Cái sợ đích thực

 Chúng ta sợ chết, sợ chia lìa và chúng ta sợ trở thành hư vô. Người tây phương rất sợ trở thành hư vô. Khi họ nghe nói về sự trống rỗng họ cũng rất sợ. Nhưng trống rỗng chỉ là sự vắng mặt các ý niệm. Không hay trống rỗng không có nghĩa trái ngược với sự sinh tồn. Nó không có nghĩa là hư vô, không có nghĩa là không còn gì hết. Cần phải loại bỏ ý niệm hiện hữu và không hiện hữu. Trống rỗng là một dụng cụ giúp chúng ta.

Thực tại không liên quan gì tới chuyện có hay không, hiện hữu hay không hiện hữu. Khi Shakespeare nói “To be or not to be – that is the question (vấn đề là hiện hữu hay không hiện hữu), Bụt trả lời: “Hiện hữu hay không hiện hữu, đó không phải là vấn đề.” Có hiện hữu hay không hiện hữu chỉ là hai ý niệm trái ngược nhau, chúng không phải là chân lý và chúng cũng không diễn tả được chân lý.

Sự giác ngộ tỉnh thức không những loại được ý niệm về thường hằng mà nó cũng loại được cả ý niệm về vô thường. Ý niệm về trống rỗng cũng thế.  Trống rỗng cũng chỉ là một khí cụ, và nếu bạn bị kẹt vào ý niệm đó, bạn cũng đi lạc đường. Bụt nói trong kinh Người bắt rắn (Ratnakuta): “Nếu bạn bị kẹt vào ý niệm hiện hữu hay không hiện hữu (Có hay Không) thì ý niệm về trống rỗng giúp cho bạn  được tự do. Nhưng khi bạn kẹt vào ý niệm trống rỗng thì không còn hy vọng. Giáo lý về sự trống rỗng là một dụng cụ giúp cho bạn có cái hiểu thật sự về Không, nhưng nếu bạn coi dụng cụ đó là sự giác ngộ thì bạn đã bị kẹt vào ý niệm đó rồi.

Nếu bạn có một ý niệm về Niết bàn, thì nên loại bỏ nó đi. Niết bàn không chứa đựng  một ý niệm nào hết, kể cả ý niệm về Niết bàn. Nếu bạn kẹt vào ý niệm về Niết bàn là bạn chưa chạm được tới Niết bàn. Sự khám phá và hiểu biết sâu xa đó  khiến cho Bụt vượt thoát được mọi sợ hãi, lo âu, mọi đau khổ và vượt được cả vấn đề sinh tử.

Đốt cháy các ý niệm

Khi bạn có một que diêm, bạn có nhân duyên để tạo ra lửa. Nếu ngọn lửa bạn đốt lên bằng que diêm đó có đủ thời gian, nó sẽ đốt cháy luôn que diêm. Que diêm tạo ra lửa, và lửa đốt cháy diêm, giáo pháp vô thường cũng vậy. Nó giúp ta có tỉnh thức về sự vô thường, và sự giác ngộ đó lại đốt cháy ý niệm của ta về vô thường.

Chúng ta phải vượt qua ý niệm về thường, nhưng ta cũng phải vượt qua ý niệm về vô thường. Như thế chúng ta có thể chạm tới Niết bàn. Vô ngã cũng vậy. Vô ngã giống như que diêm, nó giúp gây ra lửa trí tuệ để hiểu về vô ngã và cũng chính ngọn lửa vô ngã sẽ đốt que diêm vô ngã.

Tu tập không phải là thu thập một lô các ý niệm về vô ngã, vô thường, Niết bàn hay ý niệm nào khác. Đó là công việc của một cái máy thu băng. Thuyết giảng và chia sẻ về các ý niệm đó không phải là cách học và hành trì Phật pháp. Ta có thể tới đại học để học Phật pháp, nhưng chúng ta sẽ chỉ học được lý thuyết và các khái niệm. Chúng ta muốn vượt lên trên các ý niệm để có được tánh giác, và nhờ đó sẽ đốt cháy được  hết các ý niệm trong ta, để cho ta được tự do.

Niết bàn ở đâu?

Hãy nhìn một đồng xu. Một bên là mặt phải, một bên mặt trái. Hai mặt không thể hiện hữu nếu thiếu mất một bên. Kim loại làm ra đồng xu gồm có hai mặt, không có kim loại thì không có đồng tiền. Ba yếu tố kim loại, mặt phải và mặt trái liên quan với nhau. Ta có thể mô tả kim loại giống như Niết bàn, mặt phải và mặt trái có thể coi như biểu hiện của vô ngã và vô thường. Qua mặt phải hay mặt trái, bạn có thể chạm được và cảm được sự hiện hữu của kim loại. Tương tự như vậy, nếu nhìn sâu vào bản chất của vô thường và vô ngã, bạn có thể tiếp xúc được với bản chất của Niết bàn.

Niết bàn trong bình diện tuyệt đối (bản môn) không thể tách rời ra khỏi Niết bàn trong bình diện tương đối (tích môn). Khi bạn thật sự chạm được tới Niết bàn tương đối thì bạn cũng tiếp xúc được với Niết bàn tuyệt đối. Bản thể luôn luôn có sẵn trong bạn. Đối với người có tu học, điều quan trọng là bạn phải tiếp xúc được với tự tánh vô thường vô ngã của bạn. Nếu thành công bạn có thể tiếp xúc được với Niết bàn và không còn sợ hãi nữa. Bây giờ bạn có thể cưỡi trên sóng sinh tử và mỉm cười thanh thoát.

Tích môn và bản môn

Ngày thường ta nhìn vào thực tại qua bình diện tương đối hay tích môn, nhưng ta cũng có thể nhìn các thực tại đó qua bình diện tuyệt đối hay bản môn. Thực  tại có thể biểu hiện ra ở cả hai bình diện tương đối và tuyệt đối. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta đều có những điều cần làm trong bình diện tương đối, nhưng mỗi chúng ta cũng có những quan tâm trong bình diện tuyệt đối.

Khi chúng ta tìm Thượng đế hay Niết bàn ở tình trạng an bình sâu xa nhất, là chúng ta đi tìm tuyệt đối. Chúng ta không chỉ quan tâm tới những chuyện bình thường trong đời sống như danh vọng, lợi nhuận, địa vị xã hội, các dự án mà chúng ta cũng quan tâm tới bản chất chân thật trong ta. Thiền quán sâu xa là bắt đầu thực hiện sự quan tâm tới bình diện tuyệt đối của mình.

Sóng là nước

Khi bạn nhìn trên mặt biển, bạn thấy các đợt sóng lên xuống nhấp nhô. Bạn có thể mô tả sóng này cao, sóng kia thấp, sóng lớn hay nhỏ, sóng mạnh hay yếu và sóng đẹp hay không đẹp. Bạn có thể mô tả sóng lúc bắt đầu, lúc chấm dứt, sóng được sinh ra và sóng bị hoại diệt. Giống như trong tích môn hay trong bình diện tương đối, chúng ta quan tâm tới sinh-diệt, mạnh-yếu, đẹp-xấu, bắt đầu và chấm dứt… của mọi sự vật.

Nhìn sâu, chúng ta thấy sóng đồng thời cũng là nước. Một lọn sóng hình như muốn đi tìm bản thể của nó. Nó có thể đau khổ vì rối ren. Ngọn sóng có thể nói: “tôi không lớn bằng các ngọn sóng kia,” “tôi bị đàn áp,” “tôi không đẹp bằng các sóng khác,” ”tôi sinh ra đời và tôi sẽ chết đi.” Ngọn sóng có thể đau khổ vì các ý nghĩ đó. Nhưng nếu sóng uốn mình xuống để tiếp xúc với bản chất của nó thì nó sẽ thấy nó cũng là nước. Sự sợ hãi và rối ren của sóng sẽ biến mất.

Nước không bị ràng buộc bởi sự sinh diệt của sóng. Nước được tự do không sợ cao hay thấp, đẹp hay xấu. Khi nói về các tiếng cao-thấp, đẹp-xấu, đó chỉ là những từ ngữ nói về sóng. Đối với nước, những từ ngữ đó vô giá trị.

Bản chất thật sự của chúng ta có tính cách vô sinh bất diệt. Chúng ta không cần phải đi đâu mới tiếp xúc được bản chất chân thực của mình. Sóng không cần đi tìm nước vì chính nó là nước. Chúng ta không cần đi tìm Thượng đế hay Niết bàn, hay bản chất tuyệt đối, vì chúng ta là Niết bàn, là Thượng đế.

Bạn chính là điều bạn đi tìm. Bạn chính là thứ bạn đang muốn trở thành. Bạn có thể nói với sóng: “Sóng ơi, con chính là nước rồi, con không cần đi đâu để tìm nước nữa. Bản chất của con chính là bản chất không phân biệt, không sống chết, không có cũng không không.”

Hãy thực tập như sóng. Hãy kiên trì nhìn sâu vào chính mình và nhận biết rằng bản thể của bạn là vô sinh bất diệt. Bạn sẽ đạt tới tự do và vô úy bằng cách này. Phương pháp thực tập này giúp chúng ta sống không sợ hãi và chết một cách bình an, không hối tiếc.

Nếu bạn đang mang trong mình một nỗi đau lớn, nếu bạn mới mất người thân thương, nếu bạn đang sống trong sự lo sợ cái chết, trong lãng quên và hủy diệt, xin hãy học phương pháp này và bắt đầu thực tập. Nếu bạn thực tập giỏi, bạn sẽ có thể nhìn đám mây, bông hồng, hòn sỏi và em bé bằng con mắt mà Bụt đã mở ra cho bạn. Bạn sẽ hết sợ hãi, lo âu và phiền não. Bạn sẽ có sự an bình thật sự, sẽ trở nên mạnh mẽ và vững vàng, có thể mỉm cười với mọi chuyện xảy tới. Sống như thế, bạn có thể giúp được nhiều người chung quanh bạn.

Bạn ở đâu trước khi ra đời?

Nhiều người được hỏi: “Bạn sinh ngày nào?” Nhưng bạn có thể trả lời bằng một câu hỏi hay hơn: “Trước ngày gọi là sinh nhật của tôi thì tôi ở đâu?”

Nếu bạn hỏi một đám mây: “Mây sinh ngày nào, trước khi sinh ra, mây ở đâu?” Nếu bạn hỏi nó: “Mây lên mấy tuổi rồi? Mây sinh ngày nào vậy?” rồi bạn lắng nghe, bạn có thể nghe được câu trả lời.

Bạn có thể tưởng tượng mây sinh ra đời cách nào. Trước khi sinh ra, nó là nước trên mặt đại dương, hay trên mặt sông, rồi nước bốc thành hơi. Mây cũng là mặt trời vì chính mặt trời làm cho nước bốc thành hơi. Gió cũng có trong mây, vì gió làm cho hơi nước tụ lại thành đám mây. Mây không tới từ hư không, mây chỉ là sự chuyển hóa hình thức. Không có chuyện một vật sinh ra từ hư không.

Sớm hay muộn, mây cũng sẽ biến thành mưa hay tuyết, hay nước đá. Nếu bạn nhìn sâu vào mưa, bạn sẽ nhìn thấy mây. Mây không mất đi, nó biến hóa thành ra mưa và mưa biến thành ra cỏ, cỏ vào trong con bò để rồi biến ra sữa và cà-rem bạn ăn đó. Hôm nay khi ăn một ly cà-rem, bạn hãy để thì giờ nhìn nó và nói: “Chào đám mây, ta nhận ra ngươi rồi.” Làm như vậy, bạn đã giác ngộ được bản chất thật của cà-rem và của mây. Bạn cũng có thể nhìn thấy biển, sông, thấy hơi nóng mặt trời, thấy cỏ và con bò trong ly cà-rem.

Nhìn cho sâu, bạn sẽ không thấy được ngày sinh thực và ngày chết thực của đám mây. Chỉ có chuyện đám mây chuyển hóa thành ra mưa hay tuyết. Không có gì thực sự chết đi vì luôn luôn có sự nối tiếp. Mây là tiếp nối của biển, của sông, của sức nóng mặt trời và mưa là tiếp nối của mây.

Trước khi sinh ra, đám mây đã có đó rồi. Hôm nay, khi bạn uống một ly sữa hay một tách trà, ăn một cái cà-rem, xin hãy theo dõi hơi thở. Hãy nhìn vào ly sữa hay ly trà và gửi lời chào đám mây.

Bụt dùng nhiều thời gian để nhìn thật sâu, chúng ta cũng vậy. Bụt không phải là Thượng đế, Ngài là một con người giống như chúng ta. Ngài đau khổ nên Ngài tu tập, vì vậy Ngài vượt thoát được khổ đau. Ngài có trí tuệ lớn, có hiểu biết, trí tuệ và từ bi. Vì thế nên chúng ta nói Ngài là bậc thầy, là huynh trưởng của ta.

Nếu chúng ta sợ chết là bởi vì chúng ta không hiểu rằng không có gì thực sự mất đi. Người ta nói Bụt đã chết, nhưng không phải thế. Bụt còn đang sống. Khi nhìn chung quanh, ta sẽ thấy Bụt dưới nhiều hình thái. Bụt đang ở trong bạn vì bạn có thể nhìn sâu và thấy được mọi sự đều không thực sự được sinh ra hay mất đi. Chúng tôi có thể nói bạn là một hình thức mới của Bụt, một tiếp nối của Bụt. Đừng coi thường chính mình. Hãy nhìn ra chung quanh, bạn sẽ thấy Bụt được tiếp nối ở khắp nơi.

Tôi có phải là tôi ngày trước?

Tôi có một tấm hình chụp hồi tôi mười sáu tuổi. Đó có phải là hình tôi chăng? Tôi không tin lắm. Ai là chú bé trong hình? Đó chính là tôi hay là một ai khác? Hãy nhìn cho kỹ trước khi trả lời.

Nhiều người nói rằng đứa bé trong hình và tôi là một. Nếu chú ta là tôi thì sao trông chú khác quá vậy? Chú bé đó còn sống hay đã chết? Chú ta không giống tôi mà cũng không khác tôi. Một số nhìn tấm hình, cho rằng chú bé trong đó không còn đây nữa.

Con người ta gồm có cơ thể (sắc), các cảm xúc (thọ), các nhận thức (tưởng), các loại tâm (hành) và các hiểu biết (thức). Mọi thứ đó đều đã thay đổi trong tôi kể từ khi chụp tấm hình đó. Cơ thể chú bé trong hình không còn là cơ thể của tôi ngày nay, một ông già bảy mươi tuổi. Các cảm thọ khác nhau, nhận thức cũng rất khác. Hầu như tôi hoàn toàn khác với con người chú bé đó, nhưng nếu chú ta không hiện hữu thì tôi cũng không có mặt đây được.

Tôi là sự tiếp nối, cũng như mưa là tiếp nối của đám mây. Khi nhìn vào tấm hình, bạn có thể đã thấy tôi khi già lão. Bạn không cần phải đợi năm mươi lăm năm. Khi cây chanh nở hoa, bạn có thể không nhìn thấy trái chanh nào, nhưng nếu nhìn cho sâu, bạn sẽ thấy trái chanh đã có đó rồi. Bạn chỉ cần một nhân duyên để làm cho chanh hiển hiện, đó là thời gian. Trái chanh có sẵn trong cây chanh. Nhìn cây chanh bạn chỉ thấy cành, lá và hoa chanh. Nhưng với thời gian, cây chanh sẽ biểu hiện ra thành trái chanh.

Hoa hướng dương tháng tư

Nếu bạn tới nước Pháp vào tháng tư, bạn sẽ không thấy bông hoa hướng dương nào cả. Nhưng quanh Làng Mai, vào tháng bảy, hoa hướng dương nở rộ khắp nơi. Những bông hoa đó ở đâu trong tháng tư? Nếu bạn tới Làng Mai và nhìn cho sâu, bạn sẽ thấy chúng. Nông phu đã cầy đất và gieo hạt, hoa hướng dương chỉ chờ một điều kiện nữa để hiển lộ mà thôi. Chúng chờ thời tiết ấm áp của tháng năm và tháng sáu. Hoa hướng dương đã có đó nhưng chúng chưa biểu hiện đầy đủ.

Nhìn sâu vào một hộp diêm quẹt. Bạn có thấy lửa trong đó không? Nếu thấy, tức là bạn đã có hiểu biết. Khi nhìn sâu vào một hộp diêm, chúng ta thấy có lửa trong đó. Nó chỉ cần người nào cử động vài ngón tay là lửa hiện ra. Chúng ta nói: “Lửa ơi, ta biết mi đang ở đó. Bây giờ ta sẽ giúp lửa biểu hiện ra.”

Lửa luôn có trong diêm và trong không khí. Nếu không có dưỡng khí, ngọn lửa cũng không hiện ra được. Nếu bạn thắp một ngọn nến rồi phủ kín nó bằng một vật gì đó, ngọn lửa sẽ tắt vì thiếu Oxygen. Ngọn lửa chỉ sống được nhờ có dưỡng khí. Ngọn lửa có mặt khắp nơi, trong không gian, trong thời gian và trong tâm thức chúng ta. Ngọn lửa có khắp nơi, chờ biểu hiện ra, và chúng ta là một trong các điều kiện để nó xuất hiện. Khi ta thổi vào ngọn lửa, hơi thở đó là một nhân duyên làm cho nó ngừng biểu hiện dưới hình thức ngọn lửa.

Chúng ta có thể dùng diêm thắp hai ngọn nến rồi thổi ngọn lửa trên que diêm. Bạn có nghĩ lửa trên que diêm đó đã chết không? Lửa không có  tính chất sinh-diệt. Câu hỏi là: “Ngọn lửa trên hai cây nến kia là một hay là hai thứ lửa?”

– Nó không là một mà cũng không khác nhau.

Câu hỏi khác là: “Ngọn lửa của diêm chết hay không chết?”

– Nó chết và cũng không chết. Bản chất của nó là không chết đi và cũng không sinh ra. Nếu chúng ta để cho cây nến cháy trong một giờ đồng hồ, thì ngọn lửa đó vẫn thế hay đã biến thành lửa khác? Tim nến (bấc), chất sáp và dưỡng khí đều đã thay đổi. Do đó, ngọn lửa cũng đã thay đổi. Vậy thì ngọn lửa không giống và cũng không khác ngọn lửa trước kia.

“Có” không trái ngược với “Không”

Chúng ta thường quan niệm Có là sự trái ngược của Không. Ý niệm đó không còn vững chắc, cũng như ý niệm về phải-trái. Hãy nhìn một cây bút. Chúng ta có thể cắt hết phần bên phải của nó không? Nếu chúng ta dùng dao, cắt đi một nửa cây bút, thì chỗ còn lại vẫn có phần bên phải. Các đảng chính trị thiên tả và hữu khuynh bao giờ cũng hiện diện, vì cứ có tả thì phải có hữu.

Vậy nên những người có khuynh hướng chính trị thiên tả (trái), thì nên mong mỏi có sự hiện diện của phái thiên hữu (phải). Nếu ta diệt phái hữu thì phái tả cũng không còn. Bụt dạy: “Cái này có vì cái kia có. Thứ này biểu hiện vì thứ kia biểu hiện.” Đó là bài giảng của Bụt về sự hình thành thế giới. Đó là giáo pháp tương duyên sinh. Ngọn lửa có đó vì diêm có đó. Nếu không có diêm thì cũng không có lửa.

Giải đáp nằm bên trong

Lửa từ đâu tới? Nguồn gốc nó là gì? Chúng ta nên nhìn sâu vào câu hỏi này. Chúng ta có cần ngồi thế hoa sen để trả lời câu hỏi này chăng? Tôi chắc chắn rằng bạn đã có sẵn câu trả lời trong bạn. Chỉ cần chờ thêm một điều kiện nữa là nó hiện ra thôi. Bụt dạy ai cũng có Phật tính. Phật tính là khả năng giúp chúng ta hiểu và tiếp xúc được với bản chất của mình. Câu trả lời đã có sẵn trong bạn. Thầy cũng không thể giúp bạn trả lời. Thầy chỉ giúp bạn tiếp xúc được với Chánh niệm, khả năng tỉnh thức lớn (trí tuệ) và từ bi trong bạn. Bụt mời bạn đi vào trí tuệ mà bạn đã có sẵn.

Nhiều người trong chúng ta hỏi: “Chúng ta đi về đâu sau khi chết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi đó?” Chúng tôi có những thân hữu mất người thân, đã hỏi rằng: “Bây giờ họ ở đâu? Họ đi tới đâu rồi?” Các triết gia hỏi: “Con người từ đâu tới, vũ trụ và thế giới này từ đâu sinh ra?”

Khi chúng ta nhìn cho sâu, ta thấy rằng nếu đầy đủ nhân duyên, thì sự vật sẽ biểu hiện. Sự biểu hiện đó không tới từ đâu cả. Và khi nó ngừng biểu hiện thì nó cũng không đi đâu hết.

Sáng tạo

Sáng tạo ra có nghĩa là từ Không có gì bỗng nhiên ta Co một thứ gì đó. Tôi thích dùng từ biểu hiện hơn là từ ngữ sáng tạo. Nhìn cho kỹ, ta sẽ hiểu được chữ sáng tạo cũng có nghĩa là biểu hiện. Cũng như khi ta hiểu được rằng đám mây là biểu hiện của thứ gì đã có sẵn, và mưa là biểu hiện sau đó của đám mây; chúng ta sẽ hiểu được rằng con nguời cũng như mọi sự vật quanh ta, không tới từ nơi nào và cũng chẳng đi tới đâu hết. Biểu hiện không đối nghịch với hoại diệt. Đó chỉ là sự chuyển hóa. Hiểu rằng đời sống của con người và vũ trụ chỉ là những biểu hiện, chúng ta sẽ được bình an vô cùng. Nếu bạn đang đau khổ vì mất một người thân thương, xin hãy tập nhìn sâu để hàn gắn vết thương trong bạn.

Có những nhà thần học nói rằng Thượng đế là nền tảng của tạo vật. Nhưng tạo vật nào? Đó không thể là những gì hiện hữu đối nghịch với những cái không hiện hữu. Nếu có ý niệm cho hiện hữu là trái ngược với không hiện hữu, thì đó không phải là Thượng đế. Thượng đế vượt thoát được tất cả mọi ý niệm, kể cả ý niệm sáng tạo ra và hủy diệt. Nếu bạn nhìn sâu vào ý niệm sáng tạo với trí tuệ, hiểu rõ về sự biểu hiện, bạn sẽ khám phá được ý nghĩa sâu xa của chữ sáng tạo. Bạn sẽ thấy rằng không có gì sinh ra, không có gì mất đi, chúng chỉ biểu hiện mà thôi.

Tìm sự cứu rỗi

Chúng ta tìm tới các truyền thống tâm linh, tới nhà thờ, đền Do thái giáo hay Hồi giáo, hoặc tới một trung tâm thiền tập, để tìm các phương pháp giúp ta bớt khổ. Nhưng ta chỉ đạt được tình trạng thoát khổ khi ta có khả năng tiếp xúc được với bình diện tuyệt đối mà thôi. Trong đạo Thiên Chúa và Do Thái giáo, người ta gọi bình diện đó là Thượng đế. Thượng đế là bản tánh chân thật của ta, là bản chất không sinh không diệt. Vì thế, nếu bạn biết tin cậy vào Thượng đế, tin vào bản chất chân thật của ta thì ta sẽ không còn sợ hãi lo âu nữa.

Bắt đầu bạn nên nghĩ tới Thượng đế như một con người, nhưng con nguời có tính cách đối nghịch với  những gì không phải là người. Nếu bạn có các ý niệm và quan điểm về Thượng đế thì bạn chưa thấy được bản chất của Thượng đế. Ngài vượt lên trên tất cả các ý niệm của ta. Thượng đế không phải là một con người, mà cũng không phải là thứ gì phi nhân. Con sóng trong vô minh thường sợ hãi chuyện sống-chết, cao-thấp, đẹp-xấu hay ghen tuông. Nhưng khi sóng có thể tiếp xúc được với bản chất thật của nó, thì sóng biết nó cũng là nước. Bao nhiêu lo sợ và giận hờn của nó sẽ tan biến đi. Nước không có chuyện sống hay chết, không có chuyện cao hay thấp.

Nhân duyên

Khi chúng ta nhìn vào một vật gì như căn nhà hay cái bàn chẳng hạn, chúng ta thường nghĩ căn nhà hay cái bàn đó là do một hay nhiều người đã làm ra. Ta có khuynh hướng muốn tìm ra nguyên nhân đã tạo ra căn nhà hay cái bàn. Ta đi tới kết luận là căn nhà do thợ xây nhà làm nên, cái bàn do người thợ mộc. Ai tạo ra cái bàn? Người thợ mộc? Ai tạo ra bông hoa? Đất hay người làm vườn, người nông phu?

Chúng ta thường suy nghĩ một cách giản dị về nguyên nhân của sự vật. Ta thường cho rằng chỉ cần một nhân duyên là đủ đưa tới sự vật kia. Khi thực tập nhìn sâu, ta thấy ngay là một nguyên nhân không bao giờ có thể tạo ra kết quả được. Người thợ mộc không thể là nhân duyên duy nhất tạo ra cái bàn. Nếu ông ta không có những dụng cụ như đinh, cưa, gỗ, thời gian, không gian, thức ăn, không có cha mẹ sinh ra ông và bao nhân duyên khác, thì làm sao ông có thể tạo ra cái bàn được? Con số các nguyên nhân đó nhiều vô kể.

Khi nhìn vào bông hoa chúng ta cũng thấy như vậy. Người làm vườn chỉ là một nguyên nhân. Phải có đất, có mặt trời, đám mây, có phân bón, hạt giống và nhiều, nhiều thứ khác. Khi nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng cả vụ trụ đã cùng giúp cho bông hoa biểu hiện. Khi nhìn cho kỹ một miếng cà-rốt bạn ăn bữa trưa, bạn cũng thấy tất cả vũ trụ đã giúp cho miếng cà-rốt có mặt.

Nếu chúng ta tiếp tục nhìn thật sâu, ta sẽ thấy nguyên nhân của sự vật này đồng thời cũng là một kết quả của nhiều thứ khác. Người làm vườn là một nhân duyên để có bông hoa, nhưng chính ông cũng là một hệ quả của nhiều yếu tố. Ông biểu hiện ra được là nhờ nhiều nguyên nhân như tổ tiên, cha mẹ, thầy giáo, công việc, cộng đồng, thực phẩm, thuốc men và ngôi nhà ông cư trú. Giống như người thợ mộc, ông không chỉ là nguyên nhân mà còn là một hệ quả.

Nhìn sâu, chúng ta thấy không thể có thứ gì chỉ thuần là nguyên nhân. Thực tập nhìn sâu, chúng ta có thể khám phá được nhiều điều và nếu ta không bị vướng vào một chủ thuyết hay ý niệm chúng ta sẽ có tự do để khám phá.

Không có một nguyên nhân thuần túy

Khi Bụt được hỏi “Cái gì là nguyên nhân của mọi sự vật?” Ngài đã trả lời một cách đơn giản. Ngài nói:

“Cái này có vì cái kia có.” Câu này có nghĩa là sự vật nào cũng nhờ tất cả các thứ khác mới biểu hiện ra được. Một bông hoa phải nhờ các yếu tố không phải là hoa để hiện ra. Khi nhìn sâu vào bông hoa, bạn có thể thấy được những yếu tố không-hoa. Nhìn vào hoa, bạn thấy ánh sáng mặt trời, đó là một yếu tố không-hoa. Không có ánh sáng, hoa không thể biểu hiện. Nhìn hoa bạn cũng thấy đám mây, đó là một yếu tố không-hoa. Không có mây (và mưa) hoa không biểu hiện được. Các yếu tố căn bản khác như muối khoáng, đất, người nông phu v.v… rất nhiều các yếu tố không-hoa đã giúp cho bông hoa biểu hiện.

Đó là lý do vì sao tôi ưa dùng từ biểu hiện thay vì sáng tạo. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể dùng từ ngữ sáng tạo, nhưng ta nên hiểu rằng sáng tạo không có nghĩa là từ không có nguyên nhân nào mà làm thành một sự vật được. Tạo vật không phải là thứ gì bị hủy hoại hoàn toàn và có thể không còn lại gì hết. Tôi thích từ ngữ “Wonderful becoming” (sự hình thành mầu nhiệm) – nó gần với chân nghĩa của từ sáng tạo hơn.

Thực tập nhìn sâu

 Tất cả các giáo pháp chính thống của đạo Bụt đều có ba yếu tố căn bản gọi là Tam pháp ấn. Ba dấu ấn đó là vô thường, vô ngã và Niết bàn. Giống như các tài liệu luật pháp cần có chữ ký của người chứng, các phép thực tập trong đạo Bụt phải có chứng tích của ba dấu ấn này.

Khi nhìn vào pháp ấn thứ nhất: vô thường, ta thấy rằng nó không chỉ có nghĩa là mọi sự đều thay đổi. Nhìn vào bản chất mọi sự vật, ta thấy không có vật nào không thay đổi trong hai thời điểm nối tiếp nhau. Vì không có sự vật nào bất biến với thời gian, nên chúng không có tự tánh cố định, không có cái ngã thường hằng. Vậy thì trong giáo pháp vô thường ta không thể tìm thấy một cái ngã bất biến. Ta gọi đó là vô ngã. Chính nhờ sự biến đổi không ngừng, nhờ tính cách vô ngã của vạn hữu mà ta có thể có tự do.

Dấu ấn thứ ba là Niết bàn. Nó có nghĩa là sự vững chãi, là sự tự do không bị ràng buộc vào bất cứ ý niệm nào. Từ ngữ Niết bàn có nghĩa là sự vắng bặt của tất cả các ý niệm. Nhìn sâu vào vô thường cho phép ta khám phá ra vô ngã. Khám phá được vô ngã dẫn ta tới Niết bàn. Niết bàn là vương quốc của Thượng đế.

Vô thường

Thực tập và hiểu biết về vô thường không phải chỉ là một cách mô tả khác về thực tại. Nó là một dụng cụ giúp chúng ta chuyển hóa, buông xả và hàn gắn các vết thương.

Vô thường có nghĩa là mọi sự đều thay đổi, không có sự vật nào bất biến trong hai thời điểm nối tiếp nhau. Vì nó thay đổi mỗi phút giây, nên chúng ta không thể mô tả một cách chính xác là lúc này nó giống hay khác với lúc trước đây.

Hôm nay, khi chúng ta tắm lại trong giòng sông mà ta đã tắm bữa qua, giòng sông có còn là giòng sông cũ hay không? Triết gia Heraclitus đã nói: “chúng ta không thể tắm hai lần trong cùng một giòng sông.” Ông ta nói đúng. Nước sông hôm nay hoàn toàn khác với nước sông mà chúng ta tắm hôm qua, dù đó vẫn là một con sông. Khi đức Khổng Tử đứng nhìn giòng sông trôi chảy, Ngài đã nói: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ!” (Ôi, nước sông trôi ngày đêm, không bao giờ ngưng nghỉ sao!)

Sự giác ngộ về vô thường giúp ta vượt thoát được các ý niệm. Nó giúp ta vượt lên trên được ý niệm về giống nhau hay khác nhau, đi hay đến. Nó cũng giúp ta nhìn được là giòng sông bữa nay không giống cũng không khác giòng sông hôm qua. Nó cho ta thấy rằng ngọn nến ta thắp bên giường ngủ tối nay không phải là ngọn nến còn đang cháy buổi sớm ngày mai. Lửa nến đó không phải là hai ngọn mà cũng không phải là một ngọn lửa.

Vô thường làm cho mọi sự đều có cơ hội.

Chúng ta thường buồn rầu và đau khổ rất nhiều khi sự vật thay đổi. Nhưng sự thay đổi, sự vô thường có khía cạnh tích cực của nó. Nhờ vô thường mà mọi sự vật mới có cơ hội. Đời sống nhờ vô thường mới hiện hữu. Nếu hạt bắp không vô thường thì hạt bắp không bao giờ có thể biến thành một cây bắp. Nếu không vô thường thì cây bắp không thể cho ta trái bắp để ăn được. Nếu con gái quí vị không thay đổi thì nó không thể lớn lên để trở thành một phụ nữ. Và cháu bạn sẽ không bao giờ ra đời. Vậy, thay vì than vãn về vô thường, chúng ta nên nói: “Hoan nghênh vô thường, chúc vô thường sống lâu.” Chúng ta hãy sung sướng. Khi thấy được phép lạ của vô thường, nỗi đau buồn của chúng ta sẽ qua đi.

Vô thường cũng cần được hiểu bằng ánh sáng của liên hệ tương tức. Vì mọi sự đều liên quan mật thiết với nhau, chúng luôn luôn có ảnh hưởng vào nhau. Người ta thường nói rằng tiếng cánh bướm đập ở bên này quả đất có thể ảnh hưởng tới khí hậu ở bán cầu bên kia. Mỗi sự vật đều không cố định vì chúng chịu ảnh hưởng của các sự vật khác với nó.

Thực tập vô thường

Tất cả chúng ta đều có thể hiểu vô thường bằng trí óc, nhưng như thế không hiểu được chân nghĩa của nó. Trí não không đưa chúng ta tới giải thoát. Khi chúng ta vững chãi và có định lực, ta có thể thực tập nhìn sâu. Khi nhìn sâu và hiểu được bản chất của vô thường, ta có thể quán chiếu về cái hiểu biết sâu xa đó. Như vậy cái hiểu về vô thường trở thành một phần của con người chúng ta – Nó trở thành sự thực tập hàng ngày của ta. Chúng ta phải duy trì sự giác ngộ về vô thường đó để có thể nhìn thấy và sống với vô thường trong mọi lúc. Nếu chúng ta thiền quán về đối tượng vô thường, ta sẽ nuôi dưỡng được tri giác về vô thường khiến cho nó sống trong ta hàng ngày. Tu tập như thế, vô thường sẽ là chiếc chìa khóa mở cho ta cánh cửa vào chân lý thực tại.

Chúng ta cũng không thể chỉ giác ngộ về vô thường một chốc lát rồi lại đóng cánh cửa hiểu biết đó lại, và nhìn mọi sự thường hằng bất biến như xưa. Hầu như chúng ta nhiều lần đối xử với con cái như thể chúng sẽ sống cùng nhà với ta hoài hoài. Chúng ta không bao giờ nghĩ vài năm sau, chúng sẽ lấy chồng, lấy vợ và thành lập gia đình riêng của chúng. Vậy nên chúng ta không trân quý những giờ phút con trẻ còn ở nhà với chúng ta.

Tôi biết có nhiều phụ huynh có con tới tuổi mười tám hay mười chín là chúng rời xa gia đình, tách ra sống riêng. Cha mẹ mất con và cảm thấy rất buồn bã. Họ không biết quý những giờ phút sống gần con. Vợ chồng cũng vậy. Bạn nghĩ người phối ngẫu sẽ cứ ở bên bạn suốt đời. Nhưng vì sao bạn lại tin chắc như thế? Chúng ta thực sự không thể biết trong hai, ba mươi năm hay trong bao lâu nữa, người bạn đời của ta sẽ ở đâu. Thực tập về vô thường hàng ngày là chuyện thật sự quan trọng.

Nhìn các cảm xúc với con mắt vô thường

Khi có người nào nói gì làm cho bạn giận dữ và bạn mong cho họ biến mất đi, xin hãy nhìn kỹ bằng con mắt vô thường. Nếu người kia đi mất thật sự thì bạn cảm thấy ra sao? Bạn sung sướng hay bạn sẽ khóc?  Thực tập cái hiểu này rất quan trọng, và đây là bài kệ để thực tập:

“Giận nhau trong bản môn

Nhắm mắt nhìn mai sau

Trong ba trăm năm nữa

Người đâu và ta đâu?”

Khi giận dữ, chúng ta thường làm gì? Chúng ta la hét, và ráng đổ lỗi cho người khác đã gây ra chuyện, nhưng khi nhìn cái giận đó với con mắt vô thường, ta có thể ngừng lại và thở. Giận nhau trong bản môn, ta nhắm mắt lại và nhìn cho sâu. Ta ráng nhìn vào tương lai, khoảng ba trăm năm sau. Bạn sẽ ra sao? Tôi sẽ ra sao? Bạn sẽ ở đâu và tôi sẽ ở đâu? Ta chỉ cần thở vào thở ra, nhìn vào tương lai của ta và tương lai của người kia. Chúng ta không cần nhìn xa tới ba trăm năm, chỉ cần nhìn sau năm mươi hay sáu mươi năm, khi chúng ta đều đã qua đời.

Nhìn vào tương lai, ta sẽ thấy người kia vô cùng quý hóa. Chúng ta có thể mất nhau bất cứ giờ phút nào, chúng ta sẽ không giận dữ nữa. Ta sẽ muốn ôm người đó và nói: “Thật là tuyệt diệu mà bạn (anh hay em…) còn sống đây, tôi thật sung sướng. Làm sao mà tôi giận bạn cho được? Chúng ta cả hai sẽ có ngày chết đi, thật là điên rồ khi chúng ta giận nhau trong khi còn sống bên nhau.”

Lý do khiến cho ta điên rồ đủ để làm khổ chính mình và người bạn ta, chỉ vì ta quên rằng cả hai người đều vô thường hết. Ngày nào chết đi, ta sẽ mất tất cả: của cải, quyền lực, gia đình và tất cả mọi thứ khác. Tự do và an lạc trong lúc này là điều quan trọng nhất mà ta có được. Nhưng khi không có chánh niệm về vô thường, chúng ta không thể có hạnh phúc.

Có khi ta còn không muốn nhìn thấy người kia, khi họ còn sống. Nhưng khi người đó chết rồi, thì ta lại viết điếu văn rất hay và mua hoa phúng điếu. Nhưng người chết rồi thì đâu còn ngửi được hoa thơm. Khi ta hiểu và nhớ được rằng mọi sự vô thường thì ta có thể làm mọi thứ để cho người kia được sung sướng lúc này, và ngay ở đây. Khi ta giận người mình thương tới hai mươi bốn giờ, đó là vì mình quên mất vô thường.

“Giận nhau trong bản môn, nhắm mắt nhìn mai sau…” tôi nhắm mắt là để tập quán xem người thương của tôi sẽ ra sao trong một trăm năm hay ba trăm năm nữa.  Khi tưởng tượng về mình và người thương trong ba trăm năm sau, bạn sẽ thấy sung sướng là bạn và người kia đang còn sống hôm nay. Bạn mở mắt ra và mọi giận dữ đều tiêu tan. Bạn sẽ dang đôi tay ôm lấy người kia và thực tập: “Thở vào, người thương mình còn sống, thở ra tôi thật sung sướng.” Khi bạn nhắm mắt để nghĩ tới hình ảnh bạn và người thương sau ba trăm năm, bạn đã thiền quán về vô thường. Trong bình diện tuyệt đối (bản môn), cái giận không có mặt.

Sự thù ghét cũng vô thường. Dù lúc này ta đang có lòng sân hận, nhưng khi biết nó vô thường thì ta có thể làm cho nó thay đổi được. Người tu tập có thể làm cho lòng căm phẫn hay chống đối trong mình biến mất. Cũng như thực tập với cái giận, chúng ta nhắm mắt lại và quán “Ta sẽ ở đâu 300 năm sau?” Hiểu được sự thù hận trong bình diện tuyệt đối, nó sẽ bốc hơi ngay.

Hãy để vô thường nuôi dưỡng tình thương

Vì chúng ta mê muội và quên mất vô thường nên ta đã không biết nuôi dưỡng tình thương cho đúng cách. Khi mới lấy nhau, tình yêu của ta rất lớn. Ta nghĩ rằng khi không có nhau, ta sẽ không thể sống thêm được một ngày nào nữa. Vì không biết thực tập vô thường nên sau một hai năm tình yêu của ta biến thành ra thất vọng, giận hờn. Nay ta nghĩ rằng làm sao mà chịu đựng thêm một ngày nữa nổi, cái con người mà ta đã thương yêu kia? Ta cho rằng không còn phương cách nào khác ngoài chuyện ly dị. Khi sống mà có hiểu biết về vô thường, ta sẽ biết nuôi dưỡng tình yêu. Chỉ như vậy nó mới bền lâu được. Bạn phải nuôi dưỡng và chăm sóc thì tình yêu mới lớn lên được.

Vô ngã

Vô thường là nhìn vào thực tại trong khía cạnh thời gian. Vô ngã là nhìn trong bình diện không gian. Đó là hai mặt của thực tại. Vô ngã là một biểu hiện của vô thường cũng như vô thường là một biểu hiện của vô ngã. Mọi sự vật không có cái ngã riêng biệt nên chúng vô thường. Vô thường nghĩa là biến đổi luôn luôn. Đó là một chân lý. Vì không có gì bất biến nên làm sao có được cái ngã riêng biệt và thường hằng? Khi nói về “ngã”, ta muốn nói tới một thứ gì tự nó không thay đổi ngày này qua tháng khác. Nhưng không thể có cái gì như vậy. Thân ta vô thường, các cảm xúc vô thường và các nhận thức cũng vậy. Cái giận, cái buồn, tình thương, lòng thù hận và các tâm thức của chúng ta cũng đều vô thường.

Vậy thì có cái gì thường hằng đâu để chúng ta có thể gọi là cái Ngã? Tờ giấy viết những dòng chữ này không có một cái ngã riêng biệt. Nó chỉ có mặt được khi có đám mây, rừng cây, mặt trời, trái đất và máy móc cùng người làm giấy. Nếu những thứ đó không có mặt thì tờ giấy cũng không thể có mặt. Khi ta đốt tờ giấy thì cái ngã của nó ở đâu?

Không có  thứ gì có thể tự nó hiện hữu được. Nó phụ thuộc vào nhiều thứ khác. Đó là tương tức, là sự liên quan mật thiết của mọi sự vật, luôn luôn hỗ tương nhau. Hiện hữu có nghĩa là tương tức. Tờ giấy tương tức (cùng hiện hữu, có liên quan mật thiết) với ánh sáng mặt trời và rừng cây. Bông hoa không thể tự nó hiện diện được, nó phải tương tức với đất, mưa, cỏ dại và côn trùng. Không có sự hiện hữu độc lập, chỉ có sự tương tức, sự liên quan mật thiết giữa mọi sự vật.

Nhìn sâu vào một bông hoa, chúng ta thấy hoa làm bằng những yếu tố không-hoa. Ta có thể mô tả hoa làm bằng mọi thứ khác. Không có gì mà không hiện hữu trong bông hoa. Chúng ta thấy ánh sáng mặt trời, thấy mưa, thấy mây, thấy đất và ta cũng nhìn thấy thời gian, không gian trong hoa. Một bông hoa cũng như mọi thứ khác, hoàn toàn được cấu tạo bởi những chất không phải là hoa. Tất cả vũ trụ đã tập họp lại để giúp cho bông hoa biểu hiện. Bông hoa có đủ thứ, trừ một thứ: đó là cái ngã riêng biệt hay tự tánh độc lập của nó.

Bông hoa không thể tự mình là hoa. Nó phải hiện hữu tương tức cùng với mặt trời, đám mây và mọi thứ khác trong vũ trụ. Nếu ta hiểu nghĩa chữ hiện hữu là cùng hiện diện với các thứ khác, thì ta đã tới gần chân lý hơn. Tương tức hay Interbeing không phải là hiện hữu hay không hiện hữu mà có nghĩa là không có tự tánh riêng biệt, không có cái ngã độc lập.

Vô ngã cũng có nghĩa là trống rỗng, một thuật ngữ trong Phật giáo có nghĩa là không có tự tánh độc lập. Nhưng nó không có nghĩa là chúng ta không hiện hữu tại đây. Cũng không có nghĩa là mọi sự đều không có đây. Một cái ly có thể trống hay đầy trà. Muốn trống hay đầy, cái ly phải hiện hữu cái đã. Trống rỗng không có nghĩa là hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nó vượt qua mọi ý niệm. Nếu bạn tiếp xúc thật sâu được với bản chất vô thường, vô ngã và tương tức, bạn tiếp xúc được với bình diện tuyệt đối, với bản chất của Niết bàn.

Chúng ta là ai?

Chúng ta nghĩ về thân mình như nó chính là mình, hay nó thuộc về mình. Thân này là tôi, là của tôi. Nhưng nếu nhìn cho kỹ, bạn sẽ thấy cái thân bạn cũng là cái thân của tổ tiên, cha mẹ, của con và cháu bạn. Vậy nó không phải là tôi hay của tôi! Thân bạn có đầy đủ các yếu tố khác, vô số những thứ không phải là thân, trừ một thứ, đó là cái ngã riêng biệt.

Vô thường cần được nhìn dưới ánh sáng của trống rỗng, tương tức và vô ngã. Những thứ đó không có tính cách tiêu cực. Trống rỗng là một mầu nhiệm. Ngài Long Thọ (Nagarjuna), một vị thầy nổi tiếng của đạo Bụt thế kỷ thứ hai đã nói: “Nhờ Không mà mọi sự đều Có!”

Bạn có thể thấy vô ngã trong vô thường và vô thường trong vô ngã. Bạn có thể nói vô thường là vô ngã nhìn trong bình diện thời gian và vô ngã là vô thường nhìn dưới khía cạnh không gian. Hai thứ đó là một. Vì vậy vô thường và vô ngã tương tức, tương nhập (có liên quan hỗ tương với nhau). Nếu bạn không thấy vô thường trong vô ngã thì đó không phải là vô ngã. Nếu bạn không thấy vô ngã trong vô thường thì đó không thật là vô thường. Chưa hết, bạn cũng phải nhìn thấy Niết bàn trong vô thường và Niết bàn trong vô ngã. Nếu tôi vẽ một đường thẳng, một bên đường là vô thường vô ngã thì bên kia đường là Niết bàn. Đường thẳng đó có ích lợi nhưng nó cũng có thể làm ta hiểu lầm. Niết bàn vượt qua tất cả mọi ý niệm, kể cả ý niệm về vô thường và vô ngã. Nếu ta thấy Niết bàn trong vô thường và vô ngã có nghĩa là ta không bị kẹt vào các ý niệm vô thường và vô ngã.

Sinh sản vô tính và vô ngã

Nếu bạn lấy ba tế bào từ thân tôi rồi theo phép sinh sản vô tính (cloning), làm ra ba đứa bé từ các tế bào đó, chúng sẽ có các yếu tố di truyền trong máu của gia đình huyết thống và của chính tôi.

Nhưng chúng ta ai cũng có thêm một di sản khác. Chúng ta tự nhiên là thừa kế cái thân từ gia đình. Ta cũng là di sản của môi trường ta sống. Đó là sự nuôi dưỡng. Tưởng tượng nếu ta bỏ ba đứa bé do sinh sản vô tính vào ba môi trường khác nhau. Bé nào sống trong giới cờ bạc, ma túy thì nhiều phần nó cũng sẽ nghiện ngập và ham mê bài bạc. Nó sẽ không trở thành một nhà sư như tôi. Nếu bạn nuôi một đứa khác trong môi trường thương mại và cho nó đi học về thương mại, có lẽ nó sẽ trở thành một thương gia. Chuyện này có thể xảy ra dù cho các em bé ra đời bằng phép vô tính đó mang cùng những cái genes của tôi. Nhưng tôi đã được thấm nhuần giáo pháp của Bụt. Những giáo pháp đó không được tưới tẩm ở trường thương mại mà các hạt giống mua bán và làm thương mại sẽ được tưới tẩm. Chú bé kia sẽ trở thành một thương gia. Dù cho mắt, mũi, tai…coi hệt như tôi, chú ta không có gì giống tôi hết.

Ta hãy giả thiết chú thứ ba do sinh sản vô tính trở thành một tăng sĩ. Ta để chú vào Lộc Uyển và giao cho các tăng ni nuôi dưỡng chú. Mỗi ngày chú nghe kinh kệ và đi thiền hành. Chú bé sẽ là một vị sư còn khá hơn tôi ngày nay nữa.

Nuôi dưỡng là chuyện rất quan trọng. Dù cho bạn sản xuất vô tính ba ‘clones’ hay ba ngàn ‘clones’, thì sự biểu hiện đặc biệt của các ‘clones’ đó tùy vào điều kiện nuôi dưỡng chúng, tùy vào những ý tưởng, tình thương, lòng ghen ghét, tùy vào sự học hỏi và tùy công việc chung quanh. Tưởng tượng có những người sợ mất tôi, hỏi rằng: “Xin cho chúng con một tế bào của Thầy để làm ‘cloning’,” và nếu đồng ý thì tôi sẽ phải nói: “Được, nhưng xin nuôi đứa bé ở một tu viện như Lộc Uyển hay Rừng Phong, nếu không thì nó sẽ đau khổ đó.”

Niết bàn

Vô thường và vô ngã không phải là những luật lệ Bụt đặt ra cho chúng ta. Đó là những chìa khóa để mở cánh cửa thực tại. Ý niệm thường hằng là sai lầm, vậy nên giáo pháp vô thường giúp chúng ta có cái nhìn đúng về sự thường hằng bất biến. Nếu chúng ta bị kẹt vào ý niệm vô thường, chúng ta cũng không đạt tới Niết bàn được. Ý niệm về ngã là sai lầm, vậy nên ta có giáo pháp vô ngã để chữa nó. Nếu ta bị vướng vào ý niệm vô ngã, thì cũng không hay ho gì. Vô thường và vô ngã là những chìa khóa để thực tập – không phải là những chân lý tuyệt đối. Chúng ta không sống chết với chúng và cũng không giết hại ai để bảo vệ chúng.

Trong đạo Bụt không có tư tưởng hay thiên kiến nào để chúng ta phải giết hại người khác. Chúng ta không giết người chỉ vì họ không chấp nhận tôn giáo của mình. Các giáo pháp của Bụt là những phương tiện tinh vi, đó không phải là những chân lý tuyệt đối. Vậy chúng ta có thể nói rằng vô thường và vô ngã là những phương tiện khéo léo giúp chúng ta tới gần chân lý nhưng đó không phải là chân lý tuyệt đối. Bụt dạy: “Giáo pháp của ta là ngón tay chỉ mặt trăng. Đừng để bị vướng vào ý tưởng ngón tay là mặt trăng. Ngón tay chỉ là phương tiện để giúp ngươi thấy được mặt trăng mà thôi.”

Vô thường và vô ngã là phương tiện để ta hiểu được thực tại, đó không phải là thực tại. Đó chỉ là các dụng cụ, không phải là chân lý tuyệt đối. Vô thường không phải là một chủ thuyết bạn phải sống chết với nó. Bạn không bao giờ nên bỏ tù một người chỉ vì hắn nói ngược với bạn. Bạn không nên dùng quan niệm của mình để chống lại quan niệm của người khác. Những phương tiện đó đưa ta tới chân lý sau cùng. Đạo Bụt là một con đường thiện hảo giúp đỡ chúng ta, không phải là một con đường của kẻ cuồng tín. Phật tử không nhân danh tôn giáo để tham chiến, không đổ máu hay giết hàng ngàn người.

Vì vô thường chứa đựng trong nó bản chất Niết bàn, ta sẽ được an toàn khi không bị vướng vào một ý tưởng. Khi bạn học hỏi và hành trì giáo pháp này, bạn không còn bị kẹt, bạn được tự do không vướng vào các ý niệm kể cả ý niệm về thường hay vô thường. Theo con đường đó, bạn đạt tới sự tự do không còn đau khổ sợ hãi nữa. Đó là Niết bàn, là vương quốc của Thượng đế.

Ngừng bặt ý niệm

Chúng ta sợ hãi vì các ý niệm về sinh-tử, tăng-giảm, hiện-hữu hay không hiện-hữu. Niết bàn là sự ngừng bặt của tất cả các ý niệm và tư tưởng. Nếu chúng ta thoát khỏi hết các ý niệm và tư tưởng, chúng ta có thể tiếp xúc được với niềm an lạc trong bản thể chân thật của ta.

Có tám ý niệm nuôi dưỡng sự sợ hãi. Đó là ý niệm về sinh – diệt, đến – đi, khác nhau – giống nhau, có và không. Những ý niệm đó làm cho ta không hạnh phúc. Giáo pháp của Bụt dạy ta tám ý niệm đối nghịch gọi là tám không: không sinh – không diệt; không đến – không đi; không giống – không khác; không có cũng không không.

Chấm dứt ý niệm về hạnh phúc

Mỗi chúng ta ai cũng có một quan niệm làm sao để ta được hạnh phúc. Nếu ta có thì giờ để nhìn lại quan niệm của ta về hạnh phúc thì đó là một chuyện có ích. Ta có thể làm một danh sách những gì ta nghĩ là cần có để được sung sướng. “Tôi chỉ hạnh phúc nếu…” Hãy viết xuống tất cả những chuyện gì bạn muốn và không muốn. Những ý tưởng đó tới từ đâu?  Chúng có phải là chân lý không? Hay đó chỉ là các ý niệm của bạn? Nếu bạn ràng buộc vào một quan niệm đặc biệt về hạnh phúc thì bạn ít có cơ hội sung sướng rồi!

Hạnh phúc tới từ nhiều phương. Nếu bạn có quan niệm nó chỉ tới từ một hướng thì bạn sẽ mất các cơ hội khác, vì bạn chỉ muốn hạnh phúc tới từ phương bạn đã chọn. Bạn nói: “Tôi thà chết chứ không cưới người khác (thay vì cưới nàng). Tôi thà chết chứ không thể mất việc hay mất danh tiếng. Tôi không thể sung sướng nếu như không đỗ được cấp bằng đó, hay không mua được căn nhà, không được thăng chức…” Bạn đặt quá nhiều điều kiện vào hạnh phúc của bạn.  Nhưng, ngay cả khi bạn thành đạt được tất cả các điều kiện đó, bạn vẫn không có hạnh phúc. Bạn tiếp tục đặt thêm các điều kiện khác, bạn muốn có bằng cao hơn, việc tốt hơn và nhà đẹp hơn nữa.

Một quốc gia cũng có thể tin rằng chỉ có một con đường để cho nước giàu dân mạnh. Quốc gia và dân tộc đó có thể tự buộc mình vào một chủ thuyết hàng trăm năm hay nhiều hơn. Trong khi đó, người dân phải chịu nhiều đau khổ. Ai bất đồng ý kiến hay nói ngược với chính phủ liền bị cầm tù. Họ cũng có thể bị cho là điên rồ. Bạn có thể biến xứ sở của bạn thành một nhà tù nếu bạn bị kẹt vào một chủ nghĩa. Xin nhớ rằng quan niệm về hạnh phúc của bạn có thể rất nguy hiểm. Bụt dạy hạnh phúc chỉ có mặt bây giờ và ở đây. Vậy, ta nên cần nhìn lại và coi xét cho kỹ các quan niệm về hạnh phúc của mình. Bạn có thể nhận ra rằng các điều kiện của hạnh phúc bạn đang có trong đời là đầy đủ rồi. Vậy là bạn sẽ có hạnh phúc ngay lập tức.

Thích Nhất Hạnh