Chư vị đồng tu, xin chào mọi người, mời xem tiếp văn tự phía sau:

[Văn báng nhi nộ, tuy xảo tâm lực biện, như xuân tàm tác kiển, tự thủ triền mộ, nộ bất duy vô ích, thả hữu hại dã.]

(Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận. Dù hết lời biện hộ, chẳng khác nào như con tằm nhả tơ, tự trói buộc mình mà thôi. Sự nóng giận tai hại vô ích.)

Sự việc này, chúng ta trong đời sống sinh hoạt thường ngày hay gặp phải, bản thân chúng ta phải đề cao cảnh giác, ngàn vạn lần không được để hoàn cảnh xoay chuyển, như vậy thì tổn thất của chúng ta quá lớn rồi. Một lần nổi sân hận, bất luận thời gian dài hay ngắn, tức là nói chỉ một giây đồng hồ ngắn ngủi như thế, đã làm tổn hại trên sinh lí, trên tâm lí của chúng ta, cần phải mất thời gian ba ngày mới có thể phục hồi lại tâm thanh tịnh. Chư vị nghĩ thử xem, nếu như mỗi ngày đều phát nộ khí, đối với sức khỏe của bạn có tổn hại quá lớn rồi, điều này thật không đáng chút nào.

[Văn báng], người khác hủy báng chúng ta, đây là điều không thể tránh miễn được, chúng ta cùng mọi người qua lại với nhau, thực tại không cách gì khiến cho tất cả đại chúng đối với ngôn ngữ, hành vi của chúng ta cảm thấy mãn ý. Không chỉ có phàm phu chúng ta làm không được, mà ngay cả Thích Ca Mâu Ni Phật cũng làm không được. Phật lúc còn tại thế, thường hay có người tìm đến Ngài gây sự, hủy báng, vũ nhục, thậm chí là hãm hại Ngài; như có Đề Bà Đạt Đa, trong nội bộ tăng đoàn có 6 chúng tỳ kheo đến gây phiền não, bên ngoài có lục sư ngoại đạo; đều là Thế Tôn tại thế gian này làm một tấm gương tốt cho chúng ta. Phật đối với những hủy báng, hãm hại này xử lí như thế nào? Phật dùng tâm bất động, tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi mà xử lí, đây là điều mà chúng ta phải học tập. Cho nên, nếu như chúng ta nghe thấy người khác hủy báng mình, mà vẫn nổi tâm sân hận, thậm chí là bản thân còn cực lực phản biện lại, đây là bạn tự tìm phiền não. Cho nên, Liễu Phàm tiên sinh tại đây có cử ra một ví dụ: “như xuân tàm tác kiển, tự thủ triền mộ” (giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc mình), thực tại bất tất phải như thế.

[Nộ bất duy vô ích, thả hữu hại dã], hai câu nói này là danh ngôn rất chí lí, chúng ta hi vọng bản thân trong một đời sống được hạnh phúc mỹ mãn, bạn phải ghi nhớ “làm sao để trong một đời luôn không nổi giận”, đây là công phu tu dưỡng đã đạt đến cảnh giới. Nổi giận, vừa mới nói là đối với thân tâm của chúng ta đều có tổn hại; cũng có hại cho đối phương, cả hai bên đều có hại, cả hai đều không có lợi ích gì cả. Nếu như chúng ta có thể nhẫn chịu, có thể dùng tâm bất động mà xử sự, bản thân chúng ta có được lợi ích. Có được lợi ích gì? Định huệ tăng trưởng. Phước đức của một người là do định huệ mà có, định huệ tăng trưởng thì phước đức tăng trưởng; định huệ là nhân, phước đức là qủa. Đối với đối phương cũng có lợi ích, chúng ta không có tâm oán hận, không có tâm báo thù, không cùng với anh ta kết oán cừu, cho nên tự tha lưỡng lợi, đây là Bồ Tát đạo, là Bồ Tát học, chúng ta cần phải nỗ lực học tập. Đương nhiên, lúc sơ học nhất định sẽ có khó khăn, nhưng bản thân chúng ta nhất định phải hiểu được đạo lí này, cần phải khắc phục những khó khăn của bản thân, dần dần có thể làm được một cách tự nhiên. Lúc ban đầu phải hết sức nhẫn nại, về sau làm được tự nhiên hơn. Ở đây cử ra hai ví dụ để nói:

[Kỳ dư chủng chủng quá ác, giai đương cứ lí tư chi]. (Mỗi lần gặp lỗi lầm ta đều phải bình tĩnh sáng suốt để thấy lý của nó)

Chúng ta trong đời sống hằng ngày đối người, đối sự, đối vật, sai lầm vô số, ác hạnh quá nhiều, đều phải thường nghĩ đến đạo lí này, phải thông tỏ nghĩa lí của nó.

[Thử lí ký minh, quá tương tự chỉ] (khi lý đã rõ thì việc làm lỗi tự động sẽ dứt).

Bạn chỉ cần đem đạo lí này hiểu cho thông đạt, hiểu cho minh bạch, lỗi lầm tự nhiên tiêu trừ. Đây là phương pháp thứ hai của sửa lỗi, phương pháp này so với phương pháp phía trước thù thắng hơn nhiều. Lại xem Liễu Phàm tiên sinh nói đến phương pháp thứ ba:

[Hà vị tùng tâm nhi cải? quá hữu thiên đoan, duy tâm sở tạo, ngô tâm bất động, quá an tùng sanh?] (Thế nào là sửa trong tâm? Lỗi lầm thiên hình vạn trạng đều do tâm tạo. Nếu tâm ta không động thì thiện ác đâu mà sanh?)

Đây là đại đạo lí, đây là đạo lí cứu cánh. Lỗi lầm của con người quá nhiều, nói không thể hết được! Lỗi lầm bất tất nói là chính bạn tạo tác, chỉ cần khởi tâm động niệm sai trái thì liền hình thành tội nghiệp. Thử hỏi bản thân: chúng ta mỗi ngày từ sáng đến tối chúng ta khởi lên bao nhiêu vọng niệm, bao nhiêu vọng niệm tự tư tự lợi, bao nhiêu vọng niệm tổn người lợi mình? Những lỗi lầm họa hại này đều là “duy tâm sở tạo”, trong tâm bạn khởi tâm động niệm. Cho nên việc tu hành trong phật pháp, then chốt của việc tu hành chính là thiền định. Chư vị ngàn vạn lần không nên hiểu sai ý này, nếu cho rằng tu thiền định trong nhà phật chỉ có thiền tông, vậy thì bạn sai rồi. Chỉ cần là Phật pháp, bất luận là đại thừa hay tiểu thừa, hiển giáo hay mật giáo, tông môn giáo hạ, rất nhiều tông phái, vô lượng vô biên pháp môn, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, tổng tất cả lại mà nói, đều là tu thiền định. Cho nên, thiền định là tu hành trong nhà Phật, không luận là pháp môn nào đều cùng chung một nguyên tắc, chỉ là phương pháp không giống nhau. Thí như nói, Mật tông dùng phương pháp trì chú; Tịnh tông dùng phương pháp niệm A Mi Đà Phật để tu thiền định, là phương pháp trì danh, cũng dùng phương pháp quán tưởng, dùng phương pháp quán tượng; trong Giáo hạ có phương pháp đọc tụng kinh điển, có phương pháp trì giới. Phương pháp rất nhiều, không một phương pháp nào không phải là tu thiền định, nếu như không phải tu thiền định thì đó không phải là phật pháp. Đây là sự thật chúng ta phải hiểu cho rõ ràng minh bạch. Nếu như chân thật đắc định rồi, cái gì gọi là “định”? Chính là nói, tâm trong tất cả cảnh giới: thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên; thiện duyên, ác duyên là danh từ trong nhà Phật; chính là nói hoàn cảnh đối người, đối sự. Thiện duyên chính là cùng với rất nhiều người thiện ở chung một chỗ; ác duyên là cùng với rất nhiều người tạo ác ở chung một chỗ. Gọi là hòan cảnh nhân sự. Vô luận là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chỉ cần bản thân không động tâm, không động niệm, đó đều gọi là thiền định.

Cho nên, “Ngô tâm bất động, quá an tùng sanh”, lỗi lẫm từ chỗ nào mà đến? khởi tâm động niệm chính là lỗi lầm, chỉ cần chúng ta trong tất cả các cảnh giới, đối người, đối sự, đối vật để luyện tâm, luyện tâm bất động, luyện được không khởi tâm động niệm.

Trong tất cả mọi phương pháp, thực tại mà nói, phương pháp niệm phật là cách tốt nhất, tiện lợi nhất, dễ dàng nhất. Tại sao? Ý niệm vừa động, lập tức “A Mi Đà Phật”, dùng câu Phật hiệu A Mi Đà Phật để đem vọng niệm đè phục xuống, dụng ý của niệm Phật là ở tại chỗ này. Nếu như một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, vậy thì bạn hoàn toàn sai rồi. Niệm Phật đúng cách là dùng câu Phật hiệu để chế phục vọng niệm. Cũng chính là nói, dùng một niệm này thay cho tất cả vọng niệm. Ý niệm không thể không khởi, nếu như bạn không khởi vọng niệm, vậy thì bạn là Thánh nhân, bạn không phải phàm nhân. Người phàm phu đối mặt với hoàn cảnh bên ngoài, nào có đạo lí không khởi vọng niệm chứ? Cho nên cổ đại đức thường nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ nhanh; giác ngộ nhanh chính là liền đem vọng niệm chặn đứng lại. Phương pháp của Tịnh độ tông, chính là dùng một câu Phật hiệu để đem nó chuyển đổi lại, niệm vừa mới khởi lên, bất kể niệm đó là thiện hay ác, ngay lập tức giữ lấy câu Phật hiệu để thay thế chúng, để trong tâm chúng ta chỉ có một niệm, không cho niệm thứ hai khởi lên, đây gọi là niệm Phật; đây gọi là công phu. Làm được lâu dài như vậy, ý niệm tự nhiên không khởi lên nữa, công phu của bạn được đắc lực; nếu như vẫn cứ khởi niệm, công phu của bạn không đắc lực. Giống như ngày ngày đọc sách, rất dụng công đọc sách, nhưng đi thi đều không đậu, bạn không có được tành tích. Cho nên người học Phật, người tu hành; tu hành chính là tu chính lại những tư tưởng sai lầm của chúng ta; tu chính lại những hành vi sai lầm của chúng ta. Chúng ta hôm nay có được phương pháp trì danh niệm phật, dùng phương pháp này trong tất cả thời, tất cả xứ bảo trì thanh tịnh tâm của chúng ta; câu này ý nói, giữ cho chúng ta không tạo ác nghiệp. Phía sau cử cho chúng ta ví dụ:

[Học giả]. Học giả là chỉ người học Phật, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật tuy rằng bây giờ không còn trụ thế nữa, nhưng kinh điển của Phật còn tại thế gian, chúng ta y cứ vào phương pháp, lí luận trên kinh điển mà tu học, đây đều là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật.

[Ư háo sắc, háo danh, háo hóa]

“Hóa” chính là hưởng thụ vật chất

[Hảo nộ, chủng chủng chư quá, bất tất trục loại tầm cầu] (như thích nổi nóng, mỗi mỗi việc sai, bất tất phải sửa từng điều một).

Những sự việc này, phàm phu chúng ta khó mà cưỡng lại được. Trước những cảnh này, tâm tham của chúng ta khởi lên: tham sắc, tham danh, tham hưởng thụ; tâm sân khuể của chúng ta phát ra nộ khí, tham sân si hiện tiền, đây chính là lỗi lầm, đây gọi là tạo nghiệp.

Lúc này thì phải làm sao? chỉ cần có ý niệm này liền lập tức chuyển thành A Mi Đà Phật; đem ý niệm háo sắc diệt trừ, đem ý niệm ham danh buông bỏ, đem ý niệm tham đồ hưởng thụ đoạn sạch, đem ý niệm sân giận cũng dập tắt; công đức của niệm Phật là ở tại chỗ này. Dùng phương pháp khác cũng có thể, nhưng phương pháp niệm Phật là tiện lợi nhất, đơn giản nhất, cũng có hiệu quả nhất. Pháp môn tông phái trong nhà Phật có rất nhiều, tôi cũng đã từng chọn lựa qua, nhưng cuối cùng, tôi vẫn là chọn pháp môn này. Pháp môn này giản đơn dễ dàng, cũng vô cùng có hiệu quả; chính là đem vọng tưởng, ý niệm thay thế bằng việc trì giữ một câu Phật hiệu, đem chúng chuyển đổi lại dần dần, vọng niệm cũng từ từ ít đi. Khi những cảnh giới này hiện tiền, tâm ta đã đạt đến như như bất động. Không phải nói là mắt nhìn không thấy, tai không nghe, không tiếp xúc; không phải như vậy. Mắt ta cũng vẫn nhìn thấy, tai cũng nghe thấy, tiếp xúc như vậy, nhưng tiếp xúc mà không động tâm. Tại thế gian, lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, cũng giống như xem điện ảnh, xem ti vi vậy, cảnh giới này, Phật tại trên kinh Bát Nhã nói được rất hay: “như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Đây chính là Phật từ trên lí mà nói cho chúng ta, từ trên lí mà quan sát, từ trên tâm là sửa, vô cùng có hiệu quả. “Chủng chủng chư ác, bất tất trục loại tầm cầu.” Bất tất phải từng việc từng việc mà nghĩ, từng điều từng điều mà sửa, đây thì quá phiền phức, quá mất công rồi!

[Đản đương nhất tâm vi thiện, chính niệm hiện tiền, tà niệm tự nhiên ô nhiễm bất thượng]. (chỉ cần một lòng hướng thiện, chánh niệm hiện tiền, thì tà niệm liền không thể khởi tác dụng được)

Câu nói này nói được rất hay! Chỉ cần bản thân chúng ta trì giữ, chấp trì được “nhất tâm vi thiện”- một lòng làm thiện. Cái gì gọi là “vi thiện”? Niệm niệm đều vì lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho xã hội, lợi ích cho quốc gia, một lòng làm thiện. Tuyệt đối không nghĩ đến lợi ích của bản thân, chư vị phải nên biết, nếu như xen tạp một ý niệm lợi ích bản thân, thì việc thiện của bạn không thuần, trong thiện có xen tạp, xen tạp điều bất thiện, đạo lí này phải hiểu. Tâm mình là thuần thiện, hành vi của bản thân cũng đương nhiên là thuần thiện, phải làm được đến thuần thiện, quyết định không có tơ hào ý niệm tự tư tự lợi, chúng ta mới có khả năng thành tựu. “Chánh niệm hiền tiền”, chánh niệm là đối với tà niệm mà nói; tà niệm là tư tưởng sai quấy, là kiến giải không đúng, là hành vi sai trái. Lỗi lầm này đối với xã hội có tổn hại, đối với bản thân vô cùng bất lợi. Bạn làm hại xã hội, tổn hại người khác, tương lai bạn nhận lấy quả báo ở tam đồ, trước mắt tuy là có được một vài lợi ích nhỏ, về sau phải thọ nhận quả báo. Nếu như làm một sự so sánh, bạn liền hiểu được: “được không bằng mất”! Cái bạn được quá ít ỏi, còn cái giá bạn phải trả quá lớn quá lớn, thật không đáng! Cho nên phải luôn luôn bảo trì chánh niệm, ý niệm thuần chính chính là phía trước đã nói: “ngô tâm bất động”, cảnh giới bên ngoài liễu liễu phân minh, đây chính là chánh niệm.

Tu chánh niệm, tôi cử ra một ví dụ để nói: Hiện tại trong mỗi gia đình đều có ti vi, từ trẻ nhỏ đến người lớn, đại khái trong gia đình, thời gian xem ti vi là nhiều nhất. Xem ti vi có phải là tu hành hay không? Có thể. Tôi trước đây đã dạy không ít người, đem bốn câu trên “kinh Kim Cang” viết ra, dán ở bên cạnh màn hình ti vi, bốn câu đó là: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Chúng ta hãy dùng bài thơ này để xem ti vi, đó thì là tu hành. Màn hình ti vi, bạn thấy rõ ràng; âm thanh của ti vi bạn cũng nghe được rất rõ ràng, bạn từ chỗ này học được cái gì? Học được như như bất động. Mà không phải bị chúng chuyển. Màn ảnh ti vi diễn ra cảnh hoan hỷ, vui vẻ; nó cười, bạn liền cười theo nó; nó khóc thì bạn liền khóc theo nó, vậy thì bạn xong rồi. Bản thân bạn không định lại được, bạn bị chúng chuyển. Người tu hành phải như thế nào? Ta không bị nó chuyển, mà ta chuyển nó, vậy thì bạn thành công rồi. Trên kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tức đồng Như Lai”. Cảnh giới hiện tiền, bạn không bị chúng chuyển, bạn lại có khả năng chuyển chúng. Chuyển được chúng, bạn liền có thể giáo đạo chúng, bạn liền có thể cải biến chúng, giúp chúng đổi tà thành chánh. Nếu bản thân bạn không có năng lực này, không có định lực này, không có trí huệ này, bạn không thể giữ cho bản thân không động, bạn làm sao có thể chuyển người khác chứ? Bạn hiểu được xem ti vi là tu hành, chính là tu giới định huệ. Sau đó bạn mới hiểu được, chúng ta mỗi ngày từ trong mỗi việc nhỏ nhặt nhất của đời sống, không một nơi nào không phải là nơi Bồ tát học tập, không một pháp nào không trở thành Vô thượng đạo; vấn đề là bạn có thể làm được hay không mà thôi.

Đại đức Thiền Tông, chúng ta từ trong kí lục trước đây thường thường xem thấy, họ trắc nghiệm học trò, thường hay hỏi đệ tử rằng: Anh “có hiểu không!” Ý nghĩa của hai từ này thâm rộng vô tận, nếu như bạn có thể chân thật thể hội được, thì mỗi một việc nhỏ nhặt đều là Phật pháp: “đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên” đây mới là chân chính thành tựu; đây cũng chính là trên kinh Hoa Nghiêm nói: “lí sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Thuật ngữ trong tông môn và giáo hạ tuy không đồng nhau, nhưng ý nghĩa hòan tòan giống nhau. Các bạn hãy suy nghĩ xem: Tông môn nói: “đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên”, còn trong giáo hạ nói: “lí sự vô ngại, sự sự vô ngại”, không phải là cùng một ý nghĩa đó hay sao? Pháp môn tuy không đồng, phương pháp không giống nhau, nhưng đều quy về một chỗ. Chỗ này chúng ta đã minh bạch rồi, thì chúng ta đối với tất cả các tông phái, tất cả pháp môn, đều dùng tâm cung kính mà đối đãi, không có cao thấp. Tuyệt đối không thể nói, pháp môn niệm Phật của tôi rất cao minh, phương pháp đó của anh không bằng tôi, đây là sai rồi! Tâm của bạn không thanh tịnh, tâm của bạn không bình đẳng, bạn đã mê mất rồi, bạn không giác ngộ. Người chân chính giác ngộ đó là người có tâm bình đẳng, “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”, đây là đúng rồi, đây quyết định là chính xác. Cho nên “nhất tâm vi thiện, chánh niệm hiện tiền”, điều này quan trọng!

Giả như, xã hội hiện tại của chúng ta, quốc gia ngày nay, mỗi một người đều có thể làm đến “nhất tâm vi thiện, chánh niệm hiện tiền”, thì trong xã hội này làm sao có thể có tà đạo chứ? Làm sao có thể có tà tri tà kiến? Tự nhiên chúng bị tiêu trừ không còn dấu vết.

Cổ đức thường nó: “phá tà hiển chánh”, chúng ta ngày nay đem câu nói này phản tỉnh trở lại, hiển chánh, tà sẽ không thể tồn tại. Trong xã hội tại sao lại có nhiều tà tri tà kiến như vậy? Bởi vì không có sự giáo dục chánh tri chánh kiến, cho nên một khi tà tri tà kiến xuất hiện, mọi người hiếu kì, liền hướng đến chúng mà học tập, thật là mù quáng! Ngạn ngữ có câu: “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng không tốt”. Nếu như chánh pháp có thể đề xướng, nhân dân có thể biện biệt, có thể so sánh được, đem cả hai bày ra trước mắt để so sánh, họ có thể nhận thức được, họ tự nhiên có thể biết cách chọn lựa. Ngày nay, tà giáo có mặt trên toàn thế giới, lan tràn khắp xã hội. Nguyên nhân vì sao? Vì trong thời đại này không có người đề xướng chánh pháp. Nho gia, “đả đảo Khổng gia điếm- ý nói lật đổ học thuyết của Khổng tử”, Nho gia là chánh pháp, là dạy người: “hiếu, đễ, trung, tín”; “lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, dạy người “ngũ luân bát đức”, chánh pháp, đã không cần đến nữa. Phật pháp là chánh pháp, Phật pháp dạy người: “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Hiện tại mọi người cho rằng phật pháp là mê tín, phá trừ mê tín, đả đảo mê tín, từ đây sản sinh ra rất nhiều hiểu lầm. Phật không mê tín, khẩu hiệu trong nhà Phật là “phá mê khai ngộ”, đem phá mê khai ngộ để triệt phá đi mê tín, vậy thế nào gọi là không mê tín? Đó nhất định là tà pháp thì không mê tín, tà giáo thì không mê tín, đương nhiên trong xã hội sẽ kéo nhau đi học tà pháp. Ở đây, chúng ta phải suy nghĩ kĩ càng. Làm sao để có thể “hiển chánh phá tà”, hiện nay trên tòan thế giới, rất nhiều quốc gia khu vực đều áp dụng được rất tốt. Lại xem phía sau, kinh văn phía sau từ trên tỉ dụ mà nói:

[Như thái dương đương không, võng lượng tiềm tiêu]. (Như mặt trời mọc lên thì quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn.)

Hai câu này là tỉ dụ, đem ‘Thái dương” để so sánh với chánh pháp; đem “võng lượng” để so với tà pháp, võng lượng là yêu quái. Dưới ánh nắng mặt trời chuyển hóa sang ban ngày, yêu quái không thể tồn tại được, đạo lí này cũng giống như vậy. Phía sau Liễu Phàm tiên sinh đưa ra môt kết luận:

[Thử tinh nhất chi chân truyền dã].

“Tinh” là tinh thuần; “nhất” là duy nhất, độc nhất. Những điều mà thánh hiền truyền lại từ xưa đến nay, đây gọi là chân truyền.

[Quá do tâm tạo, diệc do tâm cải]. (Tội do tâm tạo thì phải từ trên tâm mà sửa.)

Đây là từ trên căn bản mà sửa đổi, như vậy việc sửa đổi mới có thể đạt đến cứu cánh, mới có thể sửa đổi triệt để.

[Như trảm độc thụ, chân đoạn kỳ căn, hề tất chi chi nhi phạt, diệp diệp nhi trích tai?] (Như muốn trừ một cây độc, chỉ cần đốn ngay gốc, đâu cần bẻ từng lá và chặt từng nhánh?)

Ở đây lại dùng một tỉ dụ để nói. Thí như chúng ta chặt cây, cây này có bệnh độc, không phải là cây tốt, chúng ta phải đem chúng đốn trừ tận gốc. Từ trên gốc rễ của nó mà đoạn trừ, không cần phải chặt cành nhánh, lá cây; chọn cành hái lá rất phiền phức! Chặt từ gốc rễ thì tốt rồi, cành là tự nhiên bị khô héo. Đây là nói sửa lỗi, phía trước giảng từ trên lí mà sửa, cũng giống như chặt cây, phải từ thân cây mà hạ thủ. Từ trên sự mà sửa, cũng giống như từ trên lá cây mà hạ thủ, điều này thì rất phiền phức, rất không dễ dàng. Từ trên tâm mà sửa, cũng chính là từ trên gốc rễ mà hạ thủ, điều này dễ dàng và chân chánh làm được đến cứu cánh. Lại xem tiếp đoạn văn tiếp theo, tổng kết:

[Đại để tối thượng giả trị tâm, đương hạ thanh tịnh, tài động tức giác, giác chi tức vô].

Chúng ta học Phật dụng công, cũng phải nắm được cương lĩnh này, nắm được cương lĩnh phải từ trên căn bản mà khởi tu thì không khó. Chúng ta ngày nay nói đến Phật pháp, kinh điển nhà Phật nhiều như vậy, cổ nhân hình dung rằng “hạo như yên hải-nhiều như nước biển.” Kinh sách được lưu truyền từ Ấn Độ đến Trung Quốc, sớm nhất trên lịch sử Trung Quốc có ghi chép lại, vào thập niên Hán Minh Đế Vĩnh Bình, năm 67 sau CN, đến ngày nay là năm 2001, đây là trên lịch sử có ghi chép lại. Nhưng trên thực tế, Phật pháp do tư nhân lưu truyền đến Trung Quốc, thời gian này vẫn còn rất sớm, có thể là sớm hơn đến hai, ba trăm năm. Chính thức do quốc gia phái sứ giả đi cầu thỉnh về, đi nghênh đón về chính là vào thập niên Hán Minh Đế Vĩnh Bình, tại Trung Quốc đã có trên hai ngàn năm lịch sử. Kinh điển không ngừng lưu truyền đến Trung Quốc, đại khái trễ nhất là vào thời Nam Tống. Trung Quốc thời Nam Tống đã hoàn thành phiên dịch, in ấn “Đại Tạng Kinh”, tổng cộng có hơn bảy ngàn quyển, hiện tại còn thêm vào các trước tác của tổ sư đại đức Trung Quốc trước đây, đều được gom lại đưa vào trong một bộ tùng thư này, hiện tại “Đại tạng kinh” tiếng Trung tổng cộng có đến trên ba vạn quyển. Nếu như chúng ta muốn học Phật, điển tịch nhiều như vậy, đều muốn xem qua, đều muốn nghiên cứu, đều muốn học tập hết, đây chính là tìm cành ngắt lá vậy, phiền phức biết bao! Vậy phải đến năm nào, chúng ta mới có thể nhập môn? Cho nên, người biết học phải từ trên căn bản mà học, đây mới là điều quan trọng, mấu chốt.

Tôi học Phật 50 năm, tôi giảng kinh cũng được 42 năm rồi. Tôi tổng kết tinh túy của Phật pháp trong một đời qua 20 chữ, chúng tôi thường giữ tâm này, chính là nói ngay trong đời sống hằng ngày đối người, đối sự, đối vật, chúng tôi dùng cái tâm gì? Phật tại trên kinh thường dạy cho chúng ta, dùng tâm chân thành, chân quyết định không có giả, thành thì không hư ngụy; dùng thanh tịnh tâm, thanh tịnh quyết định không có ô nhiễm; dùng bình đẳng tâm, bình đẳng thì không có cao thấp; dùng tâm chánh giác, quyết định không có mê hoặc; dùng từ bi tâm, ái hộ tất cả chúng sanh, trong từ bi tâm không có tự tư tự lợi. Chúng ta phải dùng năm loại tâm này, năm thứ tâm này chính là trên đại thừa Phật pháp thường nói “đại bồ đề tâm”. Nếu như dùng đại bồ đề tâm mà nói, rất nhiều người không dễ hiểu, chiếu theo chú giải trong kinh điển mà nói cũng rất khó hiểu, cách nói của tôi như thế này, mọi người sẽ rất dễ lí giải: chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Phật tâm! Phật là dùng cái tâm này để đối người, đối sự, đối vật. Hành vi của Phật là gì? Hành vi, tôi dùng 10 chữ để nói: khán phá, phóng hạ, tự tại, tùy duyên, niệm Phật. Niệm Phật này, Phật có nghĩa là giác, chính là niệm niệm đều là giác mà không mê, niệm niệm chánh mà không tà, niệm niệm là tịnh mà không nhiễm, đó gọi là niệm Phật; niệm tự tánh Phật. Nắm cái cương lĩnh này, tu hành liền dễ dàng. Quả nhiên có thể khế nhập được cảnh giới, thì tất cả kinh điển nhà Phật đều bày ra trước mắt bạn, bạn không còn cảm thấy khó khăn nữa, bạn đều có thể thông đạt, học tập. Cho nên, thế xuất thế gian pháp, đều phải biết căn bản, đều phải nắm được tinh yếu của nó, cương lĩnh của nó.

Như vậy chúng ta liền hiểu được, đại khái tóm lại quan trọng nhất là phải từ trên căn bản mà tu, “trị tâm”, hiệu quả là đạt được thanh tịnh. Nào có việc phiền phức nhiều như thế chứ? “Tài động tức giác, giác chi tức vô”, đây là nói tâm vừa mới động, lập tức liền quan sát đến được; một khi giác rồi thì ý niệm này liền ngừng lại. Đây là cổ đại đức chỗ nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ cho thật nhanh, không để cho ác niệm tương tục; ác niệm vừa mới khởi lên, niệm thứ hai liền đề khởi lại chánh niệm, đây là phương pháp tốt nhất.

[Cẩu vị năng nhiên]. Nếu như bạn làm không được, điều tối thượng đó không làm đến được, vậy thì bất đắc dĩ bạn phải dùng đến cách trung gian, bất đắc dĩ phải nhờ đến điều thứ kế; điều thứ kế đó là gì? Minh lí.

[Tu minh lí dĩ khiển chi]

Đạo lí phải rõ ràng, đạo lí phải minh bạch, tự nhiên đem ác niệm, tà niệm li khai đi.

[Hựu vị năng nhiên]

Điều này cũng làm không đến được, làm không được, vậy thì phải làm sao?

[Tu tùy sự dĩ cấm chi].

Đây chính là chỉ có thể từ trên cành lá mà hạ thủ công phu. Đây là tầng thứ ba, thực tại mà nói chính là ba bậc căn tánh không đồng trong nhà Phật thường nói. Người thượng căn, từ trên căn bản mà hạ thủ, từ chỗ khởi tâm động niệm, đoạn tất cả ác; người căn tánh bậc trung, dùng “minh lí dĩ khiển chi-hiểu rõ lí để triêu trừ vọng niệm”; người hạ căn chỉ có “tùy sự dĩ cấm chi-dùng sự để ngăn cản”. Cho nên, Phật vì những người hạ căn này mà chế định ra rất nhiều giới điều. Những giới điều này, chư vị đồng tu nhất định phải biết, là khi Phật Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, quy phạm của đời sống xã hội Ấn Độ ba ngàn năm trước. Trên mặt thời gian, đã cách chúng ta ba ngàn năm; trên mặt hoàn cảnh địa lí, chúng ta bên này là Trung Quốc, bên kia là Ấn Độ; bạn cần phải minh bạch cái đạo lí này, sau đó bạn nghiên cứu giới luật mới chân chánh có được tâm đắc. Có cần phải căn cứ vào từng điều từng điều để làm không? Không cần thiết. Tại sao? Bởi vì rất nhiều phương thức sinh hoạt cùng với hiện tại chúng ta hoàn toàn không giống nhau. Điều này phải biết, phải hiểu được tinh thần sở tại của giới luật, phải học tập tinh thần của nó, trên mặt sự tướng phải dùng phương thức sinh hoạt hiện đại, không thể học phương thức sinh hoạt của cổ Ấn Độ ba ngàn năm trước, đó thì sai rồi! Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật xem thấy cũng phải cười trong ảo nảo, sao mà bạn có thể ngốc như thế chứ. Cho nên phật pháp tức là giới điều, mỗi điều đều là linh hoạt sống động, chứ không phải chết cứng. Tuy nhiên các giới căn bản thì siêu vượt thời-không, siêu vượt thời gian, siêu vượt không gian, tất cả thời, tất cả xứ, đều là chuẩn tắc, cái này thì không thể cải biến. Căn bản giới này là cái gì? Chính là ngũ giới. Chỉ có 5 điều: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. 5 điều này, xác thực là bất kể thời đại nào, bất kể là khu vực nào, đều hành được thông. Năm điều này siêu vượt thời không, nhất định phải tuân thủ nó. Giới điều của Phật có rất nhiều rất nhiều, nhất định phải xem xét nó có thích hợp với thời đại hiện tại của chúng ta hay không. Trong thời đại này của hiện tại chúng ta, phải nên tu sửa như thế nào; không đi ngược lại với tinh thần của chúng, nhưng trên sự tướng nhất định phải tu chính cho phù hợp.

Lần đầu tiên tại Trung Quốc, công tác tu đính quy mô lớn nhất là vào đời Đường. Phật pháp dưới thời nhà Đường, có người nói rằng: Phật pháp nhà Đường đã khởi lên một cuộc vận động cách mạng, cũng có thể cách nói này, đó chính là chế độ tùng lâm của Trung Quốc đã được hưng khởi: “Mã tổ kiến tùng lâm, Bách Trượng lập thanh quy”, hai vị đại đức này đã đề xướng cộng tu, dựa vào chúng, tu với chúng. Hai người họ là sư huynh đệ, là tổ sư đời thứ tám của thiền tông, hai người họ đều là đời thứ tám, chiếu theo cách nói thông thường, là đồ tôn của Huệ Năng đại sư. Kiến tùng lâm, chính là đem giáo học, việc tu hành của Phật pháp chế độ hóa, chế độ hóa chính thức. Tùng lâm giống như trường đại học hiện đại, được tổ chức rất nghiêm mật. Chủ tịch của tùng lâm là phương trượng, cũng giống như hiệu trưởng của trường học hiện nay; hòa thượng thủ tọa của tòng lâm, tương đương với giáo vụ trưởng của trường học; hòa thượng duy na của tùng lâm tương đương với huấn đạo trưởng; giám viện của tùng lâm tương đương với tổng vụ trưởng. Tên gọi tuy không giống nhau, nhưng cùng với lãnh đạo chấp sự của trường học hiện tại, cách phân chia công việc của họ hoàn toàn tương đồng. Cho nên giáo vụ, huấn đạo, tổng vụ trong tùng lâm, đó chính là trường học. Trường học chính quy được lập ra để dạy học, để giúp đỡ cộng đồng mọi người làm được đến công phu cải ác tu thiện, đây gọi là tu hành. Tu hành, tóm lại mà nói cũng chính là sửa lỗi tu thiện mà thôi. Hiện tại có rất nhiều người hiểu lầm, cho rằng tu hành là phải an chay trường, nhất định mỗi ngày đều phải gõ mõ tụng kinh, đây là hoàn toàn nghĩ sai rồi, đây chỉ là hình thức. Hình thức có thể biến đổi, tinh thần, nguyên lí, nguyên tắc thì không thể thay đổi.

Hiện tại có rất nhiều đồng tu đến gặp tôi, họ xây chùa miếu ở khắp các nơi. Tôi không tán thành. Tại sao? Chùa miếu là thời đại hai ngàn năm về trước, hoặc là trước thời Mãn Thanh vẫn có thể nói đến. Nhưng hiện tại là xã hội dân chủ tự do mở cửa, không thể bảo mọi người quay lại thời đại chuyên chế, cái sự việc này không có khả năng! Hiện tại đạo tràng nên kiến lập như thế nào? Phải xây dựng theo phương thức trường học. Phật giáo bổn nguyên vốn là giáo dục, vẫn phải quay lại việc dạy học, cho nên xây dựng trường học chứ không phải chùa miếu, như vậy mới tốt. Nếu như nói hoằng dương Phật pháp, hoằng dương phật pháp thì đạo tràng là tốt nhất, đạo tràng lí tưởng nhất đó là truyền hình, vệ tinh hiện đại, tòan thế giới đều có thể nghe được, bạn nói hiệu quả này lớn biết bao nhiêu! Dùng phương pháp này để hoằng pháp lợi sanh, đem giáo học của phật pháp truyền đến mỗi gia đình. Đem những lí luận và phương pháp học Phật, lợi dụng khoa học kĩ thuật, truyền đến mỗi một người muốn học Phật. Đây thì chính xác, không cần phải xây chùa miếu. Thời đại lập chùa miếu đã qua lâu rồi.

Hôm nay chúng ta giảng đến đây. A MI ĐÀ PHẬT

Website Phật Pháp Ứng Dụng chân thành cảm tạ dịch giả Diệu Âm đã gửi tặng các bài dịch từ pháp âm “Liễu Phàm Tứ Huấn” do Hoà Thượng Tịnh Không giảng tại Trung Quốc. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.