Giả như có một lần úp mặt vào lòng bàn tay suy ngẫm, ta sẽ thấy con người ngay từ lúc thoát thai đã chịu bất công: người rạng ngời tướng tốt ủ yên trong gấm vóc lụa là, kẻ đui què câm điếc lại còn sinh trong gia đình bần tiện. Xét ngang đây (tức cái nhìn trong một đời) thì bất cứ nỗi oan khuất đến với cá nhân trưởng thành nào trên quả địa cầu đều không đáng gì. Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi soi vào nhân duyên nghiệp báokhông chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứ và vị laiđược Đức Phật giải thích cặn kẽ.
Nếu bảo con người sống trên trái đất, là chưa đúng. Trái đất cũng chỉ là một hành tinh lơ lửng giữa trời, nên con người cũng đang trụ giữa hư không – mới đúng. Con người thực chất đang lơ lửng giữa trời. Nghĩa là con người ở trên trời, chứ không phải dưới đất để rồi bảo trời cao xa quá. Trên 28 tầng trời là cõi Phật. Trời, dĩ nhiên cao xa khôn lường. Nhưng chân tâm mỗi người vốn trọn đủ tam thiên đại thiên thế giới. Tâm càng sáng, bí mật “tối tăm” của vũ trụ càng hiển lộ quang minh. Con người là một cá thểriêng biệt – lý thuyết này khoa học hiện tại đã cười nhạo rồi. Mỗi cá thể nhỏ bé đến mấy cũng có mối liên hệ mật thiết với vũ trụ bao la. Vạn vật đồng nhất thể. Học giả James Gleick có nhận định rất triết lý qua hình ảnh: “Một cái đập cánh của con bướm hôm nay ở Bắc Kinh sẽ tạo ra trong không khí các cuộn xoáy có thể biến thành bão tố trong tháng sau tại New York”. Ngày xưa bão giật cấp 12, 13 đã ghê gớm lắm. “Siêu bão”, danh từ gọi những cơn bão có mức giật từ khoảng cấp 14 trở lên, mới chỉ xuất hiệnthời gian gần đây. Cấp giật của những cơn bão tăng lên, động đất nâng độ dư chấn, sóng thần dữ dội, là sự gia tăng của niệm lực xấu ác từ chúng sanh ở nhiều cảnh giới khác nhau. Sự chống đương nhiên có lợi, chỉ là lợi bất cập hại. Các vị cao tăng đại đức lúc giảng kinh thuyết pháp nhiều lúc cũng “nặng nhẹ” với chúng sinh; kẻ trí tự cao nghe qua hẳn sẽ gán đấy cũng là sự chống hồng trần tươi đẹp. Đâu hay lời ấy phát từ gương tâm trong suốt không mảy bụi trần. Còn “chống” bằng hành động nô lệ của ý niệm xấu từ lượng tâm ích kỷ nhỏ mọn, sẽ khiến thời-không thêm nhiễu loạn. Sự chống ấy cũng như luồng khí nóng tưởng sẽ làm cơn bão đang tiến vào suy yếu chẳng ngờ càng góp sức cho bão.
Ân sư của tôi dạy, kinh điển là tấm gương để chúng ta soi tâm hàng ngày. Con người tin sâu kinh điểngắng công tu tập sẽ nhận ra quy luật tự nhiên vi diệu. Kinh xét cho cùng đều lưu xuất từ tự tánh. Nếu kinh điển tam sao thất bổn, các vị chứng đạo đắc quả đã lên tiếng. Hoài nghi lời Phật chẳng khác tự ta dập tắt ngọn đuốc trên con đường dẫn về Niết-bàn giữa đêm trường tăm tối. Lành thay khi tôi gặp được Đức Phật. Tôi tin Đức Phật như tin ông bà cố mình trên bàn thờ (chưa một lần gặp mặt); họ truyền ngôn lại cho cha mẹ và giờ đây tôi tin hết thảy những di giáo đó. “Phật” là một từ trong vô số ngôn ngữ; cũng không hẳn là một cái tên. Khi ai đó nhìn thấu triệt về chân tướng vũ trụ nhân sinh, hậu thế phải tìm danh từ bao hàm nghĩa đó, nên chọn Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Phật). Ngày xưa nhà thắp đèn dầu, chỉ soi sáng những trang sách tôi căng mắt đọc. Khi điện kéo về làng, tôi nghĩ đó đã là ánh sáng siêu việt. Nhưng có lần mẹ tôi kể, thời xưa máy bay Mỹ thả những quả pháo sáng, cả xóm hiện ra như ban ngày, đến cái kim trong nhà cũng thấy. Tôi cũng chỉ lờ mờ tin. Được tiếp cận kinh điển, tôi nhớ lời mẹ, cảm nhận bước đầu về Vô lượng quang thường hằng chiếu rọi khắp các cõi. Bởi phiền não nghiệp chướng sâu dày nên chưa thể tiếp nhập hào quang Như Lai, nhưng tôi tin chắc điều đó – nó sẵn trong tâm mình như viên minh châu (bị bọc trong bùn nhơ đen đặc).
Học Phật không phải đọc hiểu bằng trí mà cần trải nghiệm. Trừ những vị Phật hay Bồ-tát trở lại cõi này “biểu diễn” hóa độ chúng sanh, còn tất thảy người tu, chưa ai đọc hết sách Phật trên địa cầu mà đại ngộbao giờ. Mức thấp nhất để hiểu Phật cũng phải cậy vào công phu chứ hoàn toàn không nương vào trí dẫu đó là một bộ óc siêu thường. Mỗi sinh mệnh chào đời đã bị ấm nghiệp lập trình sẵn tương lai. Muốn rẽ về miền sáng, điều trước tiên phải hạ thủ hành trì phá ngũ uẩn. Đào sâu vào kiến hay tư hoặc, mới hay chẳng những ta mê sắc ấm là mình; sắc ấy còn nối dài sự chấp trước bởi thọ ấm; rồi thọ làm nền cho tưởng như mặt biển ngỡ lặng sóng bình yên mà phía dưới lòng sâu cuồn cuộn dòng hải lưu nghiệp thức của hành và thức ấm, cuốn ta quay mãi hoài trong luân hồi khổ não. Không cứ tu theo pháp mônnào, hễ người có công phu chí ít cũng phá lớp sóng thô vọng tưởng chấp trước, phá một phần sắc thọ và “tạm dừng” tưởng ấm. Có một điều ngỡ một song hoàn toàn khác biệt, đó là: thay vì diệt vọng tưởng, chỉ nên chú tâm vào câu Phật hiệu. Diệt vọng tưởng là ảo tưởng, còn chú tâm vào Phật hiệu tự khắc vọng tưởng sẽ héo. Hành giả thuộc Tịnh tông chuyên niệm Phật, đến giai đoạn hễ ý niệm, hình ảnh nào trồi lên ngay lập tức câu “A-di-đà Phật” từng chuỗi mạnh mẽ vang lên dứt khoát, tưởng ấm do vậy sẽ hoạt động một cách yếu ớt. Cũng xem như câu Phật hiệu được gắn sẵn trong tâm, tự nó vận hànhmạnh mẽ.
Người ta vẫn thắc mắc: ngày nay phi thuyền đã bay thấu trời xanh vẫn không thấy cõi Cực lạc ở đâu. Thực tế, chúng ta nhìn mặt trăng mặt trời to bằng quả bóng thì ngược lại, ở mặt trăng trái đất cũng nhỏ như vậy. Nếu phi thuyền bay ra ngoài không gian thì trái đất chưa lớn bằng một hạt bụi. Con cá ở đại dương mênh mông, dĩ nhiên nó sẽ phán chuyện con người chỉ thở bằng không khí là hoang đường. Cũng như nhiều người khó thể tin cùng không gian ở trái đất, lại “dung chứa” vô vàn cảnh giới khác nhau; các cảnh giới đan lồng, chồng lên nhau song cảnh giới này không phương hại cảnh giới khác. Cũng như trong ti-vi bật kênh này là đại dương dội sóng, kênh khác lại đang phát cảnh núi lửa phun trào, và hàng trăm cảnh giới khác cùng tồn tại (trong “cái hộp” ấy) mà ti-vi vẫn như như bất động. Khoa học phát hiện không gian đa chiều, dẫu sao vẫn mang tính lý thuyết, chưa thể thâm nhập. Tu đạt tâm tuyệt tĩnh, chính người đó câu thông với vũ trụ, thấy, biết và có thể sống ở bất cứ không gian nào.
Hiện bày chân tướng của vũ trụ, Phật pháp không hạn hẹp trong kinh điển, trong chùa chiền và trong bản thân các vị chân tu. Hễ điều gì tương ưng với chân tướng vũ trụ ấy thì đó chính là Phật pháp (dẫu toàn thể bản chất của nó không hẳn là Chánh pháp). Đạo Phật bao hàm hầu hết kiến trúc thượng tầng của xã hội loài người. Từ đạo đức, mỹ học, kiến trúc, văn học, tâm lý học, triết học, khoa học, nhân tướng học, y học v.v. Hiện giờ khoa học lượng tử đã giải mã được những bí mật tự nhiên, còn khiêm tốn song cơ bản có thể sửa đổi “giáo trình” triết thuyết về vũ trụ nhân sinh. Thật ngạc nhiên ấy là những điều Phật đã thuyết giảng. Vậy xem như đỉnh cao của khoa học hiện đại vẫn tụt hậu gần ba ngàn năm; nếu không muốn nói là tụt hậu vĩnh viễn, bởi khoa học (chỉ dụng Trí nên) không thể “chứng quả” – thấu triệt về vũ trụ.
* * *
Không ai có đôi mắt sáng lại nhắm mắt mà đi, tuy nhiên mắt sáng cũng không thể nhìn thấu kiếp mình nếu tâm thức mù lòa. Cõi Cực lạc xa vạn ức trình thăm thẳm, lại có ở ngay trong chính mỗi cá thể một khi tin nhận và hành đúng lời Phật dạy hiển lộ tự tánh. Không ngọn đèn nào soi tỏ vùng bí mật dưới chân nó; không lý gì ta cứ phải nhìn thấu gầm trời mới bước đi. Học Phật là học định tâm phát tuệ, nên thậm chí có thể nhắm mắt bịt tai mà hành. “Bịt tai” để nghe diệu âm Như Lai trong vũ trụ, và “nhắm mắt” để thấy hào quang Đức Phật rọi vào nơi tối-tăm-vi-diệu nhất của đời mình.
Có một nỗi day dứt khôn nguôi: tại sao Đức Phật dang tay đón tôi? Một người si mê bao nỗi, từng đi ngược lại ý hướng thuần thiện nhân bản, cũng từng hành theo tà đạo lại tưởng là pháp tối thượng. Nhân duyên gặp được pháp Đức Phật mới hay, Ngài không bỏ một ai, luôn chắt chiu từng cơ hội nhỏ hướng tha nhân về miền sáng tinh khôi của sự an lạc. Hẳn đây là câu nói quan trọng nhất của Đức Phật: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng Như Lai, do vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”.
Thông điệp này vượt lên tất cả mọi giáo lý tâm linh. Một khi (vốn dĩ) có Phật tánh, bất cứ ai lâm vào ngõ cụt, lâm vào hố thẳm cũng đều có cơ may nhìn thấy ánh sáng của sự giải thoát. Ý nghĩ này vụt hiện, điều ngáng trở ta thành đạo là: vọng tưởng và chấp trước. Ở đây xin đề cập đến vọng tưởng, bởi hễ vọng tưởng ít đi, chấp trước sẽ tự giảm bớt, dẫu rằng vọng tưởng và chấp trước đang bàn chỉ ở dạng thô phù và chưa phải hướng đến pháp nhất chân. Trên lý nhất tâm trong Tịnh độ, vọng tưởng có thể được định nghĩa: khi ta trụ lại ở câu hồng danh “A-di-đà Phật”, thì mọi ý nghĩ hình ảnh chạy qua đầu đều là vọng tưởng. Ai từng hành thiền hay niệm Phật mới thấu, để quét sạch vọng tưởng, gần như là… vô vọng. Thế nên, thay vì điều phục, diệt trừ, đè nén vọng tưởng, hành giả chỉ việc chú tâm vào câu Phật hiệu. Công phu tối thiểu là tâm tự khởi câu hồng danh vào bất cứ lúc nào đầu óc không suy nghĩ công việc, sau đó thì niệm thành chuỗi 5 câu, 10 câu để kết thành phiến, thành khối. Phật hiệu được nuôi lớn khỏe mạnh, vọng tưởng sẽ héo tàn một cách tự nhiên như cỏ dại bị rút kiệt nguồn sống. Buông vọng tưởng chấp trước như ta vô tình làm rơi vỡ một viên ngọc quý giá vô ngần mà tâm không móng khởi luyến tiếc. Vọng tưởng ít chân tâm càng hiển lộ. Chân tâm chưa tỏa rạng quang minh, vạn sự vạn vật ở trong và ngoài thân đều huyễn ảo mịt mờ.
Bản thân thật quá xấu hổ khi đứng trước Đức Phật. Hiểu Phật, tôi không hề cầu mong bất cứ điều gì. Lạy Phật, niệm Phật cũng không hề có ý nghĩ cầu cho mình sức khỏe sống lâu, không nhờ đó mà cầu danh vị tiền tài. Nó ngược với chân tâm, ngược với bổn hoài ba đời chư Phật. Kinh điển khai tâm mở não cho tôi thấy trên đời hết thảy chỉ là một giấc mộng lớn, đều hoại diệt bất cứ lúc nào kể cả xác thân bất tịnh. Một khi nhận ra trong tôi có Phật tánh (bình đẳng như mọi người), cũng là lúc tôi biết, đối trước tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm-phù-đề, tôi đều phải cung kính như đối diện với Phật. Do thói quenhuân tập lâu ngày trở thành “bản chất”, đâu ngờ bổn tánh ở mỗi chúng sanh vẫn không hề nhuốm bụi trần ai. Đó sao có thể gọi là kẻ xấu ác cho được. Người cha dẫu suốt đời phương hại chúng sanh thì trong sâu thẳm đứa con ông ta vẫn là người nặng nghĩa ơn sâu. Càng cảm thương đối với những người tạo ác nghiệp. Họ đã chịu thiệt thòi đóng vai phản diện. Cuộc đời là một vở tuồng kinh điển. Xem tuồng, không lý tôi lại thù hận diễn viên trong vai kẻ “sát nhân”…
Ba tôi, một người hiền lành nhân hậu, suốt đời dạy dỗ bao thế hệ học trò thành đạt, lại phải nằm rất lâu trước lúc từ giã cõi đời. Tôi nghĩ nếu để chịu đựng một ngày lâm bệnh của ba thôi cũng khó. Nhưng ba đã đổi lấy sự đau đớn tột cùng, đổi lấy thọ mạng ngắn ngủi để dạy bài học vô thường vĩnh viễn, để tôi biết mau chóng quay về nẻo thiện. Vai diễn của ba quá đạt, khiến tôi cảm sâu hơn về lời dạy của Phật, khiến tôi hiểu ai cũng nên gắng tu như lửa cháy trên đầu, như ma đuổi sau lưng và phía trước là hố thẳm.
Đức Phật từng hàng ngàn lần âm thầm trở lại cõi ta-bà trong vai những chúng sanh lạc lối, tỉnh ngộ mà giác ngộ. Và mãi mãi về sau Ngài vẫn không mệt mỏi sắm vai trên sân khấu ác trược buông xuống vạn duyên thẳng về bờ giác để mong một ngày ai đó sẽ lần theo những dấu chân ấy ra khỏi nguồn mê.
Thật tự hào nếu được là học trò của Phật Thích-ca, một vị Thầy thấu tỏ, siêu việt mười pháp giới, đã thiết nguyện khuyến nhủ muôn người hướng về Cực lạc thế giới. Nghẹn ngào thay khi xưng tụng hồng danh Đức Từ Phụ. Tên của Ngài chính là căn mạng đời tôi. Thật tự hào nếu mỗi ngày mở mắt lại được niệm “A-di-đà Phật”. Tha thiết niệm. Niệm đến ứa nước mắt kiệt cùng huyết máu. Chính lúc đó tôi không cô đơn buồn tủi, không chạy trốn khỏi chiều thời gian hạn hữu kiếp người.
(Nhụy Nguyên
Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2017 | Số 276 ngày 1-7-2017)