Địa chỉ của hạnh phúc

 Nếu bạn muốn biết Thượng Đế, chư Bụt và tất cả các vĩ nhân sống ở đâu thì tôi có thể chỉ cho bạn. Đây là địa chỉ: “Bây giờ và ở đây.” Có đủ thứ bạn muốn biết, kể cả khu bưu chính (zip code).

Nếu bạn có thể thở vào thở ra và bước đi với tinh thần “đã về – đã tới – bây giờ – ở đây” thì bạn sẽ thấy mình vững chãi và tự do hơn ngay lập tức.  Bạn đã đứng vững được trong hiện tại, ngay tại địa chỉ chính thức của bạn. Không có gì thúc đẩy khiến bạn phải chạy hoặc sợ hãi. Bạn được giải phóng khỏi những lo âu quá khứ. Bạn cũng sẽ không còn bị bế tắc, nghĩ tới những gì chưa xảy ra và những gì bạn không kiểm soát được. Bạn được tự do, không còn mặc cảm phạm lỗi thời quá khứ và cũng không lo lắng về tương lai nữa.

Chỉ khi có tự do người ta mới có hạnh phúc. Số lượng hạnh phúc bạn có tùy thuộc vào số lượng tự do mà bạn có trong tâm. Đây không phải là tự do chính trị. Tự do là sự vượt thoát khỏi những tiếc nuối, sợ hãi, lo âu và buồn phiền. “Đã về, đã tới, bây giờ, ở đây.”

“Vững chãi, thảnh thơi” là những gì bạn cảm thấy, bạn trở thành, khi bạn tới được chỗ “bây giờ và ở đây.” Bạn không chỉ nói với mình như thế mà bạn sẽ thấy, sẽ cảm nhận được như thế. Làm vậy, bạn được bình an. Bạn sẽ chứng ngộ được Niết bàn, nước Chúa hoặc bất kỳ từ ngữ nào bạn muốn gọi nó. Ngay cả khi không âu lo, bạn cũng không thể có hạnh phúc nếu bạn không vững chải, thảnh thơi. Nuôi dưỡng sự vững chãi và thảnh thơi là món quà quý nhất chúng ta có thể tự cho mình.

An trú trong bản môn

“Tôi về an trú trong bản môn.” Bản môn là nền tảng của con người, là căn nguyên của chúng sinh. Bản môn, chân như hay Thượng đế, thần linh, không chia cách gì với chúng ta. Chúng ta luôn luôn ở trong đó. Bản môn không phải là một nơi nào cao tít mù khơi. Nhưng chúng ta phải về được căn nhà mình thì mới có thể an trú, mới sống được trong đó.

Giống như sóng và nước. Nếu nhìn một ngọn sóng ta sẽ thấy nó có khởi đầu và có chấm dứt. Ngọn sóng có thể cao hay thấp, nó có thể giống hay khác các ngọn sóng kia. Nhưng sóng luôn luôn được làm bằng nước. Nước là nền tảng của sóng. Sóng là sóng nhưng cũng là nước. Sóng có thể có bắt  đầu, có kết thúc, có lớn, có nhỏ. Nhưng nước thì không có bắt đầu hay chấm dứt, không lên không xuống, không này không kia. Khi sóng nhận ra được chuyện này thì nó hết sợ hãi về chuyện khởi đầu, kết thúc, lên xuống, này kia.

Trong thế giới hiện tượng, chúng ta có thời gian và không gian, và những cặp đối đãi: đúng-sai; già-trẻ; nhơ-sạch. Chúng ta mong sự khởi đầu và sợ sự chấm dứt. Nhưng trong bình diện tuyệt đối không có những thứ đó, không có khởi đầu hay chấm dứt, không trước cũng không sau. Bình diện tuyệt đối là nền tảng của thế giới hiện tượng. Đó là nguồn gốc, là cỗi rễ liên tục của chúng sinh. Đó là Niết Bàn, là nước Chúa.

Nền tảng căn bản là Niết bàn, là bản thể tuyệt đối. Bạn cũng có thể được gọi là Thượng Đế hay là Vương quốc của Thượng Đế, là nước Chúa. Đó là nước. Bạn là sóng, đồng thời bạn cũng là nước. Bạn có bình diện tương đối và bạn cũng có bản thể tuyệt đối. Nếu chúng ta hiểu rằng bản chất thực sự của ta là vô sinh, bất diệt, không đến không đi, thì sự sợ hãi trong ta sẽ ra đi và những đau khổ sẽ biến mất.

Một con sóng không cần chết mới trở thành nước được. Nó chính là nước, ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta cũng không cần chết mới được vô nước Chúa. Nước Chúa chính là nền tảng bây giờ và ở đây của ta. Sự thực tập sâu sắc nhất của ta là làm sao nhìn thấy và tiếp xúc được với bình diện tuyệt đối trong ta mỗi ngày, với bản thể không sinh không diệt. Chỉ có sự thực tập đó mới giúp được ta hết hẳn lo sợ và đau khổ. Thay vì nói: “An trú trong bản môn,” bạn có lẽ sẽ thích hơn câu: “An trú trong nước Chúa” hay “An trú trong Tịnh độ.”

Buông bỏ buồn phiền

Giả thử có người chở bạn bằng máy bay phản lực tới nước Chúa hay Đất Tịnh của Phật. Khi tới đó, bạn sẽ đi đứng ra sao? Tới một nơi đẹp đẽ như thế, bạn có sẽ đi với các áp lực, chạy và lo lắng như bạn thường làm hay không? Hay bạn sẽ thưởng thức từng giây phút khi được ở Thiên đàng? Tại nước Chúa hay Tịnh Độ, người ta được tự do và biết hưởng cuộc sống từng giây phút. Vậy nên họ không đi đứng như chúng ta.

Tịnh độ không phải là nơi nào khác. Nó ngay tại đây, trong lúc này. Nó ở trong từng tế bào của ta. Khi chúng ta trốn chạy hiện tại, ta phá hủy vương quốc của Thượng đế.  Nhưng nếu ta biết cách buông xả được những năng lượng của tập khí chạy nhanh, thì ta sẽ có hòa bình và tự do, và ta có thể bước đi như Bụt ở cõi tịnh độ vậy.

Hành lý ta mang theo sẽ quyết định cho ta được sống trong bình diện nào. Nếu bạn mang theo nhiều buồn phiền, sợ hãi và tham đắm, thì bạn đi tới đâu cũng chỉ gặp thế giới đau khổ như địa ngục mà thôi. Nếu bạn mang theo lòng từ bi, hiểu biết và thanh thản, thì đi đâu bạn cũng sẽ gặp được thế giới của Chân như, vương quốc của Thượng đế.

Người biết tu tập đi tới đâu, họ cũng biết chân họ được tiếp xúc với nước Chúa. Không có ngày nào tôi không bước trên vương quốc của Thượng đế.  Vì tôi thực tập từ bi và buông xả, chân tôi đi tới đâu cũng tiếp xúc được với vương quốc của Thượng đế, với bình diện tuyệt đối của mọi sự vật.

“Đã về, đã tới (nhà).” Nhà của sóng là nước. Nó ngay đó. Sóng không cần đi hàng ngàn hải lý để trở về nhà nó. Bài kệ trên rất giản dị và rất mạnh. Tôi mong bạn nhớ lấy bài kệ nhỏ đó để thực tập nhiều lần mỗi ngày. Như thế bạn sẽ tiếp xúc được với bản thể chân như và luôn luôn nhớ tới căn nhà thật sự của bạn.

Tập khí chạy đuổi

Chúng ta chạy đuổi ban ngày và chạy cả trong giấc ngủ. Chúng ta không biết cách ngừng lại. Chúng ta trước tiên thực tập để biết ngừng, sau đó là buông thư, bình tâm và định tâm lại. Khi ta có thể làm như vậy là ta trở về được bây giờ và ở đây. Và chúng ta sẽ vững chãi. Khi đã vững chãi, chúng ta có thể nhìn ra chung quanh. Ta có thể nhìn sâu vào lúc này, nhìn sâu vào bản chất của mình và khám phá ra bản thể chân như. Nhìn sâu ta sẽ thấy dù ta là sóng nhưng ta cũng là nước. Nhưng nếu ta không học để dừng lại được thì ta không thể định tâm và nhìn sâu. Chúng ta sẽ không buông bỏ được sợ hãi vì ta không đủ mạnh, không đủ vững chãi để nhìn ra chân lý không đến không đi.

Muốn thắng các tập khí của mình là chuyện rất khó khăn. Tiến sĩ Ambedkar nguyên nghị viên của quốc hội Ấn Độ, xưa thuộc giới bần cùng (Untouchable). Ông tranh đấu cho quyền lợi của giới này. Ông cảm thấy rất rõ rằng Phật giáo là niềm hy vọng để giúp cho giới bần cùng được an toàn và giữ được phẩm giá. Đạo Bụt không tin vào sự phân chia giai cấp. Vậy nên một hôm tại Bombay có năm trăm ngàn người Ấn cùng khổ tới để thọ Tam quy Ngũ giới với tiến sĩ Ambedkar. Tôi đã tới Ấn Độ để ủng hộ và giúp đỡ cộng đồng này. Chúng tôi nói pháp thoại và hướng dẫn những ngày thực tập chánh niệm.

Hãy tưởng tượng bạn lớn lên trong giai cấp bần cùng đó. Tưởng tượng mọi người chung quanh ai cũng bạc đãi bạn và bạn luôn lo sợ cho mạng sống của mình. Tưởng tượng bạn luôn luôn phải chiều lòng những người ở giai cấp cao hơn để được sống bình an. Bạn sẽ sống ra sao? Bạn có thảnh thơi và sống trong hiện tại được chăng? Hay là bạn lo lắng thường trực về tương lai. Tập khí lo lắng là thứ rất mạnh.

Người tổ chức chuyến đi Ấn Độ cho tôi cũng từ giai cấp cùng khổ. Anh ta sống ở New Delhi với vợ và ba con. Anh ta rất muốn làm cho chuyến đi của tôi thoải mái và thành công. Một buổi sáng chúng tôi ngồi trên xe buýt để đi tới một cộng đồng ở địa phương khác. Tôi thích thú ngắm cảnh qua khung cửa chỗ tôi ngồi. Khi quay lại nhìn anh bạn kia, tôi thấy anh rất căng thẳng. Tôi nói: “Anh bạn ơi, tôi biết anh rất muốn làm cho chuyến đi của tôi thoải mái và vui vẻ. Nhưng bạn biết không? Tôi đang hài lòng lắm ngay lúc này. Xin đừng lo âu nữa, hãy ngồi dựa lưng vô cho thoải mái.” Anh ta trả lời “dạ!” và có vẻ thoải mái hơn một chút. Rồi tôi lại quay ra cửa sổ, thực tập thở vào thở ra và thưởng thức những hàng cây cọ trong nắng sớm.

Tôi nghĩ tới những chiếc lá bối (lá cọ) ghi lại kinh điển của Bụt từ thời xa xưa. Lá bối dài và hẹp. Người ta dùng một mũi nhọn để ghi trên lá những lời dạy của Bụt. Họ giữ được hơn ngàn năm những bản kinh bằng lá đó. Tôi nhớ ở xứ Nepal người ta tìm ra được những bản kinh trên lá bối đã viết từ một ngàn năm trăm năm trước. Rồi tâm tôi lại hướng về anh bạn trẻ. Có lẽ chỉ hai phút sau, tôi quay lại và thấy anh ta lại trở nên cứng ngắc và căng thẳng rồi. Anh khó mà thảnh thơi được dù chỉ trong ít phút.

Là một người thuộc giai cấp cùng khổ, cả đời anh phải tranh đấu để sống. Bây giờ dù anh có một căn hộ xinh xắn tại ngay New Delhi và có việc làm tốt, tập khí luôn luôn tranh đấu của anh vẫn còn rất mạnh. Qua nhiều thế hệ, những người thuộc giai cấp bần cùng (Untouchable) đó đã phải phấn đấu ngày đêm để sống còn. Tập khí từ bao đời đó được truyền tới anh. Muốn chuyển hóa nó không phải là chuyện dễ. Anh ta cần thời gian và cần được huấn luyện. Với sự hỗ trợ của bạn cùng tu tập, trong vài tháng hay vài năm anh có thể chuyển hoá tập khí tranh đấu và căng thẳng đó được. Ai cũng có thể làm như vậy. Bạn có thể làm cho bạn thoải mái và thảnh thơi.

Nếu bạn muốn chuyển hóa tập khí chạy đuổi và căng thẳng, bạn cần nhận diện chúng ngay mỗi khi chúng ló đầu ra. Thở và mỉm cười, bạn nói: “Tập khí thân mến của ta ơi, ta biết em ở đó rồi!” Khi đó bạn sẽ được tự do. Bạn có thể tự nhắc nhở, tự huấn luyện mình. Bạn không thể có người bạn tâm linh nào suốt hai mươi bốn giờ mỗi ngày để nhắc nhở bạn. Tôi đã nhắc anh bạn kia và chỉ có hiệu quả được hai phút thôi. Anh ta phải tự làm. Ai cũng phải tự làm lấy.  Bạn phải là người bạn của chính mình và sống trong môi trường nào mà có thể giúp được bạn.

Tập khí chạy rất mạnh trong chúng ta. Nó có thể đã được truyền qua nhiều thế hệ mới tới chúng ta. Nhưng bạn không cần trao truyền nó lại sau này. Bạn cần nói được với con cháu rằng bạn đã được bước đi trong vương quốc của Thượng đế. Bạn sẽ muốn nói với chúng như vậy, như tôi đã nói với các bạn tôi, rằng không ngày nào tôi không đi trong đó. Nếu bạn có thể làm như vậy, cuộc đời bạn sẽ là niềm hứng khởi cho nhiều người. Có lẽ bạn và con bạn sẽ luôn luôn được cùng bước đi trong Tịnh độ.

Buông bỏ hành lý

Ý muốn được đi trên đất tịnh hoài sẽ giúp ta buông bỏ được những chuyện ngăn cản không cho ta sống với hiện tại. Nó cũng sẽ giúp ta học được tánh xả bỏ những gì làm ta âu lo, để trở thành con số không. Khi nghĩ tới số không, ta thường nghĩ tới hư vô, không có gì cả. Ta nhìn thấy phía tiêu cực của nó. Nhưng số không cũng có thể rất tích cực. Nếu bạn mang một món nợ phải trả, đó là số âm. Khi trả hết rồi thì tổng kết là zéro. Thật là kỳ diệu vì nay bạn được tự do rồi.

Trong thời Bụt tại thế, có một vị tăng tên là Baddhiya. Trước khi đi tu ông đã là một vị đứng đầu một tỉnh lỵ trong vương quốc Sakka, nơi Bụt ra đời. Sau khi giác ngộ, Bụt đã trở về quê hương để thăm gia đình. Nhiều người trẻ nhìn thấy hạnh phúc và thảnh thơi của Bụt, nên xin đi theo Ngài. Họ cũng muốn được tự do.

Trong nhóm người đó có Baddhiya. Trong ba tháng đầu tại tu viện, ông tu tập rất tiến bộ, nên nhìn sâu được nhiều điều. Một đêm khi thực tập trong rừng, ông mở miệng la lên: “Ôi hạnh phúc! Hạnh phúc của tôi!”

Khi làm tỉnh trưởng, Baddhiya đã ngủ trong những căn phòng đẹp đẽ, có nhiều lính canh gác. Ông ăn nhiều thứ mắc tiền và có nhiều người hầu hạ. Ngày nay ông ngồi dưới gốc cây, không có gì ngoài cái bát để khất thực và bộ áo nhà sư.

Một tăng sĩ khác ngồi gần Baddhiya nghe tiếng ông, lại tưởng ông này đang tiếc địa vị quyền thế và cuộc sống làm tỉnh trưởng ngày trước.  Sớm hôm sau, vị tăng đó tới nói với Bụt những gì đã nghe. Bụt cho mời Baddhiya tới và trước tất cả tăng đoàn Bụt nói: “Này sư em Baddhiya, có phải đêm qua khi ngồi thiền Thầy đã nói câu ‘Ôi hạnh phúc! Hạnh phúc của tôi!’ phải thế không?” Baddhiya trả lời: “Dạ thưa Thế Tôn, đúng vậy.” Bụt hỏi: “Vì sao vậy? Thầy tiếc nuối điều gì chăng?” Baddhiya trả lời: “Trong khi ngồi thiền, con nhớ lại thời còn làm tỉnh trưởng, có bao nhiêu người hầu và người bảo vệ. Con luôn luôn thao thức vì sợ hãi. Con sợ người ta lấy cắp mất của cải, con sợ bị ám sát. Ngày nay ngồi thiền dưới gốc cây, con cảm thấy tự do quá. Bây giờ con không có gì để mất nữa, con hưởng được an lạc từng giây phút và cảm thấy chưa bao giờ sung sướng như bây giờ. Vì vậy mà con thốt lên “Ôi hạnh phúc! Hạnh phúc của tôi! Thưa Thế Tôn, nếu chuyện đó làm phiền tăng thân thì con xin sám hối.” Tới khi đó mọi người trong tăng đoàn mới biết những lời nói của Baddhiya là để diễn tả hạnh phúc thật sự của ông.

Xin hãy lấy tờ giấy và cái bút. Tới một gốc cây ngồi xuống, hay ngồi ở bàn giấy của bạn, viết một danh sách tất cả những thứ làm cho bạn hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây: đám mây trên trời, hoa trong vườn, trẻ nhỏ đang chơi đùa, sự việc bạn được gặp pháp môn thực tập tỉnh thức, người thương của bạn đang ngồi phòng kế bên và cặp mắt còn tốt của bạn. Danh sách dài vô tận. Bạn có đủ để có hạnh phúc ngay bây giờ. Bạn có đủ để buông bỏ được các ý niệm tới-lui, trên-dưới, sống-chết. Hãy nuôi dưỡng bạn bằng những điều mầu nhiệm mà đời sống cống hiến bạn. Hãy nuôi dưỡng bạn ngay lúc này. Hãy đi vào vương quốc của Thượng đế.

Chúng ta chạy theo cái gì?

Nếu chúng ta không có mặt thật sự và không sống cho chính ta hay cho người thân của ta thì chúng ta đang ở đâu? Chúng ta chạy, chạy đuổi, chạy theo, ngay cả khi ta ngủ nghỉ. Chúng ta chạy chỉ vì sợ mất những gì mà chúng ta đuổi theo kia. Thực tập phục sinh có thể giúp bạn.

Khi bạn trở về với chánh niệm hay tỉnh thức, khi năng lượng chánh niệm có mặt trong bạn, thì năng lượng Thánh linh có mặt. Thánh linh làm nên đời sống. Chúng ta thực tập để có mặt Thánh linh. Sống từng giây phút hiện tại với Thánh linh không phải là điều gì trừu tượng. Khi ăn cơm, ăn loại ngũ cốc trộn trái cây và hạt dẻ (Muesli) hay ăn đậu hũ, hãy ăn sao cho Thánh linh có mặt trong bạn. Khi đi, hãy làm sao cho Thánh linh đi với bạn.

Xin đừng chỉ thực tập theo hình thức. Mỗi lần đi thiền hành là một lần mới. Đi làm sao để bạn được mỗi bước chân nuôi dưỡng bạn. Mỗi bữa ăn là một bữa ăn mới, để bạn được nuôi dưỡng bằng năng lượng Thánh linh hay năng lượng chánh niệm. Mỗi buổi thiền tọa cũng là một thời ngồi thiền mới mẻ.

Hãy ngồi cách nào để con người mới trong bạn biểu hiện ra được. Hãy thực tập với các bạn. Tăng thân đủ thông minh và bén nhạy để không bị mắc vào thói quen, và không còn đầu óc sáng tạo. Nhiều người trong chúng ta rất thông minh và có óc sáng tạo. Chúng ta nên dùng các khả năng đó để giữ cho sự thực tập sống động và đổi mới thường xuyên. Chúng ta có thể thực tập phép thiền quán này của đạo Bụt dù bạn là người Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo hay Do thái giáo. Theo tôn giáo nào hay không có tôn giáo đều không phải là vấn đề.

Thực tập không phải là chỉ bắt chước về hình thức. Thực tập là phải dùng trí thông minh và tài khéo léo để nuôi dưỡng và chuyển hóa những con người chung quanh ta.

Bắt đầu lại

Khi bạn ăn bánh mì hay bánh bơ nướng (croissant) buổi sáng, hãy ăn cách nào để cái bánh trở thành đời sống. Hãy ăn như ăn bánh Thánh. Cảm thấy mình đang sống và đang tiếp xúc với tất cả vũ trụ. Nếu cái bánh là cơ thể chúa Jesus thì nó cũng là cơ thể của vũ trụ. Ta có thể nói: “Chiếc bánh này gồm tất cả vũ trụ.” Ăn với chánh niệm cho phép ta nhận diện được chiếc bánh như một phần của vũ trụ. Ăn như thế, bạn trở thành một con người mới. Hãy cho phép con người mới đó của bạn biểu hiện ra. Bạn có thể thực tập một mình hay với các anh chị em để giúp họ làm mới con người họ trong mỗi giây phút thực tập.

Khi chúng ta mới bắt đầu thực tập, ta có cái sơ tâm. Sơ tâm là một cái tâm rất đẹp. Bạn có hứng khởi muốn thực tập, muốn chuyển hóa tự thân, muốn có hòa bình an lạc. Niềm an vui đó sẽ lây sang người khác. Hãy làm bó đuốc và đem ngọn lửa của bạn châm cho các bó đuốc khác. Thực tập như thế, bạn sẽ giúp cho hòa bình và an lạc trên thế giới lớn lên.

Mỗi người chúng ta nên thực tập phục sinh. Khi thành công ta sẽ giúp được người chung quanh. Đây là sự tu tập thực sự của một con người sinh động. Những gì chúng ta làm hàng ngày như đi, ngồi, ăn hay quét nhà, đều có mục tiêu làm cho chúng ta thực sự sống lại. Sống thực sự từng giờ từng phút, bạn tự đánh thức mình và sẽ đánh thức cả thế giới.

Tỉnh thức là bản chất của giáo pháp và thực tập. Bụt (Bud) có nghĩa là tỉnh thức. Người tỉnh thức là Buddha. Buddha (Bụt) là người dạy chúng ta giáo pháp và phép thực tập tỉnh thức. Mỗi chúng ta có thể chuyển hóa, biến mình thành một ngọn đèn, để giúp cho toàn thế giới thức tỉnh.

Tiếp tục biểu hiện

 Bụt đã khuyên chúng ta không nên cho rằng giáo pháp là chân lý chỉ vì đó là lời giảng dạy của các vị thầy danh tiếng hoặc chỉ vì nó được ghi chép trong các kinh điển thiêng liêng. Kể cả các kinh điển Phật giáo. Chúng ta chỉ chấp nhận giáo pháp nào mà ta có thể đem ra thực tập, với sự tỉnh thức hiểu biết của chính ta, và thấy là mình thực chứng được các lời giảng đó. Bụt dạy bản chất của ta là vô sinh – bất diệt. Ta hãy coi lại xem điều này có đúng không.

Nếu bạn thắp một cây nến và để cho nó cháy tới hết, thì khi đó cây nến còn hay không? Bụt dạy không có hư vô. Chúng ta đã thấy điều này là đúng thật. Và ta cũng biết quan niệm thường hằng, còn mãi không đúng với mọi sự vật. Vậy thì chân lý là điều nằm đâu đó, ở giữa hai nhận thức này.  Chúng ta cần nhìn cho sâu với tất cả định tâm của ta.

Bạn có nghĩ rằng ngọn lửa của cây nến chỉ đi xuống theo một chiều dọc mà thôi? Nếu nghĩ như vậy thì bạn đã nhìn ngọn lửa theo thời gian. Bạn có thể cũng nghĩ như thế về cuộc đời bạn: nó đi theo chiều dọc và một ngày nào nó sẽ chấm dứt. Bạn có thể nghĩ mình được sinh ra đời vào một điểm nào đó trên đường dọc, điểm mà bạn gọi là năm 1960. Bạn có thể nghĩ mình sẽ chết tại một điểm nào đó ở phía dưới của đường dọc đó, chẳng hạn năm 2040. Bạn chỉ nhìn thấy bạn di chuyển theo thời gian giống như ngọn nến kia. Nhưng bạn không chỉ đi theo một đường thẳng đâu.

Bạn có thể nghĩ là ngọn nến chỉ ngắn lại. Bạn có thể nghĩ ngọn nến sẽ chết. Thực ra ngọn lửa của nến đi theo nhiều hướng khác nhau. Nó tỏa ánh sáng ra khắp chung quanh: đông, tây, nam, bắc, đủ hướng hết. Nếu bạn có một dụng cụ khoa học tinh vi, bạn có thể đo được sức nóng và ánh sáng mà ngọn nến đã gửi vào vũ trụ. Ngọn nến cũng đi vào trong bạn bằng hình ảnh, ánh sáng và hơi nóng.

Bạn cũng giống như ngọn nến. Bạn tưởng tượng mình cũng tỏa ánh sáng ra chung quanh. Tất cả các lời nói, tư tưởng và hành động của bạn đi theo đủ mọi hướng. Nếu bạn nói câu nào tử tế, những lời đó cũng đi theo nhiều hướng, và bạn cũng đi cùng với chúng.

Chúng ta chuyển hóa và tiếp tục biểu hiện ở những hình thái khác vào mọi lúc. Sáng nay bạn nói điều gì không dễ thương với con bạn. Với những lời lẽ khó thương đó, bạn đi vào trong con. Nay bạn hối tiếc những lời đó. Không phải là bạn không thể chuyển hóa những lời đó bằng cách nhận lỗi với con, nhưng nếu bạn không làm vậy thì những lời khó thương kia sẽ ở với con bạn một thời gian dài.

Ba bình diện

Lúc này tôi đang viết một cuốn sách Phật pháp. Đó là sự hiểu biết của tôi và sự tu tập của tôi. Khi tôi viết một cuốn sách Phật pháp, tôi không đi theo chiều thẳng. Tôi đi vào bạn, và tôi được hóa thân dưới nhiều hình thức khác nhau trong bạn. Trong đạo Bụt chúng ta nói tới ba bình diện: thân, khẩu và ý, trong bất cứ giây phút nào của đời sống. Xin ráng nhìn và hiểu điều này. Bạn không cần phải đợi tới lúc thân thể tan rã mới bắt đầu cuộc tái sinh.

Mỗi giây phút chúng ta đều được sinh ra và chết đi. Chúng ta tái sinh ra không chỉ trong một hình tướng mà trong nhiều hình tướng. Tôi tưởng tượng tới một cái pháo. Khi bạn đốt pháo nó không đi theo chiều dọc mà đi theo nhiều hướng, ánh sáng tóe lên theo đủ các phương. Vậy, không nên nghĩ rằng bạn chỉ đi theo một hướng thôi. Bạn cũng giống như cái pháo. Bạn đi vào trong con cái, bạn bè và tất cả thế giới.

Buổi sáng khi ngồi thiền, hai bên tôi đều là các vị tăng sĩ. Tôi đã tái sinh trong họ khi ngồi thiền chung với họ. Nếu bạn nhìn kỹ bạn sẽ thấy tôi trong họ. Tôi không đợi tới lúc chết mới tái sinh. Tôi đang được tái sinh ngay lúc này, và tôi mong được tái sinh theo hướng tốt đẹp. Tôi muốn truyền cho các đệ tử tại gia và xuất gia của tôi những gì tốt đẹp, hạnh phúc nhất của đời tôi, để họ có đời tái sinh tốt đẹp cho tôi và cho họ.

Si mê, hờn giận và tuyệt vọng không nên tái sinh. Khi chúng được tái sinh, chúng chỉ mang tới cho thế giới thêm khổ đau và đen tối hơn mà thôi. Càng nhiều tình thương và hạnh phúc tái sinh càng tốt, vì nó sẽ làm cho thế giới hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn, dễ thương hơn.

Một ngày kia khi thức giấc, tôi nhớ tới một câu hát dân ca: “Cha mẹ tôi đã để cho tôi bao phước đức.” Đó là tính rộng rãi bao dung, tình thương, hạnh hỷ xả và khả năng đem vui tới cho mọi người. Cha mẹ tôi đã để lại gia tài quý báu cho tôi. Con cái là sự tiếp nối của chúng ta. Chúng ta là con trẻ và trẻ con cũng là chúng ta.  Nếu bạn có con, một hay nhiều đứa, là bạn đã tái sinh trong chúng rồi. Bạn có thể nhìn thấy sự tiếp nối của bạn nơi con cháu, nhưng bạn cũng nhìn thấy nhiều thân tiếp nối khác nữa. Sự tiếp nối xảy ra trong những người mà bạn tiếp cận. Và bạn không thể biết thân, khẩu và ý của bạn đã tiếp xúc được với bao nhiêu người.

Tặng hơi ấm và ánh sáng

Khi ngọn nến tỏa ánh sáng và hơi nóng ra chung quanh, thì ánh sáng và hơi nóng đó là tiếp nối của ngọn nến. Hai thứ đó đi ra ngoài nến theo chiều ngang. Muốn như vậy, ngọn nến phải cháy theo chiều dọc. Nếu không có chiều ngang thì không thể có chiều dọc, và nếu không có chiều dọc thì cũng không có chiều ngang.

Hãy tự hỏi: “Sau đây tôi sẽ đi tới đâu?” Hành động và lời nói mà chúng ta đang sản xuất ra lúc này đưa chúng ta đi trên một hướng thẳng. Nó cũng đưa ta đi theo chiều rộng khi nó tuôn chảy và có ảnh hưởng lên thế giới chung quanh ta. Chúng có thể làm cho thế giới tốt đẹp sáng sủa hơn. Sự tốt lành đó có thể đi vào tương lai. Chúng ta không nên chỉ nhìn con người chân thật của chúng ta theo chiều dọc mà thôi.

Khi tôi pha một bình trà ô-long, tôi bỏ lá trà vào ấm rồi đổ nước sôi lên. Năm phút sau là có trà để uống. Khi tôi uống, trà ô-long đi vào tôi. Tôi chế thêm nước sôi, làm ấm trà thứ hai và trà pha từ các lá trà kia tiếp tục đi vào trong tôi. Sau khi tôi lấy hết trà ra, còn lại trong ấm chỉ là bã trà. Những lá trà còn lại đó chỉ là một phần rất nhỏ của trà. Phần trà đi vào tôi lớn hơn nhiều, đó là phần tốt đẹp phong phú của trà.

Chúng ta cũng vậy. Tinh túy của chúng ta đã đi vào con cháu, bạn bè và tất cả vũ trụ. Chúng ta nên tìm mình trong những bình diện đó, đừng tìm trong bã trà. Tôi mời bạn nhìn vào những hóa sinh của bạn trong các hình tướng mà bạn nói không phải là bạn. Bạn phải nhìn thấy bạn trong những thân khác với thân bạn, gọi là ngoại thân.

Bạn không cần phải đợi tới khi lửa tắt mới tái sinh. Tôi được tái sinh nhiều lần trong ngày. Mỗi giây phút đều tái sinh. Sự tu tập của tôi là làm sao được tái sinh trong các biểu hiện mới, có thể mang tới ánh sáng, tự do và hạnh phúc cho thế giới. Trong phép tu tập, tôi không cho phép các hành động sai lầm được tái sinh. Nếu tôi có những ý nghĩ xấu hay nếu ngôn từ của tôi có sân hận trong đó, thì chúng sẽ tái sinh. Rất khó mà đuổi bắt chúng và cất chúng đi được. Chúng giống như ngựa phi. Chúng ta cần ngăn chặn không để cho thân, khẩu và ý đưa ta tới những hướng hành động, nói năng, và suy nghĩ bất thiện.

Vượt qua sinh tử

Nếu không có sinh diệt trong từng giây phút thì chúng ta không thể tiếp tục sống. Trong mọi lúc, nhiều tế bào trong cơ thể bạn phải chết đi để bạn tiếp tục sống. Không chỉ các tế bào mà tất cả các xúc cảm, tri giác, tâm hành trong dòng sông tâm thức đều sống chết mỗi phút giây.

Tôi nhớ có ngày một thân hữu đã mang tro của cha anh tới xóm thượng Làng mai. Anh xin được trải tro trên đường thiền hành và tôi đồng ý. Anh ta có thể nghĩ rằng cha anh chỉ để lại tro trên con đường đó. Nhưng thực ra, khi còn sống, ông đã đi thiền hành trên con đường này.  Chúng tôi làm lễ trải tro. Sau đó tôi nói với cả nhóm: “Mỗi chúng ta đều đã để lại thân thể của mình trên đường thiền hành này, không chỉ có người mới chết đây mới để lại tro. Mỗi khi thực tập thiền hành trên con đường này, chúng ta đều để lại nhiều tế bào.”

Khi nào bạn bị xước da cũng đều có hàng ngàn tế bào da đã chết rơi xuống đất. Khi bạn đi thiền hành, không những bạn để lại các tế bào da mà còn để lại trên đường cả những cảm thọ, nhận thức, và các tâm hành nữa. Dù cho bạn tới Làng Mai một giờ hay một tuần, sau khi bạn rời làng, bạn cũng đã để lại nhiều dấu vết. Những tế bào của bạn trên đường thiền hành trở thành cỏ và hoa dại. Các tiếp nối của thân bạn vẫn có mặt tại Làng Mai. Nó cũng có trong con cháu bạn, trong mỗi phần của trái đất. Khi ngọn lửa của cây nến đi tới phần chót của tim nến và tắt đi, nó vẫn có đó. Bạn không thể tìm được nó nếu chỉ nhìn theo bề dọc. Bạn phải tìm nó theo bề rộng nữa.

Trong truyền thống Tây Tạng, khi một vị đại sư chết, các tăng sĩ đợi khoảng hai năm rồi đi tìm biểu hiện thân mới của vị Thầy mình. Hóa thân được gọi là Tulku, theo tiếng Tây Tạng. Vị đại sư có thể để lại một bài thơ lúc sắp mất, trong đó người ta cho rằng có những ẩn dụ để họ tìm được hóa thân của Ngài. Dùng bài thơ đó các môn sinh của ông đi tìm một em bé có thể là đời sau của Thầy. Họ đi tới căn nhà đứa bé đang sống, mang theo nhiều vật dụng của Thầy họ vẫn dùng như chuông, tràng hạt, tách trà. Họ trộn lẫn các thứ đó với những đồ tương tự. Em bé phải lấy ra được những món đồ của vị Lạt Ma trước. Như vậy, em qua được thử thách và được coi như hóa thân của người chết. Các vị thầy tăng đồ đệ của vị Lạt Ma xưa, sẽ xin phép cha mẹ để mang em bé về tu viện để em sẽ trở thành Thầy của các thế hệ sau.

Truyền thống đó rất dễ thương. Các môn sinh thương quý ông thầy tới độ họ muốn giữ thầy lại với họ dù ông đã qua đời. Tôi thường nói với các bạn tôi tại Làng Mai rằng họ đừng chờ tới khi tôi chết mới đi tìm thân tiếp nối của tôi. Họ cần tìm tôi ngay lúc này vì tôi đã hóa thân ra thành nhiều thiếu nhi rồi. Nếu bạn đứng cạnh tôi bây giờ, bạn có nhìn thấy các em bé – những người con tinh thần của tôi bên cạnh đây không? Đó là các tiếp nối của tôi. Tôi có hàng trăm thân tiếp nối trong những người trẻ đang tiếp tục thực tập tỉnh thức. Nếu bạn nhìn bằng pháp nhãn, bạn sẽ thấy tôi đã tái sinh ra trong nhiều hình tướng.

Dù cho sách và Pháp thoại của tôi không được phép ấn hành tại Việt Nam, tôi vẫn có mặt. Các bài giảng của tôi vẫn được lưu hành rộng rãi, dù pháp luật không cho phép. Những người công an tịch thu sách tôi rồi đem về đọc lén. Người khác đem in chui. Tức là tôi tiếp tục ở Việt Nam. Có các tăng ni trẻ tu tập theo pháp môn tôi giảng dạy. Nếu bạn đi Việt Nam bạn sẽ thấy tôi ở đó. Cái thân tôi mà bạn nhìn thấy đây chỉ là một biểu hiện của tôi. Sự có mặt của tôi bên Việt Nam ảnh hưởng vào đời sống tinh thần, văn hóa và người trẻ bên đó. Ai nói rằng tôi không ở Việt Nam là người không có pháp nhãn.

Tôi đã giảng dạy trong nhà tù, và các cuốn sách của tôi được phát hành trong các trung tâm cải huấn Hoa Kỳ. Nhiều tù nhân đọc và thích thú. Một  hôm tôi viếng thăm một nhà tù có mức độ canh chừng cao nhất Mỹ, ở Maryland. Họ canh phòng nghiêm mật tới độ con kiến cũng khó lọt vô đó mà không bị phát hiện. Tôi dạy cho tù nhân cách sống tự do tại bất cứ nơi nào. Bài này đã được in thành tập sách mỏng. Nhiều bản in được phát cho tù nhân để họ có thể thực tập, mỉm cười và bớt đau khổ. Họ cố tìm niềm vui ngay cả trong đời sống tù tội. Và tôi biết nay tôi cũng đang ở trong nhà tù. Tất cả những tù nhân tiếp xúc được với giáo pháp của tôi đều là tiếp nối của thân tôi. Khi bạn nhìn tôi, xin đừng nhìn cái thân này mà nên nhìn ra ngoài.

Pháo bông

Nếu mỗi ngày bạn tập đi ra ngoài theo chiều rộng và tái sinh trong mỗi giây phút, thì bạn có thể tìm được bạn của tương lai trong bình diện rộng đó. Bạn giống như một cái pháo bông có thể tắt bất cứ lúc nào. Pháo bông tỏa vẻ đẹp của nó ra chung quanh. Với tư tưởng, lời nói và hành động, bạn có thể tỏa rạng vẻ đẹp ra ngoài. Vẻ đẹp và tính thiện đó sẽ đi vào bạn bè, con cháu bạn và đi vào thế giới. Nó không thể mất được, và bạn đi vào tương lai theo cách đó.

Nếu bạn nhìn vào mình theo phương pháp đó, bạn có thể thấy được tiếp nối của bạn trong tương lai. Bạn sẽ không bị vướng vào ý niệm bạn sẽ trở thành hư vô. Bạn sẽ không còn nghĩ rằng bạn không còn hiện hữu sau khi chết. Sự thật là bạn không còn hoài, nhưng bạn cũng không bị mất hết, trở thành hư vô.

Bạn có thể nhìn thấy bạn đã tái sinh trong từng phút giây thời quá khứ chăng?  Tất cả tổ tiên đang tiếp tục sống trong bạn, và khi bạn chuyển hóa tập khí mà họ đã truyền cho bạn tức là bạn đã được  tái sinh trong thời quá khứ rồi. Tỷ dụ như vì nhu cầu luôn luôn phải làm việc để sống còn, có thể  tổ tiên của bạn đã có tập khí luôn luôn chạy.  Họ không có thời gian để ngừng lại, thở và tiếp xúc với những mầu nhiệm mà cuộc sống dâng tặng. Bạn cũng thế, thường chạy như vậy. Nhưng nay bạn đã biết thực tập. Nay bạn có thể dừng lại, thở và tiếp xúc với các mầu nhiệm của đời sống thay cho tổ tiên. Có lẽ tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh của bạn cũng có những nét đẹp mà cha mẹ và vị thầy tâm linh của bạn đời này đã không biểu hiện ra hết được. Nay bạn có thể khám phá lại được những nét đẹp đó trong mình, và bạn làm sống lại những gì tưởng như đã mất. Đó cũng là sự tái sinh trong quá khứ.

Tôi biết một anh cựu chiến binh Mỹ đã qua Việt Nam. Các du kích quân đã giết đồng đội của anh và anh quyết định trả thù những người dân trong làng mà bạn anh đã chết. Anh ta làm thuốc nổ bằng bánh mì kẹp nhân và để bánh ở đầu làng. Mấy đứa trẻ tới đó, nhìn thấy bánh mì liền lấy ăn. Mấy phút sau, chúng quằn quại rên la vì đau đớn. Cha mẹ chúng chạy tới nhưng đã quá trễ. Đó là một làng hẻo lánh không có xe cứu thương và phương tiện y tế, và trẻ không được chở tới nhà thương kịp thời. Cả năm đứa bé đều chết.

Sau khi trở về Mỹ, người lính kia không thể nào quên được tội lỗi của mình. Mẹ anh anh ủi: “Con ơi, đó là những chuyện xảy ra khi có chiến tranh. Con không nên khổ tâm về chuyện ấy.” Nhưng anh vẫn rất đau khổ. Khi nào gặp trẻ em trong một căn phòng là anh chịu hết nổi, anh phải chạy ngay ra ngoài.

Trong một chuyến đi Hoa Kỳ, các cựu chiến binh Mỹ tổ chức một khóa tu dành riêng cho họ. Tôi dạy họ cách đi, cách thở để chuyển hóa sợ hãi, mặc cảm tội lỗi, và đau khổ. Tôi nói với cựu chiến binh trên: “Anh đã giết năm đứa trẻ, đó là chuyện thật, nhưng anh có thể cứu mạng hàng trăm trẻ khác. Anh có biết rằng hàng ngày có tới mười ngàn trẻ em bị chết vì thiếu thuốc men và thực phẩm hay chăng? Anh có thể đem thức ăn và thuốc tới cho một số trẻ đó.” Anh ta thực tập như tôi dạy, con người đó – hai mươi năm trước đã giết năm em nhỏ –  anh được tái sinh ngay lập tức trong quá khứ, trở thành con người cứu được hàng vài chục trẻ em.

Tập nhìn sâu như thế, những tiếc nuối, tự ty nơi bạn sẽ được chuyển hóa. Bạn sẽ có nguồn năng lượng mới, không chỉ tỏa sáng trong quá khứ mà còn tỏa sáng trong thời hiện tại và tương lai nữa.

(Thích Nhất Hạnh)