộ như một tiến trình tự nhiên. Mình đi trong dòng sinh tử, có thể một kiếp hay hằng hà sa số kiếp, nhưng đến lúc nào đó cũng phải thôi sinh tử. Hãy biết mệt mỏi với sự sinh tử để mà quyết tâm chấm dứt sinh tử. Nguồn gốc của sinh tử là vô minh. Mình cứ sinh tử hoài là vì mình thèm khát sinh tử, nó như cái dục lôi kéo mình trong vòng lẩn quẩn của sinh tử.

Sở dĩ mình không chịu hành trì chánh pháp vì mình lười biếng, cái lười biếng này trải qua biết bao số kiếp. Đức Phật ra đời cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, mà bây giờ mình vẫn còn ngồi chình ình chỗ này, vẫn chưa giải thoát, vẫn mang thân tứ đại, điều này minh chứng là mình ham thích lười biếng như thế nào. Mình giận mình cũng đành chịu, đâu phải tại Phật, đâu phải tại các sư phụ. Ai cũng dạy mình hết lòng, Phật dạy mình hết lòng, các sư phụ dạy mình hết lòng, mà mình thì sao, mình quên hết những lời dạy đó, mình để cho sự lười biếng và giãi đãi ngập tràn, đến khi sinh tử tới, khổ đau tới, bất an tới, mình chịu không nổi, đi kiếm Phật mà than, đi kiếm sư phụ mà than, ai ngờ Phật đang ở trong mình, sư phụ đang ở trong mình mà mình không chịu đón nhận. Mình không chịu làm Phật hay làm sư phụ, tối ngày mình chạy đôn chạy đáo, làm cho ông Phật và ông sư phụ trong mình ngồi buồn. Ngày xưa đức Phật rất khôn, và chẳng có ai khôn như Phật, rồi các đệ tử của Phật, thầy Ca Diếp, thầy Xá Lợi Phất, thầy Mục Kiền Liên cũng rất là khôn, biết sử dụng chánh pháp mà hành trì cho đến khi giải thoát. Nếu mình khôn thì mình hãy nương tựa chánh pháp mà tầm cầu giải thoát, đừng có đi chơi với sinh tử nữa. Nương tựa Pháp cũng là nương tựa Phật. Trong Pháp có Phật và trong Phật có Pháp. Phật là tỉnh thức và tỉnh thức là Pháp nên biết tỉnh thức thì Phật Pháp không ở đâu xa.

Tăng là phước điền của chúng sinh, là đoàn thể nguyện sống đời tỉnh thức. Mình có thể nguyện như vậy nên mình cũng có tăng tính. Mình hay đổ thừa việc tu tập chưa thể được vì cái duyên chưa tới, thậm chí có người cho rằng việc thực tập là dành cho người già. Mình chưa bao giờ sống cho mình, mình sống cho cái gì đó, cho cái ngã, cho vô minh, cho sinh tử mà mấy thứ này đầy dẫy khổ đau. Khổ đau đến hoài vì mình đam mê khổ đau. Mình toàn sống cho khổ đau, mình chưa bao giờ sống cho mình. Mình dại dột đến nỗi có người mời mình tu tập, mình không thèm nghe mà còn chỉ trích trở lại. Không chịu thì thôi, người khác tu tập, người đó giải thoát, còn mình tuổi đời đã cao mà vẫn còn trầm luân, vẫn hành xử như trẻ thơ. Con người tự hào về chiến thắng những cuộc chiến tranh, về những thành tựu khoa học, nhưng sao thân tâm lại co rúm trước sự tu tập? Nương tựa Tăng tính trong mình là nương tựa sự quyết tâm hành trì chánh pháp, làm cho chánh pháp nở rộ trong mình.

Con đường mà đức Phật chỉ bày ra cho chúng ta nếu thực tập đúng đắn thì chắn chắc sẽ có kết quả mỹ mãn. Một khi đã đi vào con đường rồi thì cứ một đường thẳng mà đi, đừng để cho tâm hoài nghi khiến mình đánh mất con đường. Như một chiếc xe đường ngay không đi mà tự mình lăn xuống hố sâu. Một lần học trò nói với tôi, hình như sự tu tập của con có sự bão hòa, có sự giãi đãi, không muốn tu nữa và người học trò này tìm kiếm sự khỏa lấp bằng giải trí hay những trò vui của thế gian. Đơn giản vì những tập khí của thế gian mình chưa có chuyển hóa được, những tập khí lười biếng vẫn còn đó, những tập khí mê chơi vẫn còn đó và mình chưa hình thành được thói quen tu tập, nên tu một hồi mình thấy chán lắm, thấy sao cứ phải ngồi thiền, cứ phải chánh niệm, cứ phải đọc sách, cứ phải tụng kinh. Mình chưa tìm được niềm vui trong sự tu tập vì cái tưởng cứ cho rằng tu tập là công phu lao tác mệt nhọc, là điều gì đó rất bắt buộc. Hơn nữa, mình sống trong môi trường mà năng lượng tu học rất thấp nên sự vững chãi không đủ, mình dễ bị lôi kéo, dễ bị trầy trược. Hãy xem nhu cầu thiết yếu của mình là gì và nếu như thực hiện nhu cầu đó có đem lại sự giải thoát đích thực trong giây phút hiện tại hay không, hay là thực hiện nhu cầu đó rồi, mình vẫn còn dính mắc, vẫn còn bươn chãi trong những nhu cầu tiếp theo.

Đừng bao giờ đánh mất tâm ban đầu mà hãy thường xuyên nhìn lại tâm ban đầu. Tâm ban đầu rất đẹp, rất tươi mới và rất háo hức, vì lý tưởng tu học lúc đó rất mạnh mẽ, năng lượng mong muốn chuyển hóa tràn ngập và mình luôn tự hứa với lòng sẽ không có gì có thể lay chuyển được con đường tu học của mình. Thời gian thấm thoát trôi qua, mình bắt đầu lờn với sự tu học vì mình thấy có vẻ sự tu tập không có gì mới mẻ, do việc thực tập thiếu tinh tấn nên con đường mình đi dường như dậm chân tại chỗ và mình bắt đầu nản chí. Những lúc như vậy, đừng bao giờ để cho tâm chán nản xâm chiếm quá sâu và duy trì quá lâu. Hãy đi gặp thầy y chỉ và các bạn đồng tu của mình, những người thực sự có thành tựu trong việc thực tập để nghe lời khuyên giải và khuyến tấn của các vị này. Nhìn lại tâm ban đầu tươi đẹp và làm mới tâm ban đầu đó, tìm cho ra nguyên nhân của việc khiến cho sự chán nản lấn át tâm ban đầu. Cách thực tập đúng đắn trong môi trường đúng đắn giúp ích cho mình rất nhiều nên mình phải biết nương tựa. Người khiêm cung lúc nào cũng biết nương tựa và khi nương tựa đúng đắn thì mình không có những phút giây chán nản nữa.

Khi thực tập con đường của sự tỉnh thức, ban đầu mình còn lạ lẫm và giác ngộ là điều gì đó rất xa vời. Mỗi ngày mình giác ngộ một chút, mỗi năm mình giác ngộ một chút và nhìn lại chặng đường mình đi qua, mình xem mình đã khá hơn chút đỉnh nào không. Việc thực tập cần liên tục, cho đến khi nào chất Phật thực sự thẩm thấu vào thân tâm của mình. Nói là thẩm thấu chứ thực ra mình làm cho chất Phật phát khởi, lan tỏa, duy trì và phát triển. Người thành đạo vẫn phải tiếp tục thực tập, chứ không phải không, để duy trì cái gọi là thành đạo của mình. Không ai biết chắc chắn là mình đã thành đạo hay chưa trừ khi họ có đủ phước duyên để biết chuyện đó cho nên cứ phải duy trì việc thực tập. Đức Phật đã thành đạo nhưng vẫn duy trì việc thực tập và thậm chí còn miên mật hơn trước. Mình thực tập không phải để chất chứa kiến thức, ngay cả học trò của tôi cũng cố gắng kiếm tìm sự chất chứa kiến thức và bị rối loạn trong mớ kiến thức đó luôn. Nếu không bị kẹt vào tâm lý đám đông thì cũng bị kẹt vào ngôn từ, vào những an lạc có điều kiện. Niết Bàn có tính chất vắng bặt, vắng bặt ý niệm, vắng bặt ngôn từ, vắng bặt nói năng, vắng bặt sự chạy theo, cho dù đó là chánh hay tà. Bao nhiêu ngã mạn bùng nổ chỉ vì những dính mắc kia. Chất Phật có sẵn đó nhưng mình chưa có thẩm thấu được đâu, cái mà mình cho là an lạc kia chỉ là vọng tưởng mà thôi.

Nhìn lại tâm ban đầu
Tươi mới và đẹp đẽ
Đừng bao giờ nhụt chí
Đạo hạnh nhớ hành trì.

Hãy làm cho chất Phật
Thẩm thấu vào thân tâm
Để tình thương nảy mầm
Nuôi dưỡng đời tu tập.

Không gì là cao thấp
Khi đã biết quay về
Chấm dứt những rủi rong
Ôm từ bi vào lòng.

Niệm Phật Là Trở Về Tánh Giác

Niệm Phật (Là Trở Về Tánh Giác)

Niệm Phật là một pháp môn thực tập hay và ngày nay có nhiều người thực tập. Niệm Phật là trở về tánh giác, hay trở về sự giác ngộ của bản thân. Tỉnh thức trong việc niệm Phật có thể giúp hành giả an trú trong chánh pháp và đưa người đến giải thoát, tuy nhiên việc niệm Phật phải miên mật và nên mang hương vị thiền vào trong việc niệm. Bất cứ tâm nào khởi lên ngoài tâm niệm Phật đều phải được nhận biết, từ khi tâm bắt đầu phát khởi, đến khi nó diễn ra và kết thúc. Niệm Phật là niệm tự tính của mình. Niệm Phật A Di Đà là niệm tự tính A Di Đà. Niệm Phật Thích Ca là niệm tự tính Phật Thích Ca. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là niệm tự tính Bồ Tát Quán Thế Âm. Mình hay vọng tưởng trong việc niệm Phật, như là nhìn thấy cảnh giới Phật hay cảnh  giới Bồ tát. Niệm Phật cho đến khi tâm vắng lặng thì còn có gì là cảnh giới. Niệm cho đến khi không còn thấy gì nữa, cho đến khi thực sự im lặng, im lặng ở trong tâm.

Phật A Di Đà có khả năng tiếp dẫn và cứu độ chúng sinh. Mình cũng vậy, tự tính của mình là tự tiếp dẫn và tự cứu độ nên khi thực tập niệm Phật đúng đắn, mình có thể tiếp dẫn mình và cứu chính mình. Không ai có thể cứu mình bằng tự cứu mình cả. Phật Thích Ca là bậc đại tỉnh thức, giác ngộ trong từng phút giây nên niệm Phật Thích Ca là tiếp xúc với tự tính tỉnh thức và tự tính giác ngộ. Mình không thể thành Phật do Phật tu được. Phật tu thì Phật thành Phật. Mình không tu, sức mấy thành Phật, mà thành cái gì đó không phải Phật. Bồ tát Quán Thế Âm hành trì việc quán chiếu âm thanh, hành trì kham nhẫn và bốn tâm vô lượng nên niệm Bồ tát Quán Thế Âm là niệm sự quán chiếu âm thanh, niệm kham nhẫn và niệm bốn tâm vô lượng. Tất cả sự hành trì này mình đều có thể làm được, đơn giản vì tất cả đều là tự tính của mình. Mình có tự tính quán chiếu âm thanh, tự tính kham nhẫn và tự tính bốn tâm vô lượng.

Một cách niệm Phật khác có thể đem ra áp dụng là niệm chính mình, niệm tự tính Tam bảo trong mình. Niệm Phật tính trong mình, giúp cho chất liệu Phật được tăng trưởng. Mà chất liệu Phật là gì, là giới hạnh, là thiền định, là tuệ giác, là tri kiến, là tri kiến giải thoát. Thực tập những điều này thì thân tâm mình thấm nhuần chất Phật, mình gần với Phật hơn, và thực tập cho đến khi mình đánh đồng với Phật, đây gọi là niệm Phật đúng đắn. Cũng vậy, Phật A Di Đà có tính sáng soi và tịnh độ là lòng trong sạch. Đem tính sáng soi ra mà niệm, đem lòng trong sạch ra mà niệm, cho đến khi tự tính Di Đà biểu hiện rõ ràng, mình làm cho đóa sen chín phẩm nở ra, ngay thời khắc mình có niệm đó, mình đã chế tác cõi cực lạc cho mình, nhờ niệm mà có an, nhờ có an mà có lạc, nhờ cực niệm hay niệm tinh tấn mà có cực lạc hay lạc tinh tấn. Như niệm Phật Thích Ca thì phải có tỉnh thức, nếu không thì niệm không đúng cách, không tiếp xúc được với cực tỉnh thức hay tỉnh thức tột cùng. Bồ tát Quán Thế Âm lắng nghe âm thanh đau khổ và âm thanh hạnh phúc, chịu cái khổ về mình để chúng sinh được hạnh phúc. Ngài còn thực tập im lặng sấm sét để bản thân và chúng sinh đều được bình an. Ngài hành từ, bi, hỷ, xả thôi chưa đủ mà còn hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Mình niệm bồ tát là niệm âm thanh, niệm im lặng, niệm bốn đại tâm vô lượng một cách miên mật cho đến khi tự tính Quán Thế Âm tròn đầy. Nếu mình chỉ niệm cái tên thôi thì mình bị kẹt vào ngôn từ, trở thành con vẹt niệm.

Khi niệm Phật đến khi nhất tâm bất loạn, cõi tịnh độ hiện ra, lòng trong sạch hoàn toàn và tâm được soi sáng, mình tiếp xúc với cõi tiểu tịnh độ và mình an lạc trong mini tịnh độ đó. Gia đình niệm Phật thì gia đình có thể tạo ra gia đình tịnh độ và cộng đồng niệm Phật thì cộng đồng tịnh độ sẽ biểu hiện. Để cho đúng nghĩa của tịnh độ, niệm Phật bằng cả thân và tâm, niệm cho đến khi mọi vọng tưởng, mọi ý niệm, mọi chấp ngã, mọi đau khổ lẫn hạnh phúc đều không còn làm mình sa ngã nữa. Muốn có cực lạc phải có cực an, niệm Phật đến khi cực an thì cực lạc sẽ hiện tiền thôi. Cõi cực lạc nó không mang hình tướng, không phải là nơi để đáp phi thuyền xuống. Nếu nói có một cõi như thế thì còn kẹt vào không gian và thời gian, mà giải thoát thì vượt thắng không gian và thời gian nên có cái để sinh về thì sẽ có cái để ra đi. Không còn sinh và không còn về nữa thì đi đến đâu cũng là cực lạc hết. Phước đức lớn nhất là tiếp xúc được với cực lạc ngay giờ phút này, tại chỗ này, chứ mình không trông mong về một thứ cực lạc trong tương lai, hay một thiên quốc trong tương lai. Khi khát nước, mình uống nước và mình đỡ khát ngay lúc đó, cũng vậy, khi muốn cực lạc, chỉ cần thực tập đúng đắn thì cực lạc sẽ được tiếp xúc ngay.

Trong pháp môn tịnh độ có một phương pháp gọi là hộ niệm, nhất là hộ niệm người sắp lâm chung, nhưng phương pháp này không chỉ đơn thuần là áp dụng cho người sắp lâm chung hay người đã khuất mà nó còn áp dụng cho người còn sống. Khi chị hai của tôi mang thai, tôi thường khuyên chị đọc kinh, niệm Phật và thực tập thiền, làm được như vậy thì đứa bé trong bụng sẽ nương vào sự thực tập của người mẹ mà thực tập theo. Đứa bé có phước nên có người mẹ biết tu tập nên đã giúp bé thực tập khi bé còn trong trứng nước. Ba của học trò tôi bệnh nặng mà người ba này vì chưa đủ phước báu nên không tin Phật Pháp, không chịu niệm Phật và bệnh tình ngày càng nặng, khổ ở thân và khổ ở tâm. Tôi khuyên học trò nên hành thiền và niệm Phật để hồi hướng cho ông, buổi tối khi ông ngủ, anh có thể ngồi kế bên mà niệm Phật, niệm thầm thôi cũng có tác dụng, thần thức của ông vẫn có thể tiếp nhận được và đến lúc nào đó tự nhiên ông sẽ biết niệm Phật. Cái này gọi là Đại Bồ Tát hộ niệm Tiểu Bồ Tát. Một người biết tu thì hộ niệm cho người chưa biết tu, người tu đã thành tựu thì hộ niệm cho người tu chưa thành tựu. Hộ niệm không đơn thuần là niệm Phật mà hộ niệm còn có nghĩa là chia sẻ phương pháp tu tập, yểm trợ cho người tu và tìm mọi phương tiện để hoằng dương chánh pháp.

Trong kinh Kim Cang có sử dụng từ “thiện nam tử” hoặc “thiện nữ nhân”, có thể dịch là người con trai hiền hay người con gái hiền. Sinh ra mà có tính hiền thì biết người này đã nhiều đời tu rồi, bây giờ sinh ra tu tiếp làm cho cái hiền đó mạnh mẽ hơn nữa. Người hiền lành thường thực tập đem tâm cung kính phụng sự chúng sinh, trước hết là không hại mình và hại người, rồi đem những điều thiện phục vụ mình và phục vụ người. Đây là hạnh Địa tạng, làm được như vậy là biết cúng dường Địa tạng. Niềm vui lớn lao của người hiền lành là làm việc bằng tâm phục vụ, thậm chí không có một đòi hỏi nào, đi vào những chỗ khó khăn nhất mà phục vụ. Người có tâm phụng sự chúng sinh không bao giờ biết chán nản vì chúng sinh hằng hà sa số nên việc phụng sự chúng sinh không biết bao nhiêu mà kể. Phụng sự chúng sinh cũng là biết cúng dường chư Phật. Phụng sự nhưng không thấy mình đang phụng sự, ấy mới chính là phụng sự vậy. Chị tôi đi làm cả ngày, tối còn về lo nhà cửa, nấu cơm chăm sóc con cái, khuya thì tụng kinh ngồi thiền, ấy vậy mà chị còn giúp cho tôi biên tập các cuốn sách. Nhiều khi tôi biết chị rất mệt nhưng không nghe chị than vãn một câu. Tôi nói, Cám ơn chị đã dành thời gian biên tập kinh sách cho em. Chị cười bảo, Chị đâu có làm cho thầy, chị làm cho chị, chị làm cho chúng sinh. Tôi cười, chị tôi cũng hay thật đấy.

Người đem tâm cung kính
Mà phụng sự chúng sinh
Bằng chuyển hóa khổ đau
Bằng giải trừ địa ngục
Đây có thể gọi là
Biết cúng dường Địa Tạng.

Người đem tâm cung kính
Mà lắng nghe chúng sinh
Bằng tâm từ tâm bi
Bằng tình thương vô lượng
Đây có thể gọi là
Biết cúng dường Quán Âm.

Người đem tâm cung kính
Mà hành trì chánh pháp
Bằng thu nhiếp thân tâm
Đến giải thoát tận cùng
Đây có thể gọi là
Biết cúng dường chư Phật.

Thực Tập Chánh Niệm

Thực Tập Chánh Niệm

Chánh niệm có thể được cho là nhận diện đơn thuần sự có mặt của một đối tượng đang xảy ra trong hiện tại. Nói cách khác của việc thực tập chánh niệm là người thực tập hoàn toàn có mặt trong khung cảnh và thời khắc của hiện tại. Chánh niệm làm cho thân và tâm có mặt cho nhau, đồng thời có mặt cho cả đối tượng mà chánh niệm đang làm nhiệm vụ chú tâm của nó. Ngồi ăn cơm với mẹ, biết mẹ đang có mặt đây, mẹ là đối tượng của chánh niệm và người thực tập có mặt cho người mẹ, biết mẹ đang hiện tiền. Chánh niệm về bữa ăn, mình biết bữa ăn đang có mặt cho mình và mình cũng có mặt cho bữa ăn, mình và bữa ăn có mặt cho nhau. Chú tâm đến đối tượng đang có mặt đó, mình làm cho nó mang phẩm chất đơn thuần bằng cách không phê phán, không so sánh, không chỉ trích, không thêm thắt các ý niệm. Đối tượng được chú tâm sẽ trở nên sạch sẽ hơn và cách mình niệm đối tượng đó sẽ trở nên “chánh” hơn. Chánh niệm không có nghĩa là niệm một cách thiện mà chánh niệm là niệm bất kì đối tượng nào một cách không có ý niệm. Tà niệm không phải là niệm điều bất thiện mà là nhìn tất cả các đối tượng bằng con mắt của đầy dẫy ý niệm. Khi đem ý niệm vào một đối tượng đang chú tâm, dù rất nhỏ nhoi, mình đã trở nên tà niệm, mình không còn nhìn nhận sự việc đơn thuần, không còn “chánh” nữa, mà là gì đó, rất “tà”. Khi tôi đi Qui Nhơn với học trò, lần đầu tiên tiếp xúc với khu vực có thời tiết hết sức nóng, bầu trời như nắng đổ lửa, không khí thì oi bức, biển không có một con sóng nào vì gió quá lặng yên. Nếu thời tiết nóng thì chỉ cần niệm, nóng à, cái nóng này khiến cho mình có cảm thọ khó chịu thì mình niệm, khó chịu à. Còn nếu ngồi đó than vãn sao thời tiết thế này thế kia, sao đi ra Qui Nhơn vào thời điểm này làm chi, thì bao nhiêu ý niệm về thời tiết nóng là xấu và những hệ lụy về thời tiết nóng sẽ tuôn ra. Cái nóng đã làm mình khổ mà còn ngồi giận cái nóng nữa thì cái khổ lại chồng thêm cái khổ. Mình thích làm khổ mình như thế. Nếu nhận diện thời tiết đơn thuần, biết nóng là nóng, biết lạnh là lạnh thì đâu có khổ gì. Sở dĩ mình khổ vì mình thêm vào cái đơn thuần những ý niệm, và do đó khổ là những ý niệm và do có những ý niệm mà mình khổ.

Bốn lĩnh vực của sự thực tập chánh niệm theo Kinh Tứ Niệm Xứ là chánh niệm về thân, chánh niệm về thọ, chánh niệm về tâm và chánh niệm về pháp hay chánh niệm về đối tượng tâm. Thực tập chánh niệm về thân là thực tập nhận diện đơn thuần về hơi thở, về tư thế, về động tác, về các yếu tố chuyển động của thân liên quan đến bốn chất liệu đất, nước, lửa, gió. Thực tập chánh niệm về thọ là thực tập nhận diện đơn thuần cảm thọ dễ chịu, cảm thọ khó chịu hay cảm thọ không dễ chịu cũng không khó chịu. Thực tập chánh niệm về tâm là thực tập nhận diện đơn thuần về các dòng tâm. Thực tập chánh niệm về đối tượng tâm là thực tập nhận diện đơn thuần về cái mình nghe, cái mình thấy, cái mình biết, cái mình ý niệm… Mình không đưa ra những lời “comment” hay “remark” cho những đối tượng mà mình đang hướng năng lượng của chánh niệm tới. Khi thân bị đau nhức thì biết thân bị đau nhức, bắt đầu từ quá trình sinh khởi sự đau nhức, quá trình diễn ra sự đau nhức, sự đau nhức kết thúc và thân không còn bị đau nhức nữa. Đây gọi là có chánh niệm về sự đau nhức của thân. Khi bị đau nhức, nếu mình sinh tâm lo lắng và tìm đủ lời than vãn cho số phận đau nhức của mình thì mình hoàn toàn không có chánh niệm về sự đau nhức. Hoặc là cái thân đang đau nhức mà mình không nghỉ ngơi mà cứ ráng làm việc, ráng thức khuya, ráng giải trí thì cái thân càng đau nhức hơn, mình không hành xử có chánh niệm với cái thân.

Chánh niệm được thực tập trong đời sống hàng ngày, làm cho đời sống mang chất liệu của sự tỉnh thức, đem tỉnh thức vào thế gian. Thực tập chánh niệm khi làm việc, ăn cơm, lái xe, lau nhà, nói chuyện, chăm sóc ba mẹ hay con cái thì cả ngày mình sẽ được bảo vệ. Tâm thường hay rong ruổi và bị dính mắc vào hoàn cảnh, cho nên chánh niệm làm cho tâm bớt rong ruổi và hoàn cảnh bớt bị chi phối. Với sự phát triển kinh tế và mong muốn làm giàu nhanh chóng, con người vướng vào rất nhiều căn bệnh, trong đó có những căn bệnh liên quan tới tâm lý và từ đó ảnh hưởng đến cái thân. Người ta bận rộn đến nỗi những thời khắc của sự sống trôi qua rất nhanh và họ không có thì giờ để ngồi yên, để có mặt đích thực cho gia đình. Muốn làm việc thì cứ tiếp tục làm nhưng nếu làm việc có chánh niệm, mình an trú trong hiện tại và nhận diện được niềm vui, tiếp xúc với hạnh phúc trong công việc. Chạy xe có chánh niệm thì tránh được nhiều tai nạn. Tôi bắt gặp nhiều người cứ hay sử dụng điện thoại khi chạy xe máy, thậm chí họ còn chở một đứa nhỏ phía sau, như vậy rất nguy hiểm. Chạy xe là chuyên chở một sinh mạng, nếu chở theo mẹ hay một đứa con thì mình lại có trách nhiệm thêm một sinh mạng nữa. Trách nhiệm lớn thì không thể bừa bãi trong việc chạy xe. Chánh niệm khi chạy xe thì không làm việc riêng, không nói điện thoại, không nói chuyện khi đang chạy xe. Mắt phải nhìn, tai phải nghe, thân thể phải ý thức là mình đang chạy xe. Vừa rồi có một chiếc xe hơi chạy đâm vào một quán ăn, giết chết nhiều trẻ em đang ngồi ăn trưa trong đó, với một lỗi duy nhất là tài xế bị buồn ngủ. Buồn ngủ mà cầm tay lái giống như người say xỉn đang điều khiển phương tiện. Mình có trách nhiệm về sinh mạng của người khác thì hãy luôn ý thức về những hành động của mình. Cách để luôn làm cho ý thức hiện tiền không gì khác hơn là thực tập chánh niệm, chú tâm vào công việc đang làm và biết chuyện gì đang xảy ra.

Thực tập chánh niệm bằng thi kệ rất hay, nó nhắc mình thường xuyên an trú trong chánh niệm. Súc miệng cũng có thể chánh niệm, Súc miệng tâm sáng bừng – Thơm tho từng lời nói – Gói ghém từng câu chữ – Chánh ngữ hiện trên môi. Súc miệng mà nhắc mình chánh ngữ lời nói thì thật hay. Đóng cửa thì có bài, Hãy đóng cửa nhẹ nhàng – Nuôi lớn những bình an – Dừng lại tâm rong ruổi – Cùng về chốn địa đàng. Đóng cửa nhắc mình phải làm cho tâm an, tâm an được thì tiếp xúc với địa đàng. Đi trên đường thì đọc kệ, Khoan thai bước trên đường – Lòng dạt dào tình thương – Hồn nhiên như thơ trẻ – Tâm bồ đề ngát hương. Đi như dạo chơi, bao nhiêu tất bật và hối hả buông xuống hết, nhắc mình giữ vững tâm bồ đề, tâm mong muốn giải thoát. Uống nước thì có bài, Uống nước phải nhớ nguồn – Năm dục quyết phải buông – Từng giọt nước cam lộ – Cứu độ các chúng sinh. Uống nước như uống cam lộ, không chỉ nuôi dưỡng thân mà còn nuôi dưỡng tâm, uống nước để cứu mình, cứu chúng sinh trong mình, nhắc nhở mình còn chúng sinh lắm, còn phàm phu lắm, hãy biết chấm dứt những điều làm cho mình xa rời Phật, xa rời giác ngộ. Chánh niệm khi mỉm cười làm cho nụ cười có phẩm chất, Mỗi ngày tôi trồng những nụ cười – Khi cười tôi sẽ cười thật tươi – Bao nhiêu phiền lụy tiêu tan hết – Hạnh phúc ngay đây thật rạng ngời. Nụ cười là biểu hiện của hạnh phúc thì tại sao mình lại không cười. Cười mà phiền não rơi rụng thì đáng cười lắm. Ngoài Hà Nội, có một nhóm người sau khi tập thể dục buổi sáng xong thì mọi người đứng lại với nhau mà cười. Có thể họ có hạnh phúc và khổ đau trước đó, nhưng họ cười trước đã, cười làm cho những muộn phiền, những lo toan của đời sống hàng ngày giảm bớt, cười một trận cho đã.

Chánh niệm là có ý thức: ý thức về suy nghĩ, ý thức về lời nói và ý thức về hành động. Tâm rất dễ bị vọng tưởng và nếu không ý thức về suy nghĩ, vọng tưởng sẽ kéo mình đi, rất ghê gớm. Vọng tưởng có khi mạnh hơn cả trận đại hồng thủy, nó quét sạch mọi điều dễ thương mà mình xây dựng bấy lâu. Tri giác sai lầm cũng là hậu quả của vọng tưởng và nếu vọng tưởng mà dẫn tới hành động, sợi dây oan trái sẽ diễn ra. Hai chị em sống chung với nhau từ nhỏ, lớn lên do nhân duyên mà thương một người con trai, từ đó hai chị em bỗng trở thành tình địch của nhau, rồi oán ghét nhau, không nói chuyện với nhau êm thấm nữa. Từ tình nghĩa chị em biến thành oan trái, nếu không giải thì lúc nào đó cũng phải giải, không kiếp này thì cũng kiếp khác. Chính vọng tưởng biến hai chị em trở thành không ưa nhau, ai cũng nghĩ là người kia muốn chiếm lấy trái tim của chàng trai. Thứ hai, ý thức về lời nói, là chỉ nên nói những lời đẹp, ban tặng niềm vui, hàn gắn mối quan hệ. Lời nói giúp con người đến gần nhau và cũng có thể khiến con người xa nhau. Chánh niệm về lời nói là sử dụng lời ái ngữ mà nói, nói một cách có sự thật và tôn trọng sự thật. Mình có tập khí thích chỉ trích, tức là hay tìm tòi học cách nhìn người và chỉ trích người hơn là học cách nhìn mình và tự soi sáng mình. Điều này hết sức tai hại. Mình khó có thể xây dựng mối quan hệ khi việc nhìn người quá nhiều mà bản thân thì hết sức không tốt đẹp. Ý thức về hành động để không tạo nghiệp nữa, ít nhất là giảm thiểu việc tạo nghiệp. Chánh niệm về hành động là hành động có sự giữ giới, niệm giới là biết chánh niệm. Nhiều người hành động thất niệm rồi ngồi hối hận, sao lúc đó bản thân không biết kiềm chế, để cho hành động bất thiện xảy ra. Muốn ý thức về hành động phải ý thức về suy nghĩ, vì hành động chịu sự chi phối của suy nghĩ, nên chánh niệm từ suy nghĩ giúp phần nào có chánh niệm về hành động. Tội hay phước đều từ tâm tạo, nên sám hối thì đem tâm ra mà sám và muốn tạo phước thì hãy đem tâm ra mà tạo.

Một chàng trai đi du học từ Bỉ về, rất thú chí làm ăn, nhưng sau đó quen với bạn bè xấu và đi vào con đường sai trái, buông thả thân tâm, chìm đắm trong những dục lạc của thế gian. Anh không tìm thấy hạnh phúc đích thực trong gia đình, trong bạn bè, trong công việc nên tìm kiếm hạnh phúc ảo trong rượu bia, thuốc lắc và dòng nhạc điên cuồng. Nếu ý thức được hậu quả của việc ăn chơi, nó làm sa sút sức khỏe, làm sản nghiệp tiêu tán, làm người thân lo buồn thì ban đầu mình có thể chấm dứt những ham muốn ngay từ ban đầu. Suy nghĩ thân thiện thì hành động cũng trở nên thân thiện hơn.

Chánh niệm mang thực tại lên đến cùng tột. Do không chánh niệm nên mình sống trong quá khứ, chạy về tương lai và đắm chìm trong hiện tại. Hiện tại là phút giây mình đang sống, nên ý thức được sự sống trong hiện tại là có chánh niệm. Khi chánh niệm miên mật, hiện tại lên ngôi và thực tại rõ mồn một. Thực tại như cái đang là, như cái đang biểu hiện, chỉ vì mình nhìn thực tại bằng ý niệm nên thực tại bị xóa nhòa. Nhiều khi mình cho rằng ngắm trời xanh mây trắng là có an lạc, có thể đây là một ý niệm, vì có người ngắm trời xanh mây trắng nhưng có an lạc gì đâu, vì ý niệm về an lạc của họ khác đi. Thực tại là vắng bặt các ý niệm, nên nói thực tại là niết bàn hay niết bàn chính là thực tại này thì cũng không sai đâu. Đưa ý kiến vào thực tại, thực tại không còn nhận diện đơn thuần nữa, chánh niệm đã bị lu mờ và mình trở nên điên đảo trong ngút ngàn của ý niệm. Con người ngày nay rất điên đảo, mươi phương loạn lạc cả mười phương. Điều gì đã khiến cho người ta dẫn đến tình trạng như thế giới hiện nay. Khi ra mắt bộ phim Dark Night Rises, một người đàn ông đã xả súng vào các khán giả, trong đó có cả trẻ em và phụ nữ. Đơn giản vì anh chàng vọng tưởng, cho rằng mình là kẻ thù của nhân vật trong phim. Trong giây phút suy nghĩ bấn loạn, anh ta đã không làm chủ được mình. Bộ phim chỉ là kết hợp nhân duyên, của âm thanh, hình ảnh, diễn viên, cốt truyện, đạo diễn, rạp hát, khán giả, kịch bản… Các yếu tố này tạo nên một bộ phim, và đó là hoàn cảnh, là một pháp và cũng là một thực tại. Xem phim là chỉ để xem phim thôi và nhìn thực tại như là thực tại thôi thì mình không kẹt vào bộ phim, không kẹt vào thực tại. Sở dĩ mình khổ vì bị hoàn cảnh dẫn đi và thực tại đang có đó, nhưng mình không tiếp xúc được.

Người thất niệm thường có con mắt láo liêng, ham thích sự nói nhiều và mất thì giờ vào chuyện đàm tiếu. Nói nhiều thì lắng nghe chẳng bao nhiêu, học hỏi ít đi và những lời nói trở nên vô nghĩa, có chăng chỉ làm tăng tính ngã mạn. Người tu khi gặp gỡ nhau chỉ nên đàm luận về sự tu tập và chia sẻ các kinh nghiệm tu tập. Những việc ở ngoài đời đừng nói tới, sách báo đời cũng đừng đọc tới và những sản phẩm đời thì không nên tiêu thụ. Con mắt láo liêng nhìn ngang nhìn dọc, chuyện gì cũng dính vào và việc gì cũng ôm đòm vào, nên không thể vô sự. Người vô sự là người làm nhiều việc nhưng không thấy làm việc gì, thực tập rất nhiều nhưng không thấy mình làm gì, tức là không kẹt vào công việc và không kẹt vào việc tu. Người vô sự bước đi trong thế gian nhưng không bị nhiễm ô bởi pháp thế gian, vì thế bước chân người thảnh thơi, bước chân người thanh thản. Chánh niệm lời nói thì không cần nói nhiều và khi nói thì chỉ cần nói những lời cần thiết, cống hiến sự tu tập của mình và giúp bảo hộ sự tu tập của người khác. Học cách kiểm soát bản thân để kiềm chế lời nói và nếu có thể không cần phải nói lời nào. Im lặng được thì cứ im lặng, vì nói nhiều chỉ mang tính ba hoa, con mắt láo liêng và cái tâm cũng láo liêng. Có những người hùng biện thao thao bất tuyệt và thu hút rất nhiều người nghe nhưng lời hùng biện có thể muốn làm thỏa mãn đám đông và sự thu hút này mang yếu tố tâm lý đám đông, nên những điều người hùng biện kia nói chưa chắc là điều chánh pháp hướng tới. Người tu học không cần sự hùng biện mà cần sự chia sẻ, và chia sẻ thì có rất nhiều phương tiện. Trong các cuộc bầu cử của tống thống Hoa Kỳ, các ứng viên thường dùng khả năng hùng biện của mình để chứng minh chính sách mà họ sẽ làm nếu trúng cử hoặc chỉ trích các chính sách của đối thủ. Việc cạnh tranh có thể tốt vì có thể tìm ra phương cách tốt hơn nhằm cống hiến sự phát triển cho đất nước. Điều quan trọng là sau những lời lẽ hùng hồn đó, điều gì đã được làm và điều gì chưa được làm. Lời nói có thể rất hay nhưng lời nói cần đi đôi với việc làm. Nói nhiều làm ít thì lời nói sẽ gây mất lòng tin, uy tín giảm sút, và sau này có nói gì cũng không ai tin nữa.

Khi cắm dây điện vào ổ điện, dòng điện chạy vào chiếc quạt máy và làm cho nó chạy. Cánh quạt quay đẩy luồng gió vào không gian xung quanh, tạo ra sự mát mẻ. Chánh niệm như một luồng điện, hay là luồng điện chánh niệm, nó làm cho sự sống được nhận diện và được tiếp sức.  Nếu chánh niệm “on” suốt ngày, sự sống sẽ có mặt suốt ngày, này đây là bầu trời xanh, dòng sông trôi, tiếng chim hót, em bé thơ ngây, nụ cười của mẹ, đôi bàn tay của ba… Nếu chánh niệm “off” dù trong một khoảnh khắc, sự sống tự nhiên không còn nữa, bầu trời xanh không còn nữa, nụ cười của mẹ không còn nữa, lúc này thân tâm bị choáng ngợp bởi những thứ không phải là sự sống, như lo toan, phiền muộn, mệt mỏi, chán chường. Sự sống lúc nào cũng muốn biểu hiện và tươi đẹp nên những lo toan và phiền muộn kia không thể mang lại phẩm chất tươi đẹp cho sự sống. Hãy làm một con người mới, thắp sáng đời sống bằng ánh sáng của chánh niệm, hãy buông bỏ và chấm dứt những vọng tưởng để phiền não tan biến. Nguyên nhân của phiền não đều là vọng tưởng mà ra, như vọng tưởng người kia có ý làm khổ mình, người kia có ý hãm hại mình hay người kia không thương mình nữa. Và thế là mình khổ, mình phiền não. Vọng tưởng vì thế là một thứ dục do ham thích vọng tưởng, ham thích đi hoang của tâm. Mình hay thả cho tâm bay đi và thân trở nên cô đơn nên thân đổ bệnh vì thân không được tâm chăm sóc. Đem tâm về thân để chăm sóc cho thân, cho những vọng tưởng thôi không dữ dội, phiền não vì thế tan như mây khói. Đạo hữu Bạch Tầm Xuân đề nghị tôi có những bài viết để đối trị với một môn phái tu theo Địa Mẫu Diêu Trì vì theo suy nghĩ của cô, đây có thể là tà đạo, vì thờ mẫu mà sao lại nói chuyện chánh pháp như bên Phật giáo. Nếu quán chiếu kĩ, mình sẽ thấy địa mẫu là một biểu tượng, đó là đất mẹ, thờ địa mẫu như thờ đất mẹ vậy. Lúc này người hành theo hạnh đất mẹ, tức là luôn nuôi dưỡng và che chở đàn con, dù đó là ai, dù người đó sống ở châu lục hay nói ngôn ngữ nào, người thiện hay không thiện, đất mẹ cũng đều giang đôi tay ôm lấy muôn loài. Sử dụng tình thương mà nhìn vào hoàn cảnh để cho hoàn cảnh được yêu thương, nhưng sự yêu thương mang tính chuyển hóa, chứ không phải mang tính luyến ái, rồi sinh ra kì thị.

Các Thầy của tôi lúc nào cũng dạy tôi hãy biết sống sâu sắc trong hiện tại vì hiện tại là phút giây huyền thoại, là bến đỗ bình yên. Bây giờ hiện tại thơ ngây – Làn gió lung lay trước ngỏ – Nắng vàng bên hiên bày tỏ – Quá khứ buông bỏ tương lai. Chánh niệm về hiện tại, mình tiếp xúc với gió mát, với nắng vàng, là những điều kiện của sự sống. Trời mà không có gió thì trời rất nóng bức, trời mà không có nắng vàng thì trời chìm trong đêm đen. Sống trong hiện tại thì quá khứ không tìm về, tương lai không vồn vã, hiện tại sẽ thơ ngây nếu nó không mang hơi hướm của khổ đau quá khứ và lo lắng tương lai. Ở đây ấm êm hiện tại – Bông hồng con cài lên áo – Ngoài kia cuộc đời huyên náo – Con nào có ước có mong. Hiện tại là địa chỉ của sự sống, có mẹ, có ba, có anh chị em, có gia đình, nên hiện tại rất ấm áp. Bên ngoài hiện tại kia, bao nhiêu ồn ào náo nhiệt đang bùng nổ, đông đúc nhưng không ấm áp, ngược lại rất lạnh lẽo và cô đơn và mình không cầu mong một chút gì lạnh lẽo hay một chút gì cô đơn, đơn giản vì mình có nhu cầu của sự ấm áp và nhu cầu sum vầy. Cánh cò bay khắp ruộng đồng – Có chi phải trông phải đợi – Hiện tại vẫy tay gọi mời – Hạnh phúc buông lơi nỗi khổ. Ở Việt Nam, con cò là biểu tượng của người mẹ, lặn lội trên cánh đồng tìm thức ăn cho con. Nhìn cò bay mà nhớ đến mẹ, mẹ đang ngồi đó, mình hãy đến bên mẹ mà tiếp xúc với mẹ. Tiếp xúc với mẹ rồi thì mình được chở che, mình không còn trông đợi gì nữa vì tình thương của mẹ không bao giờ cạn, mình không cần tìm cầu tình thương nào nữa. Mẹ là hiện tại và dù mình đi khắp bốn phương trời, mẹ vẫn có mặt ở trong mình. Mẹ là một thực tại nhiệm mầu vì bên mẹ, mình hạnh phúc biết dường nào. Có những người đã già nhưng vẫn còn thấm thía được nỗi đau mất mẹ, nên còn mẹ là hạnh phúc lớn, hạnh phúc này làm những khổ đau chùn xuống và ra đi. Hoa sen trong bùn đã trổ – Hiện tại bến đỗ bình yên – Từ bi đẹp như mẹ hiền – Rủ nhau lên thuyền bát nhã. Hoa sen là một thực tại khác, trổ ra từ bùn nhơ, là tinh khiết từ khổ đau. Hiện tại là tinh khiết một khi nó không bị nhuốm màu của lo toan và kì thị. An trú trong hiện tại thì mình bình yên. Bình yên không khó tiếp xúc, muốn bình yên thì sẽ được bình yên thôi, chỉ cần buông bỏ những thứ làm cho mình không thể bình yên. Từ bi là mẹ và mẹ là từ bi. Em của tôi thường hay gọi mẹ tôi là Từ Bi Thái Hậu vì bà từ bi lắm, ai nói gì bà cũng im lặng, ai làm gì bà cũng im lặng, và bà chỉ biết chia sẻ yêu thương, chia sẻ chuyển hóa nỗi khổ niềm đau. Khi bình yên, mình đã ở trên thuyền bát nhã, thuyền của trí tuệ, của hiểu biết và thương yêu. Đặt chân vào con thuyền này là mình đã có con đường để đi và mình không còn lo sợ gì nữa. Tiếng cười dường như con đã – Giòn giã hiện tại nhiệm mầu – Quay về lời ca thiên thâu – Sâu sắc phút giây hiện tại. Mình cười giòn tan như tiếng cười trẻ thơ, giòn tan trong bình minh buổi sáng. Giòn tan vì không bị các âm thanh buồn tủi làm cho che mờ. Hiện tại là lời ca thiên thâu. Muốn cười thì hãy cười trong hiện tại. Đừng bao giờ tiết kiệm và để dành nụ cười. Hiện tại đang mỉm cười với mình thì sao mình còn không chịu bung nụ cười của mình ra, cho bình yên có dịp khoe sắc, cho hiện tại giòn giã những yêu thương chân thành.

Hiện Tại Là Phút Giây Huyền Thoại

Bây giờ hiện tại thơ ngây
Làn gió lung lay trước ngỏ
Nắng vàng bên hiên bày tỏ
Quá khứ buông bỏ tương lai.

Ở đây ấm êm hiện tại
Bông hồng con cài lên áo
Ngoài kia cuộc đời huyên náo
Con nào có ước có mong.

Cánh cò bay khắp ruộng đồng
Có chi phải trông phải đợi
Hiện tại vẫy tay gọi mời
Hạnh phúc buông lơi nỗi khổ

Hoa sen trong bùn đã trổ
Hiện tại bến đỗ bình yên
Từ bi đẹp như mẹ hiền
Rủ nhau lên thuyền bát nhã.

Tiếng cười dường như con đã
Giòn giã hiện tại nhiệm mầu
Quay về lời ca thiên thâu
Sâu sắc phút giây hiện tại.

Tỉnh Thức Tập Thể

Tỉnh Thức Tập Thể

Gia đình có ba mẹ theo Phật giáo và tu tập Phật giáo là gia đình may mắn. Đứa con sinh ra sẽ được giáo dục theo các tuệ giác của Phật giáo và tiếp nối việc tu tập của ba mẹ. Trong nhà nên có một phòng thờ, hay ít nhất là bàn thờ Phật. Nếu đủ điều kiện thì có phòng thờ riêng. Sáng dậy sớm, ngồi thiền, tụng kinh, nhắc nhở lòng thực tập tỉnh thức suốt ngày. Trước khi rời khỏi nhà, mình xá chào Phật, và khi đi đâu về cũng nên xá chào Phật. Là cư sĩ thì nên giữ năm giới và tụng giới thường xuyên, xem xét trong thời gian qua có phạm giới nào hay không và hứa với bản thân tiếp tục giữ giới. Nhiều cư sĩ có thể viết sách Phật giáo dựa vào kinh nghiệm thực tập của họ. Các gia đình Phật tử ra đời để cùng sinh hoạt theo tinh thần tỉnh thức. Khi mọi người trong gia đình gặp gỡ nhau, hãy dành thời gian mà chia sẻ các pháp môn tu tập, làm việc thì vẫn làm việc, nhưng khi làm việc mà có tu thì có nhiều hạnh phúc trong công việc. Cả gia đình đều tu tập gọi là gia đình tỉnh thức, phẩm chất hạnh phúc của gia đình rất lớn.

Chùa Hoằng Pháp thường hay tổ chức khóa tu cho sinh viên, thanh niên và học sinh. Mỗi khóa tu đều rất đông người trẻ tham gia, năng lượng tu tập rất cao. Nhìn nhiều người trẻ tìm đến Phật giáo mà nương tựa mà mừng, nhìn hàng trăm người quỳ xuống quy y Tam Bảo và thọ năm giới mà cảm động rơi nước mắt. Sau khi thực tập vài ngày trong khóa tu, các bạn quay về cộng đồng, đi học hay đi làm, các bạn đem năng lượng tỉnh thức vào đời sống và nó giúp cho đời sống của các bạn bớt lo lắng và phiền muộn. Lần trước xem ti vi, có bản tin về một ông thầy dạy tiếng Anh theo kiểu thiền tập. Trước khi học tiếng Anh, ông thầy cùng với các học trò ngồi thiền, theo dõi hơi thở. Theo ông, việc thực tập này giúp thư giãn và giúp gia tăng trí nhớ, nhất là việc học tiếng Anh sẽ hiệu quả hơn. Chưa biết phương pháp này mang lợi ích tới đâu nhưng các bác sĩ đông phương và tây phương bây giờ cũng khuyến khích thực tập thiền, giảm bớt tâm bệnh, góp phần chữa thân bệnh. Một lớp học từ thầy cô đến học trò biết nương tựa Phật giáo mà thực tập thì còn gì bằng, đây có thể gọi là lớp học tỉnh thức, thầy trò trân quý nhau và tình nghĩa thầy trò cũng nâng cao, cái gọi là bạo lực học đường có thể chuyển hóa.

Trong doanh nghiệp có nhiều việc phải lo toan, nào tìm kiếm thị trường, nào duy trì quan hệ khách hàng, nào nghiên cứu tạo sản phẩm mới, nào phát triển tài năng nguồn nhân lực… Nói chung công việc của doanh nghiệp rất nhiều. Người làm doanh nghiệp có phước lớn, vì tạo công ăn việc làm cho nhiều người, nhưng cái phước này sẽ lớn hơn nữa nếu mọi quyết định và hành xử của doanh nghiệp dựa trên tinh thần thực tập Phật giáo. Nếu từng thành viên trong công ty làm việc có tỉnh thức, họ sẽ trung thành và cống hiến nhiều hơn cho doanh nghiệp và doanh nghiệp trở thành ngôi nhà thứ hai họ muốn nương tựa, bên cạnh gia đình của họ. Có công ty để hẳn một bức tượng Phật trong một căn phòng riêng, căn phòng này được gọi là thiền phòng. Khi ai đó mệt mỏi và muốn nghỉ ngơi, chỉ cần đi vô phòng thiền, thỉnh một tiếng chuông và ngồi thở, một lát sau họ cảm thấy khỏe hơn và tiếp tục quay lại công việc. Doanh nhân đi tu thiền ngày càng đông và nhiều khóa tu thiền cho doanh nhân hay cho người bận rộn rất nhiều. Tu tập không phải là xu hướng hay phong trào mà do con người nhìn thấy nhu cầu đích thực của việc tu tập, giúp cho họ chuyển hóa được những khổ đau của thời đại, đây gọi là doanh nghiệp tỉnh thức, và vì thế công việc của họ phát triển thuận lợi và bền vừng.

Mỗi gia đình, mỗi lớp học, mỗi doanh nghiệp tỉnh thức sẽ tạo cộng đồng tỉnh thức. Tăng thân là một cộng đồng tỉnh thức, có thể chưa viên mãn nhưng nguyện đi trên con đường tỉnh thức cho đến khi viên mãn.Tâm thức cộng đồng có năng lượng mạnh mẽ, tạo nên an ninh và bình yên trong xã hội. Cộng đồng mang yếu tố của cá nhân và các cá nhân góp mặt tạo nên cộng đồng nên từng cá nhân trong cộng đồng tỉnh thức thì cộng đồng đó có nhiều hạnh phúc. Hôm qua tôi về thăm bà ngoại, bà ngoại kể tôi nghe bây giờ người ta ăn chay trường rất nhiều, lí do là tự nấu đồ chay sẽ rẻ hơn trong thời buổi bão giá, bảo vệ sức khỏe khỏi bị ngộ độc thực phẩm khi dùng các sản phẩm thịt chế biến không được sạch sẽ, nhưng nguyên nhân sâu hơn nữa là nuôi dưỡng lòng từ bi. Một người ăn chay có thành tựu về sức khỏe và thực tập tâm linh sẽ ảnh hưởng đến thành viên khác trong gia đình, và cả gia đình có khuynh hướng ăn chay luôn. Khi tôi về nhà thì mẹ tôi nấu đồ chay cho cả nhà ăn và cả nhà đều tham gia với tôi. Coi như bữa đó ở nhà không có sát sinh hay không sử dụng thịt phẩm. Nhà này ăn chay có kết quả sẽ tác động được đến ngôi nhà hàng xóm và cứ thế việc thực tập ăn chay sẽ nhân rộng. Cũng vậy, khi một người trong nhà thực tập tỉnh thức có an lạc, có thảnh thơi, có hạnh phúc, năng lượng của họ có thể tác động đến người khác trong nhà. Thường người ta nói Phật nhà khó thiêng nhưng đôi khi nhân duyên đã đến thì sự nương tựa lẫn nhau trong gia đình rất hay, như tôi chẳng hạn, tôi tìm đến Phật giáo cũng là nhờ công lao của mẹ. Khi cả gia đình có niềm tin và thực tập tỉnh thức thì mời hàng xóm cùng thực tập, năng lượng tỉnh thức được lan truyền. Gia đình trở thành nơi bình an, làng xóm trở thành nơi bình an, tệ nạn xã hội giảm thiểu, tình nghĩa giữa con người với nhau sẽ lên ngôi. Một khu vực mà có nhiều chúng sinh tỉnh thức, khu vực đó rất an lành, khí hậu nhẹ nhàng và sự sống êm ả. Như có nhiều người nói đi vào chùa thấy thanh thản lắm vì khu vực chùa toàn người thực tập tỉnh thức nên môi trường xung quanh cũng được hưởng lây.

Thường khi đi vào chùa thì mình thực tập rất miên mật nhưng khi về nhà thì mọi sự thực tập có vẻ quên, do mình bị công việc ngoài đời cuốn theo và sự tỉnh thức phần nào bị phai nhạt. Vì vậy, ở nhà cần có những phương tiện và những bạn đồng tu nhắc nhở, khuyến tấn mình tỉnh thức suốt ngày, cái này gọi là tu toàn thời gian. Nên có lịch công phu vào buổi sáng và buổi tối. Buổi tối trước khi đi ngủ thì ngồi thiền, tụng kinh, nghe pháp thoại hay đọc kinh sách, đừng đánh mất thì giờ vào việc giải trí của thế gian. Làm việc cả ngày mà tối còn giải trí nữa thì thời gian đâu tu, mình đánh mất dần năng lượng tỉnh thức. Tu tập có tính chất thư giãn nên thay vì nghe nhạc thì nghe pháp thoại, hạnh phúc khác hẳn và còn có giá trị nuôi dưỡng. Sáng dậy sớm ngồi thiền, tụng năm giới và lạy Phật. Trước khi đi làm, thỉnh ba tiếng chuông nhắc mình thực tập chánh niệm suốt cả ngày. Bây giờ có những bài thiền ca, nhạc thiền hay nhạc kinh. Ở nơi làm việc thỉnh thoảng mở các bài này lên mà nhắc nhở mình thực tập. Đi đường nghe tiếng chuông chùa, chuông nhà thờ, tiếng bấm còi, thậm chí tiếng chó sủa hay tiếng gà gáy, đều là những âm thanh vi diệu nhắc mình thực tập chánh niệm. Các bài kệ chánh niệm phải học thuộc lòng, đừng xem thường những bài kệ này. Khi bản thân chưa đủ vững chãi, chưa làm cho tỉnh thức viên mãn thì hãy tận dụng mọi phương tiện để nhắc mình tu.

Đi vào chùa tu rất dễ vì ở trong đó ai cũng tu, còn về nhà, có người tu người không, đi ra ngoài như cái chợ, người tu ít lắm nên những lúc không thể vào chùa được thì hãy biến ngôi nhà thành cái chùa, cái chợ thành cái chùa, nói cách khác là mọi nơi đều có thể là đạo tràng. Ở chùa nhiều lúc phải theo giờ công phu của mọi người, nhưng ở nhà mình có thể kiểm soát thì giờ của mình dễ dàng hơn và mình có rất nhiều công việc để thực tập tỉnh thức. Lau nhà, nấu cơm, rửa chén, làm vệ sinh, trò chuyện với ba mẹ hay chăm sóc con cái, đem cái tâm yêu thương và an trú trong công việc đang làm, bỗng chốc ngôi nhà trở thành đạo tràng. “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là đi tu.” Ở nhà mình có hai ông Phật là ba mẹ, nên chăm sóc được ba mẹ là biết cúng dường chư Phật. Con cái là sự tiếp nối của mình, hướng chúng đến Phật pháp là biết cách thương con. Trong nhà làm một người phụng sự, làm mọi thứ nhưng chẳng thấy làm gì thì không có phiền não, không ngồi suy nghĩ vì sao phải làm ít hay nhiều. Chỉ cần có chánh niệm trong mỗi công việc thì công việc cực cách mấy mình vẫn có hạnh phúc thì sự cực khổ kia có xá gì. Ra ngoài đường năng lượng nóng bức rất lớn, nào là giao thông, nào là nguy cơ tai nạn, rồi đi chợ, lời ra nói vào cũng có thể khiến mình đánh mất chánh niệm. Cẩn trọng hành động, sử dụng lời ái ngữ và theo dõi tâm ý, những tai nạn ngoài đường có thể sẽ giảm đi phần nào. Chùa là nơi truyền bá cách thực tập tỉnh thức và nơi ứng dụng nó là gia đình và ngoài đường. Việt Nam hồi xưa trên ti vi có chương trình trong nhà ngoài phố, nếu trong nhà tỉnh thức và ngoài phố cũng tỉnh thức thì còn chỗ nào là không phải đạo tràng. .

Khắp nơi là đạo tràng
Từ chùa chiền thiền viện
Từ trong nhà ngoài phố
Từ thành thị nông thôn.

Nếu chánh niệm miên mật
Đời sống thôi tất bật
Tỉnh thức sẽ vút cao
Niềm vui sẽ dâng trào.

Giác Ngộ Không Phải Là Vấn Đề Của Năm Tháng

Giác Ngộ Không Phải Là Vấn Đề Của Năm Tháng

Ngày xưa vua Ba Tư Nặc thường nghe mọi người xưng tụng Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên đức vua lấy làm lạ vì một người trẻ tuổi như thế, tuổi đạo không có nhiều, sao lại được tán thán và ca ngợi như vậy. Các quần thần trong hoàng cung, nhiều người cũng khen lấy khen để Phật khiến đức vua sinh lòng nghi hoặc. Trong nước nhiều vị cao tăng tuổi đã cao, có vị ngoài sáu mươi, có vị ngoài bảy mươi và cũng có vị ngoài tám mươi, tuổi đạo đã lâu nhưng không có ai dám tự xưng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng như không có ai khen ngợi họ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Không lẽ cái ông Phật này kiêu căng ngạo mạn để cho người ta xưng tán mình như thế. Ông ta chỉ mới khoảng ba mươi tám tuổi, tới từ nước Ma Kiệt Đà xa xôi, không biết ông ta tu tập thế nào, đạo hạnh ra sao mà người người tôn xưng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thật là khó tin, không thể tin nổi. Lần đầu tiên được gặp Phật, ngay lập tức, đức vua hỏi Phật vấn đề này. Trong thâm tâm của đức vua, ngài muốn giải tỏa sự nghi hoặc, cũng muốn xem Phật trả lời ra sao trước sự cung kính và hâm mộ của dân chúng. Phật mỉm cười, nhìn đức vua rồi trả lời nhẹ nhàng, Thưa đại vương, giác ngộ không phải là vấn đề của năm tháng. Năm tháng ở đây tức là tuổi tác hay tuổi đạo. Một ông thầy tu mà sống lâu nhưng chưa thấy pháp diệt sinh, việc sống lâu đó hết sức vô ích. Cũng vậy, một ông thầy tu tuổi đạo rất lâu nhưng vẫn chưa vượt thoát sinh tử, việc tuổi đạo lâu đó hết sức vô ích.

Thưa đại vương, mình đừng nên khinh thường những điều nhỏ hay những điều trẻ, điều nhỏ nhưng làm nên điều to lớn, điều trẻ nhưng làm nên chuyện vĩ đại. Đất nước của đại vương là tập hợp của những điều nhỏ, từng gia đình, từng ngôi làng, từng thôn xóm. Mỗi gia đình có hòa bình, mỗi gia đình và mỗi ngôi làng sẽ có hòa bình, đất nước sẽ hòa bình.

Đại vương, một vị hoàng tử đông cung, vừa mới chào đời, chừng vài kí lô, nhưng đừng có coi thường, chiến tranh hay hòa bình nằm trong tay của vị nhỏ bé đó.  Đứa bé có chất liệu của một đế vương. Nếu em bé này biết tu, đất nước sẽ thiên hạ thái bình, nếu đứa bé này không biết tu, đất nước sẽ hoang tàn đổ nát. Không nên đem đứa bé này so sánh với những đứa bé đã năm sáu tuổi hay với người lớn vì phẩm chất đế vương không được đo lường bằng thể trọng hay cơ bắp. Chính vì thế, đứa bé có vài kí lô nhưng tất cả các quần thần trong cung đều phải đến chúc mừng, tung hô và thậm chí quỳ lạy. Không phải đứa bé này tự nhiên sinh vào một gia đình là đế vương, bản thân của đứa bé đã nhiều đời tích phước lớn, nên đời này làm một vị hoàng tử, trong tương lai, vị hoàng tử có thể là một bậc đế vương, thống trị cả một cõi, tài sản to lớn không kể xiết, được mọi người cung kính hết mực.

Đại vương, một đốm lửa rất nhỏ nhưng đức vua đừng có xem thường. Nhờ lửa mình có hơi ấm trong mùa đông lạnh giá, vị đầu bếp thổi cơm và nấu chín thức ăn. Nhưng một đốm lửa chỉ to bằng đầu đũa có thể lám cháy rụi cả một kinh thành, biến một khu rừng thành tro bụi và cả một cánh đồng thành màu xám xịt. Sự bất cẩn của con người biến đốm lửa có lợi thành đốm lửa có hại. Cũng vậy, khi mình có một cơn giận nhỏ bé, mình không nhận ra, không biết đối trị, không biết chuyển hóa, cơn giận sẽ bùng lên thành trận cuồng phong, thổi qua làng mạc, làm tan biến tất cả. Cơn giận của đại vương có thể gây hại cho cả một quốc gia nếu đại vương không cẩn thận, không kiểm soát cơn giận của mình.

Đại vương, một con rắn dài bằng con giun hay bằng chiếc đũa cũng không nên xem thường. Nó có thể được cho là quá nhỏ, mình không chú ý, mình không đề phòng, nhưng nếu bị nó cắn, và không cứu chữa kịp thời, trông giây lát mình có thể trúng độc và chết tức khắc. Nếu đi tìm đại phu, đại phu không đến kịp, mình cũng vô phương cứu chữa. Cũng vậy, lời nói có thể gây tổn thương, thậm chí mình bị thương nặng hơn là con rắn độc đó cắn. Lời nói giết chết người không cần gươm dao. Lời qua tiếng lại giữa hai người tạo nên tranh cãi và đánh nhau. Lời qua tiếng lại giữa hai bậc đế vương tạo nên chiến tranh tàn khốc. Nếu không biết kiềm chế lời nói, hận thù kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác, đau khổ triền miên mãi không thôi. Nếu chiến tranh xảy ra, không phải chỉ có một người chết, mà rất nhiều người, thậm chí cả một quốc gia phải diệt vong. Lời nói không ái ngữ nguy hiểm như vậy, nó còn tệ hơn cả rắn độc.

Đại vương, ngài hãy nhìn một vị thầy tu trẻ, rất trẻ, thậm chí là còn trẻ lắm, nhưng ngài đừng có xem thường, trong vị thầy tu này có chất liệu của giác ngộ và tình thương. Người trẻ vì còn trẻ nên ỷ lại vào sức trẻ nên có xu hướng tìm kiếm dục lạc và hưởng thụ, có mấy ai dám buông bỏ tài sản, buông bỏ tình cảm, xa lìa thế tục, cạo bỏ râu tóc, sống đời xuất gia, an hưởng đời sống phạm hạnh. Chỉ có người giác ngộ mới làm được như thế, vì nhận ra những dục lạc kia không mang lại hạnh phúc đích thực. Chỉ có người biết yêu thương mới làm được như thế, vì nhận ra tình thương không gói gọn trong một cá thể mà vượt khỏi biên giới của cá thể, ôm lấy muôn loài, ôm lấy cả nổi khổ niềm đau. Một vị thầy tu có chất liệu của giác ngộ và tình thương xứng đáng được cung kính, xứng đáng được cúng dường. Khi bản thân vị ấy có tu tập, vị ấy sẽ giáo hóa chúng sinh, đi vào cuộc đời mà cứu giúp không biết bao nhiêu chúng sinh được có chất liệu giác ngộ và tình thương như vị ấy. Như vậy không phải chỉ có một vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà đang, đã và sẽ có hằng hà sa số vị Vô Thương Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật vừa dứt lời đức vua Ba Tư Nặc dứt sạch những nghi hoặc trong lòng, ngài liền quỳ xuống cúi lạy Phật. Đức vua thấy rõ ràng giác ngộ không phải là vấn đề của năm tháng, của tuổi tác, của tuổi đạo. Phẩm chất tu học của người tu không tùy thuộc vào địa vị, vào con số hay vào hình tướng. Một vị Sadi vẫn có thể thuyết pháp cho vị Tỳ kheo ngồi nghe. Vị thầy tu trẻ có thể thuyết pháp cho ông vua già nua ngồi nghe. Điều nhỏ nhưng lại làm nên điều vĩ đại. Khi điều kiện đầy đủ thì tuệ giác bừng nở rất mau chóng, không phải đợi đến già, đến sắp chết. Người biết tu từ thuở nhỏ, chất liệu giác ngộ và tình thương sẽ có nhiều cơ hội phát triển và bừng dậy. Lúc này, đức vua Ba Tư Nặc bắt đầu xưng tán Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương.

Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương.

Hãy nhìn con rắn nhỏ
Xin người chớ xem thường
Nếu như bị nó cắn
Người sẽ chết thê lương.

Hãy nhìn thầy tu trẻ
Xin người chớ xem thường
Trong thầy có chất liệu
Giác ngộ và tình thương.

Tài liệu tham khảo

(1) Sự Tích Đức Phật Thích Ca – Trần Hữu Danh (Cư sĩ Minh Thiện), Nhà xuất bản Văn Học, 2009.

(2) Kinh Buông Bỏ Ân Ái – Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ sáu, Đại tạng tân tu 198 tương đương với Jara Sutta, Sutta-Nipàta 804-813, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch ra quốc ngữ.

(3) Kinh Tứ Niệm Xứ – Thiền Tập Thời Nguyện Thỉ – Quyển 1, Truyền Thống Sinh Động Của Thiền Tập Đạo Bụt – Nhất Hạnh, Lá Bối.

(4) Tôi Là Ai? Một Phương Pháp Hành Thiền – Ni Sư Ayya Khema, Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Nguyễn Thị Mỹ Thanh 2008, Nhà xuất bản Phương Đông TPHCM 2010.

(5) Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi – HT Thích Minh Châu, 14/10/2010, Đạo Phật Ngày Nay.

(6) Kinh Hải Đảo Tự Thân – Thích Nhất Hạnh dịch, Kinh 639, Tạp A Hàm.

(7) Tự Độ, Độ Tha – HT Thích Minh Châu và TT Thích Đức Thắng dịch việt, theo kinh Sedaka, Tương ưng 47.19, Đạo Phật Ngày Nay.

(8) Tự Lực Và Tha Lực – Không Rõ Tác Giả, Chùa Viên Giác, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Châu Âu, Chi Bộ Đức Quốc.

(9) Kệ Nhẫn Ba La Mật, Kệ Im Lặng Sấm Sét, Kệ Hành Xử Văn Minh – TG Minh Thạnh, Thiền Môn Nhật Tụng.

(10) Quan Âm Thị Kính – Không rõ tác giả, Điển tích Phật giáo, Truyện tích Phật giáo, Trang Nhà Quảng Đức.

(11) Tìm Hiểu Đạo Phật Nguyên Thủy – Thích Hạnh Bình.

(12) Mười Loại Ma Chướng Trong Thiền Và Yoga – Đức Kiên, Gia Đình Phật Tử Bao An.

(13) Bốn Trái Núi – Rong Chơi Tuổi Thơ, TG Minh Thạnh.

(14) Xu Hướng Bôi Nhọ Trên Mạng Và Tiêu Dùng Quá Mức Đang Ngày Càng Phổ Biến – KD, EFinance Tài Chính Điện Tử, cập nhật ngày 24/11/2011.

(15) Kinh Diệt Trừ Phiền Giận – Thích Nhất Hạnh dịch, Trung A Hàm, kinh thứ 25, kinh tương đương trong tạng Pali: Aghatavinaya sutta, A.III.186, thuvien-thichnhathanh.org

(16) Nỗi Đau Xuyên Thế Kỉ – Không rõ tác giả, Tuoitre, Phụ lục 2: Nỗi đau xuyên thế kỉ.

(17) Thi Kệ Làng Mai

(18) Theo Tiểu Bộ, Udàna IV.1; Tiểu Bộ, Trưởng Lão Tăng kệ, kinh 66 (Meghiya); Tăng Chi Bộ, chương 9 pháp, kinh 3: Meghiya; Đường Xưa Mây Trắng, trang 326-327.

(19) Kinh Người Biết Sống Một Mình – Thích Nhất Hạnh dịch, Tạp A Hàm, kinh số 1071, tạng Kinh Đại Chánh.

(20) Phật Không Từ Đâu Tới Và Cũng Không Đi Về Đâu – Trung Bộ 22, 63 và 72.

(21) Kinh Phước Đức – Thiền Môn Nhật Tụng, TG Minh Thạnh.

(22) Kệ Tỉnh Thức – Thiền Môn Nhật Tụng, TG Minh Thạnh.

(23) Thái Độ Của Người Phật Tử Đối Với Của Cải Vật Chất – Nguyên tác: Rajah Kuruppu, Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh.

(24)  Duy Lâu Lặc Vương (Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi), Nghĩa Túc Kinh 16, Attadanda Sutta (Sn. 934-954) – Đạo Bụt Nguyên Chất, Thích Nhất Hạnh.

(25) Phật Dạy Nương Tựa Tự Tính Tam Bảo – Theo The Buddha And The Gospel Of Buddhism, trang 66-67

(26) Điều Nhỏ Nhưng Vĩ Đại – Rong Chơi Tuổi Thơ, TG Minh Thạnh.

Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ Thiền giả Minh Thạnh đã cho phép chúng tôi sử dụng bài viết để trích đăng trên Website. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.

Theo Phật Pháp Ứng Dụng