Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
Tập 19 (từ quyển 451 đến quyển 475)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Quảng Độ
***
QUYỂN 451
LVI. PHẨM MỘNG HÀNH
Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Nếu ở trong mộng, Đại Bồ-tát thực hành ba Tam-ma-địa (Không, vô tướng, vô nguyện tam-muội) này, thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có tăng thêm lợi ích chăng?
Thiện hiện đáp:
– Nếu vào ban ngày Đại Bồ-tát thực hành ba Tam-ma-địa này có lợi ích đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì trong mộng vị ấy thực hành cũng có tăng thêm lợi ích.
Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Ban ngày và trong mộng đều giống nhau. Này Xá-lợi Tử! Nếu vào ban ngày, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đã được gọi là tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì ở trong mộng Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng được gọi là tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa ba Tam-ma-địa sâu xa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tăng thêm lợi ích cũng giống như vậy.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Các bậc Đại Bồ-tát tạo nghiệp ở trong mộng có tăng ích hay tổn giảm?
Phật nói:
– Pháp hữu vi hư vọng không thật được tạo ra như mộng tại sao nói nghiệp kia có lợi ích hay tổn giảm? Vì sao? Chẳng phải ở trong mộng tạo các nghiệp có sự tăng giảm mà thậm chí khi thức nhớ tưởng phân biệt các việc đã tạo trong mộng vẫn có sự lợi ích, hoặc tổn giảm?
Thiện Hiện đáp:
– Có người ban ngày giết người rồi ban đêm nằm mộng nhớ tưởng phân biệt lấy làm vui sướng, lại có người nằm mộng thấy mình giết người khác, đến lúc thức, họ rất vui mừng, ông hiểu sao về hai nghiệp như vậy?
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Nếu không có nhân duyên thì sự suy nghĩ và nghiệp đều không sanh được, cần phải có nhân duyên, sự suy nghĩ và nghiệp mới phát sanh. Trong mộng sự suy nghĩ và nghiệp duyên theo vật gì để phát sanh?
Thiện hiện đáp:
– Hoặc mộng, hoặc tỉnh, nếu không có vật để duyên theo thì sự suy nghĩ và nghiệp không sanh. Phải có chỗ để duyên theo thì sự suy nghĩ và nghiệp mới phát sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Cần có tuệ giác chuyển ở trong pháp thấy nghe hay biết mới sanh ra nhiễm hoặc tịnh, nếu không có các pháp thấy, nghe, hay, biết, không có tuệ giác chuyển thì cũng không có nhiễm tịnh. Do đó nên biết lúc mộng hoặc tỉnh, cần phải có nhân duyên thì sự nghĩ và nghiệp mới sanh, nếu không có nhân duyên thì ý nghĩ và nghiệp không sanh.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Phật nói ý nghĩ và nghiệp đều lìa tự tánh thì sao nói phải có nhân duyên chúng mới phát sanh được?
Thiện Hiện đáp:
– Tuy ý nghĩ, nghiệp và các nhân duyên đều có tự tánh là không, nhưng do tâm ta chấp tướng phân biệt nên nói ý nghĩ và nghiệp có nhân duyên sanh. Nếu không có nhân duyên thì ý nghĩ và nghiệp không phát sanh.
Bấy giờ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
– Nếu ở trong mộng Đại Bồ-tát tuy hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi đem căn lành ấy cho khắp các hữu tình một cách bình đẳng, để cùng nhau hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì Đại Bồ-tát ấy có thật sự hồi hướng để cầu Vô thượng Chánh đẳng giác không?
Thiện Hiện đáp:
– Bồ-tát Từ Thị đã được thọ ký Bất thối chuyển Vô thượng Bồ-đề từ lâu, chỉ còn một đời sẽ được làm Phật, Ngài có thể trả lời tất cả các lời vấn nạn; hội chúng nên thưa hỏi Ngài, nhất định Bổ Xứ Từ Tôn sẽ đáp cho nghe.
Theo lời Thiện Hiện, Xá-lợi Tử cung kính thưa hỏi Từ Thị Bồ-tát.
Từ Thị Bồ-tát bảo Xá-lợi Tử:
– Từ Thị có thể đáp bằng những tên gì? Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là không sắc chăng? Là không thọ, tưởng, hành, thức chăng? Vả lại sắc không thể đáp; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Sắc không thể đáp; không thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Ta không thấy có pháp nào có thể đáp, ta không thấy có pháp được đáp, nơi đáp, và lúc đáp; do đó ta cũng không thấy việc đáp. Ta không thấy pháp nào có thể ghi nhớ, ta hoàn toàn không thấy pháp được ghi nhớ, nơi ghi nhớ và lúc ghi nhớ. Do đó ta cũng không thấy việc ghi nhớ. Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều là không, không sở hữu, không hai không khác, tìm kiếm rốt ráo cũng không thể được.
Cụ thọ Xá-lợi Tử lại hỏi Đại Bồ-tát Từ Thị:
– Có phải pháp Ngài chứng được là như điều Ngài vừa nói không?
Đại Bồ-tát Từ Thị đáp:
– Pháp tôi chứng được chẳng giống như điều tôi đã nói. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì pháp tôi đã chứng là điều không thể nói được.
Khi ấy, Xá-lợi Tử suy nghĩ: Từ Thị Bồ-tát có trí tuệ sâu rộng, từ lâu đã tu đầy đủ tất cả các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng vô sở đắc làm phương tiện nên mới có thể đối đáp như vậy đối với các sự vấn nạn.
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Ý ông nghĩ sao? Nhờ pháp này ông chứng quả A-la-hán, ông có thể nói về tánh của pháp đó không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Cũng như vậy, không thể nói về tánh của pháp mà Đại Bồ-tát chứng được khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đại Bồ-tát đó không nghĩ: Nhờ pháp này mà ta đã được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cũng không nghĩ: Nhờ pháp này ta sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không có sanh tâm do dự là: Ta có đắc được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề hay không mà chỉ nghĩ: Ta nhất định sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì khi nghe pháp thậm thâm tâm họ không kinh khiếp, không sợ hãi, không lo ngại, không chìm đắm, không buồn rầu hối hận, tự biết mình chắc chắn sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà mình mong cầu và làm lợi lạc hữu tình cho đến tận đời vị lai.
LVII. PHẨM HẠNH NGUYỆN
Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:
– Có Đại Bồ-tát tu hạnh bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị đói khát dồn ép, áo quần rách nát, thiếu thốn đồ dùng để nằm, của cải mà họ mong cầu đều không được như ý. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, làm cho họ lìa bỏ xan tham, và không còn thiếu thốn. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta phải siêng năng tu hạnh bố thí Ba-la-mật-đa, không hối tiếc, giúp cho hữu tình được thành thục, trang nghiêm cõi Phật làm cho sớm được viên mãn, và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện cho trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình thiếu thốn của cải như vậy; như chư Thiên ở cõi trời Tứ thiên vương cho đến cõi trời Tha hóa tự tại hưởng thọ đủ loại đồ đạc, và thú vui vi diệu, các loài hữu tình trong cõi Phật của ta cũng hưởng thọ, cũng đủ loại đồ đạc và thú vui vi diệu. Này Thiện Hiện! Do tu hạnh bố thí Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hạnh tịnh giới Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình phiền não bừng cháy, giết hại lẫn nhau, chấp chặt tà kiến, do đó tuổi thọ ngắn, nhiều bệnh, dung nhan tiều tụy, không có oai đức, của cải thiếu thốn, sanh trong nhà hèn hạ, thân thể khuyết tật, làm nhiều việc hèn mọn, dơ bẩn. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm gì để cứu giúp các loài hữu tình này, làm cho họ xa lìa quả báo của các nghiệp ác. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không hối tiếc, tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật làm cho sớm được viên mãn, và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình chịu quả báo của các nghiệp ác như vậy. Tất cả hữu tình đều thực hành thập thiện, hưởng quả báo thù thắng như là sống lâu … Này Thiện Hiện! Do tu hạnh tịnh giới Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hạnh an nhẫn Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình giận dữ lẫn nhau, đấu khẩu thô tục, hủy mạ lăng nhục, và dùng dao gậy giết hại lẫn nhau, cho đến khi chấm dứt thân mạng họ vẫn không xả bỏ ác tâm. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, làm cho họ xa lìa các việc ác như vậy. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hạnh an nhẫn Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho cõi Phật ta có được các loài hữu tình không có nghiệp ác và phiền não như vậy, tất cả hữu tình hòa thuận, coi nhau như cha mẹ, anh em, chị em, vợ, con, quyến thuộc, không chống trái nhau. Này Thiện Hiện! Nhờ tu hạnh an nhẫn Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hạnh tinh tấn Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình giải đãi biếng nhác, không siêng năng tinh tấn, xả bỏ Tam thừa, lại không thể tu nghiệp lành người, trời. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, giúp họ lìa bỏ sự biếng nhác, giải đãi. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho mau viên mãn và sớm chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình biếng nhác, giải đãi như vậy; tất cả hữu tình đều dõng mãnh, tinh tấn siêng tu nẻo thiện và nhân Tam thừa, sanh trong trời người và mau chóng được giải thoát. Này Thiện Hiện! Nhờ tu hạnh tinh tấn Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hạnh tịnh lự Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị năm phiền não (tham, sân, si, ngủ nghỉ, dao động) che lấp, làm mất vô lượng, vô biên các thiền định. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, làm cho họ xa lìa các sự ngăn che và loạn động. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hạnh tịnh lự Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn, và mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình bị ngăn che và tán loạn như vậy. Tất cả các hữu tình đều tự do ra vào các loại thiền định vi diệu thù thắng. Này Thiện Hiện! Do tu hạnh tịnh lự Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ngu si, có trí tuệ ác độc, làm mất chánh kiến ở thế gian và xuất thế gian, cho rằng không có nghiệp thiện ác và quả báo của nghiệp, chấp đoạn, chấp thường, chấp một, chấp khác, chấp đủ loại tà pháp… Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, làm cho họ xa lìa ác kiến và tà chấp. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng, không chút hối tiếc, tu hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa giáo hóa hữu tình được thành thục, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình có ác tuệ và tà chấp như vậy. Tất cả hữu tình đều thành tựu chánh kiến và được trang nghiêm đầy đủ các loại trí tuệ vi diệu. Này Thiện Hiện! Nhờ tu Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình gồm ba nhóm khác nhau nên mới suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình, khiến họ lìa nhóm tà định và bất định. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có danh từ tà định và bất định, tất cả các hữu tình đều trụ chánh định. Này Thiện Hiện! Nhờ tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn, và có thể nhanh chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình đọa vào ba đường ác, chịu các khổ vô cùng. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao cứu giúp các hữu tình, khiến họ vĩnh viễn xa lìa nỗi khổ trong ba đường ác. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật của ta không có tên ba đường ác, tất cả các hữu tình đều về đường lành. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy do nghiệp chướng ác nên các hữu tình phải ở nơi đất cao thấp không bằng phẳng, có nhiều gò đồi, ngòi rảnh, hầm hố, cỏ rác, gai gốc, gai độc lùm bụi, bất tịnh dẫy đầy. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình, khiến cho họ diệt trừ vĩnh viễn các nghiệp chướng ác, được sống ở nơi đất bằng phẳng như lòng bàn tay, không có các thứ như cỏ rác, gai gốc … Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho cõi Phật của ta không có các tạp nghiệp nhơ nhớp như vậy, đất đai nơi đó được bằng phẳng, trang nghiêm, có nhiều hoa quả rất đáng ưa thích. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình vì phước đức ít, nên ở chỗ đất đai không có ngọc báu, chỉ có đủ loại đất đá ngói gạch. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình nhiều tội, ít phước như thế, giúp cho họ được ở nơi giàu có nhiều ngọc báu. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình nhiều tội ít phước như thế. Mặt đất lót cát vàng, chỗ nào cũng có lưu ly và nhiều loại ngọc quý lạ, các hữu tình hưởng thọ những thứ đó không sanh đắm nhiễm. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy có những hữu tình lãnh thọ điều gì đều tham đắm, gây ra đủ loại nghiệp ác. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm gì để cứu giúp các loài hữu tình đang bị lệ thuộc vào nhiều thứ như vậy, khiến họ vĩnh viễn lìa khỏi nghiệp ác tham đắm. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình bị lệ thuộc vào nhiều thứ như vậy. Tất cả hữu tình đều không bị lệ thuộc đắm say sắc thanh v.v… Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn sắc tộc sang hèn khác nhau là Sát-đế-lợi, Bà-la-môn v.v… Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm gì để cứu vớt các loài hữu tình, giúp họ không còn có sự sang hèn khác nhau như vậy. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật của ta không có bốn sắc tộc sang hèn khác nhau như vậy. Tất cả hữu tình đều cùng một sắc tộc v.v… đều thuộc dòng họ tôn quý. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có dòng họ thượng trung hạ khác nhau nên suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình không còn các gia tộc thượng, trung, hạ khác nhau như vậy. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các gia tộc thượng, trung, hạ phẩm khác nhau như vậy, mà tất cả hữu tình đều thuộc thượng phẩm. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có hình sắc đẹp xấu khác nhau nên suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình, khiến cho họ không còn hình sắc đẹp xấu khác nhau như vậy. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình hình sắc đẹp xấu như vậy mà tất cả hữu tình đều có hình sắc vàng ròng, xinh đẹp lạ thường, mọi người đều thích nhìn, thành tựu nhan sắc, thanh tịnh viên mãn bậc nhất. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy có hữu tình lệ thuộc vua chúa, không được tự do làm bất cứ việc gì. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình làm cho họ được tự tại. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho ở cõi Phật ta các loài hữu tình không bị lệ thuộc vua chúa và được tự do làm mọi việc, cho đến không thấy hình ảnh của vua chúa, không nghe danh từ vua chúa, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, dùng pháp giáo hóa dìu dắt mọi người và được gọi là vua Pháp. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ở trong những đường khác nhau như địa ngục v.v… nên suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình làm cho không còn các đường thiện ác khác nhau nữa. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có các đường thiện ác khác nhau, cho đến không có danh tự địa ngục, súc sanh, cõi quỉ, A-tố-lạc, người, trời. Tất cả hữu tình đều giống nhau và đều tu một nghiệp là hòa hợp, tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. An trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng tâm, bốn định vô sắc. Tu hành tám gải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành pháp môn Đà-la-ni, Tam-ma-địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tu hành hạnh Đại Bồ-tát và Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình gồm bốn loại khác nhau là sanh từ thai, trứng, nơi ẩm ướt và hóa sanh. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp cho họ không còn bốn loại sanh khác nhau như thế. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có bốn loại sanh như vậy mà tất cả các loài hữu tình đều được hóa sanh. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có trí tuệ của năm thần thông, không tự do làm mọi việc nên suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp cho họ có được trí tuệ của năm thần thông. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho các loài hữu tình trong cõi Phật ta đều có trí tuệ của năm thần thông và đều được tự tại. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ăn thức ăn từng miếng, thân có các thứ đại, tiểu tiện, máu mủ hôi hám, rất nhàm chán lìa bỏ. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình ăn thức ăn từng miếng, làm cho thân chúng không còn có sự đại, tiểu tiện dơ bẩn. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho các loài hữu tình trong cõi Phật ta chỉ hưởng thọ thức ăn pháp hỷ vi diệu, tất cả hữu tình đều giống trời Cực quang tịnh, không có sự dơ bẩn ở trong lẫn ngoài thân thể. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân không có ánh sáng, làm bất cứ việc gì cũng cần phải có ánh sáng bên ngoài chiếu soi. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, làm cho chúng lìa khỏi thân thể không có ánh sáng như vậy. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho thân của các loài hữu tình trong cõi Phật ta có đầy đủ ánh sáng, không phải nhờ ánh sáng bên ngoài chiếu soi. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy nơi các hữu tình ở có ngày đêm, có tháng, nửa tháng, thời tiết, năm tháng thay đổi không thường. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, giúp cho nơi ở của chúng không có ngày đêm và sự thay đổi của thời tiết. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho trong cõi Phật ta không có danh từ ngày, đêm, tháng, nửa tháng, thời tiết v.v… Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có tuổi thọ ngắn ngủi liền suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này thoát khỏi tuổi thọ ngắn ngủi như vậy. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho các loài hữu tình ở trong cõi Phật ta có tuổi thọ dài, khó có thể biết được là bao nhiêu kiếp. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân không có tướng tốt liền suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp làm cho các loài hữu tình có được tướng tốt. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho thân của các loài hữu tình trong cõi Phật ta được trang nghiêm bằng tướng tốt tròn đầy, khi thấy họ các hữu tình đều có niềm vui thanh tịnh vi diệu. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy những hữu tình lìa các căn lành. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này đầy đủ căn lành. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho tất cả các loài hữu tình trong cõi Phật ta đều thành tựu căn lành thù thắng vi diệu. Nhờ căn lành này, họ có thể sắm sửa đủ loại lễ vật thượng dịu để cúng dường chư Phật. Nhờ phước lực này khi sanh ở nơi nào họ cũng có thể cúng dường chư Phật Thế Tôn. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình mang đủ các thứ bệnh trong thân tâm. Thân có bốn thứ bệnh là bệnh gió, nóng, đàm và các thứ bệnh khác. Tâm cũng có bốn loại bệnh là bệnh tham, sân, si và mạn v.v… Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình có thân tâm bị bệnh khổ như thế. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho thân tâm của các loài hữu tình trong cõi Phật ta được trong sạch, không có các bệnh khổ, cho đến không có tên các thứ bệnh của thân tâm. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có nhiều ý muốn ưa thích ba thừa khác nhau. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình, làm cho họ xả bỏ ý thích Nhị thừa, và chỉ hướng đến Vô thượng Đại thừa. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho các loài hữu tình ở trong cõi Phật ta chỉ cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng muốn quả Thanh văn, Độc giác, cho đến không có danh từ Nhị thừa. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình sanh tâm tăng thượng mạn, chưa được cho là được, chưa chứng nói đã chứng. Thấy việc đó rồi họ suy nghĩ: Ta phải làm sao để cứu giúp các loài hữu tình này, giúp họ xả bỏ kết sử tăng thượng mạn. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho cõi Phật ta không có người tăng thượng mạn như vậy. Tất cả hữu tình đều lìa tăng thượng mạn. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với ánh sáng, tuổi thọ và số đệ tử đều có giới hạn. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Ta phải làm sao để ánh sáng, tuổi thọ và số lượng đệ tử đều không giới hạn. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khiến cho lúc này ánh sáng, tuổi thọ và số lượng đệ tử của ta đều không có giới hạn. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sống ở vùng đất có giới hạn liền suy nghĩ: Ta phải làm gì để nơi ta cư trú có diện tích vô lượng. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cho Tam thiên đại thiên thế giới ở mười phương nhiều như số cát sông Hằng hợp thành một cõi, ta ở trong đó thuyết pháp giáo hóa vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ở lâu dài trong sanh tử và có vô số các cõi hữu tình. Thấy việc đó rồi vị ấy suy nghĩ: Bờ mé sanh tử giống như hư không, các cõi hữu tình cũng như hư không, tuy không thật có các hữu tình lưu chuyển trong sanh tử và được giải thoát nhưng các hữu tình vọng chấp là có, nên bị luân hồi sanh tử, chịu khổ vô biên. Ta phải làm sao để cứu giúp họ. Sau khi suy nghĩ vị ấy phát nguyện: Ta sẽ siêng năng không chút hối tiếc, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho sớm được viên mãn và mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp Vô thượng cho các hữu tình giúp họ thoát khỏi nỗi khổ lớn sanh tử, khiến họ chứng biết sanh tử và giải thoát đều không có sở hữu, rốt ráo là không. Này Thiện Hiện! Nhờ tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mà Đại Bồ-tát sớm được viên mãn và có thể mau chóng chứng được trí nhất thiết trí.
LVIII. PHẨM CĂN-GIÀ THIÊN
Bấy giờ, trong chúng có một Thiên nữ tên Căn-già Thiên, từ tòa đứng dậy, đảnh lễ Phật, che vai trái quì gối phải sát đất, rồi chấp tay cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con sẽ tu đầy đủ các hạnh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tịnh độ được con trang nghiêm cũng giống như cõi Phật mà hôm nay đức Thế Tôn đã nói cho đại chúng nghe trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, ở đó mọi thứ đều viên mãn.
Sau khi nói lời này, Căn-già Thiên liền đem đủ loại hoa vàng, hoa bạc, các loài hoa mọc trên cạn hoặc dưới nước, đồ trang sức và một bộ thiên y màu vàng kim hết lòng cung kính rải và dâng lên Phật. Nhờ thần lực của Phật các thứ đó bay lên không trung xoay quanh bên phải, hóa thành đài báu có bốn trụ và bốn góc ở trên đảnh Phật. Đài ấy được trang trí xinh đẹp, rất đáng ưa thích. Khi ấy, Thiên nữ đem căn lành này cho khắp các hữu tình một cách bình đẳng để cùng nhau hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Biết Thiên nữ kia có chí nguyện sâu rộng, đức Thế Tôn liền mỉm cười. Pháp thường của chư Phật khi các Ngài mỉm cười thì có ánh sáng đủ màu sắc từ miệng chiếu ra. Nay Phật cũng vậy, từ miệng Ngài phóng ra đủ loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, xanh biếc, xanh lục chiếu khắp mười phương vô lượng, vô biên thế giới chư Phật, rồi trở lại cõi này, hiện đại thần biến vòng quanh Phật ba vòng, rồi vào trong đảnh Phật.
Sau khi thấy việc đó, A-nan-đà từ tòa đứng dậy, đảnh lễ Phật, che vai trái, quì gối phải sát đất, chấp tay cung kính thưa:
– Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì mà Ngài mỉm cười? Các đức Phật mỉm cười đều có nguyên nhân.
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Khánh Hỷ (A-nan-đà):
– Vào đời vị lai, Thiên nữ này sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở kiếp tên Tinh Dụ và Phật hiệu Kim Hoa. Này Khánh Hỷ! Ông nên biết, đây là lần cuối cùng Thiên nữ này mang thân nữ. Sau khi bỏ thân này, Thiên nữ đó mang thân nam và không trở lại làm nữ cho đến tận đời vị lai. Sau khi ở đây chết đi, vị ấy sẽ sanh ở cõi nước Bất Động Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác ở phương Đông rất đáng ưa thích, ở cõi Phật ấy, Thiên nữ kia siêng tu phạm hạnh và có hiệu là Kim Hoa. Vị ấy tu các hạnh của Đại Bồ-tát.
Này Khánh Hỷ! Ông nên biết, Bồ-tát Kim Hoa từ thế giới Phật Bất Động qua đời rồi lại sanh phương khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Sanh ở nơi nào và ở đời nào cũng thường được gặp Phật; như Chuyển luân vương từ cung điện này đến cung điện khác, vui chơi hưởng lạc, suốt đời chân không đạp đất. Cũng lại như thế, Bồ-tát Kim Hoa từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cho đến chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đời đời thường được gặp Phật, thường nghe chánh pháp, tu hạnh Bồ-tát.
Bấy giờ, Khánh Hỷ thầm nghĩ: Lúc Bồ-tát Kim Hoa thành Phật, chắc vị ấy cũng sẽ diễn giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, số lượng Đại Bồ-tát trong hội ấy cũng nhiều bằng số Bồ-tát trong hội Phật hiện nay không?
Biết ý nghĩ của Khánh Hỷ, Phật bảo:
– Đúng như ông nghĩ, sau này lúc Bồ-tát Kim Hoa làm Phật, vị ấy cũng diễn giảng cho chúng hội nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và vô số Đại Bồ-tát trong hội ấy cũng giống như số Bồ-tát trong hội Phật hiện nay.
Này Khánh Hỷ! Ông nên biết, lúc Bồ-tát Kim Hoa làm Phật, số đệ tử xuất gia rất nhiều không thể tính hết, nghĩa là không dùng số một trăm, một ngàn, hay một trăm ngàn để đếm, chỉ có thể nói tổng số chúng đệ tử là vô lượng, vô biên trăm ức muôn ức.
Này Khánh Hỷ! Ông nên biết, lúc Bồ-tát Kim Hoa làm Phật, cõi ấy không có nhiều thứ tội lỗi như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa đã nói.
Khi ấy, Khánh Hỷ lại bạch Phật:
– Trước đây, Thiên nữ này đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành và hồi hướng phát nguyện với vị Phật nào mà nay được gặp Phật, cung kính cúng dường Phật và được thọ ký Bất thối chuyển?
Phật bảo:
– Này Khánh Hỷ! Do trước đây Thiên nữ đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành và hồi hướng phát nguyện với Phật Nhiên Đăng nên nay gặp Ta, cung kính cúng dường Ta và được thọ ký Bất thối chuyển.
Này Khánh Hỷ! Ông nên biết, trong quá khứ Ta đã dùng năm cành hoa để dâng cúng Phật Nhiên Đăng và hồi hướng phát nguyện với Ngài, biết Ta căn lành đã thành thục nên đức Phật Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta: Đời vị lai, ông sẽ được làm Phật có hiệu là Năng Tịch, ở cõi tên Kham Nhẫn và kiếp có hiệu là Hiền. Khi ấy, nghe Phật thọ ký đại Bồ-đề cho Ta, Thiên nữ vui mừng tột độ, dùng hoa vàng dâng rải lên Phật và phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành, hồi hướng phát nguyện: Cầu xin sau này lúc Bồ-tát ấy làm Phật, tôi sẽ được thọ ký như đức Phật hiện tại thọ ký đại Bồ-đề cho vị ấy. Vì vậy, nay Ta thọ ký cho cô ấy.
Nghe Phật nói, Khánh Hỷ vui mừng tột độ, lại bạch với Phật:
– Để cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề từ lâu Thiên nữ này đã trồng cội phước đức và nay được thành thục. Vì vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thọ ký cho cô ấy.
Phật bảo Khánh Hỷ:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, để cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề từ lâu Thiên nữ Căn-già đã trồng các cội phước đức và nay đã thành thục. Vì thế Ta thọ ký cho cô ấy được Bất thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề như cô ấy đã mong cầu.