Xưa kia, Lư Khâu Dận xuất quân tại Mục Đan Khâu. Ngày lâm trận, chợt bị nhức đầu dữ dội, mà các thầy thuốc không có cách nào chữa trị.

May mắn thay, ông gặp một thiền sư, hiệu là Phong Can, tự bảo rằng từ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, đặc biệt tìm đến đó. Lư Khâu Dận bèn nhờ Thiền Sư chữa bịnh. Thiền Sư thong thả bảo: 

– Thân trú nơi bốn đại. Bịnh từ huyễn sanh. Nếu muốn trừ khử, hãy uống nước tịnh. 

Khi đem nước tịnh lên, thiền sư ngậm rồi phun nước, sắn tay áo lên, bảo: 

– Chim biển Thai Châu rất độc. Từ nay, phải nên bảo trọng. 

Sau đó, Lư Khâu Dận hỏi: 

– Nơi đây có bậc thánh hiền nào đáng để cung kính thờ làm thầy chăng?  

Thiền Sư đáp: 

– Thấy mà không nhận ra. Nhận ra mà không thấy. Nếu muốn thấy, chớ nên chấp tướng. Hàn Sơn vốn là ngài Văn Thù, ẩn tích nơi chùa Quốc Thanh. Thập Đắc tức là ngài Phổ Hiền, dạng trạng như kẻ bần cùng điên cuồng, hoặc đến hoặc đi, đang làm lụng trong bếp tại chùa Quốc Thanh. 

Nói xong, Thiền Sư liền cáo từ. Sau này Lư Khâu Dận làm quan, đến nhậm chức tại Thai Châu. Vì nhớ đến lời của thiền sư Phong Can năm xưa, nên vừa nhậm chức ba ngày, ông tìm đến các tự viện, cung kính vấn hỏi chư thiền đức. Quả nhiên hợp với những lời nói xưa kia của thiền sư Phong Can. Ông đến chùa Quốc Thanh, hỏi tăng chúng rằng thiền sư Phong Can cùng Hàn Sơn Thập Đắc, hiện đang trú nơi đâu. Khi ấy, có vài vị tăng cười ngây ngất, bảo: 

– Thiền sư Phong Can đang trú đằng sau tàng kinh tạng. Nơi đó, không ai đến được vì có hổ dữ thường quanh quẩn. Hai ông Hàn Sơn và Thập Đắc, hiện đang nấu nướng trong bếp. 

Nói xong, tăng chúng dẫn Lư Khâu Dận đến viện của thiền sư Phong Can. Mở cửa phòng ra, chỉ thấy dấu chân hổ. Khi họ vào nhà bếp, thấy hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc, chỉ tay về hướng họ mà cười to. Lư Khâu Dận liền lễ bái. Hàn Sơn và Thập Đắc cầm tay nhau, cười ha hả, và la to:  

– Phong Can lắm lời. Di Đà không nhận ra, sao lễ lạy chúng tôi? 

Tăng chúng tụ hợp, kinh ngạc vì thấy một vị thượng quan lại đi lễ lạy hai ông tăng điên khùng. Lúc đó, Hàn Sơn và Thập Đắc nắm tay nhau, bước ra khỏi chùa, rồi chạy vào núi tuyết. Lư Khâu Dận lại hỏi tăng chúng:  

– Hai vị này thường trú ở chùa này phải không?  

Hỏi xong, ông cho người đi tìm, thỉnh hai Ngài trở về chùa. Trở về dinh, ông mang hai bộ tịnh y ca sa, bày biện hương dược đặc biệt, cùng bao loại thức ăn, rồi mang vào núi cúng dường. Lúc đó, hai vị đại sĩ vẫn không chịu trở về chùa. Vừa thấy ông quan đến, hai ngài bèn hô to: 

– Giặc! Giặc! 

Hô xong, hai ngài lại nắm tay nhau, vừa chạy vào núi sâu, vừa bảo: 

– Này quý vị! Mỗi người phải tự nỗ lực tu hành. 

Nói xong, hai ngài chạy mất vào núi, không để dấu vết, khiến chẳng ai tìm được. 

Tăng chúng trong chùa, khi xem xét lại hành trạng hằng ngày của hai vị thì thấy thơ kệ, được viết đầy dẫy trên những vách đá nơi vườn trúc sau chùa, và trên các tường vách tại những nơi thờ thần hoàng thổ địa, cùng hơn ba trăm bài kệ trên những bức tường nhà cửa dân làng. Tăng chúng góp nhặt lại những bài thi kệ đó, rồi đóng thành một quyển, để lại cho đến nay. Theo lời của ngài Hàn Sơn thì: 

“Năm lời năm trăm thiên; bảy chữ, bảy mươi chín; ba chữ ba mươi mốt. Tất cả cộng thành sáu trăm bài kệ. Những lời viết trên đá thạch, tự khoe chữ viết rất hay. 

Nếu lãnh hội thơ của Ta, chân chánh là mẹ của Như Lai… Nhà có thơ Hàn Sơn, hơn cả kinh kệ. Thư để trên tấm bình phong, thời thời nên xem một biến”. 

Ngài Thập Đắc viết: 

“Có kệ có muôn ngàn 
Gấp gáp ứng đáp khó 
Nếu muốn hiểu thấu rõ  
Nên vào núi Thiên Thai  
Trong hang sâu ngồi tọa   
Thuyết lý và đàm huyền  
Cùng Ta không thể gặp  
Tựa đối diện ngàn núi”.  

Thơ kệ của hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc được lưu truyền cho đến ngày nay, mà người người đều tôn trọng. Nhà nho cũng có nhiều người thích đọc tụng. Hai ngài xuất khẩu thành thơ, lời lời đều đàm huyền thuyết lý. Song, hai ngài bảo rằng không nên chuyển văn làm thơ vận để đọc tụng. Nếu làm thì tuy đối diện với hai ngài, nhưng vẫn như cách xa ngàn núi. 

 

HT. Hư Vân – Trích Đường Mây Trên Đất Hoa.