1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

QUYỂN 379

LXVII. PHẨM PHÁP NGHĨA VÔ TẠP 02

Đại Bồ-tát đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến tự tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với địa giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của địa giới cho đến tự tánh của thức giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với Nhân duyên không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của Nhân duyên cho đến tự tánh của Tăng thượng duyên đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với vô minh không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của vô minh cho đến tự tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bố thí Ba-la-mật-đa không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với pháp không nội không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của pháp không nội cho đến tự tánh của pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bốn niệm trụ không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tự tánh của tám chi thánh đạo đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với pháp môn giải thoát không không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của pháp môn giải thoát không cho đến tự tánh của pháp môn giải thoát vô nguyện đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với Thánh đế khổ không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của Thánh đế khổ cho đến tự tánh của Thánh đế đạo đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bốn tịnh lự không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bốn tịnh lự cho đến tự tánh của bốn định vô sắc đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với tám giải thoát không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của tám giải thoát cho đến tự tánh của mười biến xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với bậc Cực hỷ không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của bậc Cực hỷ cho đến tự tánh của bậc Pháp vân đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với năm loại mắt không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với sáu phép thần thông không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của năm loại mắt, tự tánh của sáu phép thần thông đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với mười lực Phật không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của mười lực Phật cho đến tự tánh của mười tám pháp Phật bất cộng đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với pháp không quên mất không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với tánh luôn luôn xả không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của pháp không quên mất, tự tánh của tánh luôn luôn xả đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với trí nhất thiết không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của trí nhất thiết cho đến tự tánh của trí nhất thiết tướng đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với quả Dự lưu không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của quả Dự lưu cho đến tự tánh của quả vị Độc giác đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ-tát đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát không hành, không đắc, không nói, không chỉ; đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ.

Đại Bồ-tát lấy sự không hành, không đắc, không nói, không chỉ như thế làm vô sở đắc, chính cái vô sở đắc ấy gọi là ly sanh.

Này Thiện Hiện! Đó gọi là sanh và ly sanh của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát chứng nhập bậc Chánh tánh ly sanh rồi, viên mãn tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Đại Bồ-tát ấy còn chẳng theo thế lực của định mà sanh, huống là theo thế lực phiền não như tham v.v… Đại Bồ-tát ấy nếu an trụ trong đây mà tạo tác các nghiệp và do thế lực của nghiệp sanh bốn tịnh lự, lưu chuyển trong các thú là điều không có. Đại Bồ-tát ấy tuy an trụ trong các nhóm hành như huyễn, làm các điều lợi ích như thật cho các hữu tình, nhưng chẳng đắc huyễn và các hữu tình. Đại Bồ-tát ấy khi đối với các việc vô sở đắc như thế, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh.

Này Thiện Hiện! như thế, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể mau viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa vô tướng; do tịnh lự Ba-la-mật-đa mau viên mãn này, nên chóng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh; pháp luân như thế gọi là vô sở đắc, cũng gọi là không, vô tướng, vô nguyện, có khả năng làm lợi ích vô cùng cho các hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy như thật rõ biết tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa rồi, có thể viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô tướng.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát như thật rõ biết tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, chẳng nghe tiếng vang, chẳng thấy người nghe tiếng vang, chẳng thấy ảnh tượng, chẳng thấy người thấy ảnh tượng, chẳng thấy bóng sáng, chẳng thấy người thấy bóng sánh, chẳng thấy bóng nắng, chẳng thấy người thấy bóng nắng, chẳng thấy trò huyễn, chẳng thấy người thấy trò huyễn, chẳng thấy ảo thành, chẳng thấy người thấy ảo thành, chẳng thấy việc biến hóa, chẳng thấy người thấy việc biến hóa. Vì sao? Vì mộng và người thấy mộng, tiếng vang và người nghe tiếng vang, ảnh tượng và người thấy ảnh tượng, bóng sáng và người thấy bóng sáng, bóng nắng và người thấy bóng nắng, trò huyễn và người thấy trò huyễn, ảo thành và người thấy ảo thành, việc biến hóa và người thấy việc biến hóa đều là sự chấp trước điên đảo của phàm phu ngu si. Các bậc A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thấy mộng, cũng chẳng thấy người thấy mộng, đều chẳng nghe tiếng vang, cũng chẳng thấy người nghe tiếng vang, đều chẳng thấy ảnh tượng, cũng chẳng thấy người thấy ảnh tượng, đều chẳng thấy bóng sáng, cũng chẳng thấy người thấy bóng sánh, đều chẳng thấy bóng nắng, cũng chẳng thấy người thấy bóng nắng, đều chẳng thấy trò huyễn, cũng chẳng thấy người thấy trò huyễn, đều chẳng thấy ảo thành, cũng chẳng thấy người thấy ảo thành, đều chẳng thấy việc biến hóa, cũng chẳng thấy người thấy việc biến hóa. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, chẳng phải thật có tánh và Niết-bàn … Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, chẳng phải thật có tánh và Niết-bàn v.v… thì tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp khởi tưởng có tánh, tưởng thành, tưởng thật, có tướng, có tác, tưởng thật có tánh, chẳng phải tưởng tịch diệt? Nếu khởi các tưởng ấy thì đó là điều không có. Vì sao? Vì nếu tất cả pháp có một chút tự tánh, có thành, có thật, có tướng, có vi, có thật tánh, chẳng phải tịch diệt, mà có thể nắm bắt được thì đối tượng tu hành là Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, lẽ ra chẳng phải là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Như thế, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng chấp trước nhãn giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng chấp trước sắc giới, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng chấp trước nhãn thức giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng chấp trước nhãn xúc, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng chấp trước địa giới, chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới;  chẳng chấp trước nhân duyên, chẳng chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng chấp trước các pháp do duyên sanh ra; chẳng chấp trước vô minh, chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não; chẳng chấp trước Dục giới, chẳng chấp trước Sắc, Vô sắc giới; chẳng chấp trước bốn tịnh lự, chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng chấp trước bốn niệm trụ, chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng chấp trước Thánh đế khổ, chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng chấp trước pháp không nội, chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng chấp trước chơn như, chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng chấp trước tám giải thoát, chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng chấp trước bậc Cực hỷ, chẳng chấp trước bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng chấp trước năm loại mắt, chẳng chấp trước sáu phép thần thông; chẳng chấp trước mười lực Phật, chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng chấp trước pháp không quên mất, chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả; chẳng chấp trước trí nhất thiết, chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng chấp trước quả Dự lưu, chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa do chẳng chấp trước nên có thể viên mãn sơ địa mà ở trong ấy chẳng sanh tham trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát chẳng đắc sơ địa thì làm sao ở trong ấy khởi tham trước. Do chẳng tham trước nên có thể viên mãn đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục, đệ thất, đệ bát, đệ cửu, đệ thập địa, nhưng ở trong đó chẳng sanh tham trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy chẳng đắc đệ nhị cho đến đệ thập địa thì làm sao ở trong đó khởi tham trước. Đại Bồ-tát ấy tuy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng chẳng đắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa; do chẳng đắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên cũng chẳng đắc tất cả pháp; tuy quán Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ tất cả pháp, nhưng đối với pháp ấy hoàn toàn không sở đắc. Vì sao? Vì các pháp như thế cùng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này không hai, không khác. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp chẳng thể phân biệt, nói là chơn như, nói là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì pháp nghĩa không xen tạp, không sai biệt vậy.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tánh của tất cả pháp đều không xen tạp, không sai biệt thì tại sao có thể nói là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, đủ vô lượng pháp môn như thế?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Trong thật tánh của tất cả pháp, có pháp nào có thể nói là thiện là phi thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, như thế, cho đến là quả Dự lưu, là quả Nhất lai, là quả Bất hoàn, là quả A-la-hán, là quả vị Độc giác, là các hạnh Đại Bồ-tát, là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

– Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên biết, tất cả pháp không xen tạp, không sai biệt, không tướng, không sanh, không diệt, không ngại, không nói, không chỉ. Thiện Hiện nên biết, ta khi xưa tu hành đạo Bồ-tát, đối với tự tánh của pháp, hoàn toàn không có sở đắc, đó là hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc nhân duyên, hoặc đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; hoặc pháp do duyên sanh ra; hoặc vô minh, hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não; hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới; hoặc thiện, hoặc phi thiện, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, như thế cho đến, hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, hoặc các hạnh Đại Bồ-tát, hoặc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Đối với tự tánh của các pháp như thế, đều không có sở đắc.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề nhiệm mầu, sắp chứng quả vị giác ngộ cao tột, thường nên khéo biết tự tánh các pháp. Nếu thường khéo biết tự tánh các pháp thì có khả năng khéo thanh tịnh đạo đại Bồ-đề, cũng có khả năng viên mãn các hạnh Bồ-tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, an trụ pháp ấy, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, dùng pháp ba thừa, phương tiện điều phục các loại hữu tình, khiến mau được giải thoát ba cõi.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc là phương tiện, nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có khả năng mau viên mãn tất cả Phật pháp.

LXVIII. PHẨM TƯỚNG CÁC CÔNG ĐỨC 01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Làm sao các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa hoàn toàn không thật có, đều lấy vô tánh làm tự tánh, tự tướng đều rỗng không, mà có thể an lập là thiện, là phi thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, như thế, cho đến, là quả Dự lưu, là năng chứng quả Dự lưu, là quả Nhất lai, là năng chứng quả Nhất lai, là quả Bất hoàn, là năng chứng quả Bất hoàn, là quả A-la-hán, là năng chứng quả A-la-hán, là quả vị Độc giác, là năng chứng quả vị Độc giác, là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, là năng chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Phàm phu ngu si ở thế gian thấy mộng, thấy người thấy mộng, nghe tiếng vang, thấy người nghe tiếng vang, thấy ảnh tượng, thấy người thấy ảnh tượng, thấy bóng sáng, thấy người thấy bóng sánh, thấy bóng nắng, thấy người thấy bóng nắng, thấy trò huyễn, thấy người thấy trò huyễn, thấy ảo thành, thấy người thấy ảo thành, thấy việc biến hóa, thấy người thấy sự biến hóa. Các phàm phu ngu si không học hỏi ấy thấy mộng, thấy người thấy mộng rồi, nghe tiếng vang, thấy người nghe tiếng vang rồi, thấy ảnh tượng, thấy người thấy ảnh tượng rồi, thấy bóng sáng, thấy người thấy bóng sáng rồi, thấy bóng nắng, thấy người thấy bóng nắng rồi, thấy trò huyễn, thấy người thấy trò huyễn rồi, thấy ảo thành, thấy người thấy ảo thành rồi, thấy việc biến hóa, thấy người thấy sự biến hóa rồi, điên đảo chấp trước tạo ra việc làm thiện, việc làm bất thiện về thân, ngữ, ý, tạo ra việc làm phước, việc làm phi phước, việc làm bất động về thân, ngữ, ý. Do các việc làm ấy nên qua lại sanh tử, lưu chuyển vô cùng.

Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai pháp không là rốt ráo và không biên giới, an trụ trong hai pháp không rốt ráo và không biên giới ấy, vì hữu tình kia, tuyên thuyết chánh pháp, nghĩa là nói như thế này: Các ngươi nên biết sắc là không, không có ngã, ngã sở, thọ, tưởng, hành, thức là không, không có ngã, ngã sở; nhãn xứ là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, không có ngã, ngã sở; sắc xứ là không, không có ngã, ngã sở, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, không có ngã, ngã sở; nhãn giới là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không, không có ngã, ngã sở; sắc giới là không, không có ngã, ngã sở, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không, không có ngã, ngã sở; nhãn thức giới là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không, không có ngã, ngã sở; nhãn xúc là không, không có ngã, ngã sở, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không, không có ngã, ngã sở; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, không có ngã, ngã sở, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không, không có ngã, ngã sở; địa giới là không, không có ngã, ngã sở, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, không có ngã, ngã sở; nhân duyên là không, không có ngã, ngã sở, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là không, không có ngã, ngã sở; các pháp do các duyên này sanh ra là không, không có ngã, ngã sở; vô minh là không, không có ngã, ngã sở, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não là không, không có ngã, ngã sở; pháp hữu lậu là không, không có ngã, ngã sở, pháp vô lậu là không, không có ngã, ngã sở; pháp hữu vi là không, không có ngã, ngã sở, pháp vô vi, là không, không có ngã, ngã sở. Lại nói thế này, các ngươi nên biết, sắc như mộng hoàn toàn không có tự tánh, thọ, tưởng, hành, thức như mộng hoàn toàn không có tự tánh; sắc như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thọ, tưởng, hành, thức như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xứ như mộng hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như mộng hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xứ như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; sắc xứ như mộng hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như mộng hoàn toàn không có tự tánh; sắc xứ như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh; nhãn giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; sắc giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh; sắc giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn thức giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh; nhãn thức giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xúc như mộng hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như mộng hoàn toàn không có tự tánh; nhãn xúc như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như mộng hoàn toàn không có tự tánh, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như mộng hoàn toàn không có tự tánh; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; địa giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh, thủy, hỏa, phong, không, thức giới như mộng hoàn toàn không có tự tánh; địa giới như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, thủy, hỏa, phong, không, thức giới như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; nhân duyên như mộng hoàn toàn không có tự tánh, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như mộng hoàn toàn không có tự tánh; nhân duyên như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; pháp từ duyên sanh như mộng hoàn toàn không có tự tánh, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; vô minh như mộng hoàn toàn không có tự tánh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não như mộng hoàn toàn không có tự tánh; vô minh như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu não như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu lậu như mộng hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô lậu như mộng hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu lậu như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô lậu như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu vi như mộng hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô vi như mộng hoàn toàn không có tự tánh; pháp hữu vi như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh, pháp vô vi như tiếng vang cho đến như việc biến hóa, hoàn toàn không có tự tánh; lại nói thế này, các ngươi nên biết, trong đó, không có sắc, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức; không có nhãn xứ, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không có sắc xứ, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không có nhãn giới, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; không có sắc giới, cũng không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; không có nhãn thức giới, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; không có nhãn xúc, cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; không có địa giới, cũng không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có nhân duyên, cũng không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; không có các pháp do các duyên sanh ra; không có vô minh, cũng không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não; không có pháp hữu lậu, cũng không có pháp vô lậu; không có pháp hữu vi, cũng không có pháp vô vi; không có mộng, cũng không có người thấy mộng; không có tiếng vang, cũng không có người nghe tiếng vang; không có ảnh tượng, cũng không có người thấy ảnh tượng; không có bóng sáng, cũng không có người thấy bóng sáng; không có bóng nắng, cũng không có người thấy bóng nắng; không có trò huyễn, cũng không có người thấy trò huyễn; không có ảo thành, cũng không có người thấy ảo thành; không có việc biến hóa, cũng không có người thấy việc biến hóa. Lại nói thế này, các ngươi nên biết, tất cả pháp ấy đều không thật có, đều lấy vô tánh làm tự tánh; vì sức hư vọng phân biệt của các ngươi nên trong cái không có sắc thấy có sắc, trong cái không có thọ, tưởng, hành, thức thấy có thọ, tưởng, hành, thức; trong cái không có nhãn xứ thấy có nhãn xứ, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; trong cái không có sắc xứ thấy có sắc xứ, trong cái không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; trong cái không có nhãn giới thấy có nhãn giới, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; trong cái không có sắc giới thấy có sắc giới, trong cái không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thấy có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; trong cái không có nhãn thức giới thấy có nhãn thức giới, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; trong cái không có nhãn xúc thấy có nhãn xúc, trong cái không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thấy có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; trong cái không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thấy có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, trong cái không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thấy có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; trong cái không có địa giới thấy có địa giới, trong cái không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới thấy có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; trong cái không có nhân duyên thấy có nhân duyên, trong cái không có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thấy có đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; trong cái không có các pháp từ duyên sanh ra, thấy có các pháp từ duyên sanh ra; trong cái không có vô minh thấy có vô minh, trong cái không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thấy có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; trong cái không có pháp hữu lậu thấy có pháp hữu lậu, trong cái không có pháp vô lậu thấy có pháp vô lậu; trong cái không có pháp hữu vi thấy có pháp hữu vi, trong cái không có pháp vô vi thấy có pháp vô vi. Lại nói thế này, các ngươi nên biết, tánh của tất cả pháp uẩn, giới, xứ v.v… đều từ các duyên hòa hợp kiến lập điên đảo mà khởi, nhiếp thọ trong các nghiệp dị thục. Các ngươi vì sao đối với pháp hư vọng không thật, mà khởi tưởng có thật ấy!

Khi ấy, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, nếu các hữu tình có xan tham thì phương tiện cứu vớt, khiến lìa xan tham; các hữu tình ấy, lìa xan tham rồi, dạy cho tu bố thí Ba-la-mật-đa. Các hữu tình ấy, do bố thí nên được tài lộc lớn, phú quí tự tại. Lại từ đó, phương tiện cứu vớt, dạy tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, vì do tịnh giới, các hữu tình ấy được sanh vào đường thiện tôn quí tự tại. Lại từ đó, phương tiện cứu vớt, dạy tu an nhẫn Ba-la-mật-đa; các hữu tình ấy vì do an nhẫn nên có thể mau đạt được Vô sanh pháp nhẫn. Lại từ đó, phương tiện cứu vớt, dạy tu tinh tấn Ba-la-mật-đa; các hữu tình ấy, vì do tinh tấn nên đối với các thiện pháp không còn thối chuyển cho đến quả vị giác ngộ cao tột. Lại từ đó, phương tiện cứu vớt, dạy tu tịnh lự Ba-la-mật-đa; các hữu tình ấy, vì do tịnh lự nên được sanh vào phạm thế, an trụ tự tại trong sơ thiền; từ sơ thiền, phương tiện cứu vớt, lại khiến an trụ đệ nhị thiền; từ đệ nhị thiền, phương tiện cứu vớt, khiến an trụ đệ tam thiền; từ đệ tam thiền, phương tiện cứu vớt, lại khiến an trụ đệ tứ thiền; từ đệ tứ thiền, phương tiện cứu vớt, lại khiến an trụ định Không vô biên xứ; từ định Không vô biên xứ, phương tiện cứu vớt, lại khiến an trụ định Thức vô biên xứ; từ định Thức vô biên xứ, phương tiện cứu vớt, lại khiến an trụ định Vô sở hữu xứ; từ định Vô sở hữu xứ, phương tiện cứu vớt, lại khiến an trụ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lại từ đó, phương tiện cứu vớt, khiến an trụ ba thừa, hoặc khiến an trụ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc khiến an trụ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc khiến an trụ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc khiến an trụ pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khiến an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc khiến an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khiến an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc khiến an trụ bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khiến an trụ năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc khiến an trụ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khiến an trụ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc khiến an trụ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo, nếu các hữu tình đắm trước bố thí hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước tịnh giới hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước an nhẫn hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước tinh tấn hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước tịnh lự hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước Bát-nhã hữu vi và quả, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước bốn Thánh đế hữu vi không đẳng quán, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước mười địa Bồ-tát hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước năm loại mắt, sáu phép thần thông hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Nếu các hữu tình đắm trước trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hữu vi, thì dùng các phương tiện an ủi cứu vớt, khiến an trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn.

Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo, thành tựu pháp chơn vô lậu, vô sắc, vô kiến, vô đối, an trụ trong đó. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Dự lưu thì phương tiện cứu vớt, khiến an trụ quả Dự lưu. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Nhất lai thì phương tiện cứu vớt, khiến an trụ quả Nhất lai. Nếu các hữu tình đáng đắc quả Bất hoàn thì phương tiện cứu vớt, khiến an trụ quả Bất hoàn. Nếu các hữu tình đáng đắc quả A-la-hán thì phương tiện cứu vớt, khiến an trụ quả A-la-hán. Nếu các hữu tình đáng đắc quả vị Độc giác thì phương tiện cứu vớt, khiến an trụ quả vị Độc giác. Nếu các hữu tình đáng đắc quả vị giác ngộ cao tột thì phương tiện cứu vớt, vì họ nói các đạo đại Bồ-đề, chỉ rõ, khuyên bảo, chỉ dẫn, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến an trụ quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như thế, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa quan sát hai pháp không là rốt ráo, không biên giới, an trụ trong hai pháp không là rốt ráo và không biên giới, tuy biết các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, đều lấy vô tánh làm tự tánh, tự tướng đều không, nhưng có thể an lập là thiện, là phi thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, là quả Dự lưu, là năng chứng quả Dự lưu, là quả Nhất lai, là năng chứng quả Nhất lai, là quả Bất hoàn, là năng chứng quả Bất hoàn, là quả A-la-hán, là năng chứng quả A-la-hán, là quả vị Độc giác, là năng chứng quả vị Độc giác, là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, là năng chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, đều không tạp loạn.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát rất là hy hữu, hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát hai pháp là không rốt ráo, không biên giới, an trụ trong hai pháp là không rốt ráo, không biên giới, tuy biết các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, hoàn toàn chẳng phải thật có, đều lấy vô tánh làm tự tánh, tự tướng đều không, nhưng có thể an lập là thiện, là phi thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi v.v… đều không tạp loạn.

Phật dạy:

– Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Các Đại Bồ-tát thật là hy hữu, hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tuy biết các pháp đều là tánh không, rốt ráo, không biên giới nhưng có thể an lập thiện, phi thiện v.v… chẳng tạp loạn.

Này Thiện Hiện! Các ông, nếu biết các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có pháp rất là hy hữu; Thanh văn, Độc giác đều chẳng có, chẳng có thể suy lường được. Tất cả Thanh văn, Độc giác các ông đối với biện tài của các Đại Bồ-tát còn chẳng có thể trả lời, huống là hữu tình khác mà có thể đáp được.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 12 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 2 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 8 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 15 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 7 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 13 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 5 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 14 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 24 - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 62 – Ðại Kinh Giáo Giới La Hầu La (Mahà Ràhulovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 6 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 17 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 11 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 10 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 9 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 20 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 23 - Kinh Tạng